Như vậy, bản thân các công ty chứng khoán hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam đều có thể nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán thông qua các biện pháp như phát triển môi giới chứng khoán điện tử; hiện đại hóa, đầu tư trang thiết bị và cơ sở vật chất; xây dựng quy trình MGCK theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000; tuyển chọn và đào tạo đội ngũ nhân viên MGCK; mở rộng theo hướng chuyên môn hóa từng nghiệp vụ .
Tuy nhiên, để các công ty chứng khoán có thể thực hiện tốt các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, đồng thời nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ môi giới chứng khoán còn cần sự hỗ trợ của các cơ quan có thẩm quyền. Vì vậy, Chính phủ và đặc biệt là Uỷ ban chứng khoán nhà nước cần có các biện pháp để thống nhất nhận thức về vai trò của MGCK; hoàn thiện khung pháp lý và hỗ trợ cấp giấy phép hoạt động cho các công ty chứng khoán; cấp giấy phép hành nghề cho người hành nghề môi giới chứng khoán . Chính những giải pháp đó sẽ tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán có thể nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán của mình, góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển ổn định và lành mạnh.
100 trang |
Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 731 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán của các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đoạn hai từ năm 2005 đến 2010 là giai đoạn vận hành Sở giao
dịch chứng khoán với quy mô hiện đại.
1.3.2 Xây dựng thị trường chứng khoán phi tập trung OTC
Dự kiến việc xây dựng thị trường OTC ở Việt Nam được chia làm hai giai đoạn: năm 2003 đưa vào vận hành thị trường OTC dạng đơn giản dành cho các chứng khoán có chất lượng thấp hơn các chứng khoán được niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Từ năm 2009 trở đi sẽ xây dựng thị trường phi tập trung theo tiêu chuẩn quốc tế và được tổ chức thành hai dạng thị trường: Thị trường theo NASDAS của Mỹ cho chứng khoán có chất lượng thấp hơn chứng khoán niêm yết và Thị trường OTC đầy đủ cho các CK còn lại theo kiểu Thị trường thứ ba. Ngoài ra, hiện nay, việc chuyển nhượng, mua bán cổ phiếu chưa niêm yết ngoài thị trường tự do khá sôi động. Để hạn chế rủi ro cho người đầu tư và những biểu hiện tiêu cực, các cấp thẩm quyền nên cho phép các công ty chứng khoán được thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán các chứng khoán chưa niêm yết.
1.3.3 Phát triển hàng hóa cho thị trường
Hiện nay, tổng giá trị chứng khoán được niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh là 1.580 tỷ VNĐ, chiếm khoảng 0,57% GDP. Mục tiêu đến năm 2010 khối lượng chứng khoán niêm yết sẽ đạt 15 - 20% GDP.
Đối với cổ phiếu: Có thể chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là từ năm 2000 - 2006: Là giai đoạn cơ bản hoàn thành quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay, chứng ta đã tiến hành cổ phần hóa khoảng hơn 650 doanh nghiệp, trong đó mới có khoảng 80 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn niêm yết trên thị trường chứng khoán, và vẫn còn khoảng 5.800 doanh nghiệp nhà nước chưa được cổ phần hóa. Mục tiêu đến năm 2006 sẽ tiến hành cổ phần hóa cho toàn bộ số doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần tiếp tục giữ 100% vốn. Giai đoạn thứ 2 là từ năm 2007 - 2010: Mục tiêu sẽ đưa ra một khối lượng lớn các doanh nghiệp cổ phần hóa có đủ điều kiện niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán, ban hành các chính sách cần thiết để khuyến khích và hỗ trợ các công ty cổ phần không thuộc diện doanh nghiệp nhà nước đã tiến hành cổ phần hóa niêm yết cố phiếu trên thị trường chứng khoán để tăng lượng hàng hóa giao dịch trên thị trường.
Đối với trái phiếu: Ngoài trái phiếu chính phủ vẫn được coi là hàng hóa
chính trên thị trường, mục tiêu đặt ra là cần tập trung phát triển các loại công cụ khác như trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu ngân hàng thương mại, các trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu công trình ... thông qua các giải pháp như : xây dựng một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ quản lý việc phát hành và giao dịch trái phiếu doanh nghiệp, thành lập và phát triển hệ thống các tổ chức định mức tín nhiệm làm cơ sở cho việc xác định lãi suất trái phiếu doanh nghiệp khi phát hành ...
1.3.4 Phát triển các định chế tài chính trung gian
Hiện nay, mặc dù thị trường chứng khoán Việt Nam đã đi vào vận hành, song mới chỉ ở giai đoạn thử nghiệm, các thiết chế vận hành, quy mô và đối tượng tham gia vào thị trường (đặc biệt là sự tham gia của các định chế tài chính trung gian vào thị trường) còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của một thị trường vốn đầy đủ. Vì vậy, trong chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 2002 - 2010, cần có chiến lược cụ thể cho việc phát triển các định chế tài chính trung gian của thị trường, bao gồm các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, các quỹ đầu tư, các ngân hàng lưu ký, tổ chức định mức trách nhiệm và các tổ chức kiểm toán độc lập. Riêng đối với các công ty chứng khoán, trong tương lai khi có đủ điều kiện sẽ cho phép các công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài có thể thành lập và hoạt động tại Việt Nam.
Từ chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn tới 2002 - 2010, có thể thấy thị trường chứng khoán nước ta trong thời gian tới sẽ hoạt động sôi động hơn, đặc biệt sẽ có sự gia tăng về khối lượng hàng hóa giao dịch. Như vậy, hoạt động môi giới chứng khoán của các công ty chứng khoán chắc hẳn cũng sẽ sôi động hơn, tỷ lệ thuận với nhu cầu giao dịch chứng khoán ngày càng tăng của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
2. Định hướng phát triển nghiệp vụ môi giới chứng khoán của các công ty chứng khoán trong thời gian tới
Phần phân tích ở trên đã cho chúng ta thấy rằng, ở các thị trường phát triển, CTCK trong hai chức năng môi giới chứng khoán thường được định hướng theo một trong hai mô hình chức năng: công ty môi giới giảm giá và công ty môi giới toàn phần.
Loại thứ nhất chỉ làm nhiệm vụ nhận lệnh, truyền lệnh và thực hiện lệnh cho
khách hàng; khách hàng sẽ tự đưa ra các quyết định đầu tư mà không cần đến sự hỗ trợ nào từ phía công ty. Công ty môi giới bán phần thích hợp với những nhà đầu tư hiểu biết, có năng lực phân tích thị trường và sản phẩm, thích độc lập khi đưa ra quyết định đầu tư.
Loại thứ hai, như tên gọi, cung cấp một dải dịch vụ hoàn chỉnh, từ việc nhận ủy thác trông nom tài sản cho khách hàng, cho đến việc cung cấp thông tin và đề xuất những khuyến nghị về mua và bán, hỗ trợ quá trình ra quyết định của khách hàng cho tới việc chia sẻ những băn khoăn, lo lắng về tài chính với khách hàng. Công ty môi giới toàn phần đáp ứng nhu cầu của khách hàng không có nhiều thời gian hoặc thiếu sự am hiểu, sẵn sàng trả mức phí cao để được hưởng những dịch vụ hoàn hảo này của công ty.
Trong giai đoạn đầu của TTCK Việt Nam, về căn bản, hầu như các công ty chứng khoán mới chỉ đơn thuần làm nhiệm vụ nhận lệnh, truyền lệnh và xử lý lệnh cho khách hàng. Tuy nhiên, điều này không phải là do các nhà đầu tư ở Việt Nam đều là những người am hiểu nhiều về TTCK, (như đối với các công ty môi giới chứng khoán bán phần ở các TTCK phát triển khác) mà chủ yếu là do tính chất sơ khai của TTCK Việt Nam. Để có thể thu hút được một lực lượng đông đảo quần chúng đầu tư với mặt bằng tri thức về chứng khoán và TTCK còn rất thấp, các công ty chứng khoán với dịch vụ môi giới cần định hướng vào môi giới chứng khoán toàn phần (cung cấp dịch vụ đầy đủ), nhưng với chi phí thấp. Dịch vụ đầy đủ trong giai đoạn đầu của TTCK Việt Nam nên được hiểu là bao gồm việc hướng dẫn, giải thích cho khách hàng, thảo luận phương án đầu tư với khách hàng, đưa ra lời tư vấn có sử dụng các kết quả nghiên cứu và phân tích của công ty, thực hiện lệnh của khách hàng, và sau đó là việc tiếp tục quan tâm đến tài khoản của khách hàng đã mở tại công ty của mình.
Định hướng nghiệp vụ môi giới chứng khoán cung cấp dịch vụ đầy đủ tất yếu sẽ bao gồm những hệ quả sau đây:
- Đại diện bán hàng phải chủ động tiếp cận với những khách hàng tiềm năng, thuyết phục khách hàng mở tài khoản tại công ty chứng khoán của mình, giao dịch bằng chính sự hiểu biết của mình và bằng sự trung thực, tận tụy của một người môi giới tài chính. Công việc thuyết phục người khác giao tài sản cho mình quản lý không phải dễ dàng. Người đại diện bán hàng, mà đích thực là người MGCK, phải có kiến thức, có nghiệp vụ và phải có đạo đức nghề nghiệp.
- Trách nhiệm cá nhân của mỗi người MGCK trước khách hàng được nâng cao rất nhiều. Người MGCK sẽ phải đảm bảo tính phù hợp trong những khuyến nghị đưa ra cho khách hàng, theo dõi quá trình thực hiện các lệnh, thông báo kết quả giao dịch cho khách hàng và sau đó thường xuyên giữ liên hệ với khách hàng để có những ý kiến tư vấn đúng đắn và cần thiết. Chính do tính chất đặc thù của TTCK Việt Nam mà hoạt động môi giới chứng khoán, dù dưới dạng đơn giản, đã thể hiện triết lý bán hàng hiện đại là “bán hàng tư vấn”.
- Chức danh của đội ngũ nhân viên trong CTCK với chức năng môi giới cần có sự phân định rõ ràng hơn. Hiện nay, do bản chất đặc thù của một TTCK mới đi vào hoạt động, nhìn chung, chức năng “nhân viên MGCK” tại các CTCK đều dành chủ yếu cho lực lượng nhân viên làm nhiệm vụ ghi phiếu lệnh, nhập lệnh vào hệ thống. Và trên thực tế, do khối lượng công việc chưa nhiều, nên ngoài số thời gian ít ỏi dành cho nhiệm vụ nhận lệnh, nhập lệnh, những người này cũng chính là những người tìm kiếm, xây dựng cơ sở khách hàng. Khi khối lượng công việc tăng lên thì chắc chắn hai chức năng này phải tách ra. Nếu “người môi giới” được hiểu theo nghĩa là những đại diện bán hàng như cách đã trình bày ở phần trên, thì họ có những chức năng hoàn toàn khác với đội ngũ những nhân viên xử lý lệnh. Mỗi chức danh này đòi hỏi quá trình tuyển chọn và đào tạo khác nhau.
Vì thế, với định hướng môi giới cung cấp dịch vụ đầy đủ như trên, đại diện bán hàng (người môi giới chứng khoán) cũng phải làm luôn được cả công việc tư vấn đầu tư, hay nói cách khác là hàm lượng tư vấn đầu tư trong công việc của họ rất cao. Lý do là để thuyết phục khách hàng mở tài khoản và đặt lệnh mua bán một loại chứng khoán nào đó, người MGCK phải có khả năng khớp được những thông số kỹ thuật của sản phẩm với những thông số của khách hàng, và đó chính là vấn đề cốt lõi nhất của tư vấn đầu tư.
- Mạng lưới chi nhánh của công ty phải đủ rộng để đến được với đông đảo công chúng đầu tư, đồng thời, cơ sở vật chất kỹ thuật phải được nâng cấp, và do đó,
đòi hỏi những khoản kinh phí ban đầu khá lớn.
III - Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán của các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Để góp phần tạo ra một thị trường chứng khoán phát triển nhanh chóng, vững chắc, an toàn, cung cấp một kênh huy động vốn trung, dài hạn cho tăng trưởng kinh tế, xin đề xuất một số giải pháp cho lĩnh vực môi giới chứng khoán. Giải pháp sẽ phải đồng thời được đề xuất từ phía UBCKNN là tầm vĩ mô và từ phía các công ty chứng khoán ở tầm vi mô.
Giải pháp từ phía Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
Thống nhất nhận thức về vai trò của môi giới chứng khoán trong giai đoạn đầu của thị trường chứng khoán Việt Nam
Do tính chất đặc thù của loại hình thị trường này, môi giới chứng khoán không chỉ là khâu bắt buộc phải có trong quá trình giao dịch, mà còn là một nguồn chỉ dẫn, tư vấn, chăm sóc rất hữu ích đối với người đầu tư. ở Việt Nam, hoạt động môi giới chứng khoán còn đặc biệt quan trọng vì những lý do sau đây:
- TTCK là lĩnh vực quá mới mẻ ở Việt Nam. Đối với đại bộ phận dân chúng Việt Nam thì hầu như còn hoàn toàn xa lạ. Trong khi đó, công chúng lại là đối tượng quan trọng đang có tiềm năng to lớn về vốn đầu tư, và được coi là nguồn cung cấp vốn chủ yếu cho TTCK. Muốn thu hút lực lượng này đến với thị trường, cần phải nâng cao hiểu biết của họ và quan trọng hơn là cần phải tạo ra niềm tin ở họ vào thị trường. Rõ ràng vai trò đó có một phần quan trọng là do đội ngũ các nhân viên bán hàng của các CTCK đảm nhiệm, bên cạnh các phương thức đào tạo, phổ cập kiến thức khác. Chức năng của họ vì thế không nên chỉ đơn giản là ngồi tại công ty, chờ đợi người đầu tư đến công ty đặt lệnh mua bán, mà quan trọng hơn là phải chủ động xây dựng cơ sở khách hàng bằng sự lặn lội tiếp thị sâu trong công chúng. Thông qua quá trình đó, họ chính là lực lượng đưa kiến thức về CK và TTCK vào môi trường dân trí còn thấp, cải thiện một cách đáng kể hiểu biết của công chúng về lĩnh vực này. Qua các hoạt động tác nghiệp của mình, hoạt động môi giới chứng khoán góp phần hình thành trong xã hội một nền văn hóa đầu tư, bao hàm các yếu tố như thói quen đầu tư, sự hiểu biết về thị trường, hiểu biết và tuân thủ pháp luật liên quan tới đầu tư, v.v ...
- Công ty chứng khoán là trung gian giữa khách hàng với thị trường. Lòng tin của công chúng đầu tư, yếu tố quyết định sự thành bại của TTCK, được hình thành, phát triển hay sụt lở cũng trực tiếp tại đầu mối này. Với một thị trường còn sơ khai, một khi lòng tin của công chúng bị đổ vỡ thì việc kéo họ trở lại với thị trường là hết sức khó khăn. Vì vậy, ngay từ đầu, công ty chứng khoán với chức năng môi giới phải có kỷ cương nghiêm minh, nhân viên của công ty, đặc biệt là các đại diện môi giới chứng khoán, phải được trang bị đầy đủ về tri thức, kỹ năng hành nghề và đạo đức nghề nghiệp. Nếu không kiên định với việc xây dựng những tiêu chí này thì chúng ta sẽ không thể xóa bỏ ấn tượng xấu về cái gọi là “nghề chỉ trỏ” đã từng hằn sâu trong xã hội, không thể tạo dựng hình ảnh một người môi giới tài chính trung thực, giỏi nghề và tận tụy với khách hàng, vì thế, không thể xây dựng thành công TTCK.
Vì những lý do này, cần phải có sự thống nhất nhận thức về nghề môi giới chứng khoán giữa các cơ quan hữu quan, các công ty chứng khoán và cả công chúng đầu tư trên thị trường chứng khoán. Nếu không coi trọng nghiệp vụ môi giới chứng khoán một cách đúng mức, hay đơn giản hóa nghiệp vụ này, chúng ta sẽ bỏ qua một phương tiện hữu hiệu để thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán, hay tệ hơn nữa, chúng ta đã gián tiếp tạo ra những kẽ hở có hại cho sự phát triển của một thị trường chứng khoán lành mạnh, công bằng, minh bạch.
Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của các công ty chứng khoán
Thị trường chứng khoán cũng như các loại thị trường khác, nó hình thành, tồn tại và phát triển tự nhiên theo nhu cầu của hoạt động kinh tế. Nhưng TTCK là thị trường giao dịch “hàng hóa” vô hình, do đó, những hành vi lừa đảo, đầu cơ mua bán giả thường nảy sinh và có ảnh hưởng lớn hơn bất cứ một loại thị trường nào. Vì thế, TTCK đòi hỏi phải có sự giám sát của Nhà nước. Nếu SGDCK được tổ chức theo dạng công ty cổ phần của những người môi giới chứng khoán, được quyền tự chế định theo luật pháp thì có thể dẫn đến quyền lợi của nhà đầu tư không được đảm bảo. Mặt khác, nếu có sự kiểm soát độc quyền của Nhà nước về TTCK sẽ làm cho thị trường kém sinh động, cứng nhắc và quan liêu. Để dung hòa các vấn đề trên, TTCK Việt Nam ra đời với sự quản lý của Nhà nước về TTCK. Mọi hoạt động trên TTCK Việt Nam đều đặt dưới sự giám sát trực tiếp của Nhà nước, mà đại diện là UBCKNN Việt Nam. Nhà nước thống nhất việc ban hành luật pháp và giám sát hoạt động của TTCK.
Cơ sở pháp lý trực tiếp điều chỉnh việc thành lập và giám sát hoạt động của các công ty chứng khoán ở Việt Nam bao gồm:
- Luật Doanh nghiệp quy định các nguyên tắc cơ bản về việc thành lập, hoạt động và quản lý của công ty.
- Luật Doanh nghiệp Nhà nước quy định các nguyên tắc cơ bản về việc thành lập, hoạt động và quản lý Doanh nghiệp nhà nước.
- Luật Ngân hàng và các tổ chức tín dụng quy định các nguyên tắc cơ bản về việc thành lập, hoạt động và quản lý Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng.
- Nghị định số 48/ 1998/ NĐ - CP ban hành ngày 11/ 7/ 1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
- Quyết định số 04/ 1998/ QĐ - UBCK3 ngày 13/ 10/ 1998 của Chủ tịch Uỷ ban chứng khoán Nhà nước về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán.
- Quyết định số 172/ 1999/ QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về sự tham gia kinh doanh của các tổ chức tín dụng .
- Công văn số 149/ UBCK3 ngày 2/ 11/ 1999 hướng dẫn thành lập, cấp giấy phép hoạt động cho công ty chứng khoán và cấp giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán cho cá nhân.
- Các Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Phá sản, Luật đầu tư nước ngoài, Luật hợp đồng quy định quyền sở hữu về chứng khoán, phương thức chuyển giao quyền sở hữu về chứng khoán và vấn đề phá sản công ty chứng khoán.
Các văn bản pháp lý trên đây là nền tảng pháp lý căn bản điều chỉnh việc phát hành chứng khoán ra công chúng, việc hình thành và hoạt động của các chủ thể tham gia TTCK nói chung và công ty môi giới chứng khoán nói riêng, việc cấp giấy phép hành nghề cho các cá nhân thuộc CTCK và những quy định trong nghiệp vụ môi giới chứng khoán của các công ty chứng khoán. Một trong những vấn đề lớn về pháp lý đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán là khung pháp lý điều chỉnh các hoạt động kinh doanh, thâu tóm, mua bán công ty, phá sản, giải thể và thanh lý công ty .. còn nhiều điểm bất đồng. Ví dụ Luật Dân sự không cho phép bán tài sản khi chưa thuộc quyền sở hữu của người bán, như vậy, trong tương lai, khi có đủ điều kiện chúng ta cũng không thể cho phép công ty chứng khoán, nhà đầu tư thực hiện việc bán khống ... Ngoài ra, UBCKNN nên sửa đổi, bổ sung những quy định có liên quan đến hoạt động kinh doanh của CTCK nói chung và hoạt động MGCK nói riêng nhằm nâng cao tính chủ động trách nhiệm của CTCK. Đối với hoạt động MGCK, nên thay việc quy định mẫu hợp đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán bằng việc chỉ quy định những nội dung cơ bản phải có trong hợp đồng để tạo quyền tự chủ cho các CTCK trong quá trình ký kết hợp đồng với khách hàng.
Vấn đề hoàn thiện các văn bản pháp quy nhằm tạo ra một môi trường chính sách thông thoáng, minh bạch chính là một cách thức để các công ty chứng khoán vận hành dễ dàng, tăng cường sự giám sát của Nhà nước đối với các định chế trung gian thị trường này. Những văn bản pháp lý bước đầu này sẽ cho phép các công ty chứng khoán khởi động các hoạt động ban đầu trên thị trường. Những mâu thuẫn lớn liên quan đến các bộ luật quan trọng sẽ được xử lý, tháo gỡ dần. Đồng thời, khi thị trường hoạt động, có thể thực tiễn việc quản lý và hoạt động trên thị trường sẽ tiếp tục hoàn thiện, bổ xung và chi tiết hóa hơn các văn bản hiện hành. Trong quá trình này, cần nghiên cứu và chuẩn bị ban hành luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán trong tương lai để hoạt động môi giới chứng khoán có khung pháp lý đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Nghiên cứu và cho phép thành lập nhiều loại công ty chứng khoán
Nghị định số 48/ 1998/ NĐ - CP cho phép thành lập công ty chứng khoán dưới hình thức công ty cổ phần và công ty TNHH (bao gồm công ty TNHH một thành viên và công ty TNHH hai thành viên trở lên - theo Luật Doanh nghiệp mới ban hành). Kinh nghiệm các nước khác cho thấy không nên để Ngân hàng đứng ngoài “sự nghiệp” TTCK. Thực tế, các công ty CK của các ngân hàng hoạt động nghiêm túc và có khả năng thu hút khách hàng lớn nhất. Hầu hết ở TTCK các nước, thời kỳ đầu khi mới thành lập, hoạt động chủ yếu trong đó là các ngân hàng. Ngân hàng hoạt động trực tiếp hoặc thông qua các công ty con. TTCK Trung Quốc mới cấm các ngân hàng hoạt động kinh doanh chứng khoán từ giữa năm 1997 khi hệ thống công ty CK đã tăng mạnh.
Đối với Việt Nam, các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, nếu có đủ điều kiện có thể thành lập các công ty chứng khoán TNHH riêng của mình ( ở hình thức công ty chứng khoán TNHH một thành viên), công ty chứng khoán TNHH hai thành viên trở lên, hoặc công ty chứng khoán cổ phần. Các ngân hàng thương mại lớn hơn có thể liên doanh với các đối tác trong và ngoài nước để thành lập CTCK liên doanh.
Ngoài ra, UBCKNN cũng có thể nghiên cứu một hình thức khác là CTCK Nhà nước, ở đây, Nhà nước là chủ sở hữu, UBCKNN cấp giấy phép hành nghề cho nhân viên của công ty. Toàn bộ quá trình giám sát, thanh tra ... đều tuân thủ các quy định về giao dịch chứng khoán do UBCKNN ban hành. Trên thực tế, công ty ARSC là công ty TNHH một thành viên, là công ty trực thuộc, 100% vốn hoạt động do BIDV cấp. Công ty TNHH chứng khoán Thăng Long thuộc NHTM cổ phần Quân đội cũng là công ty trực thuộc - một thành viên. Trong khi đó, công ty cổ phần CK Bảo Việt lại là một công ty cổ phần mà BIDV góp 80% vốn điều lệ.
UBCKNN nên cho phép thành lập nhiều loại hình công ty chứng khoán để làm đa dạng thêm TTCK Việt Nam. Tuy nhiên, số lượng các CTCK về nguyên tắc sẽ tùy thuộc vào sự phát triển của TTCK. Trong thời gian đầu, TTCK Việt Nam còn quá non trẻ, không nên cho phép thành lập quá nhiều CTCK. Số lượng công ty chứng khoán dự kiến từ 10 - 15 công ty. Ngoài ra, với nguyên tắc xây dựng một thị trường chứng khoán hiệu quả và an toàn ngay từ giai đoạn đầu, việc lựa chọn các công ty có quy mô lớn và chất lượng cao tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán để giảm thiểu rủi ro là hết sức cần thiết. Khi thị trường đã phát triển hiệu quả, quy mô và dung lượng thị trường đã lớn, số lượng công ty tham gia kinh doanh chứng khoán có thể tăng thêm để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Tăng năng lực về vốn cho các công ty chứng khoán
Để tạo ra khả năng và sau đó là củng cố và nâng cao năng lực kinh doanh của các công ty chứng khoán thì phải tăng năng lực vốn cho các công ty này. Một số nước trong khu vực cũng đã cho phép các định chế tài chính phi ngân hàng tham gia vào kinh doanh chứng khoán qua việc hùn vốn liên doanh hoặc mua cổ phần của các công ty chứng khoán. Hầu hết các nước đều khuyến khích sự thâm nhập của các công ty chứng khoán nước ngoài. Hồng Kông trong những năm gần đây đã sửa đổi quy chế, tăng mức vốn pháp định của các công ty chứng khoán nước ngoài. Hàn Quốc cho phép các văn phòng đại diện của các CTCK nâng lên thành chi nhánh. Đài Loan, Singapore đã cho phép một số công ty nước ngoài mở chi nhánh và trở thành thành viên của TTCK của họ.
Thị trường chứng khoán phải có khả năng thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài nhằm mục đich tăng năng lực vốn cho các công ty chứng khoán. Do đó, ngay từ ngày đầu cũng có thể cho phép một vài công ty chứng khoán nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán Việt Nam. Thị trường chứng khoán Việt Nam phải đặt mục tiêu thu hút vốn đầu tư trong nước là chủ yếu, thu hút vốn nước ngoài là quan trọng.
Việc kết nạp thành viên là công ty chứng khoán nước ngoài nhằm tăng năng lực vốn cho các công ty chứng khoán trong nước cũng cần phải có bước đi hợp lý để phù hợp với quy mô và dung lượng của TTCK Việt Nam. Bước đầu chỉ nên lựa chọn một số công ty lớn, có uy tín trên trường quốc tế, và là những công ty của những nước đã đầu tư và có khả năng đầu tư lớn vào Việt Nam. Sau một thời gian hoạt động, TTCK đã đi vào thế ổn định thì tùy theo chính sách kinh tế của Nhà nước sẽ có những bước điều chỉnh hợp lý trong chính sách của thị trường chứng khoán.
Hỗ trợ cấp giấy phép hoạt động cho các công ty chứng khoán và cấp giấy phép hành nghề cho người môi giới chứng khoán
Hỗ trợ cấp giấy phép hoạt động cho các công ty chứng khoán
Các công ty TNHH, công ty cổ phần, các NHTM, công ty tài chính, bảo hiểm, doanh nghiệp nhà nước và các cá nhân muốn thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh CK phải lập công ty cổ phần, công ty TNHH hoặc công ty độc lập trực thuộc (áp dụng riêng đối với các NHTM) và phải được UBCKNN cấp giấy phép hoạt động. Để được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh CK, trước hết, các pháp nhân phải là các tổ chức có hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính tốt, các thể nhân phải có thực lực về tài chính, có đủ điều kiện năng lực hành vi dân sự, và các chủ thể này phải đáp ứng các tiêu chuẩn do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đề ra phụ thuộc vào nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán cụ thể (xem phụ lục số 1 về mẫu đơn xin cấp giấy phép hoạt động kinh doanh CK)
* Yêu cầu về nhân sự
Để thành lập CTCK, các chủ thể tham gia thành lập công ty phải đảm bảo có đủ số nhân viên được trang bị các kiến thức cơ bản về kinh doanh chứng khoán và đáp ứng các tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp. Theo Nghị định số 48/ 1998/ NĐ - CP của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn do UBCKNN ban hành, các cá nhân thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán làm việc trong các CTCK phải được UBCKNN cấp giấy phép hành nghề.
* Yêu cầu về vốn điều lệ
Trước hết, CTCK phải có đủ vốn điều lệ nhằm đảm bảo về mặt trách nhiệm tài chính và các hoạt động có liên quan khác của CTCK. Công ty chứng khoán phải đảm bảo có đủ vốn điều lệ tùy thuộc vào lĩnh vực hoạt động mà công ty dự kiến tham gia. Cụ thể:
- Thực hiện nghiệp vụ tư vấn đầu tư CK, vốn điều lệ là 3 tỷ đồng
- Thực hiện nghiệp vụ môi giới CK, vốn điều lệ là 3 tỷ đồng
- Thực hiện nghiệp vụ tự doanh CK, vốn điều lệ là 12 tỷ đồng
- Thực hiện nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư CK, vốn điều lệ là 3 tỷ đồng
- Thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành CK, vốn điều lệ là 22 tỷ đồng
- Thực hiện cả 5 nghiệp vụ, vốn điều lệ là 43 tỷ đồng
Yêu cầu về vốn điều lệ đối với công ty chứng khoán Việt Nam như nêu trên là mức tối thiểu và có thể được coi là thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, các tổ chức kinh tế của Nhà nước và của tư nhân đều gặp khó khăn về vốn. Vì vậy, Nhà nước nên chủ động hỗ trợ về vốn điều lệ cho các công ty chứng khoán thuộc sở hữu Nhà nước, hoặc tỷ trọng vốn Nhà nước chiếm tỷ lệ chi phối.
Cấp giấy phép hành nghề cho người môi giới chứng khoán
Các nhà môi giới chứng khoán, với trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp sẽ là người trung gian giúp cho việc trao đổi mua bán chứng khoán của các nhà đầu trở nên đơn giản và thuận tiện. ở các nước, để trở thành nhà môi giới chứng khoán, các cá nhân cũng như các tổ chức phải tuân thủ các quy định hết sức khắt khe. Thông thường các nước đều yêu cầu những người này phải có giấy phép hành nghề và phải trải qua những kỳ thi chuyên môn chứng khoán. Các kỳ thi này thường do hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán tổ chức, nơi tập hợp những chuyên gia trong ngành chứng khoán.
ở Việt Nam, hiện nay chưa có hình thức các nhà MGCK là các cá nhân độc lập. Nhà MGCK ở Việt Nam là các tổ chức có tư cách pháp nhân, là các công ty chứng khoán. Để được tham gia hoạt động MGCK, các công ty chứng khoán phải đáp ứng một số điều kiện nguyên tắc nhất định và phải được UBCKNN cấp giấy phép hoạt động trong lĩnh vực môi giới chứng khoán. Trực tiếp thực hiện nghiệp vụ MGCK trong các CTCK là những người hành nghề môi giới chứng khoán, đó là các cá nhân được UBCKNN cấp giấy phép hành nghề kinh doanh CK, thỏa mãn các điều kiện trong Quyết định số 04/ 1998/ QĐ - UBCK3 ngày 13 - 10 - 1998 của Chủ tịch UBCKNN về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán (xem phụ lục số 2 về mẫu đơn xin cấp giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán)
UBCKNN sẽ cấp các chứng chỉ chuyên môn về nghiệp vụ CK cho học viên (trong đó khóa học về nghiệp vụ MGCK chiếm 5 buổi, học trong 1 tháng). Những người có đầy đủ chứng chỉ muốn được cấp giấy phép hành nghề phải trải qua một kỳ thi sát hạch do UBCKNN tổ chức. Bên cạnh đó, những người hành nghề MGCK còn phải tuân theo một số quy định ràng buộc nhất định và điều quan trọng mang tính bắt buộc là người đó phải làm việc cho một CTCK nào đó.
Như vậy, so với các nước, điều kiện cấp giấy phép hành nghề MGCK ở Việt nam đơn giản hơn nhiều. Qua đó thấy được trình độ nghiệp vụ cần có ở một người MGCK của Việt Nam cũng chưa cao. Để có được giấy phép hành nghề này không phải là khó ngay kể cả đối với những người làm việc không thuộc lĩnh vực tài chính, tiền tệ, ngân hàng. Các khóa đào tạo ngắn ngày chưa thể đáp ứng được những kiến thức và sự hiểu biết cần có ở một người MGCK. Vì thế, tất yếu dẫn đến chất lượng người MGCK không được đảm bảo. Mặt khác, TTCK Việt Nam mới đi vào hoạt động, nếu như không có một đội ngũ MGCK hoạt động hiệu quả, hiểu biết sâu sắc thị trường, dẫn dắt và tiếp cận với khách hàng ... thì MGCK không còn là động lực thúc đẩy thị trường phát triển. Xét theo một khía cạnh nào đó thì những người MGCK ở Việt Nam còn đóng vai trò “đào tạo” cho công chúng đầu tư Việt Nam. Vì thế, UBCKNN cần xem xét và cân nhắc các điều kiện cần thiết để cấp giấy phép hành nghề cho những người làm MGCK trên một số khía cạnh sau:
- Người MGCK phải có kiến thức, có khả năng phân tích Kinh tế - tài chính và nhận định xu hướng của thị trường, của nền kinh tế.
- Người MGCK phải có uy tín, đạo đức nghề nghiệp.
- Người MGCK phải có khả năng về tài chính để đảm bảo cho sự tin tưởng trao gửi của khách hàng ...
Tóm lại, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước thực hiện cấp giấy phép hành nghề cho người môi giới chứng khoán cần phải chặt chẽ hơn để có được đội ngũ những nhà môi giới chứng khoán thực thụ, đóng vai trò thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt nam phát triển lành mạnh.
1.6 Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ môi giới chứng khoán
Một thị trường chứng khoán có thể cung cấp các dịch vụ khác nhau cho các khách hàng có mức độ hiểu biết về đầu tư khác nhau. Nhìn chung, có hai loại hình dịch vụ môi giới chứng khoán, đó là: môi giới bán phần và môi giới toàn phần.
Công ty cung cấp dịch vụ môi giới toàn phần có nghĩa là người MGCK cung cấp đầy đủ các dịch vụ có liên quan đến chứng khoán cho khách hàng, đại diện cho khách hàng để thương lượng mua bán chứng khoán ... Còn dịch vụ môi giới bán phần là những người môi giới chỉ cung cấp một số ít dịch vụ, tùy theo sự ủy nhiệm của khách hàng. Như vậy, người MGCK cung cấp dịch vụ toàn phần có bổn phận và công việc với khách hàng nhiều hơn người môi giới chứng khoán bán phần, nên dĩ nhiên phí hoa hồng môi giới cho dịch vụ môi giới toàn phần sẽ cao hơn. Xét về thực tế, TTCK Việt Nam hiện nay còn sơ khai, hàng hóa chưa nhiều. Đồng thời, nền văn hóa đầu tư không có, khả năng và mong muốn sử dụng các dịch vụ môi giới chưa phải là một thói quen đối với công chúng đầu tư Việt Nam. Trong khi đó, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân rất lớn, nhưng họ lại không biết tận dụng bằng cách đầu tư dưới nhiều hình thức khác nhau, mà thuần túy là gửi vào ngân hàng, hưởng lãi suất thấp. Ngay cả khi họ hiểu ra rằng đầu tư trên TTCK là một hình thức mới, có thể đem lại lợi nhuận cao thì họ cũng không biết tiếp cận nó bằng cách nào.
Chính vì thế, trong giai đoạn đầu của TTCK Việt Nam, UBCKNN cần phải phát triển cung cấp các dịch vụ môi giới, đặc biệt là dịch vụ môi giới chứng khoán toàn phần. Dịch vụ môi giới chứng khoán toàn phần phù hợp với quy mô, dung lượng thị trường, và kiến thức cũng như khả năng của công chúng đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dịch vụ này có thể giúp cho người dân làm quen với cách đầu tư trên thị trường chứng khoán với rủi ro có thể ở mức thấp nhất do công chúng đầu tư hiện nay vẫn chưa hiểu biết và có nhiều kiến thức về thị trường chứng khoán - một hình thức đầu tư vốn tương đối mới mẻ này.
1.7 Thành lập Hiệp hội những người môi giới chứng khoán
Theo kinh nghiệm phát triển thị trường chứng khoán ở một số nước trên thế giới, sự tồn tại của các Hiệp hội chứng khoán bên cạnh các cơ quan quản lý nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng. Hiệp hội đóng vai trò điều tiết, duy trì sự công bằng, ổn định và phát triển thị trường chứng khoán thông qua việc định ra những tiêu chuẩn đối với các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, đồng thời Hiệp hội chứng khoán còn đại diện và bảo vệ quyền lợi cho các hội viên, tổ chức công tác đào tạo chuyên môn ... Hiệp hội chứng khoán thành lập theo quyết định của Chính phủ và cần sự giúp đỡ từ nhiều phía, Hiệp hội sẽ bảo vệ quyền lợi cho hội viên về các nghiệp vụ chứng khoán ngay cả trên thị trường OTC.
Để đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động đông đúc, tấp nập mà ta tưởng như “tranh giành” diễn ra đúng trật tự, đúng nghề nghiệp và đúng pháp luật, Nhà nước và UBCKNN nên hướng dẫn và bắt buộc các nhà môi giới chứng khoán tổ chức Hiệp hội những nhà môi giới chứng khoán. Việc thành lập Hiệp hội những nhà môi giới chứng khoán với sự tham gia của các công ty chứng khoán, hoạt động
như một tổ chức tự quản nhằm hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển công ty chứng khoán
và hoạt động lành mạnh của thị trường. Hiệp hội đóng vai trò là người hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ, kiểm soát và giáo dục đạo đức nghề nghiệp. Tất cả những nhà môi giới chứng khoán đều phải là thành viên của Hiệp hội những nhà môi giới chứng khoán. Nếu một thành viên bị khai trừ ra khỏi Hiệp hội thì đồng thời có nghĩa là người đó không được tiếp tục hành nghề môi giới trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Luật hóa tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp đối với người môi giới CK
Bản chất đạo đức của tất cả mọi nghề nghiệp là tính tin cậy, tất cả mọi người tham gia vào một ngành nghề nào đó đều có nghiệp vụ chuyên môn cao và có “quyền hạn” xuất phát từ tính chất chuyên nghiệp mang lại. Vì vậy, xã hội cần phải khẳng định được là những người hành nghề đó phải có độ tin cậy và tin tưởng rằng việc sử dụng quyền hạn đó sẽ mang lại hiệu quả tốt nhất và không được sử dụng vào việc thiệt hại cho xã hội. Bản chất đạo đức nghề nghiệp được thể hiện qua bốn nhân tố là có trình độ năng lực; làm việc có tiêu chuẩn hành nghề; có đạo đức và có niềm tự hào đối với nghề nghiệp.
Như vậy, đạo đức nghề nghiệp của nhà môi giới chứng khoán là một yếu tố vô cùng quan trọng. Chính đạo đức nghề nghiệp của người môi giới chứng khoán sẽ có thể giúp cho người môi giới chứng khoán tạo niềm tin cho khách hàng của mình. Với tư cách là những nhà đầu tư còn chưa hiểu biết nhiều về thị trường chứng khoán Việt Nam non trẻ, họ thường đánh giá rất cao tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của người môi giới chứng khoán vì rõ ràng họ đã đặt hết niềm tin và tài sản của mình cho những người môi giới chứng khoán này. Đạo đức nghề nghiệp làm cho nghề kinh doanh chứng khoán được công nhận và tạo tính tin cậy trong khách hàng cũng như trong toàn xã hội. Ngoài ra, nó còn giúp các cơ quan nhà nước quản lý được tiêu chuẩn hành nghề về chất lượng và dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Hiện nay, tại Việt Nam, một số nhân viên MGCK của nhiều công ty chứng khoán và vi phạm đạo đức nghề nghiệp như làm tiết lộ thông tin mật của khách hàng, dùng tài sản hay tài khoản giao dịch của khách hàng ... không làm tròn được vai trò là những người trung gian thực hiện công bằng trên thị trường, và làm tổn thương đến những nhà đầu tư trên thị trường. Chính vì thế, việc cần thiết hiện nay là phải xây dựng những tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cho những người hành nghề môi giới chứng khoán và UBCKNN nên thể chế hóa những chuẩn mực đạo đức đó thành luật, buộc những người hành nghề MGCK phải tuân thủ. Có như vậy thì mới có thể khôi phục được lòng tin của công chúng vào loại hình đầu tư mới mẻ này. Điều này là rất cần thiết và quan trọng trong việc xây dựng niềm tin của công chúng đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam, khi mà định kiến xã hội đối với cái gọi là “môi giới” còn rất nặng nề.
Tuyên truyền và đào tạo kiến thức về thị trường chứng khoán nói chung và về nghề môi giới chứng khoán nói riêng
Nghề môi giới chứng khoán muốn hoạt động hiệu quả cần có sự phối hợp giữa các ngành hữu quan trong việc tuyên truyền, phổ cập kiến thức cho công chúng về lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, trong đó có một nội dung quan trọng là về những dịch vụ mà người đầu tư có thể được cung cấp từ người môi giới chứng khoán và công ty chứng khoán.Tri thức và kinh nghiệm kinh doanh CK của đại bộ phận công chúng đầu tư ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Việc công bố thông tin định kỳ của các công ty niêm yết chưa được công chúng đầu tư quan tâm theo dõi. Các nhà đầu tư chỉ dựa vào những thông tin trôi nổi trên thị trường mà không tìm hiểu tài chính của công ty và các thông tin có liên quan đến loại CK đầu tư. Nguyên nhân của hiện tượng này là do các nhà đầu tư cá nhân bị ảnh hưởng rất lớn của yếu tố tâm lý. Điều này bắt nguồn từ trình độ phát triển KTTT còn thấp, TTCK còn quá mới mẻ dẫn đến công chúng đầu tư chưa am hiểu về CK và TTCK.
Vì vậy, cần phải tăng cường công tác đào tạo, nâng cao nhận thức của công chúng đầu tư trong lĩnh vực đầu tư CK. Đa dạng hóa các hình thức đào tạo và chương trình đào tạo đến mọi tầng lớp công chúng: tọa đàm, diễn đàn trên sóng phát thanh, truyền hình, phát hành các tờ rơi hướng dẫn đầu tư, mở các lớp nghiệp vụ thực hành tại các địa phương. Còn riêng đối với nghiệp vụ MGCK, ngoài các khóa đào tạo chính quy của các trường đại học và cao đẳng về nghiệp vụ môi giới chứng khoán, UBCKNN cần phải mở các lớp đào tạo nghiệp vụ, có thể lồng ghép với các buổi giảng về đạo đức nghề nghiệp kinh doanh chứng khoán. Ngoài ra, cũng nên theo kinh nghiệm nước ngoài, mở các lớp chuyên sâu về nghiệp vụ nhằm nâng cao tay nghề của nhân viên môi giới, hoặc cũng có thể mở các khóa học từ xa thông qua các phương tiện thông tin đại chúng ...
Thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất non trẻ, đang trong quá trình từng
bước hoàn thiện. Vì vậy, việc Nhà nước và UBCKNN bổ sung, hoàn thiện, chọn lựa những giải pháp phù hợp với ngành CK nói chung và hoạt động MGCK nói riêng sẽ góp phần tạo đà phát triển, giúp cho TTCK hoạt động suôn sẻ và mang lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế đất nước.
Giải pháp từ phía các công ty chứng khoán Việt Nam
2.1 Mở rộng phạm vi hoạt động theo hướng chuyên môn hóa từng nghiệp vụ
Các công ty chứng khoán cần xây dựng phương án kinh doanh và có chiến lược phát triển cho phù hợp với thế mạnh của từng công ty chứng khoán, đặc biệt trong đó nên quan tâm tới vấn đề mở rộng phạm vi hoạt động theo hướng chuyên môn hóa từng nghiệp vụ. Hầu hết các công ty chứng khoán hiện nay đều được cấp giấy phép tham gia tất cả các loại hình kinh doanh chứng khoán theo quy định hiện hành như môi giới chứng khoán, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư và quản lý danh mục đầu tư. Do vậy, việc mở rộng hoạt động kinh doanh cần phải theo hướng chuyên môn hóa từng nghiệp vụ. Các công ty chứng khoán với quy mô còn nhỏ, lại kết hợp với dung lượng thị trường chứng khoán hiện tại còn chưa lớn, vì thế, nhiều khi các công ty đang có xu hướng làm kết hợp các nghiệp vụ với nhau mà không có sự phân chia rành mạch các nghiệp vụ, nghiệp vụ MGCK gần như bị lẫn lộn với các nghiệp vụ khác. Hơn nữa, do số lượng nhân viên kinh doanh chứng khoán làm việc trong các CTCK cũng còn quá ít, lại đào tạo chưa được chuyên sâu nên việc phân chia rõ ràng các nghiệp vụ thực sự là cần thiết. Việc phân chia và chuyên môn hóa từng nghiệp vụ sẽ giúp nâng cao hiệu quả hoạt động MGCK nói riêng.
2.2 Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận phân tích thị trường để phục vụ cho nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Một mảng hoạt động quan trọng của công ty chứng khoán là việc thực hiện phân tích thị trường, phân tích chứng khoán ... của bộ phận phân tích thị trường, từ đó đưa ra các kết quả phục vụ cho hoạt động môi giới chứng khoán. Đây chính là một trong các mũi nhọn cạnh tranh về dịch vụ giữa các công ty chứng khoán. Các nhà môi giới chứng khoán sẽ sử dụng các báo cáo nghiên cứu của bộ phận phân tích để thực hiện việc tư vấn, hay cung cấp cho khách hàng trong trường hợp họ yêu cầu (đặc biệt với loại hình môi giới toàn phần). Trong điều kiện hiện nay, khi các CTCK mới đi vào hoạt động không lâu, các lợi thế cạnh tranh chưa rõ rệt thì yếu tố chủ yếu để thu hút khách hàng chính là chất lượng phục vụ mà các công ty cung cấp, cụ thể hơn, đó là chất lượng của những lời tư vấn của công ty dành cho khách hàng trong các quyết định đầu tư. Vì thế, cần phải nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận này. Để thực hiện được điều đó, các công ty cần phải có phòng phân tích riêng, cần có một đội ngũ những nhà phân tích thị trường, phân tích chứng khoán có kinh nghiệm, đặc biệt là các trang thiết bị cần thiết cho việc phân tích, dự báo.
Phát triển hình thức môi giới chứng khoán điện tử một cách hợp lý
Hình thức môi giới chứng khoán điện tử ( còn gọi là E - broking ) hiện nay đang là một xu hướng mới mang lại nhiều hiệu quả cho các công ty chứng khoán của một số TTCK phát triển trên thế giới. Hàn Quốc chính là một nước đi đầu trong MGCK điện tử. Hầu hết những người dân Hàn Quốc hiện nay đều mua và bán CK qua mạng Internet. Với tỷ lệ kết nối Internet cao nhất trên thế giới, mua bán CK thông qua MGCK điện tử đã đạt mức kỷ lục ở Hàn Quốc, chiếm tới 52% khối lượng giao dịch của TTCK, tăng từ con số rất khiêm tốn từ 1,9% năm 1998. Số liệu của Hiệp hội những nhà kinh doanh CK Hàn Quốc ( KSDA ) cho thấy kể từ khi MGCK điện tử được giới thiệu ở nền kinh tế lớn thứ 3 châu á này vào năm 1997, tỷ lệ MGCK qua mạng đã tăng từ 19% năm 1999 đến 52% năm 2001. Tại Singapore và Đài Loan, MGCK điện tử chiếm khoảng 10% tổng số giao dịch và tỷ lệ này còn thấp hơn nhiều nước châu á khác. Như vậy, là một nước đi sau trong ngành CK so với các nước khác, Việt Nam cũng có thể học hỏi phương thức MGCK này của các nước đi trước.
Cách thức mua bán này rất tiện lợi so với những cách thức truyền thống như đặt mua bằng điện thoại hay là phải tới tận sàn giao dịch . Hơn nữa, ngành nghề này phát triển mạnh mẽ được là nhờ sự mở rộng nhanh chóng của mạng Internet của các nước trên thế giới. Việt Nam cũng không ngoại lệ. Theo ý kiến của giới chuyên môn thì các CTCK Việt Nam hiện nay đã có nhiều thuận lợi để thực hiện việc MGCK qua mạng Internet, đặc biệt là các CTCK được sinh ra từ hệ thống ngân hàng. Với các Website có sẵn, các CTCK dễ dàng chuyển phần thông tin giao dịch lên mạng mà không tốn nhiều chi phí, khách hàng cũng có thể giao dịch với chi phí rẻ hơn. Như vậy, các công ty chứng khoán cần phải phát huy thế mạnh này khi nước ta đang phát triển hệ thống mạng Internet mạnh mẽ, đề ra nhiều giải pháp nhằm nâng cao tính bảo mật của các giao dịch được môi giới qua mạng, đồng thời nâng cao chất lượng và hình thức thông tin mà các CTCK cung cấp trên mạng. Để tạo ra nền tảng cho hoạt động môi giới chứng khoán điện tử phát triển một cách hợp lý và lành mạnh, UBCKNN cũng nên thiết lập khung pháp lý cho hoạt động này.
2.4 Xây dựng và áp dụng quy trình nghiệp vụ môi giới chứng khoán theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000
Để đảm bảo cho hoạt động môi giới được thực hiện một cách chuyên môn hóa cao cũng như đảm bảo tính chính xác và hiệu quả, các CTCK cần xây dựng lại quy trình nghiệp vụ MGCK theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000. Một trong những yêu cầu của Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000 là hướng tới khách hàng, đo lường được sự hài lòng, thỏa mãn được khách hàng. Chính vì vậy, quy trình nghiệp vụ môi giới chứng khoán theo ISO 9000 này là phải tạo thuận lợi và hiệu quả cho khách hàng trong việc đặt lệnh, xác nhận kết quả giao dịch cũng như quản lý tài khoản của khách hàng. Cần phải có sự phân chia giữa các nhân viên MCGK trong việc quản lý tài khoản khách hàng, tránh tình trạng một người quản lý tất cả các tài khoản.
Việc xây dựng quy trình nghiệp vụ MGCK cũng còn đòi hỏi phải có sự tuân thủ một cách tuyệt đối theo quy trình đã xây dựng, tránh tình trạng việc xây dựng chỉ là hình thức. Do vậy, các CTCK cần phải có công tác quản lý, giám sát đối với việc thực hiện quy trình MGCK nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho công ty mình.
2.5 Tuyển chọn và đào tạo đội ngũ nhân viên MGCK của công ty chứng khoán
Trong hoạt động MGCK, nhân tố con người chiếm một vị trí vô cùng quan trọng, quyết định sự thành công và hiệu quả của công ty chứng khoán. Muốn cho nghiệp vụ MGCK hoạt động thực sự đúng với chức năng của nó thì các CTCK cần có chiến lược để phát triển năng lực hoạt động của những nhân viên làm công tác này. Cụ thể:
- Tăng số lượng những người làm MGCK thông qua các cuộc thi tuyển vào công ty, đảm bảo rằng những người này có kiến thức cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán; có được đào tạo về nghiệp vụ môi giới chứng khoán.
- Tiếp tục nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ MGCK đã được tuyển chọn này bằng cách đào tạo lại thông qua các lớp ngắn hạn và dài hạn do UBCKNN tổ chức, hoặc gửi đi đào tạo tại nước ngoài.
- Trang bị cho nhân viên môi giới chứng khoán những cơ sở vật chất cần thiết đáp ứng được đòi hỏi của tính chất công việc.
- Có chế độ lương, thưởng rõ ràng và ưu đãi dành cho nhân viên MGCK nhằm nâng cao hiệu quả làm việc, sự tận tâm với công ty, và hạn chế những sai phạm ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng đồng thời giữ vững uy tín của công ty.
- Trong quá trình hoạt động, phải luôn luôn bảo đảm rằng đội ngũ nhân viên môi giới chứng khoán có phong cách giao tiếp văn minh, lịch sự, tận tình, chu đáo. Vì vậy phong cách giao tiếp và tác phong làm việc của cán bộ và nhân viên môi giới chứng khoán sẽ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của việc thu hút khách hàng.
2.6 Hiện đại hóa cơ sở vật chất, phương tiện kinh doanh
Ngoài yếu tố con người, cơ sở vật chất kỹ thuật cũng là một trong những yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao năng lực phục vụ, giảm chi phí và tăng cường hình ảnh cũng như uy tín của nghiệp vụ môi giới chứng khoán. Việc phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật cho nghiệp vụ môi giới chứng khoán còn phụ thuộc vào chiến lược của từng công ty, tuy nhiên, việc phát triển chung phải được tiến hành từng bước, phù hợp với các bước phát triển của TTCK. Có thể chia làm 3 giai đoạn như sau:
- Giai đoạn 1: Hoàn thiện trụ sở chính và các cơ sở vật chất kèm theo như hệ thống thông tin nội bộ, các phòng dành riêng cho khách nghiên cứu, tin học hóa công tác văn phòng và công tác kế toán.
- Giai đoạn 2: Phát triển phần mềm tin học phục vụ cho hoạt động quản lý tài khoản, thanh toán với khách hàng, tiến tới quản lý toàn bộ hoạt động môi giới chứng khoán qua máy tính. Việc này cần phải có sự phối hợp của TTGDCK và các công ty chứng khoán trong việc thống nhất phát triển phần mềm tin học.
- Giai đoạn 3: Phát triển hệ thống mạng lưới và nối mạng giữa các trụ sở chính với các chi nhánh, văn phòng giao dịch, tiến tới phục vụ khách hàng theo hướng “Khách có tài khoản ở một chi nhánh công ty có thể đặt lệnh giao dịch ở một chi nhánh khác”.
2.7 Xây dựng chiến lược khách hàng toàn diện, hợp lý
Chính sách khách hàng có một vị trí hết sức quan trọng trong toàn bộ hoạt động MGCK của một CTCK. Với phương châm phục vụ “ Hiệu quả kinh doanh của nhà đầu tư là mục tiêu” thì một giải pháp về chính sách khách hàng đúng đắn sẽ là một yếu tố quyết định vị trí của một CTCK trong cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt để giành thị phần với các CTCK khác. Chính sách khách hàng có thực hiện được hay không phụ thuộc vào kết quả của việc kết hợp và sử dụng nhiều chính sách cụ thể khác nhau, mỗi chính sách đó sẽ đóng vai trò nhất định nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Một chính sách khách hàng hợp lý cần:
- Có chính sách giá cả hấp dẫn bởi lẽ trong một môi trường cạnh tranh quyết liệt như hiện nay, mức phí của công ty phải được áp dụng một cách linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng khách hàng, từng loại hình dịch vụ để vừa duy trì được mối quan hệ lâu dài với khách hàng, vừa thu hút được thêm khách hàng mới.
- Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, cải tiến quy trình nghiệp vụ để thoả mãn nhu cầu ngày càng đa dạng và phát triển của khách hàng. Điều này đòi hỏi công ty cần phải nghiên cứu, học hỏi và đưa ra các dịch vụ mới: Cung cấp thông tin cập nhật nhất, nhận lệnh và thông báo kết quả khớp lệnh tận nhà ...
- Chủ động tìm khách hàng là một hoạt động không thể thiếu nhằm mở rộng và nâng cao số lượng khách hàng đến với mình. Chính sách này không những nhằm vào các nhà đầu tư trong nước, các nhà đầu tư cá nhân mà còn nhằm cả vào các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư là tổ chức.
2.8 Sử dụng Chinese Wall (Bức tường hồi âm)
Chinese Wall là một thuật ngữ được dùng để đặt tên cho “ Quy trình quản lý trong công ty chứng khoán”. Đó là quy trình của các công ty chứng khoán trong việc quản lý nguồn thông tin mật hoặc những luồng thông tin không được phổ biến rộng rãi trong các công ty, chỉ những người cần cho công việc của họ thì mới được nhận những thông tin này. Quy trình Chinese Wall sẽ tránh được những hành vi mua bán nội gián của các cán bộ, nhân viên môi giới chứng khoán trong các công ty do nắm được những thông tin không phổ biến ra công chúng. Điều này chắc chắn sẽ dẫn đến việc uy tín cũng như hình ảnh của các công ty chứng khoán trong công chúng đầu tư không được toàn vẹn như trước nữa. Để tránh được việc nội gián thông tin làm ảnh hưởng đến hoạt động môi giới chứng khoán, các công ty chứng khoán nên thực hiện quy trình Chinese Wall, bao gồm hai yếu tố:
- Thứ nhất, lập hệ thống tường ngăn cách các bộ phận với nhau để mỗi bộ phận chỉ nhận được thông tin cần thiết từ các bộ phận khác. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các CTCK có thực hiện nghiệp vụ tự doanh.
- Thứ hai, các công ty chứng khoán đưa ra văn bản về những hạn chế trong giao dịch, được sử dụng nhằm ngăn chặn giao dịch nội gián.
Theo các nhà phân tích kinh tế, thực hiện tốt công tác giám sát nội bộ và áp dụng hệ thống Chinese Wall là chìa khóa đảm bảo cho quá trình vận hành hoạt động môi giới chứng khoán và quản lý công ty chứng khoán phát triển vững chắc.
2.9 Kế hoạch hóa hoạt động Marketing
Để đáp ứng mục tiêu mở rộng thị phần cũng như nâng cao uy tín của mình, các CTCK cần phải phát triển mạnh công tác kế hoạch hóa hoạt động Marketing và xây dựng những mục tiêu để có thể thực hiện tốt hoạt động này, cụ thể là nhằm vào các khách hàng tiềm năng của công ty, thu hút được càng nhiều khách hàng càng tốt. Khách hàng ở đây là các nhà đầu tư cá nhân mà còn là các tổ chức kinh tế có ý định tham gia vào thị trường chứng khoán. Sau khi đã xác định khách hàng tiềm năng, các CTCK cần phải có sự phân đoạn thị trường để có thể phục vụ khách hàng theo nhóm, theo nhu cầu một cách tốt nhất. Cuối cùng mới đến việc xác định kinh phí cho hoạt động Marketing để đảm bảo hoạt động này thực sự mang lại hiệu quả cho công ty.
Lập hệ thống kiểm tra, giám sát nội bộ
Trong hoạt động kinh doanh CK, việc thiết lập một hệ thống kiểm tra, giám sát nội bộ trong các CTCK là một yêu cầu tối quan trọng đối với loại hình công ty này. Việc này nhằm hạn chế và ngăn ngừa việc vi phạm các quy định về đạo đức nghề nghiệp, các quy định của pháp luật, kể cả vô tình hay cố ý.
Việc thiết lập hệ thống kiểm tra, giám sát sẽ mang lại nhiều lợi ích như sau:
- Thứ nhất, thực hiện bảo vệ lợi ích và đối xử công bằng với nhà đầu tư.
Thứ hai, thực hiện chức năng giám sát việc thực hiện các quy định tiêu chuẩn
của thị trường và bảo vệ uy tín của chính các công ty, ngăn chặn kịp thời các hành
vi vi phạm của cán bộ các CTCK do vô tình hay cố ý vi phạm các quy định về đạo đức nghề nghiệp.
- Thứ ba, bộ phận giám sát nội bộ của các CTCK sẽ đảm nhận vai trò đầu mối trong việc tuân thủ các quy định của thị trường, triển khai thực hiện các quy định mới của UBCKNN, TTGDCK về nghiệp vụ, và các chế độ, chính sách mới.
N
hư vậy, bản thân các công ty chứng khoán hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam đều có thể nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán thông qua các biện pháp như phát triển môi giới chứng khoán điện tử; hiện đại hóa, đầu tư trang thiết bị và cơ sở vật chất; xây dựng quy trình MGCK theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000; tuyển chọn và đào tạo đội ngũ nhân viên MGCK; mở rộng theo hướng chuyên môn hóa từng nghiệp vụ ...
Tuy nhiên, để các công ty chứng khoán có thể thực hiện tốt các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, đồng thời nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ môi giới chứng khoán còn cần sự hỗ trợ của các cơ quan có thẩm quyền. Vì vậy, Chính phủ và đặc biệt là Uỷ ban chứng khoán nhà nước cần có các biện pháp để thống nhất nhận thức về vai trò của MGCK; hoàn thiện khung pháp lý và hỗ trợ cấp giấy phép hoạt động cho các công ty chứng khoán; cấp giấy phép hành nghề cho người hành nghề môi giới chứng khoán ... Chính những giải pháp đó sẽ tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán có thể nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán của mình, góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển ổn định và lành mạnh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- moi gioi CK.doc