Thành tựu đạt được trong suốt 16 năm đổi mới( 1986 - 2001) đã nói lên tất cả. Bên cạnh những mặt đạt được, chúng ta vẫn còn hạn chế trong việc vận dụng quy luật giá trị, nhất là từ thực trạng đất nước hiện nay, đang hoà nhập với kinh tế thế giới. Từ đó đặt ra nhiệm vụ khó khăn cho đội ngũ cán bộ quản lý, đòi hỏi cán bộ quản lý phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, sáng tạo, hiểu và vận dụng tốt các quy luật kinh tế cơ bản, đặc biệt là quy luật giá trị.
Tất cả các quy luật kinh tế cơ bản ra đời và sẽ tồn tại mãi mãi, nên bên cạnh mặt tích cực của nó sẽ không tránh khỏi mặt tiêu cực. Do đó, đòi hỏi trong bối cảnh hiện nay là làm sao chúng ta hiểu và vận dụng tốt các quy luật, hạn chế mức tối đa mặt tiêu cực, chúng ta phải là người chủ động trong việc vận dụng các quy luật chứ không để nó chi phối. Nắm bắt được điều đó sẽ là cơ sở tạo đà, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước, nhằm tiến đến phát triển bền vững, ổn định lâu dài.
31 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1550 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp nhằm vận dụng tốt quy luật giá trị ở nước ta trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ường chênh lệch với giá thị trường. Như vậy, mối quan hệ giữa cung và cầu, một mặt chỉ giải thích nhừng sự chênh lệch giữa giá cả thị trường và giá thị trường; và mặt khác giải thích cái xu hướng muốn thủ tiêu những sự chênh lệch giữa cung và cầu. Trái lại, chính giá thị trường điều tiết quan hệ cung - cầu, hay cấu thành cái trung tâm, chung quanh trung tâm đó những sự thay đổi trong cung và cầu làm cho những giá cả thịt trường phải lên xuống.
Trong lĩnh vực lưu thông quy luật giá trị có tác dụng điều tiết nguồn hàng từ nơi giá thấp đến nơi giá cao.
1.3.2. Quy luật giá trị kích thích sự phát triển sức sản xuất:
Trong nền kinh tế hàng hoá người nào có hao phí lao động cá biệt ít hơn hoặc nằng hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hoá thì người đó có lợi, còn người nào có hao phí lao động lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết thì sẽ bị thiệt, vì không thu về được toàn bộ lao động đã hao phí. Giá trị của hàng hoá là theo tỷ lệ nghịch với năng suất của lao động sản xuất ra hàng hoá đó. Sức lao động cũng vậy, vì giá trị sức lao động là do giá trị hàng hoá quyết định. Ngược lại, giá trị thặng sư tương đối lại tỷ lệ thuận với năng suất lao động. Giá trị thặng dư tương đối tăng lên và hạ xuống cùng với năng suất lao động. Một ngày lao động xã hội trung bình có giới hạn nhất định, thì bao giờ cũng sản xuất ra một giá trị như nhau, và giá trị này; nếu giá trị của tiền tệ không thay đổi, thì vẫn được biểu hiện thành cùng một giá cả như nhau, chẳng hạn thành 6 si - linh dù tỷ lệ phần chia thành tiền công và giá trị thặng dư của số tiền đó là như thế nào đi nữa. Nhưng nếu giá cả những tư liệu sinh hoạt tất yếu rẻ đi do năng suất lao động tăng lên thì lúc đó thì giá ttrị hằng ngày của sức lao động giảm xuống, ví dụ từ 5 si - linh hạ xuống 3 si - linh và giá trị thặng dư tăng lên 2 si - linh. Muốn tái sản xuất ra sức lao động, trước đây cần 10 giờ một ngày, nay chỉ cần có 6 giờ là đủ. Ngay trong hiện tượng giá trị là biểu hiện của lao động xã hội nằm trong bản thân các sản phẩm tư nhân, cũng đã chứa đựng sẵn cái khả năng có sự chênh lệch giữa lao động ấy với lao động cá nhân nằm trong bản thân sản phẩm. Cho nên, nếu một người sản xuất tư nhân tiếp tục sản xuất theo phương pháp cũ, trong khi đó phương thức sản xuất xã hội ngày càng tiến bộ, thì người ấy càng nhận thấy sự chênh lệch đó là qúa rõ rệt. Hiện tượng đó cũng sẽ diễn ra, khi mà toàn bộ các nhà tư nhân làm một loại hàng hoá nhất định nào đó đã sản xuất ra một khối lượng vượt qua nhu cầu xã hội. Ngay trong hiện tượng là giá trị của một thứ hàng hoá chỉ có thể biểu hiện bằng một thứ hàng hoá khác và chỉ có thể thực hiện được bằng cách thông qua sự trao đổi lấy thứ hàng hoá khác này mà thôi, cũng đã chứa đựng sẵn cái khả năng là sự trao đổi không phải tuyệt đối cứ nhất định là thực hiện được, hay ít ra thì sự trao đổi ấy cũng không thực hiện được đúng với giá trị.
Muốn đứng vững và thắng trong cạnh tranh, mỗi người sản xuất đều luôn luôn tìm cách rút xuống đến mức tối thiểu hao phí lao động cá biệt. Muốn vậy, họ phải luôn luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Vì thế, trong nền kinh tế hàng hoá, lực lượng sản xuất được kích thích và phát triển nhanh hơn nhiều so với trong nền kinh tế tự cấp, tự túc. Tuy nhiên, không nên lý tưởng hoá ưu điểm này của quy luật giá trị và kinh tế hàng hóa. Quy luật giá trị, một mặt, yêu cầu phải chú ý hạ thấp mức hao phí lao động ca biệt, tức là yêu cầu có sự tiết kiệm lao động, nhưng mặt khác, do chạy theo sản xuất những hàng hoá có giá cả cao, cho nên tạo ra tình trạng có một loại hàng hoá nào đó được xuất quá nhiều, dẫn đến hiện tượng dư thừa, làm lãng phí lao động xã hội.
1.3.3. Thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và sự phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu, người nghèo:
Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá trị, lao động cá biệt của mỗi người sản xuất có thể không nhất trí với lao động xã hội cần thiết. Những người làm tốt, làm giỏi có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, làm giàu, mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng thêm quy mô sản xuất, mở rộng doanh nghiệp của mình. Bên cạnh đó, người làm ăn kém cỏi, không gặp may, hao phí lao động cá biệt cao hơn hao phí lao động xã hội cần thiết nên họ bị lỗ vốn, thậm chí đi đến phá sản. Như vậy quy luật giá trị có ý nghĩa bình tuyển, đánh giá người sản xuất. Nó mang lại phần thưởng cho những người làm tốt, làm giỏi và hình phạt cho những người làm kém cỏi. Về phương diện này thì quy luật giá trị bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất.
Tuy nhiên, không một tấm huân chương nào lại không có mặt trái của nó. Ngay trong qua trình thực hiện sự bình tuyển tự nhiên đối với người sản xuất, quy luật giá trị đã phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu, người nghèo. Mỗi một người đều sản xuất riêng biệt, cho lợi ích riêng của mình, không phụ thuộc vào các nhà sản xuất khác; họ sản xuất cho thị trường, nhưng dĩ nhiên không một người nào trong bọn họ lại biết được dung lượng của thị trường. Mối quan hệ như vậy giữa những người sản xuất riêng rẽ, sản xuất cho thị trường chung thì gọi là cạnh tranh. Dĩ nhiên, trong những điều kiện ấy sự thăng bằng giữa sản xuất và tiêu dùng( giữa số cung và số cầu) chỉ có được sau nhiều lần biến động. Người sản xuất khéo léo hơn, tháo vát hơn, và có sức lục hơn, sẽ ngày càng lớn mạnh nhờ những sự biến động đó; còn người yếu ớt và vụng về thì bị sự biến động đó đè bẹp. Một vài người trở nên giàu có, còn quần chúng thì trở nên nghèo đói, đó là kết quả không tránh khỏi của quy luật cạnh tranh. Kết cục là những người sản xuất bị phá sản mất hết tính chất độc lập về kinh tế của họ đi và trở thành công nhân làm thuê trong công xưởng đã mở rộng của đối thủ tốt số của họ. Lịch sử phát triển của sản xuất hàng hoá giản đơn trong xã hội phong kiến dần dần sinh ra quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quan hệ giữa kẻ giàu - người nghèo, quan hệ giữa chủ - thợ, quan hệ giữa tư sản – vô sản là quan hệ đối kháng về lợi ích kinh tế. Sự đối kháng đó tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh giữa những người nghèo chống lại kẻ giàu, người thợ chống lại chủ, vô sản chống lại tư sản. Đó là một trong những khuyết tật của nền kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường.
Chương 2
Thực trạng về sự vận dụng quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế ở nước ta thời gian qua.
2.1. Tác dụng của quy luật giá trị dưới CNXH:
Một số quy luật kinh tế, kể cả quy luật giá trị đang phát huy tác dụng ở nước ta, ở đâu có hàng hoá và sản xuất hàng hoá thì quy luật giá trị nhất định tồn tại. Trong nước ta quy luật giá trị trước hết phát huy tác dụng đối với lưu thông hàng hoá, sự trao đổi hàng hoá bằng mua và bán, và đặc biệt đối với sự trao đổi những hành hoá tiêu dùng cá nhân. Trong lĩnh vực ấy, quy luật giá trị tất nhiên vẫn có tác dụng điều tiết trong một chừng mực nào đó. Tuy nhiên phạm vi của quy luật giá trị không chỉ hạn chế trong lưu thông hàng hoá mà còn đối với sản xuất nữa. Tuy không có tác dụng điều tiết trong nền sản xuất xã hội chủ nghĩa nhưng nó vẫn ảnh hưởng đến sản xuất. Trong nền sản xuất nước ta, những sản phẩm tiêu dùng cần thiết để bù đắp cho sự tổn phí sức lao động trong quá trình sản xuất, đều được sản xuất và tiêu thụ, với tư cách là hàng hoá do quy luật giá trị chi phối. Chính ở đấy, quy luật giá trị ảnh hưởng đến sản xuất. Do đó, trong các xí nghiệp của chúng ta khi hạch toán kinh tế, tiền lãi, giá thành, giá cả, v.v… đều có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy, chúng ta không thể không tính đến quy luật giá trị. Trong những điều kiện hiện nay, điều đó có ý nghĩa giáo dục những cán bộ lãnh đạo ngành công nghiệp nước ta tiến hành sản xuất một cách hợp lý và khép họ cào kỷ luật. Từ đó, tạo điều kiện cho họ học hỏi được cách tính toán tiềm năng sản xuất để từ đó có phương án, quyết định sản xuất có hiệu quả và đạt lợi nhuận cao. Đó là điển hình thực tế giúp cho các cán bộ lãnh đạo ngành công nghiệp nước ta trở thàng người lãnh đạo thực sự của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn phát triển hiện nay.
Thực tế là quy luật giá trị dưới xã hội chủ nghĩa không có tác dụng rộng rãi như dưới chế độ tư bản. Dưới chế độ kinh tế nước ta, quy luật giá trị bị thu hẹp phạm vi hoạt động. Chắc chắn là tình trạng không còn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nữa, và việc xã hội hoá những tư liệu sản xuất đó ở thành thị khiến cho phạm vi tác dụng của quy luật giá trị và trình độ ảnh hưởng của nó đến sản xuất nhất định bị hạn chế. Chúng ta cũng thấy rằng trong chế độ kinh tế nước ta hiện nay, quy luật giá trị không thể điều tiết tỷ lệ phân phối lao động giữa các ngành sản xuất khác nhau. Minh chứng rõ nhất là nước ta tập trung phát triển công nghiệp nặng hơn là phát triển công nghiệp nhẹ, mà lợi nhuận do công nghiệp nặng mang lại lời ít hơn công nghiệp nhẹ, có khi còn không có lãi nữa. Các xí nghiệp công nghiệp nặng nước ta lại không đóng cửa khi hiện tại không có lãi, công nhân của các ngành này không đạt hiệu quả như mong muốn và thay vào đó là mở các xí nghiệp công nghiệp nhẹ làm ăn có lãi hơn nhiều, công nhân làm việc với hiệu quả đạt yêu cầu. Nếu chúng ta làm theo phương pháp chuyển sang hoạt động công nghiệp nhẹ để đạt được lợi nhuận thì chúng ta không phải ưu tiên chế tạo tư liệu sản xuất mà ưu tiên chế tạo vật phẩm tiêu dùng. Nghĩa là cản bước tiến không ngừng của nền kinh tế quốc dân vì nếu không đồng thời bảo đảm việc ưu tiên chế tạo tư liệu sản xuất thì không thể nào thực hiện được bước tiến không ngừng được của nền kinh tế quốc dân.
Quy luật giá trị có một tác dụng điều tiết đối với giá cả “ những tư liệu sản xuất ” do ngành nông nghiệp làm ra và bán cho nhà nước theo giá mua. Trong trường hợp này “ các tư liệu sản xuất ” là nguyên liệu. Nông nghiệp không sản xuất ra những “tư liệu sản xuất ” mà sản xuất ra một trong những tư liệu sản xuất: nguyên liệu. Chúng ta không thể coi một bộ phận của tư liệu sản xuất và toàn bộ tư liệu sản xuất( gồm cả công cụ sản xuất) là như nhau, bởi vì bản thân nguyên liệu thì không thể tạo ra công cụ sản xuất, mặc dù có một vài nguyên liệu cần cho việc chế tạo ra công cụ sản xuất. Nhưng nếu không có công cụ sản xuất thì không thể chế tạo ra bất cứ nguyên liệu nào cả. Trong nền kinh tế quốc dân nước ta, giá cả của nguyên liệu nông nghiệp không thể lên xuống tự do được bởi vì ở nước ta nguyên liệu nông nghiệp có một giá cả ổn định, do một kế hoạch ấn định chứ không phải do giá cả “ tự do ”. Khối lượng sản xuất nguyên liệu nông nghiệp không phải được quy định một cách tự phát, cũng không phải do những yếu tố ngẫu nhiên quy định mà do kế hoạch quy định. Ngoài ra, công cụ cần thiết để chế tạo nguyên liệu nông nghiệp không tập trung trong tay các cá nhân, hay tập đoàn mà trong tay Nhà nước.
Do đó không thể phủ nhận rằng quy luật giá trị có tác động đến sự hình thành của giá cả các nguyên liệu nông nghiệp, rằng nó là một trong những nhân tố quyết định giá cả của nó. Ngoài ra, về chức năng của quy luật giá trị dưới chủ nghĩa xã hội trước hết cần nêu rõ vai trò của nó trong việc thực hiện các chức năng cơ bản của toàn bộ hệ thống các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Có ba loại chức năng:
Chức năng tổ chức xã hội. Do đã khắc phục đước sự tách rời người lao động khỏi tư liệu sản xuất nên đã bảo đảm được tính chất tập thể của việc tổ chức nền sản xuất xã hội và đã hình thành một trong những nét rất quan trọng của chủ nghĩa xã hội là sự phụ thuộc lẫn nhau và sự quy định lẫn nhau giữa việc thoả mãn các lợi ích của toàn xã hội và lợi ích của từng thành viên nói riêng. Trong điều kiện đó, quy luật giá trị đóng vai quan trọng trong việc làm phong phú thêm nội sung kinh tế của các mối quan hệ giữa xã hội( mà nhà nước là người đại diện cho các lợi ích của nó) với tập thể lao động( các đơn vị kinh doanh), giữa các tập thể lao động với nhau cũng như tập thể với từng người lao động. Quy luật giá trị đã tạo cho chủ nghĩa xã hội có các công cụ kinh tế quan trọng để thực hiện, củng cố và phát triển sự xã hội hoá sản xuất trên thực tế. Sự xã hội hoá trên thực tế( khác với việc xác lập chế độ công hữu về mặt pháp lý) có nghĩa là sự tác động lẫn nhau một cách chặt chẽ và hợp lý, giữa các đơn vị kinh tế với nhau và giữa các đơn vị kinh tế ấy với các trung tâm kinh tế của đất nước, hợp tác sản xuất toàn dân, tạo cơ sở cho những người tham gia sản xuất hoạt động theo một phương hướng thống nhất và bảo đảm kết hợp tối ưu các lợi ích của xã hội, tập thể và của mỗi người lao động. Nói cách khác, nếu tuân theo quy luật giá trị vận dụng các phương pháp và tiêu chuẩn trên cơ sở quy luật đó trong việc tính toán hao phí lao động xã hội cần thiết, chúng ta có thể định hướng các kế hoạch kinh tế quốc dân, nhằm giải quyết nhiệm vụ nâng cao hiệu quả của nền sản xuất xã hội nói chung và của từng cơ sở của nền sản xuất đó.
Chức năng kích thích xã hội. Chức năng này liên quan chặt chẽ đến chức năng tổ chức xã hội. Quy luật giá trị phục vụ quá trình phân phối nhằm tính đến khối lượng và chất lượng hoạt động kinh tế và kết quả cuối cùng của những đơn vị tham gia vào nền sản xuất xã hội. Bằng việc xác định tiêu chuẩn phân phối, dựa trên sự tính toán mức đóng góp lao động của các tập thể và các thành viên của xã hội, đồng thời dựa trên tính chất cùng có lợi khi trao đổi hoạt động giữa các đơn vị kinh doanh,quy luật giá trị đã " góp phần " vào việc thực hiện sự nguyên tắc công bằng xã hội, kích thích những sự nỗ lực nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng công tác. Nói cách khác, nếu tuân theo quy luật giá trị, vận dụng các phương pháp và tiêu chuẩn dựa trên cơ sở quy luật đó trong việc tính toán hao phí lao động xã hội cần thiết, chúng ta có thể định hướng các kế hoạch kinh tế quốc dân,nhằm giải quyết nhiệm vụ nâng cao hiệu quả kinh tế của nền sản xuất đó, làm cho tính kế hoạch toàn dân có một ý nghĩa kinh tế. Tuy nhiên,không nên giải thích điều đó tách rời các mục tiêu xã hội. Mặc dù, hiện tại vẫn tồn tại những mâu thuẫn giữa tính hiệu quả kinh tế và tính hiệu quả xã hội, nhưng điều quan trọng cần thấy dưới chủ nghĩa xã hội những tính hiệu quả đó có sự thống nhất về nguyên tắc. Sự thống nhất ấy xuất phát từ thực tế là trong điều kiện chế độ công hữu, hiệu quả kinh tế tăng lên sẽ làm tăng hiệu quả xã hội của sản xuất, mà hiệu quả này phụ thuộc vào các tiêu chuẩn xã hội, và thực hiện các mục tiêu xã hội ưu tiên.
Chức năng bảo đảm xã hội. Quy luật giá trị thực hiện chức năng này không được rõ ràng nhưng dù sao nó cũng quan trọng. Việc tuân thủ các yêu cầu của quy luật này( trong sự tác động qua lại chặt chẽ với quy luật phát triển có kế hoạch, cân đối) sẽ định hướng nền sản xuất xã hội chủ nghĩa vào tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế. Vì vậy việc đó chính là một điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, củng cố các “ cơ sở của các nguồn ” nhằm mở rộng sự hoạt động của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Đây chính là “ sự đóng góp ” chủ yếu của quy luật giá trị trong việc thực hiện chức năng bản đảm xã hội của các quan hệ xã hội chủ nghĩa. Do đòi hỏi của quy luật giá trị nên sự ngang giá trong trao đổi các hoạt động phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết là cái bảo đảm xã hội cho những xí nghiệp làm ăn tốt, chống lại việc phân phối lại một cách không căn cứ nguồn vốn do họ làm ra. Sự “ cắt xén ” hoạt động của quy luật giá trị có một ý nghĩa quan trọng trong điều kiện hình thành một cơ chế kinh tế mới và “ phục vụ ” việc tuân thủ sự công bằng xã hội chủ nghĩa. Quy luật giá trị tạo cho xã hội những đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ để đạt tới những mục tiêu kế hoạch. Mặt khác, quy luật giá trị không phải là công cụ điều tiết chủ yếu của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa. Vai trò điều tiết đó là của quy luật kinh tế cơ bản. Hơn nữa chức năng điều tiết của quy luật kinh tế cơ bản được thực hiện trước hết thông qua cơ chế của quy luật phát triển có kế hoạch, cân đối. Tác động điều tiết có tính chất quyết định đối với nền kinh tế có ý nghĩa là đề ra các mục tiêu chủ yếu cho sự phát triển kinh tế, trước hết là xác định phương hướng xã hội của nền kinh tế đó. Yêu cầu của quy luật giá trị “ tham gia ” vào qua trình điều tiết nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cụ thể là: các phạm trù giá trị sẽ giúp cho việc kiểm nghiệm căn cứ kinh tế của các quyết định kinh tế quốc dân. Việc sử dụng các phạm trù đó không phải là hoạt động tự phát mà là hoạt động tự giác, có tổ chức và phải là một bộ phận hữu cơ của quá trình chung của công việc quản lý tập trung nền kinh tế quốc dân, bao gồm cả việc xây dựng các quy tắc, điều kiện,các đòn bẩy kích thích và phạm vi quyền tự chủ kinh doanh của xí nghiệp. Trong nền kinh tế hiện nay để đạt tốc độ tăng trong sản xuất việc nâng cao chất lượng công tác và tinh thần trách nhiệm của các cơ quan cấp trên là yếu tố cơ bản. Để đạt được điều đó thì yếu tố “ môi trường ” kinh tế quốc dân rất quan trọng, nếu môi trường tốt thì sẽ đạt hiệu quả cao và ngược lại. Ngoài ra, một mặt môi trường đó phải khắc phục những hạn chế giả tạo đối với sáng kiến của các khâu quản lý; mặt khác, nó phải bảo đảm các điều kiện cần thiết để hướng các sáng kiến ấy vào việc ưu tiên thoả mãn các lợi ích xã hội.
2.2. Thực trạng kinh tế Việt Nam:
Năm 2001 trong tình hình có nhiều khó khăn hơn dự kiến, nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng cao 6.8%,( chỉ kém mức độ tăng trưởng của Trung Quốc), cao hơn mức của năm 2000. Cơ cấu kinh tế theo GDP đang chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp trong GDP( tỷ trọng công nghiệp đạt 38%, dịch vụ 39% và nông, lâm, thuỷ sản chiếm 23%; so với các con số tương ứng của năm 2000 là: 36.6%, 39.1% và 24.3%). Xét về sự đóng góp của các ngành trong việc thực hiện tốc độ tăng trưởng 6.8% GDP thì khu vực công nghiệp đóng góp quan trọng chiếm 3.7%, khu vực dịch vụ đống góp 0.6%. Sự đóng góp nổi bật của ngành công nghiệp vào tốc độ tăng trưởng và cơ cấu GDP của nền kinh tế nước ta, đánh dấu bước tiến mới về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong năm 2001.
Đối chiếu với các chỉ tiêu đề ra trong Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 2001, thì còn 4 nhiệm vụ chưa đạt kế hoạch, trong đó có 2 chỉ tiêu quan trọng về kinh tế là mức tăng trưởng GDP đạt 6.8%, tuy có cao hơn năm 2000, song thấp hơn kế hoạch đề ra là 7.5%, kim ngạch xuất khẩu tuy có tăng về lượng, song do bị thua thiệt về giá khoảng 1.5 tỷ USD nên chỉ tăng 4.5%( chỉ thiêu đề ra là 16%). Mặc dù chưa thực hiện được các chỉ tiêu đề ra, song trong bối cảnh kinh tế khu vực và thế giới đang có chiều hướng xấu đi, suy giảm mạnh, có nước tăng trưởng âm, thì đạt được kết quả như trên là điều đáng khích lệ. Giá trị sản xuất của công nghiệp cả năm tăng 14.5% so với năm 2000, khu vực kinh tế nhà nước đạt tốc độ tăng trưởng 125 là một cố gắng lớn, khu vực ngoài quốc doanh tăng 19.5% so với 18.3% của năm 2000. Sau năm thực hiện Luật Doanh nghiệp, kinh tế ngoài quốc doanh đã có bước phát triển khá sâu sắc, các sản phẩm công nghiệp, tiểu thiểu công nghiệp của khu vực này tăng nhanh chủ yếu là thuỷ sản chế biến, chè, rau quả xuất khẩu, đồ gỗ thủ công mỹ nghệ, dệt may, cơ khí... Công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục phát triển và tăng trưởng ổn định với tốc độ tăng 13.8%. Năm 2001, tình hình kinh tế xã hội tiếp tục ổn định, nước ta được công nhận là nước có môi trường đầu tư ổn định nhất khu vực sau sự kiện 11/9, đó là những thuận lợi cơ bản mà ta phải tận dụng, phát huy. Những thành tựu của năm 2001 đã tạo ra thế và lực mới để nước ta bước vào năm 2002 và thực hiện các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2001 - 2005.
Tuy nhiên, đặc điểm nổi bật của nền kinh tế nước ta nói chung là chất lượng tăng trưởng, hiệu quả, sức mạnh cạnh tranh của các sản phẩm, doanh nghiệp và của nền kinh tế còn thấp. Tình trạng phổ biến là sản xuất còn mang tính tự phát, chưa bám sát nhu cầu thị trường, nhiều sản phẩm làm ra có chất lượng thấp, giá thành cao nên giá trị gia tăng thấp, khả năng tiêu thụ sản phẩm khó khăn, thậm chí nhiều sản phẩm cung vượt quá cầu, hàng tồn kho lớn. Năng lực cạnh tranh hàng hoá, dịch vụ của nước ta nhìn chung còn thấp do thiết bị công nghệ của nhiều doanh nghiệp còn yếu kém về quản lý, hạn chế về môi trường đầu tư kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước chưa cao, tỷ lệ số doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ liên tục còn nhiều, thực trạng tài chính của nhiều danh nghiệp thực sự đáng lo ngại: nhìn chung thiếu vốn, nợ nần kéo dài, tổng số nợ phải thu của doanh nghiệp chiếm 24% tổng doanh thu, nợ phải trả chiếm 133% tổng số vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp không xác định tự lực phấn đấu vươn lên mà còn trông chờ vào sự hỗ trợ, bảo trợ của Nhà nước, cũng chưa tích cực chuẩn bị theo yêu cầu tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Khu vực kinh tế tư nhân nhìn chung còn nhỏ bé, phân tán, trình độ công nghệ, quản lý và tay nghề của người lao động còn nhiều hạn chế. Bên cạnh khó khăn chung của các doanh nghiệp về thị trường tiêu thụ, sức cạnh tranh, kinh tế tư nhân nói chung có nhiều khó khăn, vướng mắc hơn về vốn hoạt động, về mặt bằng sản xuất, kinh doanh, về cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại, môi trường pháp lý, môi trường tâm lý xã hội, còn khó khăn trong việc thụ hưởng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước.
Thực trạng cho thấy nền kinh tế nước ta tuy đạt được nhiều thành tựu nhưng cung còn không ít khó khăn, đó là còn tồn tại nhiều yếu kém và sức cạnh tranh kém.
2.3. Những thành tựu về kinh tế và hạn chế:
2.3.1. Thành tựu về kinh tế:
Qua 10 năm đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã nhận định thành tựu có ý nghĩa to lớn là “ Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội nhưng một số mặt còn chưa được củng cố vững chắc “. Ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, một nhận định, thành tựu có ý nghĩa rất quan trọng làm nức lòng người. Nó mở ra một thời kì mới – thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, một thời kì mà sự xác định con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày một rõ hơn, lòng tin càng ngày càng được nâng cao. Dưới đây là những thành tựu về kinh tế – xã hội.
Về kinh tế: từ một nền kinh tế tăng trưởng thấp trước năm 1986, nền kinh tế nước ta đã từng bước khôi phục và phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng cao. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 1986 - 1990 là 3.9% thời; năm 1996: 9.34%, 1997:8.8%, 1998:5.8%. Như vậy bước vào thập kỷ 90 tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta vào loại cao nhất trong khu vực.
Về cơ cấu kinh tế bước chuyển đổi theo hướng tiến bộ. Tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22.7% năm 1990 đã tăng lên 30.3% năm 1995; tỷ trọng ngành du lịch, dịch vụ từ 38.6% năm 1990 tăng lên 42.5% năm 1995; ngành nông nghiệp từ 38.7% năm 1990 đã giảm xuống còn 27.2% năm 1995.
Sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tính đến cuối năm 1994 cơ cấu giá trị tổng sản lượng nông nghiệp là: lương thực chiếm tỷ trọng 49.4%; trồng trọt là 24.8% và chăn nuôi là 25.8%. Vấn đề lương thực về cơ bản được giải quyết tốt. Sản lượng lương thực qua các năm đều tăng: năm 1990 là 21488 ngàn tấn, năm 1991 là 21898 ngàn tấn, năm 1994 là 26200 ngàn tấn, và năm 1995 là 27500 ngàn tấn. Thắng lợi trên mặt trận nông nghiệp, nhất là lương thực có ý nghĩa rất quan trọng. Sau nhiều năm nước ta thiếu và đói đến nay đã giải quyết một cách cơ bản về lương thực, một cửa ải mà thời kỳ bao cấp không thể vượt qua được( kể cả không ít nước trên thế giới). Nước ta đến nay lương thực không những đủ ăn, dự trữ mà còn xuất khẩu sang nhiều nước khác trên thế giới và trở thành một trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới.
Trong sản xuất công nghiệp nhịp độ tăng trưởng bình quân trong 5 năm( 1991 – 1995) là 13.3%, cao hơn chỉ tiêu kế hoạch đề ra( 8 - 10%). Trong đó năm 1991 là 10.4%, năm 1992 là 15.1%, năm 1993 là 12.7%, năm 1994 là 13.5% và năm 1995 là 14.0%. Năng lực sản xuất trong một số ngành và một số sản phẩm quan trọng, mà sau thời kỳ đình đốn và suy thoái đã được phục hồi và gia tăng qua các năm nhờ đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật về chiều rộng và chiều sâu.
Các ngành xây dựng, vận tải, thương nghiệp, du lịch và các dịch vụ khác, đều có bước phát triển khá. Mức bán lẻ hàng hoá xã hội qua các năm đều tăng: năm 1990 là 19031.2 tỷ đồng; năm 1994 là 67273.3 tỷ đồng và năm 1995 là 85245.0 tỷ đồng.
Khác với các thời kỳ trước, hoạt động khoa học – công nghệ trong những năm gần đây ngày càng gắn bó với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và thích nghi dần với nền kinh tế thị trường. Chính sự thay đổi phương thức hoạt động này của khoa học – công nghệ đã tạo ra cách làm mới có lợi cho sự hình thành và phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ mới ở nước ta.
Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá. Đã khắc phục sự hẫng hụt do thị trường truyền thống giảm sút đột ngột, mở rộng giao lưu với nhiều đối tác và bạn hàng mới. Tính đến cuối năm 1995, tổng số vốn của các dự án nước ngoài khoảng 18 tỷ USD. Trong đó đến nay 1/3 số đó đã được thực hiện. Động thái phát triển nhanh và qui mô thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chủ yếu từ năm 1992 và thường tập trung nhiều ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng… Các số liệu trên cho thấy lĩnh vực kinh tế và đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần gìn giữ hoà bình, phá bỏ thế bị cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế cua nước ta trên trường quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Về tài chính và tiền tệ. Nước ta sau nhiều năm làm không đủ ăn, mấy năm gần đây đã bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Vốn đầu tư cơ bản cho toàn xã hội cho năm 1990 chiếm 15.8% trong GDP, năm 1995 đã lên tới 27.4%. Trong đó, nguồn đầu tư trong nước chiếm khoảng 16.7% trong GDP.Tình hình lạm phát ttrong những năm gần đây diễn ra theo hướng được kiềm chế. Từ nền kinh tế siêu lạm phát ở mức ba con số năm 1988, đến năm 1989 lạm phát đã được kiềm chế, đồng tiền Việt Nam từng bước được ổn định tạo điều kiện quan trọng để ổn định kinh tế vĩ mô. Chỉ số lạm phát năm 1986 là 774.7%; 1987: 373%; 1988: 223.1%;…; 1995: 12.7%; 1996: 4.5% và 1997: 3.6%.
Về cơ cấu thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hoá: qua 10 năm đổi mới quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất và nền kinh tế hàng hoá. Khu vực kinh tế nhà nước( hiểu theo nghĩa rộng). Từng bước đang được củng cố và phát huy vai trò chủ đạo đối với các thành phần kinh tế khác. Các hình thức hợp tác, liên doanh với nước ngoài hình thành trong tính đa dạng của chính sách nền kinh tế nhiều thành phần.
Về mặt xã hội: qua 10 năm đổi mới, lần đầu tiên nước ta hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu kinh tế chủ yếu của kế hoạch 5 năm( 1991 – 1995). Từ những thành tựu kinh tế đã tạo ra một số chuyển biến tốt về xã hội, tạo nên sự gắn bó giữa mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội. Chính nó đã góp phần đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng. Dưới đây là những thành tựu về mặt xã hội:
Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân đã được cải thiện, cụ thể là:
Số hộ giàu và trung bình tăng, tỷ lệ hộ nghèo giảm. Mức sống của đa số nhân dân được nâng lên một bước, thu nhập bình quân đầu người tăng.
Sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tạo thêm nhiều việc làm mới giảm tỷ lệ thất nghiệp, mỗi năm nước ta có thêm hơn 1 triệu lao động có việc làm.
Khối lượng hàng hoá bán lẻ trên thị trường tăng gấp đôi so với trước.
Công tác phòng bệnh, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, ngăn chặn bệnh dịch có tiến bộ.
Thêm nhiều nhà ở và đường giao thông được nâng cấp ở cả thành thị và nông thôn.
Thể dục thể thao có bước phát triển hơn so với trước.
Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân được nâng lên.nghiệp giáo dục, đào tạo, các hoạt động văn hoá nghệ thuật, thông tin đại chúng và theo đó mạng lưới điện về tới phần lớn nông thôn. Công tác kế hoạch hoá gia đình đạt nhiều tiến bộ, đã có những cố gắng bước đầu trong việc thực hiện phòng chống tệ nạn xã hội theo nghị định 87/CP của Chính phủ.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nảy sinh những khái niệm mới về việc làm và tự tìm kiếm việc làm, nhờ đó tính sáng tạo trong nhân dân được khơi dậy và phát huy. Tính ỷ lại trông chờ vào nhà nước, dựa dẫm tập thể đã được khắc phục đáng kể. Thắng lợi này có ý nghĩa rất quan trọng, đánh dấu sự đoạn tuyệt cơ chế bao cấp từng bước thích nghi với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Phong trào đền ơn đáp nghĩa đối với người có công với nước theo tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, được hưởng ứng sâu rộng và mang tính toàn dân. Phong trào xoá đói giảm nghèo diễn ra khá sôi nổi với nhiều hình thức phong phú. Chính phong trào này làm cho mọi gay cấn do sự phân hoá giàu nghèo có điều kiện giải quyết có hiêụ quả hơn và làm cho tình hình xã hội trở nên lành mạnh hơn.
2.3.2. Hạn chế:
Quá trình đổi mới ở nước ta hơn 10 năm qua đã đạt được kết quả rất to lớn, tuy nhiên cho đến nay tình hình kinh tế – xã hội nước ta đã bộc lộ nhiều tồn tại yếu kém và khó khăn trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Sự tăng trưởng kinh tế đang bắt đầu có xu hướng chậm lại. Một số chính sách kinh tế vĩ mô không còn phát huy hiệu quả như thời kỳ đầu, đòi hỏi cần có sự điều chỉnh thích ứng và đồng bộ hơn. Nhịp độ tăng trưởng GDP năm 1998 đã chững lại so với các năm trước( 5.8%). Chỉ số lạm phát có xu hướng tăng. Một bộ phận lớn các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhà nước tỏ ta làm ăn không có hiệu quả, khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế còn rất thấp. Nhiều ngành sản xuất bắt đầu xuất hiện tình trạng tồn kho lớn( như xi măng, sắt thép, cơ khí, điện tử…). Trong khu vực nông nghiệp và nông thôn cũng đang xuất hiện nhiều vấn đề bức xúc như tình trạng manh mún trong sử dụng ruộng đất, chính sách đất đai cũng bộc lộ nhiều điểm bất hợp lý, hệ thống tài chính – tiền tệ bộc lộ những yếu tố không lành mạnh, chậm đổi mới so với thực tiễn. Cơ cấu kinh tế, nhất là cơ cấu vùng và cơ cấu ngành cũng thể hiện sự mất cân đối lớn, cần phải tiếp tục được điều chỉnh. Những khó khăn trên là do sự yếu kém của chính bản thân nền kinh tế, sự thiếu đồng bộ trong hệ thống chính sách kinh tế cũng như khả năng của đội ngũ cán bộ cả ở tầm vĩ mô và vi mô, v.v… Mặt khác, cuộc khủng hoảng tài chính và khu vực cũng đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta. Đầu tư nước ngoài giảm sút, xuất khẩu có xu hướng giảm, áp lực về sự thay đổi tỷ giá ngày càng tăng.
Cơ sở hạ tầng yếu kém, không đồng bộ. Hệ thống đường giao thông, thông tin liên lạc còn rất lạc hậu không theo kịp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Hệ thống bưu điện, viễn thông tuy có tăng nhanh trong những năm gần đây, nhưng vẫn còn kém so với trình độ các nước trong khu vực và thế giới. Công nghệ lạc hậu, thiếu vốn và sử dụng vốn kém hiệu quả. Tình trạng này xảy ra khá phổ biến trong các doanh nghiệp Nhà nước. Hầu hết các doanh nghiệp ở nước ta thuộc loại vừa và nhỏ,thiếu vốn nghiêm trọng. Đầu tư nước ngoài bắt đầu có xu hướng chậm lại do tác động của khủng hoảng tài chính khu vực.
Vấn đề thừa lao động, thiếu việc làm đang diễn ra khá phổ biến. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê cả nước hiện có khoảng 6 - 7 triệu lao động dư thừa, không có khả năng tìm được việc làm. Tình trạng không đủ việc làm là phổ biến ở nhiều vùng nông thôn. Mặt khác, nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng thiếu nghiêm trọng đội ngũ lao động lành nghề. Khoảng 805 lao động ở nước ta chưa qua đào tạo nghề, cả nước chỉ có khoảng 4.000 công nhân có tay nghề cao. Đội ngũ cán bộ quản lý cả ở tầm vĩ mô và vi mô trong tình trạng vừa thừa và vừa thiếu. Một bộ phận khá lớn cán bộ quản lý kinh tế chưa qua đào tạo một cách có hệ thống về kinh tế thị trường, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá.
Cơ chế thị trường tuy đã hình thành nhưng đang ở giai đoạn sơ khai, mang nhiều yếu tố tự phát. Hiệu lực quản lý Nhà nước còn thấp, vừa chưa đủ sức phát huy sức mạnh của cơ chế thị trường, vừa chưa hạn chế được các mặt tiêu cực của nó. Trong đó đáng lo ngại là nhiều cán bộ đảng viên đang giảm sút lý tưởng cách mạng, tha hoá về phẩm chất, đạo đức… Hệ thống pháp luật mặc dù có tiến bộ song chưa đồng bộ, chưa hoàn chỉnh và chưa thật sự nghiêm minh. Công tác kế hoạch hoá, hoạt động tài chính, ngân hàng đổi mới còn chậm. Quản lý xuất nhập khẩu, nhận chuyển giao công nghệ còn nhiều thiếu sót, tiêu cực.Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một số “ trận địa ” quan trọng.
Sự phát triển không đều về kinh tế – xã hội ngày càng bộc lộ rõ nét. Sự chênh lệch về điều kiện sống và mức sống giữa các vùng nông thôn và thành thị ngày càng xa. Sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị với nông thôn và giữa các tầng lớp dân cư diễn ra không bình thường và có chiều hướng tăng lên. Đời sống một bộ phận nhân dân, nhất là ở một số vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc còn quá khó khăn. Đặc biệt ở nhiều vùng nông thôn đặc biệt là vùng sâu, vùng xa hầu như bị tách biệt với tiến trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Các vấn đề xã hội đang trở nên bức xúc, hệ thống y tế, giáo dục ở nhiều nơi đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Người nghèo không đủ tiền chữa bệnh và cho con em đi học. Các nguồn tài nguyên đất nước, rừng, biển và khoáng sản chưa được quản lý và khai thác tốt. Tình trạng ô nhiễm môi trường có xu hướng gia tăng, đe doạ sự phát triển bền vững.
Khoảng cách giàu – nghèo giữa nông thôn và thành thị có xu hướng tăng cách xa hơn.ở vùng đô thị, nơi có 20% dân số sinh sống chiếm khoảng 60% GDP, được phát triển với nhịp độ nhanh( 10 – 12%) thì các vùng nông thôn, nơi có 80% dân cư sinh sống, chỉ chiếm khoảng 40% GDP lại đang phát triển chậm hơn( dưới 10% năm).
Tình trạng không còn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và việc xã hội hoá những tư liệu sản xuất đó ở thành thị và nông thôn khiến cho phạm vi tác động của quy luật giá trị và trình độ phản ánh của nó đến sản xuất bị hạn chế.
Chương 3
Những giải pháp nhằm vận dụng tốt quy luật giá trị ở nước ta trong thời gian tới.
3.1. Giải quyết mâu thuẩn giữa quy luật giá trị và quy luật phát triển:
Hiện nay việc kế hoạch hoá bao gồm ngày càng nhiều không chỉ nhiệm vụ sản xuất trực tiếp được giao cho xí nghiệp( sự cần thiết của nó vẫn chưa mất đi) mà cả những nhiệm vụ định mức của xí nghiệp đối với xã hội do trung ương quy định, căn cứ vào mức đọ hiệu quả của việc sử dụng các nguồn, nhằm bảo đảm công tác của xí nghiệp đáp ứng lợi ích xã hội. Theo ý nghĩa đó thì không còn ai đối lập giữa việc kế hoạch hoá sử dụng các phạm trù giá trị với việc sử dụng các đòn bẩy. Việc sử dụng đó trở thành một yếu tố cần thiết để quản lý tập trung nền kinh tế, đồng thời bảo đảm một cách linh hoạt việc kích thích vật chất đối với xí nghiệp và từng người lao động. Đồng thời, còn phải giải quyết hàng loạt vấn đề gay gắt, trong đó vấn đề quan trọng là xây dựng một cơ chế thích hợp với chủ nghĩa xã hội, nhằm vạch rõ những chi phí sản xuất xã hội cần thiết và buộc người sản xuất phải hướng vào các chi phí đó. Việc thừa nhận sự cần thiết phải tính toán trong kế hoạch các nhu cầu việc phát triển tất cả các ngành cần thiết cho xã hội( và tạo ra các điều kiện kinh tế tương ứng), và việc thừa nhận tầm quan trọng của việc kích thích sự phát triển hiệu quả của nền kinh tế ( hướng vào các hao phí lao động xã hội cần thiết) hiện nay có ý nghĩa là phải nhận thức rõ ràng hơn vai trò to lớn của các yếu tố và tiêu chuẩn giá trị trong quá trình kế hoạch hoá và quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa; mặt khác không nên quên rằng khác với con đường hình thành một cách tự phát các tỷ lệ, phương pháp kế hoạch có khả năng bảo đảm tính chất ổn định của các tỷ lệ đó, đồng thời đòi hỏi chi phí ít hơn, cho phép kết hợp tiêu chuẩn cân đối kinh tế với tiêu chuẩn cân đối xã hội, kết hợp các nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
3.2. Xây dựng cơ chế giá:
Những nguyên tắc cơ bản của việc hình thành giá cả có thể là những luận điểm chung và xuất phát của lý luận hình thành giá cả trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, trực tiếp rút ra từ những tính quy luật khách quan của việc hình thành hao phí lao động xã hội cần thiết và giá trị. Đặc trưng của quá trình hình thành các hao phí và giá trị ấy được xác định trước bởi sự tác động tổng thể của các quy luật kinh tế, mà trước hết là quy luật kinh tế cơ bản, quy luật phát triển có kế hoạch, cân đối và quy luật giá trị. Do đó, bản thân các nguyên tắc cơ bản của chế độ hình thành giá cả phải có tính chất khách quan như những quy luật xác định chúng. Vì vậy, trong những nguyên tắc ấy không thể bao gồm những yêu cầu đối với việc hình thành giá xuất phát từ những nguyên tắc đã được quy định trong việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội. Việc phân phối tốt nhất nguồn lao động xã hội phải được thực hiện bằng hoạt động có kế hoạch trên quy mô toàn xã hội. Hao phí lao động xã hội cần thiết phải là tiêu chuẩn để phân phối các nguồn và tiêu chuẩn hiệu quả hao phí. Trên mức đọ cụ thể,giá cả đã thực hiện vai trò ấy, điều đó cho phép sử dụng giá cả làm công cụ kinh tế để quản lý có kế hoạch. Về khách quan việc hình thành giá cả phải được thực hiện dưới hình thức hình thành giá có kế hoạch, tập trung và có tính chất nhà nước. Cơ sở để hình thành hao phí lao động xã hội cần thiết chính là sự phân phối lao động chung theo các bộ phận và các khu vực của nền sản xuất xã hội, xuất phát từ các nhu cầu của xã hội hiện tại và lâu dài. Do dó, những hao phí của một loại sản phẩm nào đó là một đại lượng phát sinh từ những hao phí về tất cả các sản phẩm của nền sản xuất. Quy luật kinh tế cơ bản đòi hỏi phải phân phối lao động một cách tốt nhất các nguồn lao động sống và vật hoá theo các bộ phận và các khu vực của nền sản xuất xét theo quan điểm mục tiêu chiến lược phát triển xã hội. Vì thế muốn cho quá trình hình thành giá cả phù hợp với quá trình hình thành hao phí lao động cần thiết thì nguyên tắc cơ bản của việc hình thành giá là nó phải có một phương hướng có mục đích rõ ràng và triệt để nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách. Vì vậy, cần phải xây dựng một cơ chế giá cả có khả năng kích thích nhiều hơn so với tiến bộ khoa học - kỹ thuật.
Muốn cho việc hình thành giá phản ánh chính xác nhất quá trình hình thành hao phí lao động xã hội thì cần phải hạch toán giá trong điều kiện chuyên môn hoá và hiệp tác hoá sản xuất tối ưu, phân bố sản xuất tốt nhất, với trình độ tổ chức cao quá trình sản xuất và sử dụng kỹ thuật - công nghệ tiên tiến. Việc quy định giá phù hợp với chi phí bình quân hoặc cả với chi phí khép kín che giấu những hiện tượng tiêu cực trong sản xuất( làm cho xí nghiệp thành vạn năng, không có sự chuyên môn hoá hợp lý, trình độ tổ chức sản xuất thấp kém, v.v...). Hơn nữa, với việc hình thành giá như vậy, các xí nghiệp tiên tiến cũng không có sự ưu tiên nào cả so với các xí nghiệp trung bình.
3.3. Tăng cường khả năng hội nhập kinh tế:
Kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, Việt Nam đã tiến những bước dà trên con đường mở cửa và hội nhập quốc tế. Dù hội nhập quốc tế ở cấp đọ nào cũng mang lại lợi ích cho Việt Nam và lợi ích đó ngày càng lớn khi mức độ hội nhập càng cao. Vấn đề là nước ta phải chủ động và tích cực chuẩn bị các điều kiện hội nhập, đồng thời lựa chọn đúng giải pháp và bước đi trong quá trình này. Vấn đề hội nhập vào khu vực AFTA có tác dụng nhỏ bé đối với nước ta kể cả trong vấn đề giảm nghèo đói và bất bình đẳng. Vì vậy, để đẩy nhanh và bền vững tốc độ giảm nghèo, và bất bình đẳng thì nước ta phải kết hợp giữa hội nhập AFTA với hội nhập vào APEC và WTO. Hội nhập kinh tế phải gắn với nghèo đói và bất bình đẳng. Dưới tác động của cải cách và hội nhập quốc tế đã có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân hoá trong xã hội. Để đảm bảo mục tiêu giảm nghèo và công bằng xã hội, Nhà nước phải có chính sách khuyến khích, ưu tiên một số ngành dịch vụ, ngành phi nông nghiệp..., đồng thời nâng cao trình độ chuyên môn để họ có thể làm việc ở các khu vực này. Mặt khác, phải đầu tư kỹ thuật, các dịch vụ nông nghiệp, chuyên môn... cho khu vực nông nghiệp, nông thôn để nâng cao năng suất lao động của khu vực có người nghèo đông đúc này. Nhà nước phải có hình thức bảo trợ xã hội, điều chỉnh phù hợp với thị trường lao động trong điều kiện nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế sẽ tạo ra kẻ thắng, người thua và người nghèo sẽ chịu nhiều thua thiệt nhất. Để giúp đỡ người bị rủi ro khi mới tham gia hội nhập, đồng thời xây dựng một nền tảng vững chắc cho các hộ gia đình - đặc biệt là người nghèo, cảm thấy thoải mái chấp nhận các rủi ro trước mắt có thể xảy ra do hội nhập. Nhà nước phải thực hiện tốt việc phân phối lại,thông qua chính sách thuế, trợ cấp... làm giảm sự bất bình đẳng trong xã hội.
3.4. Xây dựng nền kinh tế tri thức:
Nền kinh tế tri thức là mô hình kinh tế mà sự vận hành của nó sẽ được quyết định chủ yếu bởi nguồn năng lượng đặc biệt, đó là tri thức, trước hết là tri thức khoa học, công nghệ và quản lý. Điều đó có nghĩa là trong sản phẩm - hàng hoá, hàm lượng tri thức chiếm tỷ trọng lớn và ngày càng áp đảo. Giá trị của sản phẩm phụ thuộc vào giá trị công nghệ và trí tuệ nhiều hơn là phụ thuộc vào các yếu tố truyền thống như vốn, tài nguyên thiên nhiên,nguyên - nhiên liệu. Hai trụ cột chính của nền tri thức sẽ là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học. Do đó sự hình thành nền kinh tế trở thành xu thế khách quan trong thời đại cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và toàn cầu hoá. Cơ sở để tiến đến nền kinh tế tri thức là cần chú trọng phát triển một cách toàn diện nhân tố con người, khuyến khích và bồi dưỡng nhân tài. Nói cách khác, lĩnh vực đầu tư quan trọng nhất để thúc đẩy nền kinh tế tri thức phát triển chính là đầu tư vào vốn con người. Do đó, cần tập trung vào 4 lĩnh vực cơ bản sau:
Thứ nhất, tăng cường đầu tư thoả đáng cho giáo dục và đào tạo; xúc tiến cải cách, hiện đại hoá giáo dục - đào tạo nhằm cung cấp cho xã hội và nền kinh tế một lực lượng lao động có trình độ tri thức cao, có kỹ năng, tay nghề giỏi.
Thứ hai, gắn kết một cách chặt chẽ, hiệu quả các cơ sở nghiên cứu khoa học, các trường đại học, cao đẳng với các doanh nghiệp nhằm triển khai và ứng dụng nhanh chóng tiến bộ khoa học vào sản xuất.
Thứ ba, tăng đầu tư cho phát triển, hiện đại hoá kết cấu hạ tầng, trước hết là hạ tầng thông tin, In-tơ-net; tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân, mọi tổ chức xã hội, mọi doanh nghiệp được tiếp cận, khai thác cơ sở hạ tầng thông tin hiện đại.
Thứ tư, đẩy mạnh đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý nhằm tạo môi trường kinh tế - xã hội thông thoáng giúp các hiệp hội, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội tự đổi mới về cơ cấu tổ chức theo hướng gọn nhẹ, linh hoạt, hiệu quả hơn. Trên cơ sở đó tạo điều kiện để mỗi người có thể làm việc độc lập hơn nhưng lại có sức sáng tạo cao và đầy trách nhiệm.
Vấn đề quan trọng hàng đầu với Việt Nam là phải cần khai thác triệt để nguồn nhân lực dồi dào, thông minh và giàu tính sáng tạo vốn có của nước ta. Đồng thời ngay, từ bây giờ cần hoàn chỉnh, bổ sung và thực thi một số chiến lược tăng cường đầu tư thích đáng cho tri thức, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài đủ sức nắm bắt xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới.
3.5. Đào tạo nguồn nhân lực, chống tham nhũng:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng xác định " lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững " của đất nước. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn lực con người có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc phát triển đất nước. Để có nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng được các nhiệm vụ hiện nay đòi hỏi hệ thống Giáo dục - đào tạo phải thực sự phát huy vai trò tích cực trong việc nâng cao chất lượng nguồn lực con người, cho sự nghiệp xây dựng đất nước. Muốn đạt được điều đó, Giáo dục - đào tạo phải tác động đến nguồn lực con người trên cả ba phương diện: Thứ nhất, nâng cao dân trí, bảo đảm một trình độ học vấn, mặt bằng dân trí không ngững tăng lên. Thứ hai, đào tạo nguồn nhân lực, tạo điều kiện để tăng năng suất lao động.Thứ ba, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Để phát triển Giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ, ngoài việc sử dụng nguồn lực trong nước cần phải khai thác các nguồn lực bên ngoài thông qua con đường liên kết, hợp tác quốc tế. Đảng ta chủ trương tăng cường, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước về Giáo dục - đào tạo, kết hợp nguồn lực trong nước với quốc tế để phát triển Giáo dục - đào tạo.
Bên cạnh việc đào tạo nguồn cán bộ có trình độ chuyên môn cao, thì việc ngăn chặn những cán bộ, Đảng viên đang có những hành vi tha hoá,kém phẩm chất chính trị cũng là một công việc cấp bách trong thời đại hiện nay. Bởi vì, sau một vài năm đổi mới đã bắt đầu xuất hiện vấn nạn tham nhũng và có chiều hướng gia tăng. Điển hình là trong thời gian vừa qua, cả nước đang theo dõi vụ án Trương Văn Cam có liên quan đến một số cán bộ trung, cao cấp thuộc Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Hội nhà báo. Vấn đề này đang là một nhức nhối của xã hội, gây nên tâm lý bất bình trong dư luận. Để đất nước thật sự phát triển vững mạnh, dân giàu nước mạnh thì vấn đề tham nhũng cần phải giải quyết triệt để. Dưới đây là một số giảp pháp cụ thể:
Thứ nhất, thực hiện tốt Quy chế dân chủ tại tất cả các cơ quan, tổ chức theo phương châm " dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra ", sẽ là phương thuốc công hiệu để triệt tiêu vấn nạn tham nhũng, vì tai mắt của dân, tiếng nói của dân bao giờ cũng thẳng thắn, trung thực, khách quan. Sự kiểm tra, giám sát thường xuyên của nhân dân trong các tổ chức có hiệu quả hơn bất kỳ một văn bản pháp lý nào, hơn nữa còn bảo vệ được cán bộ. Bởi vì, suy cho cùng sự nghiệp cách mạng bao giờ cũng là sự nghiệp của toàn dân.
Thứ hai, cải cách đổi mới bộ máy hành chính để tăng cường kỷ cương phép nước. Thiết tưởng đề cao vai trò quyền hạn, trách nhiệm của từng cá nhân công chức, viên chức trong các bộ máy hành chính và cơ quan công chức từ bất cứ cấp nào, từ vị trí cao nhất đến vị trí thấp nhất. Với cách làm như vậy, phẩm chất, tài năng và cả những yếu kém của từng cá nhân mới bộc lộ trong công việc, đó cũng chính là cơ sở để phát hiện và bồi dưỡng những người tài năng, đồng thời đưa ra khỏi bộ máy những cá nhân yếu kém về năng lực, điều đó gây áp lực và tạo động lực cho mỗi cán bộ công chức, viên chức không ngừng hoàn thiện mình hơn nữa trước những đòi hỏi hết sức gắt gao về phẩm chất và tài năng của công chức trong xã hội hiện đại.
Thứ ba, về lâu dài để đẩy lùi vấn nạn tham nhũng cần xây dựng các chuẩn mực mới trong điều kiện kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường phát triển bao hàm chứa trong nó cả ưu điểm lẫn khuyết điểm. Ưu điểm của kinh tế thị trường là giúp con người thành đạt tiến nhanh về đời sống vật chất, mặt trái, của kinh tế thị trường tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần, khuyến khích thúc đẩy mọi người chạy đua lợi nhuận bằng bất kỳ thủ đoạn nào, nó dẫn đến làm méo mó các giá trị chuẩn mực đạo đức. Con người phải được phát triển toàn diện, nâng cao đời sống đồng thời nâng cao các giá trị tinh thần. Với tinh thần đó, việc tiếp thu có chọn lọc các giá trị truyền thống là điều quan trọng nhất, đặc biệt là tìm ra những giá trị, các chuẩn mực đạo đức trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới.
Phần III: Kết luận
Từ những phân tích ở các phần trên và thấy được vai trò tất yếu của quy luật giá trị. Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì chừng đó còn quy luật giá trị. Quy luật giá trị là quy luật của nền sản xuất hàng hoá, biểu hiện nhu cầu khách quan của việc định hướng nền sản xuất và trao đổi theo các quan hệ tỷ lệ phản ánh hao phí lao động xã hội cần thiết. Từ khi chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, được bạn bè trên thế giới đánh giá rất cao. Để đạt được kết quả như vậy là cả một quá trình nhận thức đúng đắn và vận hành tốt quy luật giá trị, nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay.
Thành tựu đạt được trong suốt 16 năm đổi mới( 1986 - 2001) đã nói lên tất cả. Bên cạnh những mặt đạt được, chúng ta vẫn còn hạn chế trong việc vận dụng quy luật giá trị, nhất là từ thực trạng đất nước hiện nay, đang hoà nhập với kinh tế thế giới. Từ đó đặt ra nhiệm vụ khó khăn cho đội ngũ cán bộ quản lý, đòi hỏi cán bộ quản lý phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, sáng tạo, hiểu và vận dụng tốt các quy luật kinh tế cơ bản, đặc biệt là quy luật giá trị.
Tất cả các quy luật kinh tế cơ bản ra đời và sẽ tồn tại mãi mãi, nên bên cạnh mặt tích cực của nó sẽ không tránh khỏi mặt tiêu cực. Do đó, đòi hỏi trong bối cảnh hiện nay là làm sao chúng ta hiểu và vận dụng tốt các quy luật, hạn chế mức tối đa mặt tiêu cực, chúng ta phải là người chủ động trong việc vận dụng các quy luật chứ không để nó chi phối. Nắm bắt được điều đó sẽ là cơ sở tạo đà, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước, nhằm tiến đến phát triển bền vững, ổn định lâu dài.
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Thành Bang - Xu thế phát triển khoa học - công nghệ trong thế kỉ XXI - thách thức và thời cơ đối với Việt Nam - Tạp chí Cộng sản số 7/4 - 2002.
PGS.TS Trần Văn Chữ - Xuất khẩu lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam - Tạp chí kinh tế và phát triển.
PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc - Tổng quan kinh tế Việt Nam 2001 và triển vọng 2002 - Tạp chí kinh tế và phát triển.
Nguyễn Quốc Dũng - Nhận diện các công cụ cạnh tranh và thủ đoạn cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường - Tạp chí Cộng sản số 7/4 - 2000.
Đặng Hữu - Khoa học và công nghệ phục vụ Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp & phát triển nông thôn - Tạp chí Cộng sản số 17/9 - 2000.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Nhà xuất bản Giáo Dục, 1998.
Đinh Xuân Lý - Một vài khía cạnh về đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá - Tạp chí cộng sản số 3/2 - 2000.
Mác - Ăng - ghen, Sta-lin - Bàn về sản xuất hàng hoá và quy luật giá trị - Nhà xuất bản sự thật, 1964.
GS Nguyễn Đình Nam - Nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu nông sản ở nước ta - Tạp chí kinh tế và phát triển.
Phan Thanh Phố - Những vấn đề cơ bản về kinh tế và đổi mới kinh tế ở Việt Nam; Nhà xuất bản sự thật, 1996.
R.Bêlôuxôp, V.Cnlicốp, A.Malaphêép - Quan hệ hàng hoá tiền tệ và quy luật giá trị dưới Chủ nghĩa xã hội - Nhà xuất bản sự thật, 1988.
Tư bản Quyển 1, Tập 1 - Nhà xuất bản sự thật.
Nguyễn Hoàng Xanh - Làm thế nào để chống tham nhũng có hiệu quả - Thời báo Tài chính Việt Nam số 898 + 899.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35455.doc