Nước ta cần thay đổi cơ bản cách tuyển chọn công chức để chọn lựa được những người ưu tú cho bộ máy nhà nước.
Cần có quan niệm đúng trong việc đãi ngộ công chức nhà nước, không thể duy trì lâu tình trạng tiền lương hàng tháng không đủ sống, tình trạng bình quân trong thang lương, cũng như mức chênh lệch quá lớn về thu nhập giữa công chức nhà nước với các chuyên viên và cán bộ quản lý kinh doanh. Đây cũng là một vấn đề gắn với chủ trương chống phiền hà, tham nhũng của các công chức nhà nước.
- Cần có chế độ thuyên chuyển công tác theo thời gian, không nên để một người đảm nhiệm quá lâu một chức vụ; đồng thời, cần quy định cơ chế giám sát của xã hội đối với công chức nhà nước, làm cho mỗi công chức đều phải hết sức thận trọng và giữ gìn nếp sống lành mạnh.
Đi đôi với việc xây dựng đội ngũ công chức nhà nước, không thể không đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy thì hiệu quả quản lý nhà nước mới được bảo đảm. Nghị quyết của Đảng luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác tổ chức - cán bộ. Nhưng thực hiện vấn đề cơ cấu tổ chức với vấn đề cán bộ (hai vấn đề quan trọng hàng đầu) vẫn kéo dài tình trạng tách rời; do đó, kéo dài tình trạng lạc hậu của cơ cấu tổ chức và bố trí nhân lực so với nhu cầu đổi mới.
Ở đây, có mối quan hệ giữa tổ chức với cá nhân mỗi cán bộ. Kinh nghiệm cho thấy: Khi làm việc trong một tổ chức tốt thì người kém có thể khá lên, còn trong một tổ chức kém thì người tốt không thể phát huy được, thậm chí bị bật ra ngoài. Trong khái niệm tổ chức nên hiểu là gồm bộ máy và người đứng đầu. Những người lãnh đạo, quản lý giỏi không bao giờ chịu bó tay trước một bộ máy kém cỏi.
Trên thực tế, vấn đề tổ chức và cán bộ thường gắn liền với mỗi thời kỳ lịch sử nhất định. Trong thời kỳ hưng thịnh, nhân dân thường thấy bộ máy và cán bộ trong sạch, vững mạnh, sát dân, được dân yêu mến tin cậy. Trong thời kỳ trì trệ, bộ máy phát sinh nhiều bệnh hoạn, cán bộ và thủ trưởng quan liêu, chăm lo lợi ích riêng của mình hơn là lo lắng trong công việc.
Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới công tác tổ chức và cán bộ phải tập trung hướng vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế. Hãy bắt đầu đổi mới bộ máy tổ chức kinh tế và đội ngũ quản lý kinh tế. Thành công của công tác tổ chức và cán bộ ở lĩnh vực kinh tế chắc chắn sẽ là động lực mạnh mẽ cho đổi mới công tác này trên các lĩnh vực khác.
44 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1407 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp thực hiện chính sách phát triển kinh tế tư bản nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhờ có động lực, do đó có sáng tạo trong tổ chức quản lý sản xuất - kinh doanh ở một môi trường cạnh tranh và không ngừng biến đổi.
Vì vậy, việc thừa nhận chủ sở hữu đích thực (của các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước), việc bố trí đúng các giám đốc ở các doanh nghiệp nhà nước, cùng với thể chế hoạt động tự chủ của nó trong phạm vi pháp luật, cũng như bố trí đúng cán bộ nhà nước tham gia quản lý các liên doanh, quản lý nhà nước các cấp là biểu hiện tôn trọng quy luật khách quan.
Chỉ khi đó mới tạo được động lực cho nền kinh tế, mới không còn chỗ cho sự tác động của cơ chế tiêu cực trong công tác tổ chức cán bộ và trong cơ chế quản lý nền kinh tế. Chỉ khi đó, sự tăng lên các nguồn lực trong và ngoài nước mới có ý nghĩa kinh tế, vì nó được giao cho những người cần thiết, phù hợp yêu cầu quy luật kinh tế.
3.5. Theo lôgích phát triển xã hội hoá, kinh tế tư bản nhà nước là hình thức tổ chức kinh tế tất yếu phải trải qua của kinh tế tư bản tư nhân và một phần kinh tế tư nhân.
Sự hình thành kinh tế tư bản nhà nước trong nước sẽ kết hợp với kinh tế tư bản nhà nước trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài thành một khu vực kinh tế tư bản nhà nước (hay thành phần kinh tế tư bản nhà nước).
Khu vực này càng lớn thì nền kinh tế càng được xã hội hoá cao và càng gần chủ nghĩa xã hội hơn, chức không phải ngược lại. Đây còn là vấn đề tư tưởng không ít khó khăn trong nhiều cán bộ.
3.6. Sự phát triển kinh tế tư bản nhà nước cũng như các thành phần kinh tế khác phụ thuộc rất nhiêù vào sự phát triển kinh tế nhà nước trên các lĩnh vực:
Xây dựng cơ sở hạ tầng; phát triển công nghệ tiên tiến và nội sinh hoá công nghệ nước ngoài chuyển giao; phát triển khu vực dịch vụ; đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn; cùng với các thành phần khác, kinh tế nhà nước tạo điều kiện trong quá trình hội nhập có hiệu quả, nhất là giải quyết những yêu cầu đối nội và yêu cầu đối ngoại, trong đó có mắt xích trung tâm là các liên doanh giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài.
4. Thứ tư, điều kiện chính trị trong sử dụng kinh tế tư nhân tư bản nhà nước.
Việc vận dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta nằm trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Có thể nhận rõ: sự khác nhau về bản chất giữa kinh tế tư bản nhà nước vận dụng ở nước ta với nền kinh tế tư bản nhà nước ở các nước tư bản là điều kiện chính trị, nói cụ thể hơn là ở Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đoạ. Điều kiện chính trị nói ở đây chỉ giới hạn ở nội dung: tổ chức nhà nước. Nội dung này quan hệ trực tiếp và quyết định đến việc sử dụng kinh tế tư bản nhà nước có hiệu quả hay không.
Tổ chức nhà nước trong điều kiện sử dụng kinh tế tư bản nhà nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề tổ chức bộ máy nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một trong những vấn đề chủ yếu nhưng chưa giải quyết thành công trong quá trình lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội mấy thập kỷ qua. Quá trình lịch sử ấy còn cho thấy: vấn đề xây dựng nhà nước có quan hệ đến sự tồn tại và phát triển của đảng cầm quyền; nhà nước vững mạnh hay yếu kém sẽ trở thành thước đo trình độ lãnh đạo của Đảng trước con mắt của nhân dân. Không thể tách rời vấn đề Nhà nước ra khỏi vấn đề đảng cầm quyền.
Nhìn lại sai lầm trong việc tổ chức bộ máy Nhà nước ở các nước xã hội chủ nghiã trước đây, sẽ thấy rõ nguyên nhân sâu xa từ nhận thức chưa đúng một nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác về mối quan hệ giữa cơ sở kinh doanh với kiến trúc thượng tầng chính trị.
Bây giờ đổi mới tổ chức và thể chế hoạt động vủa Nhà nước nhằm thực hiện nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế thì tất yếu phải trở lại đúng với nguyên lý ấy bắt đầu từ nhận thức cho đến tổ chức bộ máy và thể chế hoạt động.
Vấn đề này càng trở nên cấp bách khi thấy khoản cách giữa yêu cầu phát triển chiều sâu của quá trình đổi mới với năng lực nhà nước, với phẩm chất của một số ngày càng tăng một số cán bộ không phù hợp.
Nguyên nhân của thực trạng này là do sự lạc hậu nhận thức lý luận về nhà nước trong thời kỳ quá độ, do chậm khắc phục những sai lầm về nhận thức, tư tưởng và tổ chức nhà nước thời kỳ kinh tế kế hoạch hó tập trung quan liêu, bao cấp. Hiện giờ vấn còn tồn tại “cơ chế xin - cho” trong các cấp quản lý, vẫn còn tồn tại dưới hình thức mới của “cơ chế bộ chủ quản, sở chủ quản”, mặc dù Trung ương Đảng có nhiều lần phê phán. Thậm chí có bộ phận, có người muốn duy trì cơ chế quản lý ấy, vì họ đã thành thạo và kiếm chác được nhiều.
Trong hoàn cảnh quản lý như vậy làm cho “khuôn mặt” kinh tế thị trường mới ra đời trở lên méo mó, lợi ích phát triển kinh tế có khuynh hướng chỉ tập trung cho một số it người giàu và một số quan chức, chứ không phải cho đông đảo quần chúng.
Trong môi trường kinh tế ấy, khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa trong kinh tế tư nhân, tư bản tư nhân sẽ trội hơn nhiều xu hướng phát triển theo định hướng tư bản chủ nghĩa. Chính xuất phát từ bối cảnh ấy, việc sử dụng và phát triển kinh tế tư bản nhà nước không thể không đặt vấn đề đối mới tổ chức và thể chế hoạt động của nhà nước như một điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện thắng lợi đường lối chiến lược của đảng.
Hướng đổi mới nhận thức lý luận là tổ chức nhà nước phải dựa vào quan điểm của Lênin khi Người vận dụng nguyên lý chủ nghĩa Mác như đã nêu trên trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là quan điểm (có khi được gọi là nguyên tắc): “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế.”. Nhìn vào thực tiễn, quan điểm của Lênin phản ánh khách quan là sự phát triển kinh tế thị trường đòi hỏi một nhà nước cầm quyền. Ở đây, chính trị (nhà nước pháp quyền) là biểu hiện tập trung đòi hỏi của kinh tế (kinh tế thị trường).
Nhiều nước chuyển sang kinh tế thị trường đã gặp khó khăn, thậm chí thất bại, vì vẫn giữ tư duy và tổ chức nhà nước kiểu cũ.
Nhiều trường hợp nền kinh tế trì trệ nhiều năm, đầy tiêu cực, vì sự đổi mới nhà nước đầy chắp vá, thoả hiệp vô nguyên tắc, nhất là trong công tác tổ chức, nên quản lý nhà nước bị động, đối phó kém hiệu quả.
Nước ta đã và đang chuyển sang phát triển kinh tế thị trường thì tất yếu phải xây dựng nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền trong giai đoạn kinh tế thị trường khác với nhà nước có sử dụng pháp trị trong nền kinh tế tự cung tự cấp. Không nên nhầm lẫn rằng, từ khi có pháp luật đã có nhà nước pháp quyền, cũng như không thể nhầm lẫn từ khi có thị trường đã có kinh tế thị trường.
Điều mới mẻ trong kinh tế chính trị ở nước ta là chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì nhà nước pháp quyền nước ta mang bản chất nhân dân, nghĩa là “toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân” như Hồ Chí Minh đã nói. Đó là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Chỉ nói “Nhà nước của dân do dân vì dân” là không đầy đủ.
Như vậy, tương tự với nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa thì cần có nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì dân, cũng như tương ứng với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thì tất yếu phải là nhà nước pháp quyền tư sản.
Sự chậm trễ trong đổi mới nhà nước ta hiện nay do nhận thức pháp trù nhà nước pháp quyền không rõ, không đúng, làm cho hình thức tổ chức thì có đủ: lập pháp, hành pháp, tư pháp, kể cả toà án hành chính, nhưng thể chế hoạt động cho hệ thống ấy và cho mỗi bộ phận thì chưa phù hợp. Trong tình hình ấy, sự tác động của các tổ chức nhà nước đến nền kinh tế như thế nào, đến mỗi thành phần, mỗi doanh nghiệp và nhân dân như thế nào ngày càng bộc lộ trong thực trạng kinh tế - xã hội hiện nay.
CHƯƠNG III:NHỮNG GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ BNẢ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
Các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư bản nhà nước mà ta thấy được hiện nay dưới các hình thức sau:
- Các công ty liên doanh, các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp đồng hợp tác kinh doanh, các công ty bán cổ phần cho nhà nước đầu tư nước ngoài... và các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Đây là các doanh nghiệp ra đời từ sự hợp tác của kinh tế nhà nước với các nhà đầu tư nước ngoài.
- Trên một hướng khác, lại có các hình thức kinh tế tư bản nhà nước cũng ra đời từ sự kết hợp giữa kinh tế nhà nướcvới các nhà tư bản tư nhân trong nước, với các tư nhân và hộ sản xuất hàng hoá dịch vụ trong hình thức hợp tác.
Đây là kết quả quan trọng của đường lối đổi mới: chuyển sang cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập. Dù gọi nó bằng tên gì, xét về mặt lý luận kinh tế - chính trị hay là về chiến lược, sách lược, thì cuộc sống cũng đang thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư bản nhà nước. Đường lối, chính sách của Đảng và chính phủ ta thể hiện nhu cầu đó của cuộc sống, mạc dù hiện nay về mặt nhận thức tư tưởng, cũng như tổ chức và quản lý kinh tế tư bản nhà nước còn tồn tại không ít vấn đề. Giải quyết các vấn đề chủ yếu trong những khó khăn đó được đề cập trong phần chính sách và phần giải pháp.
1. Về phân bố công nghiệp - một giải pháp chủ yếu và cấp bách hiện nay
Đây là vấn đề trong chiến lược kinh tế - xã hội, nhưng hiện nay sự phát triển ồ ạt có phần tự phát, cục bộ địa phương của công nghiệp đã là cho vấn đề này trở nên cấp bách. Phân bố công nghiệp đúng có ý nghĩa trước mắt và lâu dài.
Trong những năm trước mắt, phải đảm bảo tăng trưởng gắn liền với việc ổn định xã hội, từng bước thực hiện công bằng hơn về phân phối. Yêu cầu này đang vấp phải sự cản trở sự phát triển công nghiệp tách rời nông nghiệp, đô thị cách xa nông thôn. Khoảng cách chênh lệch như hiện nay (trên 10 lần), ở giai đoạn mở đầu như thế là không thuận lợi do:
- Sự di dân tự phát từ nông thôn ra thành thị đã và sẽ gây ra nhiều hậu quả về kinh tế và an ninh xã hội. Những năm qua, mặc dù nhà nước cố gắng giải quết những tộ phạm ngày càng tăng. Những thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đã trở nên quá tải về cơ sở vật chất cũng như về trình độ quản lý.
- Nền nông nghiệp nước ta kể từ khi ra đời, kinh tế hộ sản xuất hàng hoá đến nay đã mười mấy năm , nhưng còn rất chậm tiến. Càng xã đô thị bao nhiêu thì mức độ lạc hậu càng tăng. Nếu dân cư nông thôn ở đồng bằng đua nhau tìm việc làm ở đô thị, thì dân cư nông thôn trung du, miền núi lại đi vào chặt phá rừng, hoặc làm “cửu vạn” cho các băng buôn lậu. Đây cũng là một trong những nguyên nhân vì sao nạn buôn lậu ở nước ta “càng chống càng tăng”, lôi cuốn cả một số quan chức nhà nước vào vòng tham nhũng.
- Sự phân bố công nghiệp vừa qua chỉ tạo ra bộ mặt phồn vinh ban đầu, dần dần tính không hợp lý bộc lộ rõ, ngăn cản sự phát triển cả nông nghiệp và công nghiệp, đồng thời tạo cơ hội cho khuynh hướng kinh doanh không lành mạnh trong lĩnh vực du lịch, thương mại phát triển.
Trên đây là những vấn đề kinh tế xã hội cấp bách. Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, một số hiện tượng tiêu cực nói trên là khó tránh khỏi.
Điều này đáng bàn ở đây là mức độ tăng của chúng phải ở một giai đoạn nhỏ, không gây cản trở quá trình phát triển. Ở nước ta, các hiện tượng tiêu cực nói trên đã quá “mức đọ cho phép”, vì nó tác động như một nguy cơ thực sự.
Những hiện tượng nêu trên có nguồn gốc từ cuộc chuyển đổi nền kinh tế lạc hậu sang kinh tế thị trường, nhưng các tệ nạn xã hội, tư tưởng, lối sống... đều có nguồn gốc kinh tế. Nói chung, những vấn đề tồn tại có nguyên nhân kinh tế thì phải bắt đầu bằng gải pháp kinh tế, rồi mới tạo điều kiện cho các giải pháp khác.
Trong mấy năm gần đây, chủ trương “công nghiệp hoá, nông thôn” đã ban hành , nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu phân bố công nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ.
Nhìn ra thế giới xunh quanh ta, có bài học của Đài Loan, Thái lan rất đáng suy nghĩ. Ở Đài Loan đã bố trí công nghiệp tương đối hợp lý, nên đã hình thành hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tất cả lĩnh vực, bên cạnh một số ít tập đoàn kinh tế mạnh. Ngay ở Đài Bắc phụ cận, cũng chỉ tập trung 35% công nghiệp, còn lại phân bố hợp lý, tạo thành cơ cấu kinh tế có sức sống tăng trưởng bền vững (có hơn 20 triệu dân mà dự trữ ngoại tệ gần 100 tỷ USD). Tính hợp lý phân bố công nghiệp ấy, tức là kiểu “đi hai chân”, tỏ rõ sức bền vững trong cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực vừa qua.
Kinh nghiệm Thái Lan cho ta bài học ngược lại. Thái Lan tập trung hơn 80% công nghiệp ở Băng Cốc và phụ cận đã tạo ra cơ cấu không hợp lý. Nông dân lạc hậu dồn về đô thị làm đủ nghề, gây ra nhiều tệ nạn ở các đô thị, ách tắc giao thông. Cơ cấu kinh tế không hợp lý nên đã bị tàn phá nghiêm trọng trong cuộc khủng hoảng vừa rồi.
Giải pháp về phân bố công nghiệp hợp lý không chỉ tác động đến sự phát triển lâu dài , ma trứoc mắt có quan hệ đến sự phân bố kinh tế tư bản nhà nước trong cơ cấu kinh tế nước ta. Hiện nay đã hình thành sự phân bố mà nhiều người gọi là “cơ cấu hai tầng” giữa doanh nghiệp công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp công nghiệp trong nước, đã tạo ra sự mất cân đối lớn về cung - cầu trên thị trường, về trình độ kỹ thuật và trình độ quản lý. Hơn nữa, cơ cấu hai tầng công nghiệp ấy cũng ít liên kết với nông nghiệp. Đó là nguyên nhân vì sao hàng hoá xuất khẩu nước ta mở cửa nhiều năm vẫn còn chiếm 70% - 80% là sản phẩm thô, nhiều sản phẩm khó tiêu thụ.
Trong khu vực kinh tế tư bản nhà nước, sự phân bố công nghiệp hợp lý còn có những đặc điểm riêng, không giống doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, Nhà nước bằng các biện pháp kinh tế khôn khéo để hướng các nguồn đầu tư tư nhân nước ngoài và trong nước vào hướng quy hoạch, phân bố công nghiệp. Không nên kéo dài tình trạng hễ cứ có dự án chỉ coi trọng phần vốn đầu tư, không coi trọng phân bổ công nghiệp.
Đề hướng kinh tế tư bản nhà nước vào quy hoạch, phân bổ công nghiệp hợp lý, cần có những giải pháp khuyến khích, ưu tiên trên các hướng sau đây đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
1.1. Khuyến khích đầu tư vào công nghiệp nhiều hơn là vào thương mại
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, các ngành thương mại có ưu thế sản xuất hơn sản xuất công nghiệp. Người ta kinh doanh vẫn thấy thực tế là “phi thương bất phú”, nhất là buôn lậu càng giàu to, giàu nhanh. Kéo dài giai đoạn thương mại thuần tuý ban đầu, mà không sớm nâng kinh tế công nghiệp lên tầm chủ đạo, thì nền kinh tế sẽ đứng trước nguy cơ lớn trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Phải nhờ quản lý bằng phương pháp kinh tế (chứ không chỉ kêu gọi), làm cho được yêu cầu “phi công bất phú”. Đây cũng là hướng đi của các nhà đầu tư văn minh.
Khi kinh tế nhà nước, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trên lĩnh vực công nghiệp thì mới cải tạo được bộ mặt thương mại hiện nay còn nhiều dấu tích của nền thương mại trước công nghiệp hoá. Biến thương mại với công nghiệp thành một cơ cấu hướng vào nông nghiệp, nông thôn. Chỉ có nền công nghiệp hiện đại mới là cơ sở cho việc khắc phục tệ buôn lậu tràn lan, làm trong sạch bộ máy nhà nước.
Vai trò và tiến bộ kinh tế tư bản nhà nước trong định hướng xã hội chủ nghĩa bắt đầu từ đó.
1.2. Khuyến khích đầu tư vào khai thác lao động và khoa học - công nghệ nhiều hơn vào khai thác tài nguyên.
Hướng phân bổ này mang tính quy luật của nền kinh tế thị trường, nhưng các doanh nghiệp không biết nhìn đến quy luất mà chỉ quan tâm biện pháp quản lý nhà nước hướng dẫn họ.
Đối với các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp thì đây còn là vấn đề bảo vệ môi trường, đối với lĩnh vực khai khoáng thì đây còn là vấn đề bảo vệ tài nguyên.
Hướng phân bổ này sẽ khuyến khích các nhà đầu tư coi trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất, tham gia đào tạo nhân lực cho phù hợp với yêu cầu. Đồng thời, cũng thúc đẩy đổi mới hệ thống đào tạo, giáo dục ở nước ta.
Hướng phân bổ này cũng tạo điều kiện cho quá trình tích luỹ đúng ý nghĩa của nó, do đó tạo cơ sở tốt nguồn thu ngân sách ổn định tăng lên.
1.3. Khuyến khích (bằng biện pháp kinh tế) tăng đầu tư vào các ngành dịch vụ trực tiếp cho sự liên kết công nghiệp - nông nghiệp.
Liên kết công nghiệp - nông nghiệp sẽ phát sinh nhu cầu dịch vụ (về khoa học - công nghệ, về tiền tệ tín dụng, về thương mại, về xây dựng...), khác nhiều với nhu cầu dịch vụ khi công nghiệp và nông nghiệp tách rời nhau. Dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong toàn bộ các khâu hoạt động của liên kết công nghiệp -nông nghiệp. Nó sẽ thúc đẩy hiệu quả chung của hệ thống hay nó kìm hãm, chia cắt để kiếm lợi cho rieng nó. Sự liên kết càng tăng, càng hiệu quả thì mới bài trừ bớt các thủ đoạn kinh doanh lỗi thời. Hướng phân bổ đầu tư dịch vụ như vậy là hướng tiến bộ của quá trình tăng trưởng bền vững mà nước ta phải hướng tới.
Nếu để tình trạng “mỗi doanh nghiệp chỉ lo cho mình, còn Thượng đế lo cho tất cả” thì con đường lo lót, hối lộ sẽ mở rộng như giải pháp khôn ngoan. Nếu quản lý Nhà nước không thể tạo ra hệ thống kinh tế với một cơ cấu cho phép tăng trưởng bền vững, thì triển vọng các mục tiêu chiến lược chỉ là mơ ước .
Hiện nay, lĩnh vực tài chính tín dụng ngân hàng là lĩnh vực ngày càng quan trọng. Muốn đối mới trong lĩnh vực này theo quy luật kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì ngân hàng, tài chính phải là động cơ mạnh nhất thúc đẩy liên kết công nghiệp - nông nghiệp, thúc đẩy phân bổ công nghịp hợp lý, chứ không phải loanh quanh tìm giải pháp ngay trong cơ quan ngân hàng.
Theo quy luật chung, chỉ khi nền công nghiệp với cơ cấu công gnhiêp-nông nghiệp - dịch vụ hình thành thì lĩnh vực ngân hàng, tài chính mới có nền tảng của chính mình.
2. Nâng cao trình độ quản lý Nhà nước - vấn đề quyết định của sự phát triển kinh tế tư bản nhà nước đúng hướng.
Quản lý nhà nước trong một nền kinh tế đang chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội xhủ nghĩa là hoạt động mới mẻ, nhiều khó khăn, phải giải quyết các vấn đề đa dạng, đầy mâu thuẫn đặt ra. Do đó, quản lý ở nước ta không chỉ là quá trình hoạt động thực tiễn, còn là quá trình học tập, điều chỉnh, sửa sai như đã diễn ra trong thời gian qua.
Trong bối cảnh chung đó, quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, do đó quản lý sự phát triển kinh tế tư bản nhà nước còn ít kinh nghiệm, còn mới mẻ hơn so với nhiều lĩnh vực khác.
Đánh giá một cách khách quan, rút ra bài học và tiếp tục tiến lên luôn luôn là nhu cầu của Nhà nước cách mạng. Đây là một giải pháp trước mắt và có ý nghĩa lâu dài, bởi vì hoạt động quản lý nhà nước là nhân tố quyết định hai yêu cầu cơ bản của các hoạt động đầu tư trong nền kinh tế nhiều thành phần và mở cửa, hội nhập.
Yêu cầu thứ nhất: quản lý nhà nước quyết định chủ yếu về hiệu quả của các nguồn vốn đầu tư. Như thực tiễn quản lý cho thấy hai cách quản lý đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội rất khác nhau. Ở những ngành những địa phương, quản lý nhà nước đổi mới phù hợp với yêu cầu thực tiễn, thì ở đó kinh tế thị trường phát triển nhanh và tương đối lành manh (tuy rằng, số ngành và địa phương như thế còn rất ít và chưa bền vững).
Còn ở những ngành và địa phương quản lý nhà nước kém, thì ngường ta thấy sự chung sống của cơ chế quản lý nhà nước quan liêu với khuynh hướng tự phát của kinh tế tư bản chủ nghĩa và sản xuất nhỏ. Tình trạng mất mát, lỗ vốn bằng nhiều cách và được che đậy của một hệ thống, chứ không phải cuả một vài người.
Yêu cầu thứ hai: quản lý nhà nước trong bối cảnh quốc tế và trong nước hiện nay là nhân tố định hướng phát triển kinh tế thị trường, do đó định hướng phát triển kinh tế tư bản nhà nước.
Hiện nay, xu hướng chủ đạo của một nền kinh tế thị trường tương lai đang hiện dần ra. Đó là xu hướng phát triển bền vững, tăng trưỏng đi đôi với công bằng xã hội, tiến bộ xã hội và bảo vệ, hoàn thiện môi trường sinh thái.
Xu hướng thời đại nay, xét về mặt khách quan đang chống lại những mặt tiêu cực, đen tối của kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản hiện nay. Xu hướng thời đại ấy mới hình thành, còn non yếu so với khuynh hướng tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, bộ mặt kinh tế thế giới diễn ra đầy mâu thuẫn và nghịch lý.
Sự phát triển ngày càng vững mạnh của xu hướng phát triển bền vững là định hướng chung cho nền kinh tế thị trường thế giới, không kể trình độ phát triển khác nhau.
Sự phát triển của xu hướng này là thời cơ lớn cho sự phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhưng có nắm đước thời cơ không, có thức hiện được định hướng đó không, còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan số một là: quản lý nhà nước.
2.1. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước các hoạt động đầu tư nước ngoài
Từ cuối năm 1997, đứng trước trạng thái suy giảm trong hoạt động đầu tư nước ngoài, chính phủ đã có nhiều chủ trương như giảm tiền thuê đất đối với dự án đầu tư, ưu đãi thêm về thuế cho một doanh nghiệp, sử lý linh hoạt việc đổi ngoại tệ, đặc biệt là giảm thiểu thủ tục hành chính về đăng ký hành nghề, xuất nhập khẩu, hải quan, xây dựng, cũng như quy định về thanh tra, kiểm soát.Thủ tướng Chính phủ cũng đã trực tiếp gặp các nhà đầu tư, lắng nghe tâm tư và nguyện vọng của họ, giải thích rõ hơn chính sách nhất quán của nhà nước, giải quyết một số vấn đề còn vướng mắc trong đầu tư và kinh doanh. Những quan điểm cơ bản của nhà nước đối với đầu tư nước ngoài đã được khẳng định trong nghị quyết số 10/1998/NĐ/CP ngày 23-01-1998 quy định:
1. “Chính phủ Việt Nam bảo đảm thực hiện ổn định lâu dài chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Việc sửa đổi, bổ sung chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện theo nguyên tắc tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nhà đầu tư.
2. Chính phủ Việt Nam khuyến khích và giành ưu đãi đặc biệt với các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng công nghệ cao, dự án đầu tư thuộc danh mục các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư và danh mục các điạ bàn khuyến khích đầu tư.
3. Trong trường hợp các quy định mới của pháp luật làm thiệt hại đến lợi ích của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên hợp doanh đã được quy định tại giấy phép đầu tư, thì các quy định đó không áp dụng đối với các dự án đã được cấp giấy phép đầu tư. Các quy định mới ưu đãi hơn được ban hành sau khi doanh nghiệp đã được cấp giấy phép đầu tư, sẽ được cơ quan cấp giấy phép đầu tư điều chỉnh cho doanh nghiệp được hưởng theo quy định mới”.
Dưới đây sẽ nêu ra một số giải pháp chủ yếu có liên quan đến việc nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài.
2.1.1.Các giải pháp thực hiện chính sách đầu tư nhà nước.
Ngoài việc thực hiện tốt các chính sách được quy định trong nghị định số 10/1998/NĐ/CP ngày 21-01-1998, cần lưu ý đến chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là chính sách tài chính và tiền tệ bảo đảm trạng thái ổn định về kinh tế và xã hội, tránh các “liệu pháp sốc” về tiền tệ, duy trì một tỷ lệ lạm phát hợp lý đồng thời bổ sung các chủ trương, chính sách mới, có nhiều phương thức đa dạng hơn trong đầu tư nước ngoài.
- Hiện nay ở nước ta mới áp dụng ba hình thức đầu tư là doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và hợp đồng hợp tác kinh doanh. Do vậy các nhà đầu tư sau khi được cấp giấy phép đầu tư, mới thành lập doanh nghiệp. Một số tập đoàn lớn có hàng chục dự án đầu tư, thì mỗi dự án là một doanh nghiệp độc lập, có bộ máy riêng. Để khác phục tình trạng đó, cần có chính sách cho lập công ty trước khi có dự án đầu tư, mỗi công ty có thể quản lý nhiều dự án.
- Các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở nước ta phần lớn là công ty cổ phần, đăng ký ở các thị trường chứng khoán, có kinh nghiệm về buôn bán chứng khoán, do vậy để có thể huy động nhanh hơn vốn đầu tư, đồng thời đẩy mạnh tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, tạo ra hàng hoá cho thị trường chứng khoán đã được khai trương, cần có chính sách cho các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các doanh nghiệp trong nước, cho doanh nghiệp nước ngoài phát triển cổ phiếu để huy độngvốn kinh doanh. Đây là một công việc mới mẻ, nên có thể làm thí điểm rồi mở rộng dần khi điều kiện cho phép.
- Đã có một số quỹ đầu tư của nước ngoài như Viet Nam Fund, Beta Fund hoạt động ở nước ta nhưng cho đến nay nhà nước ta chưa có chính sách rõ ràng, nên khó phát triển. Các quỹ này là một dạng công ty tài chính, huy động vốn của nhiều cổ đông, thực hiện hoạt động đầu tư chủ yếu bằng mua lại cổ phần của các dự án đã có, sau một thời gian hoạt động sẽ tìm cách bán lại, hưởng lợi nhuận, cũng có trường hợp đầu tư vào dự án mới. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích việc lập các quỹ đầu tư để có thể thu hút đầu tư thêm vốn của cá nhân và doanh nghiệp nhỏ ở nước ngoài.
- Trong những lĩnh vực không cho phép và hạn chế đầu tư nước ngoài đã được công bố, cần quy định rõ ràng việc các nhà đầu tư được chọn hình thức đầu tư, các cơ quan nhà nước chỉ có thể nêu khuyến nghị, nhưng không được can thiệp vào việc lựa chọn của họ. Theo đó, việc chuyển từ hình thức liên doanh sang 100% vốn nước ngoài, hoặc ngược lại đều dựa trên sự hiệp thương của các nhà đầu tư. Tôn trọng quyền của nhà đầu tư trong việc thành lập các liên doanh, kể cả việc đóng góp vốn, miễn là phù hợp với quy định của pháp luật, chấm dứt tình trạng ra những mệnh lệnh không thành văn, trái luật.
Có chủ trương rõ ràng về đầu tư nước ngoài trong một số dịch vụ tài chính, ngân hàng, viễn thông... là những dịch vụ nhậy cảm và đang có áp lực tự do hoá đầu tư, nhưng hiện nay đang xử lý thiếu nhất quán.Trong lĩnh vực bảo hiểm, kể cả bảo hiểm nhân thọ nên cho áp dụng các hình thức liên donah và 100% vốn nước ngoài. Trong lĩnh vực ngân hàng cần khuyến khích đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực thuê mua (finace leasing), theo yêu cầu của thị trường vốn, mở rộng dần sự tham gia của ngân hàng nước ngoài trong kinh doanh nội tệ.
-Để khắc phục tình trạng độc quyền về dịch vụ bưu chính viễn thông, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, để nâng cao chất lượng và hạ giá dịch vụ viễn thông hiện còn cao hơn ở nhiều nước khác, cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam liên doanh với nước ngoài, lập các công ty kinh doanh trong lĩnh vực này.
Các chính sách liên quan đến đầu tư nước ngoài cần được xây dựng phù hợp với xu hướng tự do thương mại và đầu tư trong khu vực và trên thê giới, nhất là khi đã tham gia AFTA, APEC, WTO... thì nước ta phải chuẩn bị nhanh các điều kiện để phù hợp với xu hướng đó.
2.1.2.Về việc hoàn thiện cơ sở pháp lý cho đầu tư nước ngoài.
Đứng trước thực trạng các luất pháp nước ta còn chưa thống nhất, chưa có đủ cơ sở pháp lý cho hoạt động dầu tư , cuộc sốgn lại nảy sinh một số vấn đề mới, trong khi đó, các nước trong khu vực đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi có ảnh hưởng đến lợi thế so sánh của nước ta, do vậy, cần tiến hành đồng thời những việc sau đây:
- Rà soát các văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư nhà nước để điều chỉnh những nội dung không thống nhất, bãi bỏ những quy định trái với các chính sách hoặc với luật, những thủ tục gây phiền hà, không phù hợp với cơ chế mới. Đây là một công việc không đơn giản, nếu giao cho các cơ quan chức năng tiến hành, thì thực tế chỉ ra là khó thức hiện hoặc chậm, vì thiếu tính khách quan khi xem xét các quy định hiện hành, thậm chí không muốn sửa đổi những nội dung có liên quan đến quyền hạn của mình. Nên chăng, giao cho một số viện nghiên cứu, hoặc cơ quan tư vấn thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học.
- Do yêu cầu của các doanh nghiệp trong nước, chủ yếu hiện nay là vừa và nhỏ về việc đẩy nhanh quá trình tích luỹ, mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ, cũng như đòi hỏi của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ gia nhập về một lộ trình giảm dần hàng rào thuế quan và phi thuế quan, cần thiết kế cho được một hệ thống thuế quan đơn giản, rõ ràng, điều chỉnh những mức thuế khong hợp lý như thuế thu nhập cá nhân, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hoạt động du lịch, vui chơi giải trí, thuế chuyển lợi nhuận về nước, quan hệ giữa thhuế nhập khẩu thành phẩm và thuế các sản phẩm sản xuất từ nguyên liệu, linh kiện và phụ tùng trong nước. Cần lưu ý rằng, không thể hình thành được một hệ thống thuế hợp lý, nếu không có quan điểm đúng về xây dựng một nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, do một tập hợp các doanh nghiệp thuộc nhiều loại hình được khuyến khích phát triển, từng bước đủ sức hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với các nước.
- Ở nước ta đang tồn tại Luật đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước, còn có nhiều chênh lệch trong các chính sách ưu đãi trong hai luật này. Từ vài năm gần đây đã có ý định về việc xây dựng một luật chung cho cả hai loại đầu tư. Điều đó là cần thiết, nhưng cần một thời gian để giảm dần sự khác nhau về thuế, về giá trị dịch vụ...Do vậy, nên tiến hành theo hai bước.
Bước thứ nhất: bổ sung những nội dung mới và sửa đổi các quy định không còn phù hợp như đã đề cập ở điểm một, đồng thời tham khảo các chính sách mới của các nước để lựa chọn những vấn đề cần thiết phải đưa vào luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam nhằm bảo đảm lợi thế cạnh tranh của nước ta.
Đồng thời, tiến hành điều chỉnh một số giá dịch vụ như hàng không, điện lực bưu chính viễn thông, giao thông vận tải, tiền thuê đất... theo hướng áp dụng một giá chung cho cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước. Việc này sẽ đụng đền nguồn thu của một số doanh nghiệp có liên quan cũng như nguồn thu của ngân sách nhà nước, do vậy cần có phương án đồng bộ để xử lý.
Bước thứ hai: sau vài năm về bàn hành một luật đầu tư cho cả nước ngoài và trong nước.
- Hiện cũng đang có nhiều luất doanh nghiệp để điều chỉnh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tập thể và doanh nghiệp tư nhân. Sự tồn tại của nhiều luật điều chỉnh cùng một hành vi đã tạo ra sự khác biệt đến mức khác biệt đến mức thiếu bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Tình trạng đó đã thể hiện rõ nét trong hoạt động của các khu công nghiệp. Hiện đang tiến hành xây dựng Luật Khu công nghiệp, nhưng thiết nghĩ, luật này sẽ không khắc phục được nhược điểm đó, mà nên đi theo hướng khác: hình thành một luật công ty chung để điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Bãi bỏ tất cả quy định không đúng thẩm quyền, hoặc trái luật của bất kỳ cơ quan nhà nước ở cấp nào, xử lý nghiêm hiện tượng lạm quyền trong việc ban hành các quy định, cũng như thực hiện luật pháp của Nhà nước. Cần hướng dẫn, tuyên truyền pháp luật cho các doanh nghiệp, cho dân chúng, những người làm công tác truyền thông đại chúng để tự giác thực hiện đúng pháp luật.
- Cũng cần cải tiến quy trình xây dựng luật pháp để đáp ứng được tính hệ thống, nhất quán, cũng như thời gian cần thiết. Lấy thí dụ về hai luật ngân hàng đã được Quốc hội thông qua từ cuối năm 1997, có hiệu lực thì hành từ ngày 01-10-1998, phải xây dựng 23 nghị định của Chính phủ để hướng dẫn thi hành, mỗi nghị định phải có thông tư hướng dẫn của ngân hàng nhà nước, hoặc liên bộ, tạo ra một khối lượng văn bản pháp quy đồ sộ, mà trong đó có khá nhiều nội dung được nhắc lại từ quy luật hoặc nghị định.
Do vậy, dẫn đến tình trạng không thể hoàn thành đúng thời hạn và có khá nhiều nội dung cũng chưa được nghiên cứu toàn diện. Chính vì vậy mà nhiều luật và nghị định phải điều chỉnh, sửa đổi bổ sung. Xu hướng quản lý nhà nước hiện đại đòi hỏi một hệ thống luật rất cụ thể, chi tiết, có thể điều chỉnh được các hành vi của toàn xã hội. Đã đến lúc nước ta cũng cần xây dựng hệ thống luật pháp theo xu hướng đó, như vậy phải quy định tại các Nghị định của chính phủ, thậm chí tại Thông tư hướng dẫn của Bộ, trở thành nội dung của luật.
Có như vậy, hiệu lực pháp luật sẽ được nhân thức đúng như vốn có, mà không bị các văn bản dưới luật giải thích không phù hợp với luật, và việc thi hành luật bảo đảm đúng thời hiệu do cơ quan lập pháp quy định, không phụ thuộc vào công việc của cơ quan hành pháp. đương nhiên vẫn cần có văn bản hướng dẫn thi hành, nhưng không phải hướng về nội dung của các điều luật.
2.1.3.Về việc nâng cao năng lực điều hành của bộ máy nhà nước.
Như trên đã lưu ý, Nhà nước cần nhận thức đúng những hạn chế của mình, tập trung hành động vào những vấn đề thuộc phạm vi chức năng để phát huy những hiệu lực tối đa trong việc thực hiện chiến lược phát triển. Trên tinh thần đó, trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, càn cải tiến một cách rõ rệt để nâng cao hiệu lực điều hành của bộ máy nhà nước.
- Những năm gần đây, Chính phủ và các cơ quan hành chính địa phương đã tiến hành lập quy hoạch phát triển tổng thể từng ngành, từng địa phương. Tuy vậy, nhiều bản quy hoạch chưa đủ căn cứ để quyết định phân bổ các dự án đầu tư nước ngoài, nên thường phụ thuộc vào ý đồ của các nhà đầu tư, trong nhiều trường hợp không hợp lý, gây hậu quả lâu dài cho việc phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với yêu cầu từng địa phương và trong cả nước.
Cũng vì vậy mà nảy sinh tình trạnh trong một thời gian ngắn có đến hơn 70 khu công nghiệp trong cả nước. Để khắc phục nhược điểm đó, Chính phủ cần đưa ra quy hoạch phân bổ đầu tư để chỉ dẫn rõ ràng về hướng phát triển chung của cả nước, của từng ngành, trên cơ sở, mỗi địa phương lập quy hoạch chi tiết việc phân bổ các công trình đầu tư, bao gồm cả đầu tư nước ngoài, từ đó xây dựng danh mục dự án để tiến hành vận động đầu tư, chủ động trong đàm phán và ký hợp đồng phù hợp với luật pháp; đồng thời, bảo đảm lợi ích của cả hai bên tham gia.
- Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, đã diẽn ra khuynh hướng “phi kế hoạch hoá”, làm giảm sút vai trò của công tác kế hoạch. Trong những năm gần đây lại diễn ra khuynh hướng ngược lại, khôi phục và tăng cường tính tập trung của kế hoạch hó. Cả hai khuynh hướng đó đều không phù hợp với kinh tế thị trường hiện đại, đòi hởi phải kết hợp hài hoà cơ chế tự điều chỉnh của các quan hệ thị trường với cơ chế điều chỉnh bằng kế hoạch.
Nhà nước cần tập trung vào kế hoạch định hướng, phù hợp với chiến lược phát triển, tôn trọng quyền tự chủ quyết định trong đầu tư và kinh doanh của các doanh nghiệp, không nên dồn quá nhiều công sức vào việc thẩm định và ra quyết định cụ thể đối với từng dự án. Bởi vì, việc thực hiện các dự án phụ thuộc chủ yếu vào tình trạng thị trường và năng lực tài chính của doanh nghiệp.
Do vậy, cần tiến tới ban hành các chỉ dẫn chi tiết đối với việc lập dự án; trên cơ sở đó đối với dự án nhỏ có thể áp dụng phương pháp thẩm định đơn giản, cũng có thể thực hiện đăng ký ở cơ quan thẩm quyền của nhà nước, chỉ khi chủ đầu tư kiến nghị về việc ưu đãi thuế thì mới phải thẩm định để đối chiếu với các quy định của pháp luật. Cần chuyển trọng tâm công tác quản lý nhà nước vào việc hướng dẫn, hỗ trợ và giám sát việc triển khai dự án, cũng như các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Trong tình hình khó khăn hiện nay, các cơ quan nhà nước cần giải quyết từng trường hợp cụ thể, giúp các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xử lý các khó khăn về thị trường, về vốn vay, về nợ thuế, áp dụng các giải pháp hợp lý để tạo điều kiện cho doanh nghiệp vượt qu trạng thái trì trệ, tìm cách thoát khỏi khủng hoảng. Đó cũng là cách vận động đầu tư tốt nhất, vì hiện đã có hàng nghìn công ty nước ngoài thuộc hàng chục nước đầu tư vào Việt Nam, thái độ và cách xử lý đúng của các cơ quan nhà nước sẽ được truyền đi khắp thế giới.
- Cần khắc phục những nhược điểm về tổ chức và phân cấp quản lý như đã vạch ra trên đây. Để quyết định đầu tư được nhanh chóng, có thể nghiên cứu một mô hình tổ chức có đủ quyền lực để giải quyết nhanh nhiều vấn đề phức tạp trong hoạt động đầu tư nước ngoài, dựa trên kinh nghiệm của nhà nước, cũng như từ thực tế của việc thay đổi tổ chức năm 1995; lập một hội đồng quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài, do Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch, có sự tham gia của một số bộ trưởng, có một văn phòng gồm các chuyên gia giỏi do Tổng thư ký hội đồng chỉ đạo công việc hàng ngày.
Trong khi dự án đầu tư chưa nhiều, không nên phân cấp việc thẩm định dự án và cấp giấy phép đầu tư, mà nên giải quyết theo phương thức đăng ký các dự án nhỏ, như đã nêu ra trên đây, còn các dự án lớn thì do Hội đồng quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài quyết đinh.
Vấn đề giảm thiểu các thủ tục hành chính đã được sự quan tâm không chỉ của các doanh nghiệp mà cuả từng người dân, có rất nhiều quyết định và cả cách làm, như chủ trương “một dấu, một cửa”, nhưng xem ra tình trạng phiền hà chưa hề thuyên giảm. Ở đây đụng đến vấn đề cốt lõi là cấu trúc lại chính bộ máy nhà nước, để tích ứng với yêu cầu cao hơn của đời sống kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. Khó mà giải quyết được tình trạng thủ tục phiền hà của cơ quan nào là cơ quan nhà nước, nếu không có một cuộc cách mạng thật sự trong việc tổ chức lại toàn bộ hệ thống nhà nước từ Trung ương đến địa phương, theo hướng đơn giản có hiệu lực.
2.2.Khuyến khích phát triển quy mô và hiệu qủa đầu tư trong nước.
Các nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế (nguồn nhà nước, doanh nghiệp, dân cư) , cũng như hệ thống số ICOR trong hoạt động đầu tư đều có quan hệ đến việc phát huy nội lực từng thời kỳ. Muốn tăng trưởng cao và bền vững, phải bảo đảm được hiệu quả đầu tư, nghĩa là giữ được hệ thống số ICOR hợp lý.
Vấn đề đàu tư trong nước không chỉ là vấn đề số lượng vốn đầu tư, mà còn thể hiện quan điểm của bộ máy quản lý đối với mọi nguồn lực dân tộc, đối với quan hệ đối tác với nước ngoài (mối quan hệ đầu tư nước ngoài với đầu tư trong nước).
Nhìn lại đầu tư trong nước từ năm 1991 đến 2000 thấy rõ, nhờ đường lối kinh tế nhiều thành phần, vốn đầu tư trong nước tăng nhanh trong thời kỳ 1991-1998, nhưng sau đó giảm, nhất là thành phố Hồ Chí Minh năm 1999 giảm 20,2% đầu tư trong nước.
Đến nay, có thể đưa ra một số nhận xét về đầu tư trong nước những năm qua.
- Nguồn vốn đầu tư trong nước ngày càng được đa dạng hoá, bao gồm từ vốn ngân sách nhà nước, từ doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và dân cư, tư vốn huy động trái phiếu công trình, từ vốn cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
- Về cơ cấu đầu tư trong nước có thay đổi; tỷ trọng vốn đầu tư của Nhà nước giảm (nhưng khối lượng vốn tăng), còn tỷ trọng nguồn vốn ngoài nhà nước tăng. Theo bộ Tài chính, trong 5 năm (1991-1995) tỷ trọng nguồn vốn nhà nước (bao gồm ngân sách, tín dụng nhà nước, tín dụng doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nhà nước đầu tư) chiếm 36,1% tổng đầu tư trong nước, còn nguồn vốn ngoài Nhà nước đầu tư chiếm 37,7%.
- Hình thức đầu tư cũng có biến đổi, đã có các dự án theo hình thức; Hợp đồng xây dựng - kinh doanh; chuyển giao (BOT); Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh; Hợp đồng xây dựng-chuyển giao-kinh doanh (BT) cả trong và ngoài nước.
- Xu hướng sử dụng vốn đầu tư đang nghiêng về thương mại, dịch vụ, những lĩnh vực có lợi nhuận cao, thu hồi vốn nhanh.
- Hạn chế về đầu tư trong nước hiện nay là thu hút vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư. Hai mặt đó có nguyên nhân về môi trường đầu tư kém hấp dẫn và quản lý nhà nước (cũng là nguyên nhân của sự suy giảm đầu tư nước ngoài).
Tỷ trọng của nguồn vốn các thành phần ngoài nhà nước trong đầu tư trong nước tăng lên là hợp quy luật. Trong đó đầu tư vào khu vực kinh tế tư bản nhà nước sẽ là một xu hướng; theo tài liệu của Tổng cục thống kê vào mấy năm phát triển cao nhất, nhà nước hợp tác với các thành phần kinh tế khác trong nước (cổ phần hoá doanh nghiệp và liên doanh) tăng lên: 25 tỷ đồng (1994), 46 tỷđồng (1995), 100 tỷ đồng (1996). Cùng thời gian tương ứng, nhà nước liên doanh với nước ngoài là 58.562 tỷ (1994), 78.783 tỷ (1995), 100.975 tỷ (1996).
Rõ ràng là vốn đầu tư khu vực kinh tế tư bản nhà nước không ngừng tăng là xu hướng tất yếu. Xu hướng này gây ra lo ngại cho một người sợ xuất hiện sự chệch hướng về kinh tế, nhưng lại không nhận ra vai trò định hướng bằng kinh tế thông qua phát triển kinh tế tư bản nhà nước.
Rõ ràng, khi bộ máy quản lý chưa tin vào các doanh nghiệp trong nước (ngoài quốc doanh) thì chắc chắn họ không thể tin cậy nhà nước thật sự, chưa yên tâm phấn khởi phát triển kinh tế. Ngay cả quy định pháp luật đã có thì người ta cũng không hy vọng cơ quan nhà nước nghiêm chỉnh thực hiện. Đó là nguyên nhân chủ yếu của tình trạng đầu tư trong nước, giảm lòng tin đối với bộ máy quản lý.
Môi trường đầu tư trong nước kém đến mức những người có vốn muốn đnàg hoàng làm ăn theo pháp luật, muốn đóng góp cho đất nước cũng nản lòng. Trái lại, môi trường đó là “cơ hội làm ăn” béo bở cho một số người xấu ở doanh nghiệp và ở cơ quan quản lý nhà nước.
Hiện nay đã có Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) và Nghị định 07 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật này, nên đã cải thiện về môi trường pháp lý. Nhưng còn quan trọng hơn là phân bổ vốn đầu tư và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư sao cho vừa có lợi cho nhà đầu tư, vừa có lợi cho tăng trưởng nền kinh tế.
Để làm được điều đó , vấn đề then chốt khong phải chỉ là thiếu vốn, lao động, công nghệ, tài nguyên, mà là phải biết kết hợp các yếu tố đó lại sao cho có hiệu quả. Sự kết hợp ấy ở cấp vĩ mô là quy hoạch hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, biết tận dụng mọi nguồn lực (vốn, tièm năng) của các thành phần kinh tế. Ở cấp cơ sở doanh nghiệp là xây cơ cấu đầu tư của doanh nghiệp phù hợp với thị trường đang biến đổi nhanh. Các giải pháp trong lĩnh vực này phải nhằm vào:
- Xây dựng chiến lược kinh tế - xã hội hợp lý, làm căn cứ cho xác định phương hướng đầu tư. Sớm khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải và đầu tư kiểu “phong trào” ở các địa phương chồng chéo nhau.
- Nâng cao vị thế của doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, cần có biện pháp kinh tế kích thíc quá trình tích tụ vốn, mở rộng quy mô, tăng nhanh tiềm lực, chất lượng sản phẩm và trình độ quản lý. Trong điều kiện ngânn sách nhà nước eo hẹp thì không nên vội vàng “hái quả xanh” như kiểu thu nhập đối với khu vực kinh tế nông thôn đẩy hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển.
- Nhà nước chủ động trong việc bồi dưỡng, đào tạo nhân lực cho doanh nghiệp tư nhân, nhất là bồi dưỡng nâng cao trình độ các giám đốc với chi phí ít.
Các giải pháp quản lý vĩ mô về tăng nhanh quy mô và hiệu quả đầu tư trong nước sẽ được hình thành đầy đủ khi có sự thống nhất giữa luật đầu tư nước ngoài với luật đầu tư trong nước.
2.3. Cải cách hệ thống thông tin quản lý của bộ máy nhà nước.
Hiện nay, hoạt động quản lý nhà nước đứng trước sự mở rộng nhanh chóng về không gian quản lý và sự rút ngắn nhiều hơn về thời gian quản lý. Tình hình đó vấp phải sự cản trở của hệ thống thông tin quản lý lỗi thời vốn phù hợp với bộ máy quan liêu, giấy tờ.
Ai cũng có thể nhận ra rằng: bộ máy quản lý hành chính hiện nay hoạt động thiên về mệnh lệnh, nhẹ về phục vụ yêu cầu phát triển. Tổ chức bộ máy hầu như nhằm tạo sự dễ dàng cho người quản lý, chứ không phải dành thuận lợi cho khách hàng, cho nhân dân. Tổ chức bộ máy như thế, vừa không định rõ chức năng và trách nhiệm, vừa không thể kiểm soát được. Đó cũng là nguyên nhân vì sao hệ thống pháp luật của ta chưa được thi hành nghiêm túc, thạm chí đã xuất hiện bộ phận cán bộ nhà nước coi thường pháp luật.
Giải pháp cải cách hệ thống thông tin quản lý từ trên xuống dưới không có gì khó khăn về kỹ thuật và tài chính, nếu các cấp quản lý thực sự có nhu cầu thông tinh chính xác, kịp thời.
2.4. Xây dựng một đội ngũ công chức nhà nước và đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy.
Vấn đề tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng công chức nhà nước luôn được đặt ra như là một nhiệm vụ quan trọng của công tác quản nhà nước. Tuy vậy, để thực hiện tốt nhiệm vụ đó, cần có quan điểm mới về công chức nhà nước.
- Kinh nghiệm của nhà nước, nhất là những nước đã thành công trong phát triển kinh tế đều khẳng định rằng, tư chất và năng lực của công chức nhà nước là yếu tố quyết định đối với quá trình phát triển của một nước. Do vậy, công chức nhà nước phải là người ưu tú, có trình độ chuyên môn cao, được tuyển chọn qua các kỳ thi quốc gia và được bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao năng lực công tác.
Thực tế ở ta có rất nhiều sinh viên mới tốt nghiệp đại học, do quan hệ thân quen đã được nhận vào làm việc ở các bộ, nghiễm nhiên trở thành chuyên viên, thực thi những nhiệm vụ quan trọng, trong khi chưa qua bất kỳ một công tác thức tế nào cả. Ở Nhật Bản, hàng năm, viện nhân sự, một cơ quan độc lập với các bộ, mở ba kỳ thi để tuyển chọn công chức loại 1,2,3. Những người chúng tuyển loại 1 sẽ được đào tạo để trở thành cán bộ lãnh đạo trong tương lai.Còn những người chúng tuyển loại 2,3 hầu hết làm công tác chuyên môn như kế toán, văn thư...cuộc tuyển chọn công chức loại 1 có mức độ cạnh tranh rất gay gắt, vì họ đều là những người ưu tú, đã vượt qua nhiều cửa ải trước khi dự kỳ thi này, số người được tuyển hàng năm là 1000 người, trong khi số dự tuyển gấp 50 lần.
Nước ta cần thay đổi cơ bản cách tuyển chọn công chức để chọn lựa được những người ưu tú cho bộ máy nhà nước.
Cần có quan niệm đúng trong việc đãi ngộ công chức nhà nước, không thể duy trì lâu tình trạng tiền lương hàng tháng không đủ sống, tình trạng bình quân trong thang lương, cũng như mức chênh lệch quá lớn về thu nhập giữa công chức nhà nước với các chuyên viên và cán bộ quản lý kinh doanh. Đây cũng là một vấn đề gắn với chủ trương chống phiền hà, tham nhũng của các công chức nhà nước.
- Cần có chế độ thuyên chuyển công tác theo thời gian, không nên để một người đảm nhiệm quá lâu một chức vụ; đồng thời, cần quy định cơ chế giám sát của xã hội đối với công chức nhà nước, làm cho mỗi công chức đều phải hết sức thận trọng và giữ gìn nếp sống lành mạnh.
Đi đôi với việc xây dựng đội ngũ công chức nhà nước, không thể không đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy thì hiệu quả quản lý nhà nước mới được bảo đảm. Nghị quyết của Đảng luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác tổ chức - cán bộ. Nhưng thực hiện vấn đề cơ cấu tổ chức với vấn đề cán bộ (hai vấn đề quan trọng hàng đầu) vẫn kéo dài tình trạng tách rời; do đó, kéo dài tình trạng lạc hậu của cơ cấu tổ chức và bố trí nhân lực so với nhu cầu đổi mới.
Ở đây, có mối quan hệ giữa tổ chức với cá nhân mỗi cán bộ. Kinh nghiệm cho thấy: Khi làm việc trong một tổ chức tốt thì người kém có thể khá lên, còn trong một tổ chức kém thì người tốt không thể phát huy được, thậm chí bị bật ra ngoài. Trong khái niệm tổ chức nên hiểu là gồm bộ máy và người đứng đầu. Những người lãnh đạo, quản lý giỏi không bao giờ chịu bó tay trước một bộ máy kém cỏi.
Trên thực tế, vấn đề tổ chức và cán bộ thường gắn liền với mỗi thời kỳ lịch sử nhất định. Trong thời kỳ hưng thịnh, nhân dân thường thấy bộ máy và cán bộ trong sạch, vững mạnh, sát dân, được dân yêu mến tin cậy. Trong thời kỳ trì trệ, bộ máy phát sinh nhiều bệnh hoạn, cán bộ và thủ trưởng quan liêu, chăm lo lợi ích riêng của mình hơn là lo lắng trong công việc.
Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới công tác tổ chức và cán bộ phải tập trung hướng vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế. Hãy bắt đầu đổi mới bộ máy tổ chức kinh tế và đội ngũ quản lý kinh tế. Thành công của công tác tổ chức và cán bộ ở lĩnh vực kinh tế chắc chắn sẽ là động lực mạnh mẽ cho đổi mới công tác này trên các lĩnh vực khác.
KẾT LUẬN
Vấn đề kinh tế tư bản nhà nước là một trong những vấn đề chủ yếu và khó khăn trong xây dựng quan hệ sản xuất ở nước ta. Thực tiễn đổi mới cho thấy rằng, một mặt, những thành tựu kinh tế trong hơn 10 năm đổi mới vừa qua, trước hết là kết quả của đổi mới nhận thức về quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1896). Mặt khác, những hạn chế, trì trệ, suy giảm trong phát triển kinh tế mấy năm gần đây, chủ yếu cũng do nhận thức chưa đầy đủ về quan hệ sản xuất ở mức độ mới cao hơn. Do không theo kịp yêu cầu về đổi mới tư duy kinh tế chính trị trong giai đoạn mới, nên những nhược điểm trong tổ chức bộ máy, trong bố trí cán bộ phát triển thành những biểu hiện thoái hoá bộ phận trong bộ máy các cấp: Nói nhiều làm ít, nói nhưng không làm, nói một đằng làm một nẻo.
Đặt vấn đề kinh tế với chính trị ở tầm vóc ấy cũng có nghĩa là vấn đề phát triển kinh tế với một hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp là quan trọng biết nhường nào, cấp bách biết nhường nào trong điều kiện nước ta chậm tiến trong khi các nước trong khu vực đang phục hồi sau khủng hoảng. Sự thật là đối với nước ta nhân tố thời gian cũng có ý nghĩa về mặt thời cơ và thách thức. Vì vậy, không thể kéo dài tình trạng trì trệ về những vấn đề chiến lược quan trọng như vấn đề quan hệ sản xuất, vì giải quyết đúng và kịp thời vấn đề quan hệ sản xuất thì mới thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hôị phát triển, mới có sự tăng trưởng cao và bền vững.
Việc giải quyết vấn đề quan hệ sản xuất ở nước ta hiện nay gặp khó khăn chủ yếu là thừa nhận những hình thức kinh tế quá độ một cách khách quan và thúc đẩy chúng phát triển. Đồng thời, tìm tòi hình thức tổ chức kinh tế, hướng chúng vào định hướng xã hội chủ nghiã. Khi khẳng đinh sự cần thiết cuả nhiều thành phần kinh tế, cũng có nghĩa là khẳng định kinh tế tư nhân và tư bản tư nhân, khi đòi hỏi định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế nhiều thành phần, thì cũng có nghĩa là phải xác định đúng vai trò, vị trí kinh tế tư bản nhà nước.Xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất (trong đó có kinh tế tư bản nhà nước) trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tự nó xác định vai trò của kinh tế nhà nước. Nhận thức mới về vai trò kinh tế nhà nước là làm “bà đỡ” cho nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ra đời, không có nó không thể tạo lập cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội.Nhưng kinh tế nhà nước chỉ phát huy được vai trò khi nó trở thành một bộ phận của kinh tế thị trường, chứ không đứng ngoài kinh tế thị trường, khi hoạt động chủ yếu của nó vì sự phát triển mạnh mẽ của cả nền kinh tế, cuả các thành phần, chứ không phải vì bản thân nó.
Những vấn đề nêu ở trên là cơ sở của toàn bộ những chính sách và giải pháp đối với kinh tế tư bản nhà nước trong điều kiện nước ta hiện nay. Những người nghiên cứu đề tài này tin tưởng rằng, một khi tư duy lý luận kinh tế chính trị tiếp tục đổi mới và nâng cao; đồng thời vận dụng vào đổi mới về tổ chứ bộ máy và cán bộ, thì nền kinh tế của nước ta hiện ở điểm xuất phát mới, sẽ đạt tới sự tăng trưởng bền vững. Tiềm năng lớn lao của dân tộc ta gắn liền với trình độ mới của lãnh đạo - quản lý vĩ mô là bảo đảm chắc chắn cho việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu chiến lược đặt ra trong đường lối phát triển kinh tế của Đảng khi bước vào thế kỷ XXI.
DANH MỤC THAM KHẢO
1. Cơ chế thị trường và vai trò kinh tế của Nhà nước ở Việt Nam
NXB thống kê 1994
2. Đổi mới và hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý ở nước ta
3. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hiện nay 1996, trang 91 - 96.
4. Vũ Hữu Ngoan: Mấy vấn đề về chủ nghĩa tư bản Nhà nước, NXB chính trị quốc gia hiện nay 1995.
5. Vũ Ngọc Long: Về cuộc cải cách kinh tế của Lênin, NXB thanh niên hiện nay 1996.
6. Nghiên cứu lý luận số 226 - tháng 3/1997
7. Nghiên cứu lý luận số 3/1998
8. Tạp chí cộng sản , số 8 tháng 7/1995.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TLTH021.doc