Nghiên cứu, tổng hợp các kết quả nghiên cứu và xây dựng các đề án chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch sử dụng đất các vùng lãnh thổ (trong đó có vùng kinh tế xã hội, các vùng kinh tế trọng điểm, các hành lang kinh tế, các tam giác phát triển, các vùng khó khăn, vùng ven biển và hải đảo)
Đầu mối tổng hợp, tham mưu các vấn đề liên quan về quản lý nhà nước đối với công tác quy hoạch vùng lãnh thổ, tỉnh. Xây dựng hệ thống các bản đồi quy hoạch phục vụ công tác lập quy hoạch.
76 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1054 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư du lịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đưa vào sử dụng và được khai thác hiệu quả; đường khu du lịch Lăng Cô (Thừa Thiên- Huế), đường du lịch xuyên đảo Cát Bà( Hải Phòng) đã tạo nên những thay đổi cơ bản về khả năng thu hút khách du lịch ở các địa bàn này; Đường vào khu du lịch chùa Hương, đường du lịch Đồng Mô(Hà Tây) đã cải thiện điều kiện đón khách vào mùa lễ hôi, khách du lịch cuối tuần; đường vào và đường nội bộ khu di sản thiên nhiên thế giới Phong Nhà- Kẻ Bàng (Quảng Bình) đã tạo điều kiện thuận thu hút đầu tư và đón khách du lịch trong nước, quốc tế.Tại Cà Mau hạng mục thuộc đường du lịch Khe Long- Đất Mũi hoàn thành không chỉ tạo thuận lợi cho khách du lịch tới đây mà còn góp phần phát triển kinh tế xã hội khu vực này cải thiện cơ bản cho người dân đi lại bằng đường bộ thuận lợi thay cho vân chuyển khó khăn bằng đường thuỷ trước đây; Một số khó khăn về ngân sách hoặc vùng sâu, vùng xa khi được hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch đã sử dụng hiệu quả khai thác tiềm năng du lịch của địa phương, góp phần nâng cao tỷ lệ thu hút khách du lịch như Yên Bái, Hoà Bình, Bắc Can
Như vậy cho thấy, việc thực hiện nguồn vốn đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch đã được sử dụng có hiệu quả góp phần làm thay đổi diện mạo của ngành du lịch. Với mức vốn hỗ trợ từ ngân sách, năm sau cao hơn năm trước, nguồn vốn trên đã có tác động tích cực tới việc đầu tư, cải thiện cơ sở hạ tầng du lịch của các địa phương, góp phần tăng cường khả năng đón khách du lich. Nguồn vốn hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch đóng vai trò như “vốn mồi” đã làm tăng đất du lịch, thu hút nhiều nguồn đầu tư khác trực tiếp vào công trình cơ sở hạ tầng du lịchvà cơ sở kinh doanh du lịch trên địa bàn, đóng góp vào ngân sách từ hoạt động du lịch, nâng cao nhân thức về du lịch cộng đồng. Từ nguồn hỗ trợ trên nhiều địa phương đã tự cân đối bổ sung từ ngân sách địa phương cũng như huy động nguồn vốn từ việc đấu giá quyền sử dụng đấtv..v để thực hiện dự án.
Về trùng tu tôn tạo các di tích lịch sử .
Ngoài việc khai thác khá hiệu quả các danh lam thắng cảnh, chúng ta cũng quan tâm khá nhiều đến vấn đề trùng tu tôn tạo các di tích lịch sử. Có rất nhiều dự án liên quan đến vấn đề này. Từ việc tôn tạo các khu nhà cổ ở phố cổ Hà Nội đến trùng tu lại khu lăng tẩm thời nhà Nguyễn ở cố đô Huế hay tôn tạo lại khu phố cổ Hội An, thánh địa Mỹ Sơn vv đã chứng tỏ rằng chúng ta đầu tư phát triển du lịch theo phương châm phát triển bền vững. Đây là một hướng đi hợp lý cho những quốc gia có hướng phát triển du lịch mang đậm nét văn hoá như nước ta.
Về nguồn nhân lực.
Sự phát triển ngành du lịch như ngày hôm nay không thể không nói đến yếu tố con người. Việc đầu tư vào cán bộ chuyên ngành du lịch đã mang lại những hiệu quả nhất định. Ngành du lịch nước ta đã đi đúng hướng, ngày càng hoàn thiện, quy hoạch vùng miền có tiềm năng du lịch chính xác hơn, và việc đầu tư phát triển du lịch đã phù hợp hơn với quy hoạch.
Việc đầu tư vào nhân viên phục vụ du lịch cũng đã được coi trọng, nhiều trường dạy nghề được mở ra. Tại các công ty lữ hành cũng tăng cường việc đào tạo nhân viên của mình bằng cách thuê các chuyên gia hoặc tự đào tạo nhằm tăng khả năng canh tranh giữa các công ty lữ hành với nhau. Hiện nay số lượng lao động làm việc trức tiếp trong ngành du lịch có bằng cấp chiếm một tỷ trọng tương đối lớn (30%), c ả nư ớc có 6000 hướng dẫn viên du lịch được cấp thẻ.
Ngoài ra việc nâng cao ý thức của người dân đã được chú trọng hơn, nhà nước đã đầu tư khá nhiều tiền của vào các cuộc thi, các cuộc vận động nhằm nâng cao nhận thức của mọi thành viện trong xã hội đối với vấn đề giữ gìn bảo tồn các dịch tích lịch sử cũng như nét đẹp của văn hoá truyền. Bên cạnh đó giúp cho người dân có cách cư xử sao cho văn minh lịch sự, tạo một hình ảnh đẹp của Việt Nam trong lòng du khách.
Về xúc tiến, quảng bá du lịch.
Ngành du lịch có bước khởi sắc như hiện nay ngoài việc nhờ vào sự chú trọng đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và các di tích văn hoá, lịch sử, và nguồn nhân lực còn xuất phát từ hoạt động đầu tư xúc tiến du lịch. Đây là hoạt động rất quan trọng đối với du lịch hiện đại. Các cuộc hội chợ ở nước ngoài, những ngày Việt Nam ỏ nước ngoài đã góp phần mở rộng thị trường du lịch nước ta. Ngoài ra để tạo dựng hình ảnh địa phương mình các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã mỏ các cuộc hội thảo liên quan đến các thế mạnh du lịch với sự góp mặt của các chuyên gia trong ngành nhằm thu hút giới truyền thông, bên cạnh đó còn xuất bản những bài báo quảng bá du lịch nước nhà ra các quốc gia trên thế giới. Đây là một bước tiến mới rất có hiệu quả vừa tiết kiệm được chi phí vừa quảng bá hình ảnh đất nước một cách rộng rãi nhờ công nghệ thông tin toàn cầu.
Như vậy, việc đầu tư phát triển du lịch đã có những hướng đi cụ thể, không còn khái quát một cách đại khái, đưa ngành du lịch nước ta trở thành một ngành có đóng góp vào GDP khá cao.
1.3.1.2 Những tồn tại của vấn đề đầu tư phát triển du lịch.
Bên cạnh những kết quả trên thì việc đầu tư vào ngành du lịch còn nhiều hạn chế nhất định. Yếu kém chung của ngành là còn thiếu sức cạnh tranh nhất là cạnh tranh quốc tế du hạn chế về trình độ khai thác tài nguyên, về môi trường du lịch, về cơ sở vật chất kỹ thuật, về trình độ xúc tiến đầu tư du lịch, về trình độ nguồn nhân lực, về kinh nghiệm quản lý và đặc biệt là về thiếu vốn đầu tư phát triển du lịch.
Cơ cầu đầu tư còn nhiều bất cập
Thực trạng đầu tư cho thấy, phần lớn vốn đầu tư cho du lịch tập trung đầu tư vào cơ sở lưu trú, khách sạn, nhà hàng,trong khi đó nhu cầu của khách vào dịch vụ bổ sung ngày càng cao. Theo cơ cấu chi tiêu cho khách du lịch cho thấy rằng vấn đề chi tiêu cho dịch vụ lưu trú ăn uống ngày môt giảm, trong khi đó nhu cầu vui chơi giải trí đi thăm quan.. Theo số liệu thống kê lượng khách quốc tế quay lại Việt Nam chỉ là 10% -15%, nghĩa là cứ 10 khách du lịch đến Việt Nam thì chỉ có 1- 2 người quay trở lại. Lý do là vì họ không hài lòng về dịch vụ phục vụ bổ sung đi kèm. Như vậy, nếu tăng cường đầu tư vào dịch vụ bổ sung thì sẽ có một thị trường tương đối lớn của du khách quốc tế.
Việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cũng có nhiều bấp cập, nhiều công trình còn đầu tư kéo dài, không hoàn thành đúng tiến độ dự án vì công trình không cân đối đủ nguồn vốn (Ngân sách nhà nước chỉ chi một phần, địa phương không thể tự cân đối ngân sách được). Ngoài ra mức vốn ngân sách Nhà nước hàng năm hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng còn bị động, nhỏ giọt so với mức vốn yêu cầu. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng còn dàn trải, kéo dài thời gian hoàn thành dự án, tăng khối nợ đối với các dự án chuyển tiếp và ảnh hưởng tới phát triển cơ sở hạ tầng du lịch theo mục tiêu nhằm tạo tính liên hoàn, liên kết giữa các vùng.
Như vây, việc chỉ tập trung vào một lĩnh vực kinh doanh du lịch mà không chú trong đầu tư những hạng mục đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách đang là một vấn đề bất cập đòi hỏi các nhà quản lý phải có biện pháp khắc phục về cơ chế đầu tư này. Bên cạnh đó cấn phải có những giải pháp cụ thể để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng du lịch.
Quy mô các doanh nghiệp còn nhỏ nên sức cạnh tranh chưa cao
Nói chung quy mô của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch hiện nay còn rất nhỏ, khó khăn về tài chính và non yếu về kinh nghiệm quản lý, điều hành. Do đó các doanh nghiệp chưa chủ động đặt đại diện ở nước ngoài để thu gom nguồn khách du lịch cho đất nước.
Hoạt động quảng bá tiếp thị của từng doanh nghiệp thực hiện còn manh mún, thiếu tính chuyên nghiệp.Hầu như việc xúc tiến quảng bá của doạnh nghiệp tại các hội chợ du lịch ở nước ngoài hay những roadshow do tổng cục du lịch tổ chức là nói đến tiềm năng của doanh nghiệp du lịch chứ không nói đến tiềm năng du lịch của VIệt Nam, vì thế chưa tạo được ấn tượng với du khách và các nhà đầu tư. Hoạt động quảng bá của doanh nghiệp du lịch chưa gây được sự quan tâm các lĩnh vực liên quan đến du lịch như các khách sạn, nhà hàng, các hãng ô tô, nước giải khát, mỹ nghệDo đó không tạo được sự gắn kết của nhiều doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực khiến cho việc quảng bá đơn điêụ và thiếu vốn.
Về sức cạnh tranh của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam còn rất yếu. Tuy một số công ty đã chú ý đầu tư ra thị trường Châu Âu, Bắc Mỹ , và đã chủ động có những chương trình du lịch mới, tăng cường hơn công tác tiếp thị thế nhưng số lượng khách đi theo những chương trình còn rất thấp, nhiều doanh nghiệp chưa tháo gỡ được khó khăn là triển khai thu hút các khách du lịch nước ngoài mà chủ yếu thực hiện thủ tục các dịch vụ Visa, lưu trú, vận chuyển.Nói chung doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm khai thác thị trường quốc tế.
Với lực lượng lữ hành ngày càng đông, hơn 400 doanh nghiệp quốc tế và hơn 1000 doanh nghiệp lữ hành nội địa, sự cạnh tranh của các doanh nghiệp còn khốc liệt hơn khi mà hiện nay chúng ta đã gia nhập WTO và ký hơn 25 cam kết quốc tế về du lịch. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh du lịch phải có những biện pháp và các hướng đi mới có hiệu quả hơn.
Thế mạnh của du lịch chưa thực sự được quan tâm, sản phẩm du lịch nói chung là còn nghèo nàn.
Theo sự đánh giá của các chuyên gia về du lịch thì hiện nay chúng ta mới khai thác khoảng 55% tài nguyên văn hoá,60- 80% tài nguyên thiên nhiên. Tiềm năng du lich của nước ta còn rất lớn, tài nguyên thiên nhiên và nhân văn rất phong phú. Tuy nhiên thực tế cho thấy chúng ta chưa biết tân dụng khai thác phát triển các lợi thế này như : biển, các suối nước nóng, các sản phẩm văn hoá vật thể, phi vật thể... Đặc biệt là du lịch biển, bởi lẽ nước ta có một bờ biển kéo dài từ mũi Cà Mau đến địa đầu Móng Cái, thế nhưng cứ nhìn vào bản đồ Việt Nam ta có cảm giác như “hình ảnh của một người nông dân đội nói quay lưng với biển Động rộng lơn”, hầu như du lịch biển nước ta “ thừa hải sản để ăn nhưng thiếu điểm vui chơi giải trí trầm trọng”.
Đối với những tài nguyên đang được đầu tư khai thác thì việc quản lý khai thác cũng còn nhiều vấn đề tồn tại. Việc khai thác các tài nguyên tràn lan, không có đinh hướng cụ thể đã dẫn đến vấn đề lãng phí thất thoát vốn đầu tư.
Một hậu quả của việc chưa quan tâm đúng tới những thế manh du lịch chính là việc tạo ra các sản phẩm du lịch nghèo nàn, các hoạt động vui chơi nhàm chán không thu hút được khách du lịch. Các sản phẩm du lịch như du lịch mua sắm(thông qua các chợ ẩm thực, chợ đêm, chợ cuối tuần..), các sự kiện tháng khuyến mãi giảm giáhay các loại hình dịch vụ chưa bênh (hệ thống các bênh viện, chăm sóc sức khoẻ, làm đẹp, thẩm mỹ viện..) có chất lượng chưa thật tốt, chưa thu hút được chi tiêu của du khách.
Trong những năm gần đây lượng khách đến với Việt Nam tăng nhiều, thành phần đa đạng nhưng độ dài ngày ở vẫn chưa tăng, mức chi tiêu của du khách chưa cao, không tương xứng với mức tăng của lượng khách.Ngoài ra việc khai thác các nguồn lực hệ thống di sản cũng như cảnh quan thiên nhiên chưa đi kèm với việc nâng niu giữ gìn cho muôn đời sau là một dấu hiệu không tốt đối với ngành du lịch. Vì vậy, đòi hỏi phải có một quy hoạch tổng thể đi vào thực tiễn.
Vốn đầu tư phát triển nguồn nhân lực ít, cán bộ nhân viên du lịch được đào tạo vẫn chưa theo kịp nhu cầu của sự phát triển.
Vấn đề đầu tư chất lượng nâng cao nguồn nhân lực cho chưa được quan tâm đúng mức, lượng vốn đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực là quá ít, hiện nay chỉ có vài dự án đầu tư phát triển nguồn nhân lực du lịch là dự án Luxembourg và dự án liên minh châu Âu, còn lại là những nguồn vốn nhỏ lẻ do các tổ chức doanh nghiệp từ đầu tư đào tạo cho nhân viên của mình. Trong khi đó nhu cầu nguồn nhân lực năm 2010 là 1,4 triệu người nên nhu cầu lao động hoạt động trong lĩnh vực du lịch cần được đào tạo lớn, tuy nhiên việc đánh giá về nhu cầu đầu tư đối với lao động du lịch hiện nay vẫn chưa được quan tâm đúng mức, các cơ sở vật chất kỹ thuật của các trường đào tạo du lịch còn nghèo nàn lạc hậu, nhu cầu phổ cập về du lịch cho công chúng vân chưa được thực hiện rộng khắp.
Hệ thống nhân lực(quản trị điều hành, hướng dẫn viên) vừa thiếu, vừa yếu hiện nay tỷ lệ người có trình độ trên đại học trong lĩnh vực du lịch là 3%,số lượng biết ngoại ngữ chỉ vào khoảng ½ , một con số quá nhỏ cho lĩnh vực đòi hỏi sử dụng nhiều ngoại ngữ. Hàng nghìn sinh viên chuyên ngành du lịch ra trường không bao giờ ký được hợp đôngg lao động với các doanh nghiệp du lịch ngay nếu như doanh nghiệp đó không bỏ chi phí ra đào tạo lại, hầu hết lao động là việc trong lĩnh vực du lịch là sinh viên các trường ngoại ngữ. Hai yếu tố nhân lực, khai thác nguồn nhân lực đang là yếu tố nổi cộm hiện nay.
Tóm lại, đội ngũ cán bộ trong ngành du lịch vẫn còn những người chưa cập nhật đủ trình độ phù hợp với tiến bộ xã hội, cần được đào tạo thêm để thích ứng với quá trình hội nhập của đất nước.
Như vây, với những tồn tại trên là những nguyên nhân khiến ngành du lịhc Việt Nam không phát triển như quy luật dự báo, nhiều đinh hướng, chiến lược, kế hoạch đã phải sửa lại. Những khó khăn, bất cậpvề đầu tư nói trên đã và đang là một thách thức, đòi hỏi ngành du lịch phải vượt qua để có thể đứng vững và giành thắng lợi trong cạnh tranh du lịch ngày càng khốc liệt như hiện nay.
1.3.1.3 Nguyên nhân của những tồn tại trên
Nguyên nhân khách quan.
Như chúng ta biết du lịch là một ngành phụ thuộc khá nhiều vào thiên nhiên, vì vậy công tác đầu tư du lịch cũng không tránh khỏi quy luật đó. Một dự án đầu tư có đủ “địa lợi, nhân hoà” nhưng thiều “ thiên thời” thì cũng rất khó có thể thực hiện được. Như vậy, một địa phương, một vùng có nhiều danh lam thắng cảnh nhưng hay gặp thiên tai thì cũng khó thu hút được các nhà đầu tư vì vậy mà du lịch nước ta không phải vùng nào cũng phát triển.
Ngoài ra, do quy luật cạnh tranh trên thị trường, sự cạnh tranh trong kinh doanh du lịch đã và đang diễn ra rất gay gắt. Những quốc gia, những trung tâm du lịch lớn có sản phẩm đặc thù vượt lên các trung tâm khác sẽ giành ưu thế thắng trong cạnh tranh. Điều này là một thách thức lớn đối với ngành du lịch Việt Nam nếu muốn tồn tại và phát triển trên thị trường mở cửa.
Nguyên nhân chủ quan.
Thứ nhất, đó là cơ chế chính sách quản lý vĩ mô, ưư đãi đầu tư phát triển du lịch chưa đủ sức hấp dẫn, thủ tục đầu tư phiền hà không hấp dẫn nhà đầu tư.
Nhận thức xã hội với du lịch phát triển tốt nhưng chưa đồng đều ở các cấp, các ngành. Một số ngành và một số bộ phận dân chúng còn có những hành vi chưa phù hợp khiến khách du lịch có tâm lý ức chế ở một vài địa phương mà du khách đến tham quan. Vẫn còn nhiều chính sách chưa thuận lợi cho du lịch như chính sách giá cả du lịch còn cao, nhiều nơi còn áp dụng chính sách hai giá cho khách quốc tế và nội địa, chưa có cơ chế cho vay ưu đãi đầu tư xây dựng các sản phẩm du lịch nên việc kêu gọi đầu tư gặp nhiều khó khăn. Giá điện, nước, điện thoại phục vụ quá cao phương tiện sản xuất của ngành bị đánh thuế cao trong biểu thuế.
Cơ chế đầu tư phát triển du lịch còn nhiều bất cập. Thực tế, đầu tư cho du lịch là cho cơ sở hạ tầng nên cần được hưởng ưu đãi thế nhưng các doanh nghiệp chưa được hưởng ưu đãi đầu tư như các ngành sản xuất khác.
Việt Nam những năm gần đây cũng đã tích cực tìm đối tác liên doanh đầu tư xây dựng phát triển du lịch, tuy nhiên nhiều dự án đầu tư còn quá chậm chạp do thủ tục phiền hà trong việc xin cấp phép hoặc do giá thuê đất quá cao
Thứ hai, kết cấu hạ tầng xã hội còn yếu kém. Cơ sở hạ tầng đường xá, hệ thống cấp thoát nước còn kém gây ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ, phục vụ du lịch. Kết cấu hạ tầng nhất là hạ tầng giao thông đang trong quá trình hình thành và phát triển nên chưa đáp ứng được yêu cầu đối với nền kinh tế nói chung trong đó có du lịch. Nhiều tuyến du lịch đến các điểm tham quan do chất lượng đường xá bến bãi kém nên kéo dài thời gian đi trên đường của khách giảm sự hấp dẫn. An toàn giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường sắt, chất lượng các phương tiện vận chuyển khách đang là vấn đề bức xúc.Ngành hàng không tuy đã mở nhiều đường bay mới trong và ngoài nước nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Tình trạng thiếu máy bay, không ổn định giờ bay, giá vé nội địa còn cao đã ảnh hưởng đến hoat động du lịch.
Thứ ba, đó là do sự phối hợp giữa các ngành quản lý sản phẩm du lịch còn thiếu phối hợp, do đó làm giảm tính hấp dẫn của các sản phẩm du lịch. Sở dĩ cơ cấu chi tiêu cho việc mua sắm hàng hoá vận chuyển và các dịch vụ khác còn hạn chế của khách du lịch như đã nêu ở phần thực trạng là do các cơ sở kinh doanh du lịch cũng như các cơ sở sản xuất hàng tiểu thủ công nghiệp (hàng mỹ nghệ, gốm sứ, lụa ) chưa có sự đầu tư đúng mức để phát triển tạo ra các sản phẩm đặc sắc co chất lượng và phù hợp với khách hàng. Các trung tâm vui chơi giải trí các dịch vụ bổ sung còn nghèo nàn.
Thứ tứ, là do du lịch nước ta vẫn chưa có hữu hiệu đầu tư khai thác tiêm năng, nguồn lực du lịch, sự khai thác vẫn lan tràn thiếu hiệu quả.
1.3.2. Đánh giá tổng quan về lợi ích từ hoạt động đầu tư phát triển du lịch mang lại
1.3.2.1. Lượng khách du lịch: trong nước, ngoài nước
Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam từ 2 triệu người năm 2000 đến năm 2006 là 3,6 triệu người.Khách nội địa tăng từ 12 triệu người lên tới 17,6 triệu người. Đây là một con số đáng mừng đối với du lịch nước ta.
Bảng 10: Lượng khách du lịch trong nước và quốc tế từ 2001- 2006
(Nguồn: Tổng cục du lịch Việt Nam)
Khách du lịch quốc tế.
Việt Nam là cửa ngõ của Đông Nam Á vì thế thị trường khách quốc tế tương đối lớn và ổn định, có mức tăng trưởng cao về số lượng và tỷ trọng. Mặc dù có ảnh hưởng của đại dịch SARS và thiên tai lũ lụt nhưng lượng khách du lịch quốc tế vẫn chiếm tỷ trọng trên 17% so với lượng khách cả nước và ngày khách lưu trú vẫn tăng.
Mặc dù chi tiêu của khách nước ngoài (không kể phương tiên tới Việt Nam ) ở nhiều mức nhưng bình quân chung là 762,5 USD đối với một khách du lịch đi bằng máy bay hoặc theo tour, và nếu khách tự sắp xếp chuyến đi là 1131,4 USD. Cơ cấu chi tiêu của một khách là 40% cho lưu trú và ăn uống và còn lạidành cho tham quan, trả phí dịch vụ cho các dạnh nghiệp lữ hành, mua sắm đồ lưu niệm.
Khách du lịch nội địa.
Do tình hình kinh tế xã hội ổn định, phương tiện, điều kiện đi lại thuận lợi, đời sống người dân được cải thiện và từng bước được nâng cao nên khách du lịch nội địa ngày càng gia tăng. Lượng khách nội địa tăng nhanh và chiếm khoảng hơn 80% trong tổng lượng khách đến ViệtNam.
Khách nội địa thường là khách công vụ hoặc là khách tham quan, thăm thân, lễ hội bởi lẽ loại khách này ngoài công vụ còn kết hợp tham quan v..v. Khách nội địa có thời gian lưu trú thấp và khoảng 60% không sử dụng dịch vụ lưu trú.
1.3.2.2 Doanh thu du lịch.
Doanh thu du lịch bao gồm thu từ lưu trú, ăn uống, lữ hành- vận chuyển khách du lịch; từ bán hàng lưu niệm, từ các dịch vụ khácNgoài ra còn một số ngành dịch vụ khách không những chỉ phục vụ người dân địa phương, mà còn phục vụ cho cả khách du lịch như dịch vụ y tế, ngân hàng, bưu điện,phim ảnh, giao thông công cộng, bảo hiểmTrong trường hợp này một phần chi tiêu của khách du lịch bị phân tán, chưa tập trung về một mối. Chính vì lẽ đó mà theo thống kê sự đóng góp của ngành du lịch nói chung còn thấp chưa tương xứng với lượng khách.
Ngành du lịch đã đạt mức tăng trưởng hai con số về doanh thu và lượng khách. Điều này được thể hiện rõ nét trong bảng sau:
Bảng 11: Kết quả lượng khách và doanh thu từ du lịch từ 2001- 2006.
Nội dung
Đơn vị tính
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Lượng khách
Nghìn lượt khách
14332
15844
16784
18428
19468
21200
Thu nhập từ du lịch
Tỷ đồng
14017
16300
22796
26690
33600
51000
(Nguồn tổng cục du lịch Việt Nam)
Theo số liệu của tổng cục du lịch thì tốc độ tăng trưởng GDP từ giai đoạn 2001-2003 là 6%/ năm, từ 2004-2006 là 12,5%/năm. Như vây tốc độ tăng trưởng đã vượt xa kế hoạch của chiến lược phát triển. Hằng năm tỷ trọng GDP du lịch trong tổng GDP cả nước đều tăng, năm 2001 là 3,5%, năm 2005 đạt 4,5%.
1.3.2.3. Những lợi ích khác.
Du lịch Việt Nam đã góp phần đáng kể trong phát triển kinh tế xã hội, xoá đói giảm nghèo. Du lịch phát triển đã tăng tỷ trọng GDP của ngành và khối ngành dịch vụ trong tổng thu nhập quốc dân; đồng thời thay đổi diện mạo đô thị, nông thôn; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhất là ở các trung tâm du lịch như: Sa Pa (Lào Cai), Hạ Long (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hóa), Cửa Lò (Nghệ An), Thừa Thiên- Huế, Quảng Nam, Khánh Hòa, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu và một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, v.v..
Hoạt động du lịch hiện đã giải quyết thêm nhiều công việc làm cho người lao động. Có hơn 234 nghìn lao động trực tiếp và khoảng 510 nghìn lao động gián tiếp của nhiều tầng lớp dân cư, đặc biệt là thanh niên mới lập nghiệp và phụ nữ. Thông qua du lịch, nhiều di tích, di sản được trùng tu từ nguồn thu du lịch và các nguồn vốn xã hội được huy động, tạo nên ý thức và trách nhiệm giữ gìn, phát triển di sản văn hóa, truyền tải được các giá trị văn hóa đến các tầng lớp nhân dân và du khách, tăng thêm tính hấp dẫn của du lịch.
Du lịch tạo ra khả năng tiêu thụ tại chỗ hàng hóa, dịch vụ. Nếu tính theo con số thống kê trung bình mỗi khách du lịch quốc tế đến Việt Nam chi tiêu khoảng 902 Đôla Mỹ thì doanh thu "xuất khẩu tại chỗ" năm 2005 khoảng trên 3 tỷ Đôla Mỹ.
Tính đến nay, cả nước có khoảng hơn 6.000 cơ sở kinh doanh lưu trú với hơn 130 nghìn buồng, phòng, trong đó 2.575 cơ sở được xếp hạng từ đạt tiêu chuẩn 1 đến 5 sao; 400 doanh nghiệp lữ hành quốc tế. Các địa phương có số doanh nghiệp lữ hành quốc tế nhiều nhất là Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Ðà Nẵng và Hải Phòng. Số lượng doanh nghiệp lữ hành nội địa đạt hơn mười nghìn doanh nghiệp. Các cơ sở kinh doanh vận chuyển du lịch cũng có xu hướng phát triển mạnh. Ngoài ra, tại các địa phương, còn có hàng nghìn hộ tư nhân tham gia kinh doanh du lịch.
Việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp du lịch Nhà nước được quan tâm, đẩy mạnh. Ðề án sắp xếp lại doanh nghiệp trực thuộc Tổng cục Du lịch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức triển khai theo hướng để lại bốn doanh nghiệp du lịch mạnh ở Hà Nội, Ðà Nẵng, TP Hồ Chí Minh, Vũng Tàu; hình thành công ty mẹ - công ty con trên cơ sở tám công ty; cổ phần hóa các công ty hiện có. Cả nước đã cổ phần được hơn 100 doanh nghiệp du lịch, tạo điều kiện để các công ty hoạt động hiệu quả hơn.
Ngành du lịch chú trọng xây dựng nhiều tuyến du lịch đường bộ, đường sông, đường biển, nối các điểm du lịch, khu du lịch ở các vùng, miền, khai thác thế mạnh tiềm năng mang tính liên vùng, liên ngành và hình thành các loại hình du lịch mới như đi bộ, leo núi, lặn biển, thám hiểm hang động, du lịch xuyên Việt bằng xe đạp, mô-tô, ô-tô, du lịch đồng quê, trở về cội nguồn, du lịch sông nước, du lịch văn hóa, sinh thái kết hợp thể thao, v.v... Việc khảo sát tuyến du lịch đường bộ tại các tỉnh miền trung và tuyến, điểm du lịch của nước bạn: Lào, Thái-lan, Cam-pu-chia đã được một số doanh nghiệp lữ hành quốc tế tổ chức thí điểm cho hơn 20 đoàn bao gồm 388 xe ô-tô carnavan tay lái phải và hơn 1.000 du khách Thái-lan vào Việt Nam du lịch. Ðây là cơ sở thuận lợi để phát triển du lịch đường bộ giữa Việt Nam và các nước.
Như vậy trong những năm qua ngành du lịch đã khẳng đinh được vai trò của mình đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Hi vọng rằng dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, ngành du lịch phối hợp các bộ, ngành hữu quan và các địa phương trong tham mưu xây dựng và hoàn thành hệ thống cơ chế, chính sách lớn về du lịch, các văn bản hướng dẫn, các chương trình hành động quốc gia về du lịch, và nhiều chủ trương, chính sách khác, hoạt động du lịch sẽ thu hút sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và ngày một phát triển hơn nữa.
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN DU LỊCH.
2.1 QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TRONG ĐẦU TƯ PHÁT TRIÊN DU LỊCH.
2.1.1. Mục tiêu phát triển du lịch từ 2001- 2010.
2.1.1.1. Mục tiêu tổng quát:
Phát triển du lịch thành một ngành kinh t mũi nhọn trên cơ sở khai thác hiệu quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá lịch sử, huy động tối đa nguồn lực trong nước và tranh thủ sự hợp tác và hỗ trợ quốc tế, góp phần thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ ở khu vực, phấn đấu sau năm 2010 du lịch Việt Nam được xếp vào nhóm các quốc gia có du lịch phát triển trong khu vực.
2.1.1.2. Mục tiêu cụ thể:
Phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP của ngành du lịch bình quân thời kỳ 2001-2010 đạt 11-11,5%/ năm, với các chỉ tiêu cụ thể như sau:
Năm 2005: khách quốc tế vàoViệt Nam du lịch đạt từ 3 đến 3,5 triệu lượt người,khách nội địa từ 15 đến 16 triệu lượt người, thu nhập du lịch đạt trên 2 ty dollar;
Năm 2010: Khách quốc tế vào Việt Nam du lich đạt từ 5,6 đến 6 triệu lượt người, khách nội địa từ 25 đến 26 triệu lượt người, thu nhập từ du lịch đạt từ 4 đến 4,5 tỷ dollar.
2.2.2. Định hướng đầu tư phát triển du lịch.
Đầu tư phát triển du lịch phải kết hợp tốt việc sử dụng nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước với việc khai thác, sử dụng nguồn vốn nước ngoài và huy động nguồn lực trong dân theo phương châm xã hội hoá phát triển du lịch.
Ưu tiên đầu tư phát triển các khu du lịch tổng hợp quốc gia và các khu du lịch chuyên đề.
Kết hợp đầu tư nâng cấp, phát triển các điểm tham quan du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch với đầu tư cho tuyên truyền, quảng bá và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch để tạo ra các sản phẩm du lịch hấp dẫn, mang tính đặc thù cho từng vùng du lịch và cả nước.
Có kế hoạch đẩy mạnh phát triển du lịch đối với các địa bàn du lịch trọng điểm như: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An, Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hoà, Đà Lạt, Ninh Thuận, Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Tiên, Phú Quốc và các tuyến du lịch quốc gia có ý nghĩa liên kết các vùng, các địa phương có tiềm năng du lịch trên toàn quốc, các điểm du lịch thuộc các tuyến du lịch quốc gia phù hợp trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và cả nước.
Đối với các thành phố du lịch như: Hạ Long, Huế, Nha Trang, Vũng Tàu, Đà Lạt; các đô thị du lịch như: Sa Pa, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Hội An, Phan Thiết, Hà Tiên cần phải đầu tư cho phát triển du lịch một cách hợp lý bảo đảm sự hài hoà giữa phát triển đô thị với phát triển du lịch bền vững, nhằm tăng tính hấp dẫn của hoạt động du lịch.
Thực hiện xã hội hoá trong việc đầu tư, bảo vệ, tôn tạo các di tích, cảnh quan môi trường, các lễ hội, hoạt động văn hoá dân gian, các làng nghề phục vụ phát triển du lịch.
3. Định hướng về đầu tư phát triển nguồn nhân lực du lịch và nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ:
Xây dựng hệ thống cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch gồm: dạy nghề, đào tạo trung cấp, cao đẳng, đại học và trên đại học về du lịch.
Đổi mới cơ bản công tác quản lý và tổ chức đào tạo nguồn nhân lực du lịch; đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo theo chuẩn hoá quốc gia cho ngành du lịch; gắn lý thuyết với thực hành, đào tạo với nghiên cứu để nâng cao chất lượng giảng dạy và trình độ đội ngũ cán bộ giảng dạy.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ du lịch tiên tiến phục vụ phát triển du lịch bền vững, tạo bước phát triển mới có hiệu quả trong nghiên cứu và ứng dụng các thành quả khoa học và công nghệ vào hoạt động quản lý và kinh doanh du lịch.
Đến năm 2010 tạo thêm 1.4 triệu việc làm trực tiếp và gián tiếp cho xã hội. Trong đó, đến năm 2005 tạo 220000 việc làm trực tiếp trong ngành du lịch và đến năm 2010 tạo 350000 việc làm trực tiếp
2.2. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DU LỊCH TRONG HỘI NHẬP.
Như chúng ta biết, Việt Nam đang trong thời kỳ phát triển và đã gia nhập vào tổ chức kinh tế lớn nhất hành tinh WTO. Có thể nói rằng trong quá trình toàn cầu hoá như hiện nay, khoảng cách giữa các quốc gia dường như được rút ngắn. Mỗi quốc gia khi tham gia vào quá trình này đều có những cơ hội và thách thức nhất định. Việt Nam chúng ta cũng không phải là một ngoại lệ, với mức tăng trưởng trên 8% năm 2006 đất nước ta đã và đang có những bước tiến dài trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là các ngành dịch vụ mà nổi bật là lĩnh vực du lịch. Ngành du lịch nước ta trong hội nhập có rất nhiều cơ hội để phát triển nhưng cũng gặp không ít thách thức đòi hỏi các nhà lãnh đạo, các cấp,các ngành phải có những giải pháp hữu hiệu nhằm phát triển ngành một cách có hiệu quả.
2.2.1.Những cơ hội đối với du lịch Việt Nam
Về cơ hội kinh tế: Đó là sự phát triển kinh tế nước ta: từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu nước ta đang chuyển mình trở thành một nước công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính điều này làm tăng lượng thương nhân, những nhà đầu tư, những nhà tiếp thị đến với Việt Nam. Các vị khách này sẽ mua các dịch vụ của ngành du lịch như dịch vụ lưu trú, đi lại, tham quan Như vậy, Cơ hội đầu tiên và rõ nhất chính là sự tăng trưởng mạnh của du khách quốc tế. Điều này dễ nhận thấy qua con số hơn 3,6 triệu du khách quốc tế đến Việt Nam năm 2006.
Về cơ hội văn hoá, chính trị, khoa học giáo dục...
Đây là nguồn lực phát triển du lịch. Bỏi lẽ một quốc gia có nền chính trị vững chắc, có đường lối hoà nhập cộng đồng, làm bạn với tất cả các nướcCó một nền văn hoá lâu đời với nhiều phong tục tập quán hấp dẫn sẽ thu hút được sự chú ý của cac chính khách, các nghệ sỹ, nhà khoa học, nhà báo, nhà thể thaotạo ra những cuọc hội thảo, các cuộc thi thể tha mang tầm cơ khu vực, quóc tếTừ đó sẽ tạo thêm nguồn khách du lịch và du lịch có điều kiện tuyên truyền quảng cáo. Chúng ta có thể quảng bá rộng rãi hình ảnh của đất nước mình ra thế giới, nhờ đó đất nước có thể thu hút được nhiều hơn vốn đầu tư vào nền kinh tế nói chung và ngành du lịch nói riêng. Điều này được minh chứng rõ nét sau hội nghị thưởng đỉnh APEC tổ chức vào trung tuần tháng 11 năm 2006. Lượng khách du lịch quốc tế đến nước ta tăng đột biến, doanh thu du lịch tăng cao và có khá nhiều dự án có vốn đầu tư nước ngoài xin được cấp phép, trong đó các dự án về khách sạn- nhà hàng chiếm khoảng 30%.
Như vậy trong các nguồn lực phát triển du lịch như:nguồn lực nhân văn, nguồn lực thiên nhiên, dân cư và lao động, cơ sở vật chất kỹ thuât- thiết bị hạ tâng, đường lối chinh sách đều đó các cơ hội.
Ngoài những nguồn lực chủ yếu trên chúng ta còn có nguồn lực bên ngoài, trong hội nhập WTO chúng ta được tiếp xúc với các nền kinh tế tiến bộ, năng động do đó chúng ta có thể học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm trong quản lý, điều hành và tổ chức nhằm hoàn thiện mình hơn. Bởi lẽ khi hội nhập sự gia tăng của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ nâng cao tính chuyên nghiệp cho thị trường qua vấn đề tranh thủ vốn, chuyển giao công nghệ du lịch và tổ chức hoạt đông du lịch bằng con đường hợp tác đâu tư, trao đổi, liên doanh và điều này khiến các doanh nghiệp trong nước trưởng thành hơn trong môi trường trong nước
Cơ hội tiếp theo sau khi chúng ta gia nhập WTO chính là được giao lưu với các nền văn hoá khác nhau trên thế giới, học hỏi những nét đẹp truyền thống của họ. Điều đó một mặt nhằm bổ sung cho nền văn hoá của nước nhà ngày càng đa dạng, phong phú hơn, một mặt giúp các nhà quản lý du lịch hiểu rõ hơn phong tục tập quán của nhiều quốc gia, từ đó có thể đáp ứng được nhu cầu của du khách với nhiều quốc tích khác nhau, tạo cơ hội để mở rộng thị trường và thu hút thêm nhiều khách du lich.
2.2.2.Những thách thức đối với du lịch Việt Nam
Bên cạnh những cơ hội to lớn đó, chúng ta còn đứng trước muôn vàn khó khăn.Thông tin mới nhất của Tổng cục Thống kê cho biết: có tới 85% số du khách quốc tế không muốn trở lại Việt Nam lần thứ hai. Đây là một con số rất đáng suy nghĩ cho ngành du lịch nước ta, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang thúc đẩy tiến trình hội nhập ngành kinh tế quan trọng này với thế giới.
Những năm gần đây, số lượng khách du lịch quốc tế đến nước ta tăng khá nhanh. cứ 2 năm chúng ta tăng được 1 triệu khách quốc tế. Năm ngoái, du lịch Việt Nam đón 3,4 triệu khách quốc tế. Năm nay dự kiến đón từ 3,6 đến 3,8 triệu khách và đến năm 2010 sẽ đón 6 triệu khách quốc tế.
Chỉ nhìn vào tăng trưởng của những con số, có thể chúng ta thấy điều đáng mừng. Số lượng khách tăng nhanh. Nhưng nếu nhìn vào thống kê số lượng khách quay trở lại Việt Nam lần thứ 2 trở lên, thì thật đáng giật mình: chỉ có từ 10 đến 15%! Có nghĩa là cứ 10 vị khách quốc tế đến du lịch Việt Nam thì chỉ có 1-2 người quay trở lại. Điều này cho thấy: sự hấp dẫn của thiên nhiên, văn hoá, lịch sử, con người Việt Nam chỉ mới mời gọi được du khách đến thăm. Còn chất lượng dịch vụ du lịch thì chưa chinh phục được du khách, khiến cho họ chỉ đến một lần rồi thôi, đa số “một đi không trở lại”! Phần lớn những du khách được hỏi cảm tưởng khi đến Việt Nam đều cho biết họ rất thích cảnh quan thiên nhiên và con người Việt Nam, rất khâm phục lịch sử và văn hoá Việt Nam nhưng họ không hài lòng về sự phục vụ, về giao thông đi lại, về vệ sinh, về sự đa dạng sản phẩm du lịch. Nói tóm lại, du lịch nước ta còn thiếu tính chuyên nghiệp trong các khâu. Chính vì thế, việc du khách không quay trở lại là điều dễ hiểu.
Thực tế này đang đẩy ngành du lịch nước ta đứng trước những thách thức lớn.
Thứ nhất: phải tăng chi phí quảng bá để mời gọi những người chưa biết Việt Nam là gì, đến với Việt Nam.
Thứ hai: lợi nhuận ròng từ hoạt động kinh doanh du lịch sẽ ngày càng giảm, do chi tiêu của khách tại Việt Nam là rất thấp.
Thứ ba: Tài nguyên thiên nhiên, môi trường văn hoá Việt Nam sẽ bị huy động quá mức cho mục tiêu chào đón khách, không có điều kiện tái đầu tư, không được bảo vệ để phát triển bền vững.
Thứ tư: năng lực cạnh tranh sẽ ngày càng suy yếu, trong khi các điểm đến ở các quốc gia xung quanh ta ngày càng toả sáng, trở nên hấp dẫn du khách và sẽ “hút” khách về phía họ. Đó là chưa kể đến lúc, Việt Nam bị mất lợi thế là một điểm đến mới, khi đó chi phí để kéo được một du khách quốc tế đến Việt Nam sẽ còn phải tăng lên nhiều hơn. Chưa kể khi hội nhập với kinh tế toàn cầu, ngành du lịch nước ta sớm muộn cũng sẽ phải đương đầu với cạnh tranh trong lĩnh vực lữ hành. Nếu không sớm chấn chỉnh, khắc phục những yếu kém hiện nay trong quản lý và kinh doanh du lịch, sẽ đến lúc xảy ra cảnh ngang trái: tài nguyên của chúng ta, thiên nhiên của chúng ta, văn hoá của chúng ta nhưng lại do người nước ngoài khai thác, và lợi nhuận lại đem về nước họ
Để khắc phục những hạn chế nói trên, không chỉ trông vào nỗ lực của một mình ngành du lịch mà rất cần sự phối hợp thực hiện của rất nhiều ngành. Nhưng đáng buồn thay, ở nước ta, khả năng phối hợp liên ngành vì một mục tiêu chung lại rất hạn chế. Vì vậy, du lịch Việt Nam vẫn còn phải đương đầu nhiều thách thức, và chưa biết khi nào mới vượt được qua.
2.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN DU LỊCH.
Đầu tư phát triển đang là một yêu cầu rất cần thiết đối với sự phát triển của một đất nước.Thế nhưng câu hỏi đặt ra là làm thế nào để đầu tư có hiệu quả? Làm thế nào để có thể phát triển bền vững? Đó là câu hỏi không khó trả lời những lại rất khó có thể thực hiện trong điều kiện của nước ta hiện nay, khi mà vẫn còn thoáng đâu đó cách thức hoạt động, quản lý theo kiểu bao cấp, quan liêu. Trong hội nhập, sự cạnh tranh là rất cao vì thế nếu không có sự thay đổi phương thức làm vịêc thì sợ rằng một số lĩnh vực sẽ không có tên của doanh nghiệp Việt Nam ngay trên chính đất nước mình.
Hoạt động du lịch là một lĩnh vực mới được nhà nước coi trọng trong những năm gần đây. Ngành du lịch nước ta cũng không tránh khỏi những cạnh tranh khốc liệt của kinh tế hội nhập.Thách thức này của ngành có vẻ nặng nề hơn các ngành khác vì so với thế giới du lịch Việt Nam còn rất non trẻ, khả năng cạnh tranh cũng như kinh nghiệm còn rất non yếu. Vì vậy, làm thế nào để đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn đã được các cấp lãnh đạo bàn bạc nhiều lần. Sau đây là một số giải pháp mà tôi nêu lên, hi vọng sẽ giúp môt phần nào đó nâng cao công tác đầu tư phát triển ngành du lịch.
2.3.1. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác tổ chức thực hiện quy hoạch.
Tiếp tục huy động mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để triển khai Chiến lược phát triển Du lịch năm 2001- 2010 đã được thủ tướng chính phủ phê duyệt là nhiệm vụ hàng đầu, trong đó phải chú trọng công tác quy hoạch nhất là quy hoạch chi tiết các khu, điểm du lịch và điều chỉnh quy hoạch tổng thể, quy hoạch các địa phương phù hợp với tình hình đất nước.
Việc quy hoạch của ngành du lịch trong những năm tới cần phải tăng cường bảo vệ và giữ gìn cảnh quan du lịch. Việc quy hoạch liên vùng cần được đầu tư có trọng điểm để tránh việc đầu tư tản mạn, dàn trải và việc quy hoạch cần gắn kết giữa tổng cục du lịch và các địa phương và các ngành.
Cần tăng cường vai trò và hiệu lực quản lý Nhà nước về quản lý môi trường, tài nguyên du lịch, đặc biệt ở những khu du lịch quốc gia, các điểm du lịch có sức hấp dẫn cao, các khu du lịch sinh thái; khuyến khích và tạo điều kiện để huy động sự tham gia và đóng góp của các tổ chức và cá nhân vào việc bảo vệ tài nguyên, môi trường du lịch, đảm bảo phát triển bền vững của du lịch Việt Nam. Ngoài ra cần lồng ghép đào tạo và giáo dục về tài nguyên và môi trường du lịch trong chương trình giảng dạy của hệ thống đào tạo các cấp về du lịch; nâng cao nhận thức về việc bảo vệ tài nguyên, môi trường du lịch cho khách du lịch và cộng đồng dân cư thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Như vậy nếu quy hoạch đúng, quản lý hợp lý đúng quy hoạch thì mới có thể đầu tư phát triển du lịch một cách nhanh và bền vững.
2.3.2. Giải pháp huy động vốn đầu tư phát triển.
Đầu tư cho du lịch bao gồm đầu tư trực tiếp cho ngành du lịch và đầu tư gián tiếp qua các ngành khác có liên quan đến du lịch. Nguồn vốn đầu tư cho du lịch mang tính chất đa dạng, lượng vốn đầu tư cho du lịch còn thiếu rất nhiều.Chính vì vậy để có thể phát triển du lịch thì Nhà nước phải tăng cường đầu tư thoả đáng và hợp lý cho phát triển du lịch, có cơ chế và chính sách huy động vốn theo hướng đa dạng về nguồn vốn.
Với nguồn vốn ngân sách do ngành du lịch đóng góp thì Nhà nước sẽ sử dụng một lượng vốn nhất định để đầu tư trực tiếp cho ngành du lịch
Với nguồn vốn từ các tổ chức tài chính hoặc các nguồn vốn theo hình thức viện trợ song phương, đa phương chính phủ cần dành một phần để đầu tư phát triển du lịch. Ngoài ra cần hướng nguồn vốn mới từ các tập đoàn, các công ty mạnh về tài chính trong khu vực. Có thể kỳ vọng trong thời gian tới, với tốc độ đầu tư vốn nước ngoài cho du lịch như hiện nay thì chúng ta sẽ có những cơ sở du lịch lớn, mạnh hiện đại chất lượng cao, không thua kém các nước trong khu vực và trên thế giới.
Với nguồn vốn tư nhân chúng ta cần có những chính sách cụ thể để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp này không những phát triển trong nước mà còn có cả khả năng đầu tư ra nước ngoài. Thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ du lịch với các nước để vừa tranh thủ vốn đầu tư, công nghệ, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý..., vừa tiếp tục tạo lập và nâng cao hình ảnh và vị thế của du lịch Việt nam ở khu vực và trên thế giới.
Để thực hiện việc huy động vốn có hiệu quả thì cần có kế hoạch, chủ trương cụ thể cho việc huy động vốn đầu tư nước ngoài như sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực du lịch, thực hiện chủ trương cổ phần hoá, cho thuê, bán, khoán... doanh nghiệp nhà nước để thu hút vốn đầu tư hoặc cải cách hành chính, phân cấp và đơn giản hoá các thủ tục liên quan đến khách du lịch và doanh nghiệp kinh doanh du lịch.
2.3.3. Giải pháp sử dụng vốn đầu tư phát triển du lịch
Để có được một tốc độ tăng trưởng du lịch cao thì đòi hỏi phải có nhiều biện pháp hỗ trợ trong đó biện pháp sử dụng hiệu quả đồng vốn đầu tư là một giải pháp quan trọng. Các giải pháp chung nhằm để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư phát triển du lịch như sau:
Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn thu hút từ bên ngoài bằng cách đầu tư vào những sản phẩm du lịch đem lại lợi nhuận cao với chu kỳ thu hồi vốn nhanh, đem lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và lợi nhuận cho người lao động.
Vốn của Nhà nước cần được sử dụng có hiệu quả, tạo môi trường kinh tế thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và du lịch nói riêng.
Thứ nhất, đầu tư để phát triển kết cầu hạ tầng tại các địa bàn trọng điểm, các khu du lịch quốc gia, các điểm du lịch có tiềm năng phát triển ở miền núi, vùng sâu, vùng xatrên cơ sở khai thác các tiềm năng và thế mạnh của từng vùng, từng lĩnh vực, từng địa phương; kết hợ hiệu quả việc sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và các nguồn lực từ các thành phần kinh tế vào đầu tư phát triển du lịch theo chủ trương xã hội hoá.
Thứ hai, cần phải sử dụng ngân quỹ thoả đáng cho hoạt động tuyên truyền, quảng bá cho du lịch.
Quản lý chặt chẽ công sản quốc gia như đất đai, nhà cửa..
2.3.4. Giải pháp đối với việc đầu tư, khai thác các nguồn lực.
Thực hiện giải pháp về quản lý khu du lịch Nhà nước cần bỏ vốn nghiên cứu ban đầu, có chính sách đầu tư các sản phẩm du lịch, đầu tư các điểm du lịch, các khu du lịch về cơ sở hạ tầng, bến bãi, điện nướcNgoài ra nên có cơ chế cho vay đầu tư ưu đãi đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch nhằm nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật hay mua sắm trang thiết bị.
Chúng ta cần tạo thêm nhiều điểm du lịch hấp dẫn du khách bằng cách tập trung đầu tư vào các nguồn lực du lịch được coi là thế mạnh của du lich nước nhà
Trước hết, các di tích lịch sử là thế mạnh của du lịch Việt Nam, hầu như ở bất kỳ một tỉnh, thành phố nào trên đất nước này đều có it nhất là một khu di tích lịch sử thế nhưng hiện nay vẫn chưa được quan tâm thoả đáng hoặc có quan tâm cũng chỉ với mục đích khai thác chứ không hề có ý định tôn tạo. Ngoài ra các tỉnh nên liên kết chặt chẽ các điểm du lịch với nhau để tạo thành một tour liên hoàn với nhiều nét mới lạ ở các vùng miền. Bên cạnh đó cần phải cân bằng giữa việc khai thác các khu di tích lịch sử văn hoá và bảo tồn tôn tạo nó.
Các địa phương phải có kế hoạch cụ thể cho hiện tượng ăn xin, ăn mày, bán hàng rong, tranh giành khách gây mất mỹ quan. Nên có quy định chặt chẽ đối với các phương tiện vận chuyển để đảm bảo an toàn cho khach du lịch. Các phương tiện vận chuyển phải có các thiết bị phụ trợ đi kèm để có thể xử lý khi có sự cố xảy ra.
Đối với các sản phẩm du lịch, cần nhanh chóng nâng cao chất lượng sản phẩm không những ở trang thiết bị mà còn cả dịch vụ đi kèm nhằm đảm bảo tính đồng bộ và mang đặc trưng riêng.
Vấn đề giới thiệu sản phẩm đến với du khách là một khâu vô cùng quan trọng. Một sản phẩm có được đón nhận hay không phụ thuộc rất nhiều vào khâu tiếp thị, quảng bá sản phẩm. Dồn sức cho công tác tuyên truyền sản phẩm, xúc tiến, nghiên cứu biến động của thị trường để kịp thời điều chỉnh là những việc trọng tâm để đưa công tác xúc tiến du lịch đi thêm một bước nữa về chất trong những năm qua. Cần phải kết hợp linh hoạt các hình thức tuyên truyền như: hội chợ, hội thảo, triển lãm và các phương tiện thông tin tuyen truyền khác để xúc tiến du lịch phù hợp với định hêóng phát triển thị trường du lịch ở trong và ngoài nước. Ngoài ra phải tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài và sự hỗ trợ quốc tế để phục vụ công tác xúc tiến quảng bá du lịch đạt hiệu quả.
2.3.5. Giải pháp đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực du lịch.
Hầu hết các doanh nghiệp trong nước kinh doanh du lịch hiện nay còn rất nhỏ, hoạt động cầm chừng, canh tranh còn thiếu lành mạnh gây ảnh hưởng tới chất lượng du lịch nói chung.Do đó, nhà nước cần đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra, tập trung nhiều cho việc chấn chỉnh các hoạt động kinh doanh lữ hành, kinh doanh cơ sở lưu trú, kịp thời ngăn chặn những hành vi bất hợp pháp nhằm đưa hoạt động kinh doanh du lịch vào nề nếp, phát triển đúng hướng cả về bề rộng và chiều sâu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp du lịch Việt Nam có đủ sức cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Nhà nước cần phải có chính sách khuyến khích, ưu đãi như tạo điều kiện thuận lợi trong việc giao đất cho những doanh nghiệp du lịch mạnh, có năng lực tài chính, quản lý và kinh doanh có hiệu quả.
Bên cạnh đó, tổng cục du lịch cần phối hợp với các địa phương và bộ, ngành liên quan kiện toàn cơ quan quản lý du lịch địa phương sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh trong xu thế hợp tác quốc tế cao.
2.3.6. Giải pháp nâng cao trình độ quản lý và nghiệp vụ du lịch.
Đào tạo nguồn nhân lực cho ngành, tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, nhân viên, thực hiện giáo dục du lịch toàn dân là nhiệm vụ quan trong để phát triển du lịch.
Hiện tại có 230000 người làm việc trực tiếp trong ngành du lịch và trong thời gian tới phải tăng cường đào tạo mới đáp ứng đủ nguồn nhân lực để phát triển.Vì vậy, chúng ta nhận thấy rằng nhu cầu đào tạo cán bộ và nhân viên cho ngành du lịch là rất lớn về cả số lượng và chất lượng.
Vấn đề đặt ra ở đây là phải có giải pháp cụ thể để thực hiện được phương hướng đó. Cần phải khẳng đinh rằng vấn đề đào tạo nhân lực là vấn đề then chốt trong mọi vấn đề. Chính cán bộ công nhân viên là nhân tố quyết định đến sự thành công hay thất bạo trong các hoạt động kinh doanh.Bởi vì trong kinh doanh, nhân viện sẽ tiếp xúc với khách hàng và thái độ phục vụ của họ sẽ được phản ánh qua thái độ hài lòng hoặc không hài lòng của người khách. Vì vây, trình độ của nhân viên có ý nghĩa quyết định. Hơn nữa, công tác đào tạo là công tác đòi hỏi nhiều thời gian, phải đi từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp.Bởi vậy cần có chương trình và sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các đơn vị trong công tác. Ngoài ra, tổng cục Du lịch cần phải xây dựng chương trình đào tạo cụ thể và xây dựng chương trình phát triển nguồn nhân lực môt cách có quy mô. Bên canh đó, cần đẩy mạnh giáo dục toàn dân, nâng cao hơn nữa nhận thức xã hội về du lịch, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển du lịch nhanh chóng, bền vững.
Muốn làm được như vậy thì cần nâng cao chất lượng đào tạo chuyên ngành du lịch với cơ cấu nhân lực phù hợp. Thực hiện phương châm Nhà nước, doanh nghiệp cùng tham gia đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch. Thí điểm mô hình dạy nghề có sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp với nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước và từ doanh nghiệp. Coi trọng và tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo nguồn nhân lực du lịch.
Có chính sách đãi ngộ hợp lý để thu hút nhân tài, chuyên gia, nghệ nhân tham gia vào việc phát triển du lịch của đất nước.
Ngoài các giải pháp thì chúng ta còn phải đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ phát triển du lịch; chú trọng đúng mức việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin du lịch. Xây lập hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành du lịch đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế. Khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân tham gia nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào hoạt động kinh doanh du lịch. Tăng cường hợp tác với các tổ chức, cơ quan khoa học trong và ngoài nước để tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật, kinh nghiệm, tiếp cận với những thành tựu mới, tiên tiến về khoa học công nghệ du lịch quốc tế để áp dụng cho du lịch Việt Nam.
Bên cạnh đó, chủ động tham gia hợp tác song phương, đa phương, khai thác tốt quyền lợi hội viên và thực hiện các nghĩa vụ của mình. Tăng cường hơn nữa các điều kiện để hội nhập du lịch ở mức cao, trước hết là tăng cường các điều kiện để khai thác những yếu tố về du lịch trong việc thực thi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và các hiệp định Việt Nam đã ký khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Hướng dẫn và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xây dựng kế hoạch, giải pháp để thực hiện cam kết quốc tế trong du lịch nói riêng và trong hợp tác kinh tế quốc tế nói chung, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường, tăng thị phần trên thị trường truyền thống và khai thông, nâng dần vị thế trên thị trường mới.
.
KẾT LUẬN
Qua bài chuyên đề này ta thấy ngành du lịch đã có một sự thay đổi lớn cả về chất và về lượng. Cơ sở kỹ thuật, cơ sở hạ tầng đã có sự thay da, lột xác, nhiều khách sạn nhà hàng hiện đại mọc lên, nhiều khu vui chơi giải trí đã được khai thác có hiệu quả, lượng khách đến với chúng ta ngày một đông và lượng ngoại tệ thu về ngày một nhiều hơn. Sơ dĩ chúng ta có được kết quả như thế là vì chúng ta có được một sư đầu tư khá đầy đủ và toàn diện trên mọi lĩnh vực có liên quan. Từ đầu tư vào trang thiết bị phục vụ cho du lịch, đến đầu tư nguồn nhân lực và xúc tiến du lịch. Có thể nói rằng chưa có khi nào ngành du lịch lại thu hút được nhiều thành phần kinh tế tham gia vào đầu tư du lịch đến thế.
Thế nhưng nếu xét một cách khách quan thì việc đầu tư còn gặp không ít bất cập và lượng vốn đầu tư chưa đáp ứng được nhu cầu cần cho phát triển du lịch. So với các nước, ngành du lịch nước ta chưa thật sự thu hút đúng lượng khách mà tiềm năng du lịch mang lại.
Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển du lịch? Bài viết trên tôi đã trình bày lên quan điểm và nêu ra một số giải pháp. Hi vọng trong thời gian tới với sự quyết tâm của Đảng, Nhà nước sẽ đưa ngành du lịch tiến xa hơn nữa để có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực và trên thể giới.
Qua đây tôi cũng xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Ái Liên và các anh chị trong ban dịch vụ- Viện chiến lược phát triển đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành bài viết này. Tuy nhiên, bài viết này chưa thật đầy đủ, kính mong sự góp ý của cô để bài viết hoàn thiện hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.Giáo trình kinh tế du lịch.
2.Giáo trình quản trị khách sạn.
3. Tổng cục du lịch Việt Nam, Bản tổng kết thực hiện đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch năm 2001-2005 và định hướng phát triển thời kỳ 2006-2010.
4.Tổng cục du lịch Việt Nam, Bản tổng kết hoạt động du lịch Việt Nam năm 2005; năm 2006.
5. Tổng cục du lịch, Báo cáo tóm tắt chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 200-2010.
6. Tổng cục du lich Việt Nam, Bảng tổng kết lượng khách du lịch từ năm 2001- 2006.
7. Tổng cục du lịch Việt Nam, Tài liệu thống kê doanh thu du lịch qua các năm.
8. Luật du lịch-2006.
9. Cục lưu trữ quốc gia, Số các dự án đầu tư trùng tu tôn tạo các khu di tích lịch sử.
10 Bộ kế hoạch và đầu tư, Danh mục các dư án trong lĩnh vực vận chuyển khách du lich từ năm 2000- 2005.
11. Cục đầu tư nước ngoài- Bộ kế hoạch và đầu tư, Số dự án đầu tư vào du lịch và tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 1998-2005.
12. Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê năm 2005.
13. Tổng cục thống kê, bảng chi tiêu trung bình của một khách quốc tế
15. Thời báo kinh tế -Kinh tế Việt Nam 2006 - 2007- Vốn đầu tư phát triển phân theo các ngành.Trang 71-72.
14.Một số tạp chí và một số trang web về du lịch trên internet.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4885.doc