Theo nhiều dự đoán, kinh tế thế giới trong những năm tới tăng trưởng sẽ không cao như những năm trước đây do nền kinh tế đã bưóc vào giai đoạn chín muồi và đang phải thực hiện cải cách chuyển đổi sang phát triển lĩnh vực mới. Trong giai đoạn quá độ này, khó có thể tạo ra những bước nhảy vọt về tốc độ, thậm chí việc ổn định tốc độ phát triển cũng trở thành một nhiệm vụ khó khăn.
Theo con số tính toán của WB, năm 2000 khối lượng buôn bán thế giới tăng 12,5% so với năm 1999. Bên cạnh đó, nền kinh tế thế giới cũng đạt mức tăng trưởng mạnh so với một vài năm trước đó. Năm 2000, mức tăng trưởng nền kinh tế thế giới đạt 4,1% so với 2,8% năm 1999. Sang năm 2001, tốc độ này có thể giảm xuống còn 3,4% và 3,2% vào năm 2002.
Theo dự báo của ngân hàng thế giới, sản xuất của nền kinh tế thế giới trong giai đoạn 1998-2007 sẽ tăng bình quân 2,9% so với 5,1% trong giai đoạn 1966-1973 và 2,8% trong giai đoạn 1974-1990 và 2,3% giai đoạn 1991-1997. Nếu chỉ tính riêng từ năm 2001-2007 thì mức tăng trung bình có thể đạt 3,2%. Với mức tăng trưởng này tuy không cao nhưng nếu đạt được như vậy nó cũng cho thấy nền kinh tế thế giới vượt qua thời kì giảm sút tốc độ tăng trưởng. Trên thực tế, dự báo trên là có cơ sở, vì
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp phát triển quan hệ kinh tế - Thương mại Việt Nam - Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là một trong những nước cung cấp ODA lớn nhất và đầu tư lớn nhất cho Việt Nam.
Hơn nữa trong thời gian tới, cơ cấu xuất nhập khẩu cũng như đầu tư của Nhật Bản và Việt Nam vẫn mang tính bổ sung cho nhau nên khá thuận lợi cho việc thúc đẩy quan hệ buôn bán, đầu tư trực tiếp giữa hai nước. Trước hết, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản như: nông sản ( chè, cà phê, rau quả tươi...), hải sản nhất là hải sản cao cấp ( tôm hùm, cá thu, cá ngừ, vây cá...), một số loại khoáng sản ( than, dầu mỏ, đá xẻ...), một số sản phẩm công nghiệp nhẹ ( đồ gia dụng, hàng dệt may, thực phẩm chế biến...) là những mặt hàng Việt Nam có triển vọng trong khi thị trường Nhật Bản lại có nhu cầu rất lớn. Nhật Bản là nước có nền công nghiệp phát triển, năng suất lao động và ngày công lao động cao hơn rất nhiều so với Việt Nam. Do vậy, đối với những mặt hàng như sản phẩm may mặc, Nhật Bản vẫn nhập khẩu từ Việt Nam vì chi phí thấp hơn so với sản xuất ở Nhật Bản. Bên cạnh đó, Nhật Bản có xu hướng chuyển các xí nghiệp ra các nước, tiến hành sản xuất sau đó tái nhập khẩu trở lại Nhật Bản khiến cho hàng hoá lắp ráp hay sản xuất ở nước ngoài có giá thành rẻ hơn so với sản xuất, lắp ráp ở Nhật Bản. Điều này làm cho các sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam tăng thêm sức cạnh tranh khi xuất khẩu trở lại Nhật Bản và các thị trường khác.
Trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ, Nhật Bản và Việt Nam có nhiều điều kiện để phát triển hơn nữa quan hệ này trong tương lai. Hàng năm, lượng khách du lịch là người Nhật Bản đến Việt Nam ngày càng tăng. Các hoạt động dịch vụ khác như dịch vụ hàng không, vận tải biển, dịch vụ tài chính có môi trường để phát triển hơn nữa tại Việt Nam trong những năm tới. Việt Nam trong những năm qua luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao cộng với sự hỗ trợ của khoa học công nghệ nên trong tương lai, lượng sản phẩm sản xuất ra ngày một tăng, thu nhập của người dân được nâng cao dẫn đến nhu cầu của họ về các sản phẩm dịch vụ, du lịch, giải trí ... ngày càng mở rộng. Đây chính là cơ hội cho các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này.
Về mặt thương mại, sắp tới Việt Nam sẽ tham gia WTO, AFTA...điều này đồng nghĩa với việc hàng rào thuế quan hoặc và phi thuế quan sẽ được dỡ bỏ hoặc giảm bớt. Từ đó tạo điều kiện cho các công ty Nhật Bản đẩy mạnh xuất khẩu sang nước ta.
Như vậy, trong thời gian tới, quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam-Nhật Bản có những thuận lợi cả khách quan lẫn chủ quan để phát triển mà tiền đề của nó xuất phát từ chính sách và nhu cầu trong nước của mỗi quốc gia. Đây chính là cơ sở dể tiến tới sự hợp tác sâu rộng hơn, toàn diện hơn giữa hai quốc gia.
2.Những tồn tại nổi bật trong quan hệ kinh tế- thương mại Việt Nam-Nhật Bản
Trong suốt quãng thời gian 28 năm kể từ khi Việt Nam và Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao đến nay, mối quan hệ kinh-thương mại Việt Nam-Nhật Bản đã phát triên không ngừng và đạt được nhiêù thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực. Nhật Bản hiện đang là một trong những bạn hàng lớn nhất của Việt Nam về mặt thương mại, viện trợ và về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, ngoài những kết quả tốt đẹp đã đạt được thì trong quan hệ giữa hai nước còn nhiều vấn đề tồn tại cần được nhận thức rõ ràng và khắc phục để mối quan hệ này ngày càng phát triển và mang lại nhiều lợi ích hơn nữa cho cả hai bên.
2.1. Tồn tại trong quan hệ kinh tế .
2.1.1. Tồn tại trong hoạt động cung cấp và tiếp nhận nguồn vốn ODA
Đánh giá chung ODA của Nhật Bản cho Việt Nam là phù hợp với hướng ưu tiên trong phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam, đã hỗ trợ cho Việt Nam cải thiện và phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực, góp phần chuyển giao công nghệ và phát triển nguồn nhân lực. Song ODA của Nhật cho Việt Nam hiện nay cũng đang đặt ra những vấn đề cần suy nghĩ, giải quyết cả về phía Nhật Bản cũng như phía Việt Nam trên những khía cạnh chủ yếu sau:
Về phía Nhật Bản, hình thức chủ yếu trong viện trợ của Nhật Bản cho Việt Nam là các khoản vay. Chẳng hạn, năm 1992 cho vay chiếm tới 96%, còn lại viện trợ không hoàn lại chỉ chiếm 4%. Năm 1993, trong tổng số gần 60 tỷ Yên thì cho vay chiếm khoảng 87,3%. Như vậy, tỷ lệ viện trợ không hoàn lại trong ODA của Nhật Bản cho Việt Nam còn tương đối thấp. Một thách thức lớn nữa trong các khoản tín dụng ODA từ Nhật Bản tuy có nhiều ưu đãi như cho vay trong thời hạn dài ( thường là 30 năm ), lãi suất thấp nhưng có một thực tế là lãi suất này thường thay đổi qua các năm tài chính và có chiều hướng gia tăng. Mặt khác, do những biến động của tình hình tài chính Nhật Bản làm cho lãi suất thực tế có lúc lên tới 15-20%.
Về phía Việt Nam
-Thứ nhất là tình trạng giải ngân chậm. Việc giải ngân chậm sẽ ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện các dự án. Năm 1997, chúng ta chỉ đạt chỉ tiêu giải ngân 9,2%, đây là mức thấp nhất trong số các nước tiếp nhận tín dụng của Nhật Bản. Sang 1998, tốc độ giải ngân được cải thiện phần nào và đạt 18-19%. Tuy vậy, năm 1999, tốc độ giải ngân lại giảm xuống còn 9%. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản thuộc về phía Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam cần nhanh chóng khắc phục vấn đề giải phóng mặt bằng, khai thông ách tắc cơ sở ở các địa phương tiếp nhận.
-Thứ hai là sự biến động của tỷ giá Yên-Đô la. Trong vài năm lại đây, tỷ giá này biến động thất thường, trong khi đó nguồn vốn ODA vay từ Nhật Bản tính trên cơ sở đồng Yên. Do vậy, nếu chúng ta không linh hoạt và có chính sách thúc đẩy giải ngân thì chúng ta bị thua thiệt khá lớn.
-Thứ ba, liên quan đến các điều kiện xung quanh việc vay ODA. Năm 1999, lần đầu tiên chính phủ Nhật Bản đặt điều kiện cho Việt Nam trong vay ODA. Chính phủ Nhật Bản yêu cầu phải cam kết cải cách kinh tế theo hướng đẩy mạnh kinh tế tư nhân, đòi kiểm toán 100 công ty quốc doanh Việt Nam.(1) (nghiên cứu Nhật Bản 2-2000).
Nếu những tồn tại trên không nhanh chóng khắc phục sẽ tạo ra sự yếu kém về hiệu quả trong việc thực hiện các dự án và vì vậy sẽ là một gánh nặng cho nền kinh tế trong tương lai.
2.1.2 Những mặt còn hạn chế làm ảnh hưởng đến hoạt động đầu của Nhật Bản tại Việt Nam.
Vấn đề lớn nhất còn tồn tại trong quan hệ đầu tư đó là về qui mô của đầu tư. Nhật Bản là một cường quốc kinh tế trong khu vực và trên thế giới, có tiềm lực lớn về vốn của các công ty xuyên quốc gia, Nhật Bản là một đối tác đầu tư trực tiếp lớn vào nhiều nước, nhiều khu vực. Đối vối Việt Nam,là nước có nguồn nguyên nhiên liệu phong phú, có tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm cao, có nguồn nhân lực dồi dào. Thế nhưng trên thực tế đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam còn rất khiêm tốn cả về giá trị lẫn cơ cấu đầu tư.
Về cơ cấu đầu tư, Nhật Bản chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế tạo. Đây cũng chính là ngành mà Nhật Bản có thế mạnh về kỹ thuật công nghệ cũng như trình độ quản lý. Còn các lĩnh vực khác như nông nghiệp, khai khoáng cần nhiều công nghệ tiên tiến và trình độ quản lý của Nhật Bản để nâng cao hiệu quả sản xuất thì tỷ trọng đầu tư còn rất thấp chỉ chiếm dưới 10%.
Nhìn từ phía Việt Nam, chúng ta đã nhiều lần sửa đổi luật đầu tư, banhành không ít các chính sách hỗ trợ nhưng trên thực tế, môi trường kinh doanh của chúng ta vẫn chưa đủ sức thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Hiện nay, chúng ta đang đứng thứ 7 trong xếp hạng môi trường đầu tư ở 10 quốc gia thuộc ASEAN. Cái yếu nhất trong môi trường kinh doanh của chúng ta so với các nước trong khu vực là hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính, sau nữa là hệ thống thuế. Ngoài ra, sự thay đổi bất thường của những quy định, chính sách của nhà nước cũng là một mối lo ngại lớn cho các nhà đầu tư.
Đối với hệ thống tiền tệ-ngoại hối của Việt Nam, các nhà đầu tư cũng gặp phải nhiều khó khăn. Đồng tiền Việt Nam không phải là đồng tiền tự do chuyển đổi và trên thực tế, việc chuyển lợi nhuận về nước của các nhà đầu tư cũng gặp phải sự quản lý chặt chẽ của chính phủ.
Không chỉ về mặt chính sách, các nhà đầu tư Nhật Bản còn gặp phải những khó khăn từ thực trạng nền kinh tế. Trong các khó khăn này phải kể đến đó là sự nghèo nàn của cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải. Bên cạnh đó, chi phí liên lạc viễn thông cao hơn so với các nước trong khu vực cũng là một yếu tố kém thu hút các nhà đầu tư, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay.
Như vậy có thể thấy nguyên nhân của thực trạng Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam còn kh`iêm tốn cả về giá trị lẫn quy mô xuất phát cả từ phía Việt Nam và phía Nhật Bản. Để khắc phục tình trạng này, về phía Việt Nam cần phải nhanh chóng cải thiện môi trường đầu tư để tận dụng hơn nữa lợi thế lao động rẻ, tài nguyên phong phú... mà Việt Nam đã có sẵn.
2.1.3. Những khó khăn trong quan hệ thương mại.
Tuy đã đạt được những tiến bộ đáng kể nhưng trong quan hệ thương mại giữa hai nước vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cả về khối lượng thương mại, cán cân thương mại lẫn cơ cấu thương mại.
Trước hết, về khối lượng thương mại giữa hai nước mặc dù đã tăng lên một cách ổn định và tích cực nhưng quy mô buôn bán còn nhỏ bé so với tiềm năng kinh tế của hai nước. Tỉ trọng thương mại Việt-Nhật trong tổng kinh ngạch ngoại thương của Việt Nam là không ổn định. Trong những năm trước, khi Việt Nam chưa xuất khẩu dầu lửa, Việt Nam thường xuyên bị thiếu hụt trong cán cân thương mại với Nhật Bản. Hiện nay, dầu thô vẫn là mặt hàng chủ đạo làm tăng giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản.
Về cơ cấu xuất nhập khẩu, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu những mặt hàng thô, chưa qua chế biến. Hơn nữa cơ cấu này còn tương đối đơn giản, chủng loại ít. Trong khi đó Việt Nam nhập khẩu từ Nhật Bản chủ yếu là máy móc, thiết bị kỹ thuật của ngành công nghiệp nặng và công nghiệp chế tạo trong khi đó thường xuất sang thị trường Nhật Bản những hàng hoá sử dụng nhiều lao động và tài nguyên thiên nhiên đồng thời nhập từ đó những mặt hàng sử dụng ít nguyên liệu nhưng chứa hàm lượng vốn và chất xám cao. Cơ cấu này, về ngắn hạn ( trong vòng 5- 7 năm tới) có thể coi là hiện tượng lành mạnh trong nền kinh tế Việt Nam vì nhờ khai thác những mặt lợi thế đó mà Việt Nam có được thặng dư thương mại với Nhật Bản và thu được nguồn ngoại tệ phục vụ cho việc nhập khẩu thiết bị, máy móc để phát triển các ngành công nghiệp trong nước. Nhưng về lâu dài, điều này sẽ gây bất lợi cho Việt Nam, bởi vì những lợi thế mà chúng ta đang có không phải là vô tận và bất biến. Trong các năm tới, nếu Việt Nam không có chính sách sử dụng và khai thác hợp lý lợi thế của mình cũng như không có sự chuyển đổi thích hợp cơ cấu xuất khẩu với Nhật Bản chúng ta sẽ gặp nhiều bất lợi. Vài năm trở lại đây, mặc dù tỷ trọng hàng tiêu dùng giảm mạnh, tỷ trọng máy móc thiết bị lẻ, nguyên nhiên vật liệu cơ bản tăng nhanh nhưng cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa nhập được những dây chuyền công nghệ hiện đại. Nguyên nhân là do các công ty Nhật Bản rất hạn chế việc chuyển giao công nghệ tiên tiến để tránh sự cạnh tranh trở lại của hàng hoá Việt Nam. Bên cạnh đó, phía các doanh nghiệp Việt Nam thiếu thông tin, hiểu biết về công nghệ của các công ty Nhật Bản nên không tận dụng được cơ hội này.
Về mặt cơ chế chính sách, chất lượng hàng hoá cũng như việc thực hiện hợp đồng của phía Việt Nam còn nhiều yếu kém.. Đồng thời, do các ngành sản xuất trong nước còn non trẻ nên Việt Nam vẫn duy trì hàng rào bảo hộ cao đối với nhiều loại hàng hoá nhập khẩu từ Nhật Bản. Điều này khiến cho nhập khẩu từ Nhật Bản vào Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn. Thể hiện trên các mặt sau đây:
-Chất lượng hàng hoá của Việt Nam còn thấp, chưa đáp ứng được với thị trường Nhật Bản.
-Việc tổ chức thực hiện gia công, chế biến hàng hoá cho thị trường Nhật chưa phát triển, đội ngũ công nhân có trình độ chuyên môn còn thiếu, yếu.
-Khâu tổ chức giao nhận hàng hoá chưa tốt, nhiều lô hàng còn chậm, vi phạm hợp đồng. Các nhà xuất khẩu Việt Nam trong một số trường hợp sau khi kí kết hợp đồng đòi tăng giá, đơn phương huỷ bỏ hợp đồng và bán hàng cho các nhà nhập khẩu của nước khác có lợi hơn; hoặc do không đảm bảo đúng các qui định trong hợp đồng về chất lượng, qui cách kỹ thuật nên bị mất uy tín lớn đối với các nhà nhập khẩu của Nhật Bản.
-Việc hợp tác, liên doanh, liên kết chưa chặt chẽ nên các doanh nghiệp Việt Nam thường vi phạm hợp đồng, kéo dài thời gian thực hiện, hiệu quả đạt được về phía Việt Nam thấp.
Tóm lại, quan hệ thương mại Việt- Nhật trong những năm qua đạt được những thành tựu khả quan hơn so với trước. Để mối quan hệ này ngày càng bền vững và phát triển thì cả hai bên đều phải nỗ lực hơn nữa trong việc tạo mọi điều kiện thuận lợi, hạn chế đến mức thấp nhất những cản trở vướng mắc góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội đặt ra cho cả hai bên.
Chương 3
Những giải pháp phát triển quan hệ Việt Nam - Nhật Bản trong thời gian tới
I. Dự báo quan hệ kinh tế Việt Nam -Nhật Bản
1. Dự báo tình hình phát triển kinh tế thế giới.
Theo nhiều dự đoán, kinh tế thế giới trong những năm tới tăng trưởng sẽ không cao như những năm trước đây do nền kinh tế đã bưóc vào giai đoạn chín muồi và đang phải thực hiện cải cách chuyển đổi sang phát triển lĩnh vực mới. Trong giai đoạn quá độ này, khó có thể tạo ra những bước nhảy vọt về tốc độ, thậm chí việc ổn định tốc độ phát triển cũng trở thành một nhiệm vụ khó khăn.
Theo con số tính toán của WB, năm 2000 khối lượng buôn bán thế giới tăng 12,5% so với năm 1999. Bên cạnh đó, nền kinh tế thế giới cũng đạt mức tăng trưởng mạnh so với một vài năm trước đó. Năm 2000, mức tăng trưởng nền kinh tế thế giới đạt 4,1% so với 2,8% năm 1999. Sang năm 2001, tốc độ này có thể giảm xuống còn 3,4% và 3,2% vào năm 2002.
Theo dự báo của ngân hàng thế giới, sản xuất của nền kinh tế thế giới trong giai đoạn 1998-2007 sẽ tăng bình quân 2,9% so với 5,1% trong giai đoạn 1966-1973 và 2,8% trong giai đoạn 1974-1990 và 2,3% giai đoạn 1991-1997. Nếu chỉ tính riêng từ năm 2001-2007 thì mức tăng trung bình có thể đạt 3,2%. Với mức tăng trưởng này tuy không cao nhưng nếu đạt được như vậy nó cũng cho thấy nền kinh tế thế giới vượt qua thời kì giảm sút tốc độ tăng trưởng. Trên thực tế, dự báo trên là có cơ sở, vì
-Do sự phát triển khoa học công nghệ sẽ tạo ra động lực mới cho tăng trưởng, đặc biệt trong lĩnh vực đại diện cho cuộc cách mạng công nghệ mới như thông tin, vật liệu mới, công nghệ sinh học, năng lượng... ở thế kỉ XXI, sự phát triển của khoa học kĩ thuật sẽ là một quá trình tiến lên liên tục với tốc độ như tên bắn, 30 năm gần đây lượng kiến thức nhân loại có được về khoa học kĩ thuật bằng tổng số kiến thức thu được trong 2000 năm trước đó .
-Sự gia tăng xu thế toàn cầu hoá thúc đẩy mạnh hơn tiến trình tự do hoá thương mại, đầu tư, chuyển dịch lao động, tạo cho các quốc gia có cơ hội tận dụng nguồn lực bên ngoài để phát huy, khai thác tốt hơn nguồn lực bên trong cho tăng trưởng. Và chính những tác động của quá trình toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc của các nền kinh tế ngày càng gia tăng, tạo ra các cơ chế hỗ trợ, tương tác, hạn chế nguy cơ của sự bùng nổ các cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế, gần đây đã hình thành các xu thế mới và các xu thế này còn kéo dài và ảnh hưởng đến các nước trong tương lai không xa. Các xu thế có thể kể đến như
-Sự đẩy mạnh một bước tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế theo xu hướng khu vực hoá mở và toàn cầu hoá.
-Xuất hiện ngày càng rõ nét xu hướng hội tụ trong và giữa các tổ chức kinh tế khu vực.
-Xuất hiện xu hướng “ Châu á hoá thế giới”. Nếu cách đây không lâu, chúng ta mới chỉ nghe nói hay dự báo về một “kỷ nguyên Châu á” tương lai. Đến nay, vị thế của Châu á đã thể hiện đậm nét ở sự gia tăng đột ngột các hoạt động ngoại giao không chỉ giữa các nước trong khu vực mà còn giữa các nước ngoài khu vực như các cường quốc Mỹ, Nhật, Pháp, Trung Quốc ... Trong tương lai, bất chấp xu hướng phát triển chững lại, các nước khu vực này vẫn tiếp tục giữ vững tăng trưởng cao nhất toàn cầu, các con rồng Châu á sẽ tạo ra 1/3 tổng sản lượng thế giới (theo Nghiên cứu kinh tế tháng 5 /1997)
2.Dự báo tình hình phát triển kinh tế Nhật Bản
Ngày nay, khi đã bước sang thế kỉ XXI, mặc dù Nhật Bản vẫn còn là một cường quốc kinh tế nhưng nhiều người cho rằng: một thực tế là Nhật Bản đã và đang là một nước dễ bị tổn thương xét cả về kinh tế lẫn chính trị. Nguyên nhân là do sự gián đoạn của luồng lưu thông tài nguyên có trật tự và những bất ổn trong nền kinh tế toàn cầu. Nhật Bản còn bị đe doạ bởi những yếu kém trong nước về dân số, xã hội và chính trị. Tuy Nhật Bản vẫn là một nước giàu có, năng động, mạnh về kinh tế nhưng về chính trị, Nhật Bản bị hạn chế bởi sự phụ thuộc về an ninh vào một đồng minh hùng mạnh lại vừa là kình địch về kinh tế, đó là Mỹ.
Sau một thập kỷ suy thoái, nền kinh tế Nhật Bản vào những năm cuối của thế kỉ XX đang có dấu hiệu phục hồi và không ít người cho rằng, trong tương lai, Nhật Bản sẽ có bước phát triển khả quan, tiếp tục khẳng định vai trò của mình trong phát triển kinh tế của cả khu vực. Tuy vậy, bên cạnh những dự đoán tốt đẹp về tương lai của Nhật Bản cũng có ý kiến cho rằng một vài thập niên đầu của thế kỉ mới sẽ là thời kì mất mát lớn nhất đối với Nhật Bản. Để có những đánh giá chính xác nhất về tình hình phát triển của Nhật trong thời gian tới, chúng ta hãy xem xét qua các yếu tố cơ bản có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế, cả tích cực cũng như tiêu cực.
Các yếu tố khách quan có tác động tới nền kinh tế Nhật Bản có thể kể đến như sự phát triển của khoa học công nghệ, xu hướng khu vực hoá toàn cầu hoá, xu hướng hoà dịu và hợp tác giữa các quốc gia cũng như tốc độ phát triển kinh tế thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật mà ngày nay là khoa học công nghệ chắc chắn sẽ làm biến đổi nhanh chóng cơ cấu kinh tế thế giới cũng như bản thân mỗi nền kinh tế. Nhật Bản có thể tận dụng thị trường bên ngoài mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu cần thiết cho sự phát triển của đất nước. Nhật Bản vốn là một nước có ưu thế về công nghệ ứng dụng nên trong thời gian tới, khi mà cạnh tranh ngày càng gay gắt thì Nhật Bản có nhiều lợi thế hơn. Trong những năm qua, do quá chú trọng đến phát triển công nghệ, không quan tâm đúng mức đến vấn đề bảo vệ môi trường nên hiện nay Nhật phải đối mặt với việc giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng. Trong tương lai, khi mà xu hướng hoà dịu và hợp tác trở nên rõ ràng hơn, Nhật Bản có thể nhận được sự hợp tác của các nước để giải quyết vấn đề này. Bên cạnh một số thuận lợi, Nhật Bản gặp phải không ít khó khăn do những xu hướng này tạo ra. Sự gia tăng xu hướng toàn cầu hoá thúc đẩy cạnh tranh mạnh mẽ hơn, tạo áp lực cho một số ngành kinh tế của Nhật Bản còn dựa vào bảo hộ cao trong nước nhất là lĩnh vực nông nghiệp. Do sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin làm thay đổi phong cách quản lý trong các doanh nghiệp. Yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp Nhật Bản là phải thay đổi phương thức quản lý truyền thống ( xem trọng kinh nghiệm ) cho phù hợp với tính năng động nhạy bén của thị trường trong thời gian tới. Ngoài ra, do tốc độ phát triển của kinh tế thế giới trong những thập niên đầu thế kỷ XXI sẽ không cao làm ảnh hưởng đến nhịp độ phục hồi của Nhật Bản sau một thời gian dài suy thoái.
Các yếu tố bên trong nền kinh tế Nhật Bản có ảnh hưởng tích cực đến quá trình phát triển kinh tế có thể kể đến như mức tiêu dùng trong nước sẽ tăng cao trong thời gian tới. Nguyên nhân là do Nhật Bản đang chuyển từ tăng trưởng dựa vào nhu cầu bên ngoài sang dựa vào nhu cầu trong nước. Do sự phát triển của nền kinh tế tri thức, đời sống ngày một nâng cao nên nhu cầu tiêu dùng cho các sản phẩm thuộc lĩnh vực giải trí, du lịch, văn hoá...sẽ tăng nhanh. Điều này kích thích sự phát triển các ngành dịch vụ, ngành đại diện cho xu thế phát triển của khoa học công nghệ. Vấn đề già hoá dân số trong vài thập kỉ trở lại đây là một trong những vấn đề nan giải, đáng quan tâm nhất trong sự phát triển của Nhật Bản. Già hoá dân số sẽ làm thay đổi cơ cấu và chất lượng lao động. Điều này gây khó khăn cho việc phát triển các ngành kinh tế kĩ thuật mới. Số người cao tuổi ngoài kinh nghiệm vốn có thì việc đào tạo và tiếp thu tri thức mới bị hạn chế, làm giảm tính năng động, sáng tạo trong hoạt động sản xuất. Điều này còn ảnh hưởng đến việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng của người cao tuổi. Do sự phát triển mạnh của nền kinh tế đã đưa Nhật Bản từ chỗ phụ thuộc sang thành đối tác cạnh tranh chủ yếu của Mỹ và các nước tư bản khác. Vì vậy cuối thập kỉ 70 và đầu thập kỉ 80 trở lại đây,các nước này đã điều chỉnh chính sách làm hạn chế các dòng chảy công nghệ vào Nhật Bản. Do đó, Nhật Bản phải có những chính sách mới trong phát triển công nghệ, từ chú trọng nhập khẩu sang nghiên cứu phát triển nhằm tạo lập những cơ sở sáng chế mới để từng bước tự chủ trong công nghệ sản xuất. Yêu cầu đặt ra đối với Nhật Bản là phải cải cách hệ thống giáo dục đào tạo. Nếu trước đây, trong hệ thống đào tạo chỉ nhằm tạo ra những con người chuyên môn hoá đơn điệu thì hệ thống đào tạo mới phải tạo ra những con người không chỉ biết vâng lời mà còn phải phát huy khả năng làm việc độc lập sáng tạo. Hiện nay nhịp độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Nhật Bản tỏ ra chậm chạp hơn so với Mỹ và các quốc gia tư bản khác. Nếu quá trình chuyển đổi này diễn ra chậm sẽ làm cho tình hình tài chính thêm khó khăn, thâm hụt ngân sách thêm trầm trọng, nợ dài hạn của chính phủ sẽ tăng nhanh chóng và khả năng về một cuộc khủng hoảng mới không phải là xa vời.
3.Dự báo tình hình phát triển kinh tế-thương mại Việt Nam
Vài năm trở lại đây, trong khi các nước trong khu vực khắc phục hậu quả suy thoái kinh tế và tốc độ tăng trưởng đang nhích dần lên thì Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng khá, các chỉ tiêu về kinh tế, xã hội đạt được đều khả quan. Năm qua, tốc độ tăng trưởng đạt 6,7%, vượt mức kế hoạch đề ra trước đó 5,5%-6% và cao hơn mức của năm 1999 ( 4,8% ). Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 15,5% ( kế hoạch 10,5- 11% ). Trong nông nghiệp tuy bị thiên tai nặng nề nhưng vẫn tăng 4,9%. Về hoạt động xuất nhập khẩu, kim ngạch xuất nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu tăng mạnh, cà phê tăng 65,4%, chè 36%, cao su 18,3%, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới. Mặc dù vậy, nền kinh tế Việt Nam vẫn chỉ là đang phát triển và còn kém xa các nước trong khu vực và trên thế giới.
Đối với nền công nghiệp của Việt Nam, khó khăn nằm cả ở đầu vào lẫn đầu ra. Khó khăn lớn nhất ở đầu vào của sản xuất công nghiệp là thiếu vốn, bao gồm cả vốn lưu động để sản xuất và vốn đầu tư đổi mới thiết bị kỹ thuật. Khó khăn ở đầu ra của sản xuất công nghiệp là thị trường và giá cả tiêu thụ sản phẩm, sản phẩm của Việt Nam chưa tìm được chỗ đứng trên thị trường vì sức cạnh tranh thấp, giá cả hàng hoá lại cao. Trong những năm tới, chúng ta tiếp tục thực hiện chính sách mở cửa, thực hiện công cuộc cải cách đất nước theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá nền kinh tế. Một vài năm tới, khi Việt Nam thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan (CEPT) chắc chắn sẽ là một sự kiện lớn có ảnh hưởng đến nền kinh tế đất nước.
II. Mục tiêu, phương hướng phát triển quan hệ Việt Nam -Nhật Bản
1.Về viện trợ phát triển chính thức của Nhật Bản cho Việt Nam.
Là một nước đang phát triển trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, Việt Nam cần có nhiều nguồn lực làm cơ sở cho việc phát triển kinh tế xã hội.ODA, đặc biệt là ODA từ Nhật Bản có vai trò quan trọng trong việc tạo ra những cơ sở đó.
Nguồn vốn ODA như một chiếc cầu nối để mở rộng các quan hệ song phương về đầu tư, thương mại cùng những thay đổi trong chính sách ODA của Nhật Bản, chính phủ Việt Nam vẫn chủ trương tiếp tục tận dụng nguồn vốn ODA từ Nhật Bản.Trong tình hình hiện nay, do những khó khăn, hạn chế của bản thân kinh tế trong nước dẫn đến tình trạng nguồn vốn ODA chưa được sử dụng hiệu quả, hơn nữa do tình hình cung cấp ODA của Nhật Bản đang dần bị thu hẹp về qui mô nên vấn đề đặt ra đối với chính phủ Việt Nam là phải làm sao nâng cao hiệu quả sử dụng vốn này, tránh tình trạng sử dụng tuỳ tiện, không tính đến hậu quả và để lại gánh nặng cho nền kinh tế.
Một định hướng quan trọng khác cần phải chú ý, đó là mục tiêu sử dụng vốn ODA nói chung, và vốn ODA của Nhật Bản nói riêng. Rút kinh nghiệm từ bài học của những nước đang phát triển trong khu vực, không nên quá thiên về mục tiêu trước mắt mà xem nhẹ những vấn đề xã hội mang tính chất lâu dài như vấn đề dân số, ô nhiễm môi trường, vấn đề bất bình đẳng về thu nhập... Những vấn đề này có ảnh hưởng lớn đến đời sống nhân dân mặt khác rất khó giải quyết nếu thiếu vốn, thiếu kiến thức khoa học kỹ thuật.
Như vậy với mục tiêu tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển bền vững, trong những năm, tới chính phủ Việt Nam cần dung hoà các hướng đầu tư của nguồn vốn ODA: vừa vào lĩnh vực kinh tế ,vừa vào lĩnh vực xã hội (giáo dục, y tế...). Đó chính là phương hướng chủ đạo trong việc tiếp nhận viện trợ phát triển chính thức của Việt Nam trong những năm tới.
2. Về đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản tại Việt Nam.
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn FDI nói chung và của Nhật Bản nói riêng, chính phủ Việt Nam vẫn chủ trương tích cực thu hút bằng nhiều biện pháp. Bên cạnh đó, yếu tố khoa học công nghệ mà FDI mang lại cho Việt Nam trong những năm qua chưa thực sự như mong muốn. Vì vậy trong những năm tới, việc chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ được khuyến khích mạnh mẽ hơn.
Ngoài ra, một trong những chính sách lâu dài của Việt Nam là đẩy mạnh xuất khẩu, mà trong lĩnh vực này, các liên doanh hoặc các công ty 100% vốn nước ngoài rất có tiềm năng. Hiện nay, Việt Nam đã phát triển những khu chế xuất chính là một biện pháp quan trọng để khuyến khích xuất khẩu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngơài. Trong thời gian tới, các khu chế xuất này sẽ ngày càng được phát triển với qui mô lớn hơn, nhiều điều kiện ưu đãi hơn, trở thành những cửa ngõ chính thu hút FDI của Nhật Bản và các nước khác.
Về mặt cơ cấu đầu tư, phương hướng trong những năm tới là đẩy mạnh thu hút vốn FDI vào các nghành mũi nhọn, đồng thời cũng là thế mạnh của Nhật Bản , như ngành dệt, ngành chế tạo ô tô, xe máy... Hiện nay, tuy đã có những bước tiến đáng kể, nhưng ngành công nghiệp điện tử vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của hai nước. Trong lĩnh vực này mới chỉ có một số ít dự án đầu tư vào điện tử dân dụng còn điện tử công nghiệp với các sản phẩm rất cần thiết cho công cuộc hiện đại hoá Việt Nam thì vẫn còn thiếu. Do đó, chú trọng thu hút đầu tư vào ngành công nghiệp điện tử là một phương hướng chủ đạo trong chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam đối với Nhật Bản.
3.Về thương mại giữa hai nước.
Trên cơ sở xem xét những vấn đề còn tồn tại, những thuận lợi và tiềm năng, kết hợp những dự báo được phân tích ở trên phương hướng phát triển quan hệ thương mại Việt Nam-Nhật Bản như sau:
Một là, Việt Nam vẫn phải duy trì chính sách thay thế nhập khẩu đối với những mặt hàng đã có khả năng sản xuất ở trong nước.
Hai là, Việt Nam phải có những biện pháp hiệu quả nhằm chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu có lợi cho mình nhiều hơn, đáp ứng được nhu cầu cấp thiết trong nước. Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sẽ phát triển theo hướng giảm và tiến tới loại bỏ các nguyên, nhiên liệu thô, gia tăng tỷ trọng của những mặt hàng đã qua chế biến. Cơ cấu nhập khẩu cũng phải chuyển dịch theo hướng ưu tiên đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong nước. Các công nghệ hiện đại sẽ chiếm tỷ trọng cao trong giá trị nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản, bởi vì Nhật Bản là một nước có tiềm lực khoa học, công nghệ rất mạnh.Các mặt hàng tiêu dùng, nếu không phải là thiết yếu thì sẽ không nhập khẩu hoặc chỉ nhập khẩu với tỷ trọng không đáng kể, ưu tiên dành mọi nguồn lực cho nhập khẩu máy móc, công nghệ phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Việt Nam cần tích cực hơn nữa trong việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu thị trường theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá các bạn hàng, các đối tác, không nên chỉ phụ thuộc vào các bạn hàng truyền thống như Nhật Bản và các nước Châu á khác. Mục đích của việc này, một phần là để hạn chế, chia nhỏ những rủi ro cho các nhà xuất khẩu Việt Nam khi các thị trường truyền thống bị chấn động, mặt khác nâng cao tính cạnh tranh, vị thế của các hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế, tránh bị ép giá do không có đầu ra.
III.Những giải pháp phát triển kinh tế-thương mại Việt nam - Nhật bản
1. Đối với Nhà nước
Trên cơ sở phân tích thực trạng của quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam-Nhật Bản trong thời gian qua và xu hướng phát triển trong thời gian tới, về phía chính phủ xin đưa ra một số đề xuất chủ quan nhằm mục đích phát triển hơn nữa mối quan hệ này.
1.1 Trong quan hệ kinh tế với Nhật Bản.
Về lĩnh vực thu hút ODA, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý và điều hành công tác tiếp nhận nguồn vốn ở các cấp sao cho nguồn vốn này được phân bổ hợp lý cho những ngành, những công trình thực sự cần thiết và mang lại hiệu quả cao. Mặt khác, phải tăng cường công tác đào tạo cho những cán bộ thuộc bộ phận có liên quan đến việc xác định nhu cầu và đàm phán, ký kết những hiệp định với đối tác nước ngoài nhằm nâng cao hơn nữa số lượng và chất lượng nguồn vốn thu hút được. Công tác này có thể được thực hiện dưới các hình thức như mở lớp đào tạo ngắn về những kiến thức có liên quan đến thủ tục, điều kiện cung cấp ODA...
Bên cạnh đó, các ngành, địa phương có nhu cầu về cung cấp ODA cần nghiên cứu kỹ những chính sách ưu tiên của đối tác nước ngoài cũng như quy chế quản lý và sử dụng nguồn ODA, tạo điều kiện giải quyết nhanh trong việc lập hồ sơ dự án và các thủ tục có liên quan.
Đối với hoạt động đầu tư, để tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI, chính phủ cần quan tâm đến các vấn đề như luật pháp, thủ tục cấp giấy phép, nâng cao điều kiện cơ sở hạ tầng cũng như nâng cao hiệu sử dụng vốn.
Trước hết, để môi trường đầu tư trở nên hấp dẫn hơn, hệ thống luật pháp về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và một số luật có liên quan cần được hoàn thiện, đảm bảo tính thống nhất và ổn định. Cần học hỏi những kinh nghiệm của các nước trong khu vực như Thái Lan, Inđônêxia...về hệ thống luật pháp, chính sách của họ đối với vấn đề thu hút đầu tư.
Việt Nam không những phải duy trì lợi thế sẵn có mà còn phải nâng cấp để tận dụng tối đa những thuận lợi mà mình có. Việc nâng cấp bao gồm khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên, bảo vệ nguồn tài nguyên tránh lãng phí. Đối với lợi thế về nguồn nhân lực, chính phủ nên có chính sách hỗ trợ đào tạo nhằm nâng cao trình độ nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của các nhà đầu tư.
Cơ sở hạ tầng về giao thông vận tải, thông tin liên lạc ở Việt Nam còn yếu kém đã gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam. Trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, tình trạng độc quyền làm cho giá dịch vụ khá cao so với các nước trong khu vực. Trong thời gian tới nên đầu tư công nghệ tiên tiến cho ngành này.
Chính phủ cần quản lý chặt chẽ cơ cấu đầu tư theo đúng hướng đã đề ra, kiểm soát công nghệ dược chuyển giao tránh tình trạng nhập khẩu các công nghệ đã lỗi thời.
Để tăng cường hoạt động hướng ra xuất khẩu, chính phủ cần có những biện pháp, chính sách ưu đãi đối với hoạt động xuất khẩu ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong các lĩnh vực có giá trị xuất khẩu cao.
1.2 Trong quan hệ thương mại với Nhật Bản.
Trong những năm qua Việt Nam luôn xuất siêu sang thị trường Nhật Bản và được chính phủ Nhật Bản khuyến khích. Nếu xét trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam thì Việt Nam vẫn nhập siêu mặc dù tỷ lệ này không cao. Sau đây là một số đề xuất nhằm tăng cường hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào Nhật Bản:
-Tiếp tục chuyển hướng cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu
-Nhà nước nên có các hình thức ưu đãi nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, và nhập khẩu theo hướng tạo điều kiện cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
-Nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bằng cách đặt văn phòng đại diện hoặc trung tâm xúc tiến thương mại Việt Nam tại Nhật Bản cũng như giúp các doanh nghiệp trong việc tìm đối tác, mở rộng thị trường
2. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam
Như đã đề cập ở trên, quan hệ kinh tế -thương mại Việt Nam-Nhật Bản được phân tích trên ba khía cạnh đầu tư, viện trợ phát triển chính thức và buôn bán. Do nền kinh tế Việt Nam chưa phát triển nên trong phần này chỉ nói về giải pháp phát triển thương mại giữa hai nước dưới góc độ doanh nghiệp.
Nhiều công ty nước ngoài đã nắm bắt được những nét đặc trưng của xã hội Nhật Bản và những đặc điểm nổi bật của thị trường này. Họ cũng rất am hiểu xu hướng tiêu dùng của người Nhật cũng như những qui định và bộ luật liên quan của Nhật Bản. Cùng với những kiến thức của mình, họ đã thành công trên thị trường Nhật Bản. Sau đây là một số nhận xét, đánh giá được đúc kết bởi rất nhiều các công ty nước ngoài đã thành công trên đất Nhật, để từ đó giúp các doanh nghiệp Việt Nam tìm ra con đường đi đến sự thành công.
-Thâm nhập thị trường Nhật Bản cần chiến lược lâu dài. Thị trường Nhật Bản đòi hỏi một chiến lược với tầm nhìn sâu rộng. Điều này đạt được bằng cách nghiên cứu kỹ các yếu tố như: dung lượng thị trường, các đối thủ cạnh tranh, kênh phân phối, mức giá, giới hạn thời gian, những diễn biến đối với người sử dụng và người tiêu dùng, những xu hướng nghiên cứu và phát triển. Trước khi có thể thâm nhập thị trường Nhật Bản, các công ty phải điều tra nghiên cứu thị trường này. Do đặc điểm của công việc, chính sách kinh doanh và cách thức thành lập công ty ở Nhật, việc đưa ra quyết định ở Nhật thường tốn nhiều thời gian hơn so với các nước khác. Việc tìm kiếm lợi nhuận nhanh chóng tại thị trường Nhật Bản là điều không thích hợp. Điều cốt yếu là không được bỏ cuộc giữa chừng, muốn thành công phải có sự quyết đoán và lòng kiên trì.
-Lựa chọn đúng đối tác. Khi thành lập một công ty con hay một liên doanh để thâm nhập thị trường Nhật Bản, chiến lược quản lý của phía đối tác Nhật Bản sẽ ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt động của công ty, những hoạt động kinh doanh sau này của phía Nhật Bản cũng gây nhiều ảnh hưởng tương tự. Câu hỏi chính luôn được đặt ra là liệu có hay không sự tương đồng về triết lý và chủ thuyết kinh doanh giữa hai bên. Nếu hai bên có sự tương đồng thì sự hợp tác kinh doanh sẽ diễn ra trôi chảy, nhưng nếu hai bên có sự bất đồng thì cần sớm có sự bàn bạc ( tham khảo ý kiến). Nếu rơi vào tình trạng trên, hai bên cần có những cuộc tranh luận, bàn bạc, tham khảo để tăng cường sụ hiểu biết lẫn nhau.
-Coi trọng chất lượng và hoạt động kinh doanh. Đối với các loại sản phẩm, người tiêu dùng và người sử dụng Nhật Bản đòi hỏi cao về tiêu chuẩn. Có một số công ty nước ngoài phàn nàn những tiêu chuẩn mà người Nhật Bản đề ra là quá cao và việc đáp ứng những tiêu chuẩn và những yêu cầu đó là không thể được vì quá tốn kém. Tuy nhiên những công ty thành công ở Nhật đều nhận ra rằng, người Nhật không bao giờ bỏ qua về mặt chất lượng. Các công ty này nhận về mình trách nhiệm phải đáp ứng được những tiêu chuẩn này và độ an toàn của hàng hoá đối với người tiêu dùng Nhật Bản.
-Nét độc đáo và khác biệt. Sự thật là một sản phẩm độc đáo tất nhiên sẽ hấp dẫn khách hàng. Nhưng khách hàng sẽ còn bị cuốn hút hơn khi công ty đó và sản phẩm của nó độc đáo, khác biệt với các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Để có được tính độc đáo của sản phẩm cần đầu tư cho các khâu quảng cáo và tiếp thị, trình độ công nghệ, nghiên cứu và phát triển.Điều chủ yếu phải tạo được sự khác biệt giữa công ty mình và đối thủ cạnh tranh, bí quyết ở đây chính là tính sáng tạo.
-Đầu tư cho công nghệ, nghiên cứu và phát triển. Trong ngành sản xuất, chế tạo, công ty cần phải quan tâm tới các hoạt động nghiên cứu- phát triển và cộng nghệ. Rất nhiều công ty khi thâm nhập thị trường Nhật đã đầu tư khá nhiều tiền của và nguồn nhân lực cho bộ phận nghiên cứu-phát triển.
-Hiểu rõ những nhu cầu của thị trường Nhật Bản. Nhiều công ty nước ngoài thường cho rằng, sản phẩm của mình tiêu thụ được ở thị trường nội địa chẳng có nghĩa lý gì lại không bán được ở thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên, những sản phẩm và dịch vụ đó lại không đáp ứng được nhu cầu ở thị trường Nhật Bản nên kết cục thường thất bại. Một nhà sản xuất thiết bị gia dụng Mỹ đã thử bán sản phẩm tủ lạnh của mình ở Nhật nhưng không thành công vì tủ lạnh của công ty này quá to, không phù hợp với nhà ở của người Nhật Bản. Trường hợp khác, một công ty liên doanh nước ngoài chuyên sản xuất đồ nội thất đã thành công khi sản xuất ghế sô pha có gầm thấp sát dưới sàn phù hợp với thói quen ngồi dưới sàn nhà của người Nhật Bản. Một cán bộ công ty lý giải “ sản xuất đồ nội thất là ngành liên quan mật thiết đến đặc điểm từng khu vực và những khách hàng sống ở khu vực đó, chúng tôi thiết kế và làm ra những sản phẩm mà mgười tiêu dùng địa phương mong muốn”.
-Tận dụng mọi sự ưu đãi. Những công ty có cơ sở sản xuất và nhà máy ở những vùng xa trung tâm có thể nhận được những ưu đãi về thuế, trợ giá và những khoản vay nhẹ lãi. Đây là những biện pháp ưu đãi mà chính phủ Nhật cũng như các nước khác áp dụng để khuyến khích phát triển, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài có thể tận dụng những hệ thống cho vay nhẹ lãi điều hành bởi các cơ quan tài chính của chính phủ.
Từ những kinh nghiệm của một số công ty đã thành công trên thị trường Nhật Bản, theo ý kiến của bản thân tôi, các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu trước khi thâm nhập vào thị trường Nhật Bản nên chú ý đến những khía cạnh sau:
2.1. Tiếp tục nghiên cứu thị trường Nhật Bản..
Nhật Bản là một thị trường lớn và ngày càng có nhiều cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam có thể kinh doanh thành công. Các công việc của nghiên cứu thị trường bao gồm nghiên cứu cung cầu, giá cả hàng hoá, tình hình hoạt động của các đối thủ...
Có thể nói từ trước đến nay Việt Nam chỉ là một bạn hàng nhỏ bé của Nhật trong lĩnh vực buôn bán. Thu nhập trung bình của người dân Nhật rất cao nên nhu cầu của họ về các loại hàng hoá cũng rất đa dạng. Ngoài các sản phẩm vật chất phục vụ cho sinh hoạt thông thường thì nhu cầu về giải trí, văn hoá, du lịch ngày càng cao. Yếu tố cung trên thị trường Nhật Bản cũng đa dạng. Vì Nhật Bản là một thị trường lớn nên có rất nhiều công ty danh tiếng của nước ngoài muốn làm ăn ở đó. Trong khi đó, về kinh doanh xuất nhập khẩu, Việt Nam chỉ chiếm chưa đầy 1% dung lượng thị trường. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam gặp phải khó khăn nữa là cạnh tranh trên thị trường thế giới nói chung và trên thị trường Nhật Bản nói riêng ngày càng gay gắt. Các đối thủ Việt Nam gặp phải toàn là những đối thủ mạnh như Trung Quốc, Italia, Hàn Quốc đối với hàng dệt may, Thái Lan, ấn Độ đối với hải sản; Trung Quốc, Anh, Đức đối với đồ gốm sứ... Vấn đề đặt ra đối với Việt Nam khi đối đầu với những đối thủ lớn như vậy là phải làm sao nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá của Việt Nam ở thị trường Nhật Bản. Muốn vậy, các doanh nghiệp cần phải nâng cao chất lượng hàng hoá, hiểu biết tốt nhu cầu, thị hiếu của người Nhật về những mặt hàng Việt Nam kinh doanh, tìm được các đối tác đáng tin cậy... Việt Nam hiện đã thành lập ban xúc tiến thương mại với một phần chức năng là hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế mở rộng thị trường tìm, kiếm đối tác, phát triển sản phẩm. Nội dung hoạt động của ban xúc tiến thương mại là cung cấp các dịch vụ tư vấn, tạo các cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp Việt Nam, tổ chức hội trợ triển lãm... Khi chuẩn bị thâm nhập thị trường Nhật Bản, các doanh nghiệp bằng cách này hay cách khác nên tìm hiểu thị trường Nhật Bản thật kỹ để hạn chế rủi ro.
2.2. Tìm hiểu thói quen, thị hiếu tiêu dùng của người Nhật Bản.
-Về thực phẩm. Người Nhật quan tâm đến những món ăn ngon, các đồ ăn để hưởng thụ trong khi đó các đồ ăn tiết kiệm thời gian cũng rất thích hợp với cuộc sống ở Nhật. Bên cạnh đó, một phần lớn người dân ưa thích các thực phẩm giá rẻ, tránh những nơi mà giá dịch vụ quá cao. Nhưng tất cả người dân Nhật đều quan tâm đến sức khoẻ, đòi hỏi chất lượng đảm bảo. Các sản phẩm có thành phần dinh dưỡng vừa phải, thích hợp với mỗi độ tuổi được người tiêu dùng rất ưa chuộng.
-Các khuynh hướng trong thời trang. Do cuộc sống gần đây trở nên đa dạng hơn, thời kỳ của việc gắn bó quá nhiều với hàng hoá có nhãn hiệu đang chấm dứt dần và thời trang cũng trở nên đa dạng hơn. Người tiêu dùng, bên cạnh đó cũng đang cố gắng giảm bớt chi tiêu cho quần áo trong thời kỳ suy thoái và lựa chọn những sản phẩm có giá cả hợp lý.
-Nhà cửa, ngày càng phổ biến việc sử dụng bàn ghế, giường tủ và các đồ đạc gỗ vì vậy đồ gỗ gia dụng cũng ngày một đa dạng hơn.
Người Nhật Bản được coi là một trong số những người đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao nhất, gồm cả độ bền và khả năng hoạt động. Bên cạnh đó, thị hiếu của người tiêu dùng bắt nguồn từ truyền thống và điều kiện của Nhật Bản trở thành một yếu tố quan trọng trong việc bán và phát triển sản phẩm hàng hoá. Do khủng hoảng kinh tế kéo dài gần đây nên người tiêu dùng Nhật Bản thích mua các hàng hoá có giá cả hợp lý.
Các doanh nghiệp Việt Nam khi thâm nhập thị trường Nhật Bản cần chú ý đến tiêu chuẩn chất lượng mà người Nhật Bản đòi hỏi cũng như thị hiếu, thói quen tiêu dùng để từ đó có cách thức đáp ứng cho phù hợp. Các doanh nghiệp nên có chính sách hỗ trợ đào tạo để tìm hiểu nhu cầu cũng như thói quen tiêu dùng của người Nhật tại Nhật. Mời các chuyên gia Nhật Bản , các nhà cố vấn Việt Nam tư vấn về các lĩnh vực kiểm tra chất lượng, mẫu mã bao bì ... Hình thức liên doanh với các công ty Nhật Bản cũng hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập tốt hơn vào thị trường Nhật Bản
2.3. Tìm hiểu chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam và Nhật Bản
2.3.1 Những đổi mới trong chính sách xuất nhập khẩu và đầu tư của Việt Nam
Chính sách ngoại thương của Việt Nam trong thời gian tới là hướng mạnh vào xuất khẩu, thay thế nhập khẩu. Đối với những ngành hàng khác nhau cơ chế, chính sách xuất nhập khẩu có những đặc điểm khác biệt mà doanh nghiệp phải nghiên cứu và nắm rõ. Chính sách chung là khuyến khích xuất khẩu, tuy nhiên chế độ ưu đãi đối với mỗi mặt hàng là khác nhau, thậm chí từng thời điểm cũng khác nhau. Chúng ta đang ở trong giai đoạn hoàn thiện các chính sách nên thường có sự điều chỉnh chính sách giữa các ngành hàng xuất nhập khẩu.Vì vậy các yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu là:
-Nghiên cứu mức thuế suất tại thời điểm kinh doanh đối với mặt hàng mình kinh doanh. Lựa chọn thời điểm xuất, nhập hàng thích hợp sẽ góp phần giảm chi phí và như vậy làm giảm giá thành sản phẩm.
-Để hoạt động kinh doanh diễn ra liên tục, lâu dài thì các doanh nghiệp phải biết dự đoán các chính sách trong tương lai có những thuận lợi hay bất lợi gì cho doanh nghiệp. Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan giữa các nước ASEAN nên thuế suất của các mặt hàng sẽ có nhiều thay đổi. Ngoài ra, doanh nghiệp phải nghiên cứu các chính sách liên quan đến các mặt hàng có liên quan, các mặt hàng có khả năng thay thế đối với mặt hàng mình kinh doanh.
-Nghiên cứu chính sách hỗ trợ xuất khẩu, khuyến khích xuất khẩu của nhà nước. Các chính sách thuế, chính sách tài chính thuận lợi cũng sẽ hỗ trợ cho doanh nghiệp trong khâu vốn, thanh toán...
2.3.2 Những chính sách xuất nhập khẩu của Nhật Bản
Đối với hàng hoá nhập khẩu vào Nhật Bản, trong chế độ nhập khẩu , Nhật Bản qui định thành nhóm các loại mặt hàng nhập khẩu không hạn chế , nhóm mặt hàng nhập khẩu hạn chế. Về hệ thống ưu đãi thuế quan của nhật cũng được qui định riêng cho từng nhóm mặt hàng riêng biệt. Nhật Bản đề ra một số luật liên quan đến nhập khẩu một số nhóm hàng nhất định như luật vệ sinh thực phẩm, luật kiểm dịch thực phẩm, luật chống bệnh dại và các bệnh truyền nhiễm trong súc vật nuôi... Vì vậy, các sản phẩm muốn vào được thị trường Nhật Bản phải qua nhiều khâu kiểm tra khắt khe. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu với Nhật Bản cần chú ý đến các chính sách liên quan đến các mặt hàng xuất nhập khẩu, thủ tục xuất nhập khẩu của Nhật Bản cũng như của Việt Nam .
3. Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu một số mặt hàng truyền thống của Việt Nam
3.1 Mặt hàng thuỷ hải sản.
Đây là một trong những mặt hàng chủ lực trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản. Hiện nay, ngành thuỷ hải sản xuất khẩu đang gặp phải một số khó khăn. Đó là nguồn cung cấp nguyên liệu cho thuỷ hải sản xuất khẩu đang giảm dần do tốc độ đánh bắt và nuôi trồng không đáp ứng kịp nhu cầu xuất khẩu. Đặc biệt là việc nuôi trồng chưa phát triển và chưa trở thành nguồn cung cấp ổn định. Hơn nữa công nghệ chế biến thuỷ hải sản của Việt Nam còn thô sơ, máy móc lạc hậu làm ảnh hưởng đến chất lượng vệ sinh thực phẩm. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu tập trung vào Châu á đặc biệt là Nhật Bản nên độ rủi ro cao. Để giải quyết những khó khăn trên, có thể tập trung vào một số biện pháp sau:
-Xây dựng nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định bằng việc cải thiện năng lực sản xuất trong các khâu khai thác, nuôi trồng thuỷ sản. Điều này có thể thực hiện bằng cách thu hút đầu tư vào thiết bị đánh bắt, bảo quản, vào các khâu sản xuất giống, sản xuất theo đơn đặt hàng của Nhật Bản...
-Chú trọng đầu tư để tăng năng lực chế biến, cải thiện điều kiện sản xuất, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng
3.2 Hàng dệt may
Hiện nay ngành dệt may Việt Nam đang gặp phải một số khó khăn do tình trạng máy móc công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý kém. Trong khâu tiêu thụ, ngành dệt may xuất khẩu phải qua trung gian, không thực hiện mua đứt bán đoạn do chủ yếu là sản xuất theo những hợp đồng gia công. Để khắc phục những khó khăn trên, ngành dệt may Việt Nam cần sớm tìm ra các biện pháp giải quyết, có thể đề xuất một số biện pháp như sau:
-Tiếp tục thu hút đầu tư, cải tiến công nghệ dệt may, nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, nhập khẩu máy móc, thiết bị của Nhật Bản, Nhật Bản bỏ vốn, ta bỏ công để sản xuất hàng may mặc xuất khẩu.
-Chú trọng đầu tư trong khâu tự cấp nguyên vật liệu đầu vào cho ngành dệt-may, tích cưc triển khai chương trình phát triển bông vải đến năm 2010, các chương trình này tiến tới sẽ cung ứng được từ 60 - 80% nguyên liệu đầu vào cho ngành dệt - may.
-Cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, đặc biệt là nghiên cứu hệ thống phân phối của Nhật Bản, giảm thiểu việc xuất khẩu theo hợp đồng gia công.
3.3. Giày dép
Việc nhập khẩu giày da vào Nhật Bản hiện nay vẫn phải chịu hạn ngạch về thuế quan. Các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu giày dép vào thị trường Nhật Bản cần nắm vững những quy định về thuế suất để có thể đưa mặt hàng này vào thị trường đúng thời điểm, tránh phải chịu mức thuế quá cao. Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu là:
-Khắc phục những yếu kém như chất lượng da, cung cấp nguyên liệu cho ngành giày-dép, hạn chế nguyên liệu nhập khẩu, phối hợp chặt chẽ giữa công nghiệp thuộc da, sản xuất phụ liệu với sản xuất giày dép.
-Đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ tiên tiến, chủ động trong sản xuất, đẩy mạnh công tác xúc tiến ở thị trường Nhật Bản.
-Nghiên cứu, nắm bắt những quy luật vận động của thị trường để điều chỉnh cơ cấu đầu tư, nhịp độ phát triển mặt hàng một cách hợp lý.
3.4. Mặt hàng dầu thô.
Thị trường xuất khẩu chủ yếu của mặt hàng này là Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore...Đối với Việt Nam, đây là mặt hàng chiếm vị trí đầu trong danh sách các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Tuy nhiên, công tác xuất khẩu vẫn chưa thực sự hiệu quả vì mới xuất khẩu dầu thô, chưa qua tinh chế. Mặt khác do những yếu kém trong vận tải biển nên Việt Nam chưa tận dụng được hết lợi thế của mình. Hơn nữa, thị trường xuất khẩu chủ yếu tập trung vào châu á nên dễ gặp phải rủi ro khi kinh tế khu vực có biến động. Để giải quyết vấn đề trên cần thực hiện một số biện pháp tăng cường thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào khâu lọc dầu, đầu tư vào việc phát triển nguồn nhân lực, nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ.
3.5. Mặt hàng cà phê và gạo
Trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào Nhật Bản, hai mặt hàng này chưa thực sự chiếm vị trí quan trọng, nhưng trong tương lai, tiềm năng phát triển của chúng ta là rất lớn. Đối với mặt hàng gạo, giá nhập khẩu thường rất cao, tuy nhiên Việt Nam vẫn chưa tận dụng được yếu tố thuận lợi này chủ yếu do chất lượng. Nhật Bản chủ yếu nhập khẩu gạo từ thị trường Mỹ và Thái Lan vì chất lượng rất cao lại được chế biến, đóng gói cẩn thận, đẹp mắt, đáp ứng thị hiếu tiêu dùng của người Nhật Bản. Mặt hàng cà phê tuy về chất lượng được đảm bảo nhưng khả năng cạnh tranh cũng rất thấp. Biện pháp chủ yếu để gạo và cà phê có thể thâm nhập thị trường Nhật Bản một cách sâu rộng hơn, đó là cải thiện chất lượng, nâng cao hiệu quả rong các khâu chế biến, đóng gói, phân phối. Đối với cà phê, ngành cà phê Việt Nam nên có biện pháp chuyển dịch cơ cấu sản phẩm theo hướng bổ sung thêm diện tích trồng cà phê arabica, loại cà phê người Nhật ưa thích.
Kết luận
Kể từ khi Việt Nam và Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (1973) đến nay, mặc dù có những bước thăng trầm nhưng mối quan hệ giữa hai nước hiện nay đã đạt được những thành tựu đáng kể và trong tương lai, mối quan hệ có nhiều điều kiện để phát triển hơn nữa. Việc nghiên cứu thực tiễn các hoạt động về đầu tư, viện trợ, buôn bán giữa hai nước để có cái nhìn đúng đắn và có thể xây dựng chiến lược phát triển lâu dài quan hệ giữa hai nước đòi hỏi phải nghiên cứu thực tế và có những kiến thức sâu rộng về Nhật Bản, Việt Nam cũng như trong mối quan hệ với thế giới. Qua phần nội dung trên có thể thấy, Nhật Bản và Việt Nam có những nét tương đồng về văn hoá, truyền thống á đông cũng như điều kiện khách quan có những kết hợp, hỗ trợ, bổ sung cho nhau cùng phát triển. Một vài năm trở lại đây, nền kinh tế Nhật suy thoái đã làm ảnh hưởng đến tiến trình đầu tư cũng như giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu giữa hai nước. Trong những năm tới, Việt Nam cần nhiều nguồn lực về vốn, công nghệ, trình độ quản lý...để phát triển đất nước, vì vậy chúng ta cần tận dụng lợi thế trong quan hệ với Nhật, một nước giàu mạnh có trình độ công nghệ cao, phương thích quản lý tiên tiến...Trong tương lai, khi Nhật Bản khắc phục được trì trệ và tiếp tục và phát triển hy vọng rằng quan hệ giữa hai nước Việt - Nhật sẽ góp một phần quan trọngvào sự nghiệp đổi mới đất nước ta cũng như góp phần thực hiện các chính sách chiến lược về kinh tế, chính trị, xã hội của Nhật đối với Việt Nam và đối với các nước Đông Nam á.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0010.doc