Đề tài Những kiến nghị về việc đổi mới chính sách cho vay giải quyết việc làm, tăng cường hiệu quả chương trình xoá đói giảm nghèo trong giai đoạn tới

Cho vay giải quyết việc làm để xoá đói giảm nghèo là một mục tiêu lớn của Đảng và Nhà nước phù hợp với đường lối phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: "Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân"; kinh tế cá thể, tiểu chủ "được Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển"; kinh tế tư bản tư nhân "được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm".

doc23 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1542 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những kiến nghị về việc đổi mới chính sách cho vay giải quyết việc làm, tăng cường hiệu quả chương trình xoá đói giảm nghèo trong giai đoạn tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC STT Nội dung Trang Mở đầu 2 I Phần thứ nhất Thực trạng dự án vay vốn của ông Hoàng Văn Bình 4 1 Quá trình thực hiện dự án 4 2 Nguyên nhân dẫn đến dự án không trả được nợ đến hạn 5 3 Những bất cập trong quản lý và hậu quả 8 II Phần thứ hai Phương án giải quyết 10 1 Mục tiêu xử lý tình huống 10 2 Nội dung các phương án 10 3 Phương thức thực hiện phương án 3 14 III Phần thứ ba Những kiến nghị về việc đổi mới chính sách cho vay giải quyết việc làm, tăng cường hiệu quả chương trình xoá đói giảm nghèo trong giai đoạn tới 15 Kết luận 19 Tài liệu tham khảo 21 MỞ ĐẦU * * * Việt Nam đang phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong những năm qua thường xuyên đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, đứng hàng đầu trong khu vực. Tuy nhiên, với mục tiêu “Tất cả vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì vấn đề xoá đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm cho người lao động nhằm khắc phục những hạn chế của cơ chế thị trường đang được xem là một mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Trong những năm qua, cùng với tiến trình đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, kinh doanh thì việc gia tăng dân số ở nước ta đã và đang đưa công tác giải quyết công ăn việc làm cho người lao động trở thành vấn đề bức xúc của xã hội. Trong khi đó, nguồn nội lực của đất nước như tài nguyên thiên nhiên, tiềm năng đất đai, số vốn nhàn rỗi trong dân và đặc biệt lực lượng lao động trẻ năng động, giàu sức sáng tạo, với khát vọng và bầu nhiệt huyết sục sôi muốn góp sức phát triển kinh tế đất nước và làm giàu chính đáng lại chưa được khai thác, phát huy triệt để. Đảng và Nhà nước ta đã xác định, muốn đưa đất nước ta từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ lẻ, phân tán trở thành một nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì vấn đề phát huy mọi nguồn nội lực là rất quan trọng. Việc giải quyết vấn đề vốn là cần thiết cấp bách. Bởi vì, cùng với các thành phần kinh tế khác, sự phát triển của kinh tế tư nhân sẽ góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng thêm số lượng công nhân, lao động và doanh nhân Việt Nam, thực hiện các chủ trương xã hội hóa y tế, văn hóa, giáo dục... Xuất phát từ tầm quan trọng trên, với phương châm “Cho cần câu hơn cho xâu cá”, trong nhiều năm qua, Nhà nước ta đã triển khai thực hiện chính sách cho vay giải quyết việc làm cho người lao động theo Nghị quyết 120/HĐBT ngày 11/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng. Sau hơn mười năm thực hiện, chương trình cho vay giải quyết việc làm cho người lao động ở nước ta đã mang lại nhiều thành công, được bạn bè quốc tế công nhận và đánh giá cao về những kết quả mà chương trình này đem lại. Ước tính mỗi năm đã tạo việc làm mới và việc làm thêm cho trên một triệu người. Riêng năm 2002 ước tính đạt 1,42 triệu người, tăng 1,4 % so với năm 2001. Cơ cấu lao động đã có bước chuyển biến tích cực theo hướng giảm tỷ trọng lao động khu vực nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ. Năm 2002, tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp là 60,95 %; khu vực công nghiệp là 15,08 % và thương mại dịch vụ là 23,96 %. Do kết quả giải quyết việc làm đã giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị xuống 6,01 %; nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 75,29 %. Mặc dù đã đạt được kết quả đáng khích lệ, song trên thực tế việc triển khai chương trình này ở một số vùng, địa phương ở nước ta còn có những tồn tại, vướng mắc nhất định. Tiểu luận này đề cập đến việc vay vốn theo chương trình xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm của ông Hoàng Văn Bình tại xã Thanh Xuân, huyện Sóc Sơn thành phố Hà Nội và xin có một số trao đổi, kiến nghị xung quanh vấn đề này, nhằm phát huy tối đa hiệu quả của những đồng vốn cho vay, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống của nhân dân theo những mục tiêu của Đảng, Nhà nước đã đề ra, từng bước khắc phục những hạn chế, tồn tại của việc triển khai chương trình này. PHẦN THỨ NHẤT THỰC TRẠNG DỰ ÁN VAY VỐN CỦA ÔNG HOÀNG VĂN BÌNH 1. Quá trình thực hiện dự án. Ông Hoàng Văn Bình là cựu chiến binh thời kỳ chống Mỹ sinh sống tại xã Thanh Xuân, huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội. Thực hiện chủ trương của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội và Uỷ ban nhân huyện Sóc Sơn về cho vay vốn giải quyết việc làm, năm 1999, ông Bình đã được Uỷ ban nhân dân xã Thanh Xuân giao cho làm chủ một dự án vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm. Nội dung dự án: Sử dụng nguồn vốn vay để tập trung cải tạo, khai thác một số diện tích đất đai đồi núi trọc và đất đai còn hoang hoá ở địa phương để tiến hành sản xuất. Qui mô dự án bao gồm: Trồng mới 20 ha cây ăn quả (vải, nhãn); trồng mới 7 ha chè và nuôi thả cá trên diện tích mặt nước 3 ha. Tổng số vốn ông Bình được vay là 120 triệu đồng, thời hạn vay 3 năm, lãi suất 0,7 % tháng. Theo dự kiến ban đầu thì dự án sẽ thu hút từ 30 - 40 lao động tại địa phương. Ông Bình có thể trả lãi sau từng năm hoặc thanh toán một lần cả gốc lẫn lãi khi kết thúc dự án. Dự án được bảo đảm bằng tín chấp của Uỷ ban nhân dân xã và đã được Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Thành phố Hà Nội phê duyệt vào tháng 9/1999. Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội giao cho phòng Kinh tế - Phát triển nông thôn huyện Sóc Sơn trực tiếp theo dõi dự án và phối hợp với các cơ quan chức năng triển khai các nội dung tới chủ dự án. Phòng Kinh tế - Phát triển nông thôn huyện Sóc Sơn đã cử cán bộ phối hợp cùng Kho bạc Nhà nước huyện Sóc Sơn thẩm định lại dự án. Sau khi dự án được thẩm định, Kho bạc nhà nước huyện Sóc Sơn đã cấp phát trực tiếp số tiền vay một lần cho chủ dự án vào ngày 16/9/1999. Sau khi nhận được vốn, ông Bình đã tổ chức triển khai thực hiện các nội dung của dự án. Cuối năm thứ nhất (2000), ông Bình đã đến Kho bạc Nhà nước huyện Sóc Sơn thanh toán khoản lãi của năm đầu tiên. Đến cuối năm thứ hai (2001), với lý do việc sản xuất gặp khó khăn do điều kiện tự nhiên không thuận lợi, ông Bình đã xin hoãn nợ và chuyển sang thanh toán khi kết thúc dự án. Thực trạng quá trình sử dụng vốn của ông Hoàng Văn Bình như sau: (Đơn vị tính: 1.000 đồng) TT Năm Vốn Tổng thu Lãi phải trả Số tiền đã thanh toán Số tiền còn nợ 1 2000 120.000 25.000 10.080 10.080 120.000 2 2001 120.000 10.050 10.080 0 130.080 3 2002 130.080 45.000 10.926 30.000 111.006 Bảng: Quá trình sử dụng vốn của ông Hoàng Văn Bình Như vậy, đến thời hạn kết thúc dự án (tháng 9/2002), chủ dự án chỉ thanh toán được 30 triệu đồng, số tiền gốc vay và toàn bộ tiền lãi là 111 triệu đồng phải chuyển sang nợ quá hạn. Qua kiểm tra, xem xét thực tế thì dự án này chỉ thu hút được 15 lao động, có thu nhập hạn chế và không đủ khả năng trả nợ. 2. Nguyên nhân dẫn đến dự án không trả được nợ đến hạn. Ban đầu việc triển khai dự án diễn ra thuận lợi. Các diện tích đất đai đã được chủ dự án tập trung lao động và vốn để thực hiện trồng chè, vải, nhãn, diện tích ao hồ được cải tạo lại và thả cá. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện dự án đã nảy sinh một số vấn đề khó khăn: - Vào cuối năm 2000, với chủ trương đẩy mạnh công tác thương mại của huyện, Uỷ ban nhân dân huyện Sóc Sơn đã ra quyết định thu hồi 3,5 ha đất nằm trong khu đất sản xuất của dự án để xây dựng và mở rộng một hệ thống chợ hiện đại. Số diện tích này chủ dự án chưa làm đầy đủ thủ tục giao nhận đất, chưa được cấp quyền sử dụng đất tại thời điểm thu hồi đất nên đã không được đền bù. Trên diện tích này, ông Bình đã tiến hành trồng vải nhưng chưa đến thời kỳ thu hoạch, do đó số tiền đền bù năng suất cho cây vải là rất thấp. Việc này đã gây thiệt hại cho ông Bình khoảng 23 triệu đồng. - Dự án lập từ tháng 2/1999 nhưng mãi tháng 9/1999 mới được phê duyệt và thực hiện. Lúc này do điều kiện thời tiết nắng nóng, không phù hợp với việc trồng cây nên một số cây mới trồng bị chết 20%, gây thiệt hại trực tiếp đến nguồn vốn đầu tư ban đầu và ảnh hưởng đến sản lượng thu hoạch. Việc phê duyệt dự án do nhiều cơ quan, nhiều cấp tham gia gây chậm trễ, lỡ thời vụ làm giảm hiệu quả vốn đầu tư. - Trong thời gian thực hiện dự án, cây vải và cây nhãn nằm trong khu sản xuất bị nhiễm sâu bệnh gây hại với tỷ lệ hại cao, trong khi đó chủ dự án do hiểu biết hạn chế nên hiệu quả phòng trừ sâu bệnh thấp. Thiệt hại do sâu bệnh gây ra trên nhãn và vải trong hai năm 2001, 2002 đã làm cho chủ dự án bị mất 30 - 35 % sản lượng thu hoạch. Hơn nữa, trong thời gian đầu (năm 2000), do không chăm sóc tốt nên một số diện tích nhãn vải của dự án còi cọc, phát triển không tốt gây ảnh hưởng đến năng suất khi thu hoạch. - Đối với việc thả cá thì vào mùa mưa bão năm 2001 do gặp bão lớn, chủ dự án lại chưa có nhiều kinh nghiệm, hồ nuôi cá đã bị nước tràn bờ, gây thất thoát khoảng 35 % sản lượng cá dẫn đến nguồn thu từ việc nuôi cá không đủ bù đắp chi phi ban đầu. Đây là nguyên nhân khách quan song chủ dự án cũng chủ quan, chưa chuẩn bị kỹ để có thể đối mặt với thiên tai. - Mặt khác, trong thời gian này, nhiều địa phương lân cận đã tiến hành mở rộng diện tích trồng các loại cây vải, nhãn (Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nam,...). Tại thời điểm năm 2001 và 2002, lượng vải xuất khẩu đi Trung Quốc nhiều dẫn đến tình trạng bị ép giá, giá vải xuống thấp chỉ còn 2000 - 3000 đồng/1kg bán buôn nên dự án không đủ khả năng trả nợ. Trong khi đó, việc qui hoạch, đầu tư xây dựng mạng lưới chế biến rau quả sau thu hoạch chưa đáp ứng nhu cầu phát triển nền sản xuất hàng hoá của vùng nông thôn. Chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng nông sản sang thị trường Trung Quốc của địa phương chưa phát huy tác dụng bảo hộ sản xuất của nông dân một cách có hiệu quả. - Về cây chè do không hợp đất đai và điều kiện tiểu khí hậu ở địa phương nên đã bị chết nhiều. Trong tổng số 7 ha chè ban đầu đã có gần 3 ha chè bị chết, diện tích còn lại thì cây chè còi cọc, sâu bệnh phát sinh gây hại nặng làm giảm đáng kể năng suất chè khi thu hoạch. Ởở địa phương không có cơ sở chế biến chè, chủ dự án chỉ bán sản phẩm dưới dạng chè tươi hoặc dạng sơ chế với giá thu mua rất rẻ, thu nhập không đáng kể. Nguyên nhân này là do việc xây dựng dự án vật nuôi, cây trồng chưa thật phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương dẫn đến mức khả thi của dự án không cao. - Thời gian sinh trưởng của cây vải và nhãn dài, 3 năm là thời gian quá ngắn chưa đủ để thu hồi vốn vay. Nguyên nhân này là do sự chuẩn bị của chủ dự án chưa tốt, chưa tìm ra loại cây trồng thích hợp với điều kiện của dự án nên hiệu quả không đạt được mục tiêu ban đầu đặt ra. Chủ dự án có ý định sử dụng nguồn lợi thu dược từ cây chè và nuôi cá để bổ sung, bù chi phí sản xuất cho cây nhãn, vải là cây lâu năm có thời gian thu hồi vốn dài. Nhưng trên thực tế, việc trồng chè và nuôi cá cũng gặp nhiều khó khăn bất lợi (cả chủ quan lẫn khách quan) nên đã không đáp ứng được mục đich này. - Trình độ của chủ dự án còn hạn chế. Khi công việc sản xuất gặp khó khăn, bất lợi, chủ dự án đã không có đủ khả năng khắc phục, dẫn đến thiệt hại là tất yếu. Hơn nữa, chủ dự án lại không báo cáo lên cơ quan cấp trên để nhận được trợ giúp, trong khi các cơ quan này (Kho bạc Nhà nước huyện Sóc Sơn, Phòng Kinh tế - Phát triển nông thôn huyện Sóc Sơn) lại lơ là, xao lãng công tác kiểm tra giám sát. Ngoài ra còn có tâm lý là vốn vay sẽ được gia hạn nợ, đảo nợ hoặc xoá nợ nên chủ dự án không triệt để thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh và có biện pháp điều chỉnh kịp thời khi có biến động. 3. Những bất cập trong công tác quản lý và hậu quả. - Trước hết, về đất đai: Các cơ quan xét duyệt, thẩm định dự án không xem xét kỹ quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, dẫn đến vùng đất đai thực hiện dự án nằm trong quy hoạch phát triển của huyện, phải tiến hành giải toả. Trong khi đó cũng không kiểm tra xem điều kiện tự nhiên ở địa phương có thích hợp cho việc trồng chè hay không? Đó là sự thiếu trách nhiệm và hạn chế về trình độ của cán bộ, công chức trong quá trình xét duyệt và thẩm định dự án. Chính quyền địa phương cũng không công bố rộng rãi chương trình quy hoạch phát triển cho nhân dân biết, dẫn đến lãng phí tiền của mà nhân dân đã đầu tư cho sản xuất khi bị Nhà nước thu hồi. - Dự án chỉ được hướng dẫn theo mẫu, dự án triển khai theo nhiều nội dung khác nhau nhưng những nội dung này lại không phù hợp nhau về chu kỳ sản xuất và vòng quay vốn. Chủ dự án không nhận được hướng dẫn, trợ giúp từ các cơ quan chuyên môn dẫn đến việc chọn lựa các nội dung thực hiện chưa đạt hiệu quả cao. Như việc thả cá chỉ hơn 1 năm là thu hồi vốn, trong khi đối với cây ăn quả như nhãn vải thì phải mất 6, 7 năm mới thu hồi được vốn. Như vậy, chủ dự án có thể sử dụng vốn không đúng mục đích và khả năng thu hồi vốn không cao. - Việc thẩm định dự án nhiều khi được làm theo kiểu hình thức vì theo qui định trong thể lệ vay vốn thì chỉ cần một cán bộ đi thẩm định sau đó ký vào hồ sơ thẩm định mà không qua kiểm soát, dễ dẫn đến việc thông đồng giữa cán bộ thẩm định với chủ dự án hoặc việc thẩm định không đạt yêu cầu do trình độ hạn chế của cán bộ thẩm định. Ngoài ra, cán bộ phê duyệt dự án cho vay không có nghiệp vụ sâu về tín dụng như ngân hàng. - Mặc dù công cuộc cải cách hành chính đã thu được nhiều kết quả, song trên thực tế vẫn ít nhiều còn tồn tại cơ chế xin cho trong việc phê duyệt dự án, dẫn đến tâm lý muốn kéo vốn thật nhiều về địa phương, xây dựng dự án với số lượng lớn, nhưng dập khuôn một mẫu, việc thẩm định tính khả thi của các dự án không cao, gây hậu quả là mất vốn, tạo kẽ hở cho tiêu cực phát sinh, giảm sút pháp chế và giảm uy tín của cơ quan nhà nước. - Việc áp dụng một mức lãi suất cho cả 3 kỳ hạn vay làm cho những dự án dài ngày như trồng cây lâu năm sẽ bất lợi hơn dự án ngắn ngày. - Việc bảo lãnh tín chấp bằng ngân sách xã chỉ mang tính chất hình thức thuần tuý vì Thanh Xuân là một trong những xã nghèo nhất của huyện Sóc Sơn, phải thường xuyên nhận trợ cấp của ngân sách cấp trên cho công tác chi thường xuyên, nếu thực hiện cam kết tín chấp thì phải ngừng hoạt động. Mà ngân sách xã cũng là một cấp ngân sách nhà nước, việc lấy ngân sách cấp này trả cho ngân sách cấp kia là không có ý nghĩa về kinh tế và không đúng theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước. - Sự phối hợp giữa Kho bạc nhà nước huyện với UBND xã không chặt chẽ. Kho bạc huyện sau khi cấp phát cho vay một lần đã không thực hiện đầy đủ chức năng giám sát, quản lý dự án một cách thường xuyên, do đó không phát hiện kịp thời những sai sót của chủ dự án trong quá trình thực hiện mà chỉ đến khi kết thúc kỳ hạn cho vay mới biết vốn vay được sử dụng không đúng mục đích và không có hiệu quả thì đã quá muộn. Phòng Kinh tế - Phát triển nông thôn huyện cũng không làm tròn trách nhiệm trong khâu kiểm tra giám sát chủ dự án vì coi đây không phái là nhiệm vụ chính. Trong khi đó, Uỷ ban nhân dân xã lại không thông báo kịp thời các thông tin liên quan về quá trình thực hiện, triển khai dự án đối với kho bạc huyện, dẫn đến thất thoát về vốn. - Thủ tục hành chính trong việc xét duyệt dự án còn nặng nề, có nhiều cơ quan tham gia, lại không phân định rõ trách nhiệm; nhiều khâu, nhiều cấp dẫn đến chậm trễ, lỡ thời vụ, làm giảm hiệu quả vốn vay. PHẦN THỨ HAI PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT 1. Mục tiêu xử lý. Việc đưa ra các phương án nhằm giải quyết tình huống trên phải đảm bảo được mục tiêu tuân thủ pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hài hoà lợi ích của nhà nước, xã hội cũng như của công dân, nâng cao hiệu quả nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm. 2. Nội dung các phương án. Căn cứ vào các qui định hiện hành về cho vay giải quyết việc làm và thực tế công tác quản lý, có thể xử lý theo những phương án sau: Phương án thứ nhất: Cho vay lại vốn thêm một chu kỳ sản xuất nữa, có nghĩa là chủ dự án tiếp tục được vay thêm số vốn là 120 triệu đồng trong thời gian 3 năm. Phương án này thực chất là đảo nợ, nghĩa là sẽ duy trì tình trạng hiện nay thêm 3 năm nữa. Chủ dự án sẽ có thêm thời gian và điều kiện tài chính để tập trung vào việc sản xuất và phải trả toàn bộ nợ sau 3 năm nữa. Nó giúp cho chủ dự án kéo dài thời gian trả nợ để dễ dàng tìm nguồn trả nợ hơn. Đối với nhà nước, có thể giảm ngay số nợ quá hạn. Tuy nhiên, nếu thực hiện theo phương án này thì sẽ tiếp tục tồn tại tình trạng đầu tư không có hiệu quả nên mức độ an toàn vốn vay không cao. Trong thực tế, do không có đầy đủ các thông tin liên quan và thiếu hiểu biết nên chủ dự án đã đầu tư vào sản xuất không hiệu quả. Nếu như chỉ cho vay thêm một chu kỳ nữa thì chủ dự án có thể sẽ tiếp tục đầu tư không hiệu quả. Không có gì đảm bảo ba năm sau, chủ dự án sẽ trả hết nợ. Mặt khác, làm như trên sẽ không đảm bảo giữ nghiêm kỷ cương trong việc quản lý vốn cho vay. Chủ dự án sẽ có tư tưởng trông chờ được đảo nợ, tạo tâm lý ỷ lại, không tích cực tìm tòi các biện pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất. Xử lý như trên chưa đảm bảo tính công bằng, vì những chủ dự án làm ăn tốt, có hiệu quả thì phải trả nợ đúng hạn, ngược lại người không thực hiện đúng qui định lại được kéo dài vốn vay, không đảm bảo tính công bằng giữa mọi người. Đối với cơ quan cho vay, do đã giải quyết được vấn đề nợ quá hạn nên cũng dễ dàng đi theo lối mòn cũ không tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, và như vậy dự án sẽ bị rơi vào quên lãng, khi đến hạn trả nợ mới xem xét thì có thể đã muộn. Phương án thứ hai: Thu hồi ngay khoản nợ bằng biện pháp cưỡng chế như trích tài khoản của ngân sách xã do Uỷ ban nhân dân xã bảo lãnh tín chấp cho chủ dự án, phát mại tài sản của chủ dự án. Phương án này giúp cơ quan cho vay vốn (Kho bạc nhà nước huyện Sóc Sơn) thu hồi nợ một cách nhanh chóng cả gốc lẫn lãi. Mục tiêu tăng cường pháp chế được đảm bảo. Nó cũng mang lại sự công bằng giữa những người vay vốn. Song, phương án trên chưa đảm bảo hài hoà giữa lợi ích Nhà nước và cá nhân. Để thực hiện phương án này, chủ dự án phải tập trung mọi nguồn lực để trả nợ ngay, có khả năng phải bán toàn bộ tài sản, không thể tiếp tục sản xuất và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của nhiều người, ít nhất là những lao động trong dự án và người thân của họ. Làm như vậy sẽ gây ảnh hưởng đến không chỉ chủ dự án mà còn kéo theo rất nhiều người khác, có thể gây ảnh hưởng xấu đến tình hình kinh té – xã hội ở địa phương.. Và mục đích ban đầu của dự án là cho vay giải quyết việc làm, cải thiện đời sống người dân không thực hiện được. Hơn nữa, nếu trích tài khoản ngân sách xã theo cam kết tín chấp ban đầu thì phải ngừng hoạt động của xã trong một thời gian, vì đây là một xã nghèo, có nguồn thu rất eo hẹp. Mặt khác, đây cũng chỉ là lấy ngân sách cấp này trả cho ngân sách cấp kia, không có ý nghĩa về kinh tế và đối với nhà nước vẫn chịu một phần thiệt hại. Phương án thứ ba : Các nội dung của phương án thứ ba là: Thứ nhất, yêu cầu chủ dự án thu hồi phần vốn sử dụng sai mục đích để mua sắm tài sản riêng không phục vụ cho sản xuất để đưa vào đầu tư. Đồng thời cho vay tiếp một phần vốn đủ định mức kỹ thuật trong thời hạn nhất định cho 1 ha cây trồng để chủ dự án tiếp tục sản xuất. Phần vốn cho vay thêm này được xác định trên cơ sở thực tế điều kiện sản xuất ở địa phương, do cơ quan cho vay vốn là Kho bạc Nhà nước huyện Sóc Sơn phối hợp với phòng Kinh tế - Phát triển nông thôn huyện và Uỷ ban nhân dân xã Thanh Xuân quyết định. Thứ hai, các cơ quan chức năng của địa phương phải cung cấp cho chủ dự án những kiến thức cần thiết để nâng cao hiểu quả hoạt động sản xuất kinh doanh; tạo điều kiện cho chủ dự án đi tham quan học tập kinh nghiệm của những người làm ăn giỏi; đề nghị chủ dự án điều chỉnh phương án kinh doanh như chuyển diện tích trồng chè sang trồng vải, nhãn hay đu đủ, gia cố diện tích mặt nước để nuôi cá an toàn trong mùa mưa bão; hoặc có thể sử dụng một phần vốn vay nuôi gà hoặc lợn để quay vòng vốn nhanh cho các cây trồng dài ngày. Thứ ba, cơ quan cho vay vốn phối hợp với chính quyền địa phương thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện dự án, quá trình sử dụng vốn trong dự án, không để cho chủ dự án tiếp tục sử dụng vốn sai mục đích ban đầu. Cuối cùng, cần xây dựng qui hoạch, đầu tư thêm khâu chế biến vải thiều khô, long nhãn tại địa phương để tránh phải bán hoa quả tươi quá rẻ khi thu hoạch. Lợi thế của phương án này là bù đắp ngay vốn thiếu hụt trong sản xuất kinh doanh, giúp chủ dự án khắc phục hậu quả thiên tai, tiếp tục duy trì sản xuất. Các lao động hiện có không bị mất việc làm, không gây ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội ở địa phương. Nếu chủ dự án chuyển hướng kinh doanh như trên có thể mở rộng thêm sản xuất, tạo thêm việc làm cho người lao động ở địa phương. Cơ quan cho vay phải tăng cường trách nhiệm cao hơn trong việc kiểm tra, thẩm định, giám sát việc thực hiện dự án để đảm bảo thu hồi được nợ. Như vậy biện pháp này vẫn đảm bảo tăng cường pháp chế trong việc bắt buộc chủ dự án phải sử dụng vốn vay đúng mục đích. Tuy nhiên có nhược điểm là kết quả của nó phụ thuộc vào quyết tâm của chủ dự án trong việc đảm bảo đầu tư sản xuất, kinh doanh một cách có hiệu quả; quá trình kiểm tra, giám sát đối với chủ dự án của cơ quan cho vay và phần nợ quá hạn của dự án vẫn chưa trả được ngay. Mặc dầu vậy, theo tôi, đây là phương án nên chọn vì nó đảm bảo hài hoà giữa lợi ích của Nhà nước và cá nhân, đồng thời đạt được mục đích đề ra của chương trình xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm. Nó vừa giúp cho dự án hoạt động tiếp tục có hiệu quả hơn, bảo toàn vốn kinh doanh, tạo được việc làm và cải thiện đời sống cho một bộ phận nhân dân địa phương, không gây xáo trộn cho địa phương 3. Phương thức thực hiện phương án ba. Như trên đã đề cập, trong ba phương án nêu trên thì phương án thứ ba là phương án tối ưu nhất. Để thực hiện tốt phương án này cần thực hiện một số phương thức chủ yếu sau: - Trước hết, cơ quan cho vay vốn phối hợp với các bên có liên quan xem xét đánh giá phần thiệt hại khách quan do thu hồi đất, đôn đốc, hướng dẫn chủ dự án hoàn thiện hồ sơ, thủ tục đề nghị đền bù một phần. Khi nhận được đền bù, chủ dự án sẽ phải đầu tư vào sản xuất một phần và cơ quan cho vay sẽ thu hồi một phần nợ quá hạn. - Thứ hai, giám sát nghiêm ngặt quá trình chủ dự án bán các tài sản do sử dụng vốn vay để mua sắm và thu hồi vốn dùng sai mục đích để đầu tư vào sản xuất theo đúng phương án đã điều chỉnh. - Thứ ba, các cơ quan chuyên môn cần phối hợp với cơ quan cho vay vốn và chính quyền địa phương tiến hành tập huấn, đào tạo và cung cấp các tài liệu liên quan về các giống vật nuôi, cây trồng mới có hiệu quả kinh tế cao để giúp chủ dự án có thể lựa chọn những cây, con phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương, đồng thời phổ biến những kinh nghiệm trong việc phát triển kinh tế trang trại. Nếu xét thấy cần thiết thì tổ chức cho chủ dự án đi học hỏi kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm sản xuất từ các chủ dự án khác làm ăn có hiệu quả. - Thứ tư, cơ quan cho vay vốn phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã Thanh Xuân xác định số vốn cần thiết còn thiếu để cho vay tiếp giúp chủ dự án duy trì sản xuất kinh doanh. - Cuối cùng là phân công cán bộ trực tiếp theo dõi dự án giám sát quá trình thực hiện đến khi kết thúc, thu hồi toàn bộ vốn vay. Cần chú ý quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan cũng như cá nhân khi tham gia giám sát để đảm bảo dự án thực hiện đạt hiệu quả đề ra ban đầu. PHẦN THỨ BA NHỮNG KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH CHO VAY GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM, TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ CHƯƠNG TRÌNH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO TRONG GIAI ĐOẠN TỚI Tại Hội nghị bàn về tình trạng đói nghèo được tổ chức tại Washington (Hoa Kỳ) cách đây vài năm, tất cả các đại biểu của các quốc gia tham dự đã thống nhất một giải pháp là cần phải tăng cường khả năng tiếp cận các kênh tài chính chính thức cho người nghèo. Theo đó không phải là cho họ tiền, mà là cung cấp vốn cho họ, kết hợp với hướng dẫn cách thức làm ăn. Vốn phải được sử dụng đúng mục đích, chứ không phải để ăn tiêu, phải được hoàn trả đầy đủ và đúng thời hạn để cho người khác vay tiếp. Chính quyền cần tạo điều kiện cho người dân nâng cao năng lực làm ăn trong cơ chế thị trường, giúp họ thoát khỏi cảnh nghèo đói một cách vững chắc. Với các kênh tài chính chính thức, người nghèo làm quen với việc tính toán đồng vốn trong làm ăn, làm quen với phương thức xây dựng dự án, ý thức vay và trả nợ, cũng như ý thức tiết kiệm trong cộng đồng. Từ những kết quả đạt được trong việc triển khai cho vay giải quyết việc làm thời gian qua ở nước ta, có thể nói Chính phủ Việt Nam rất quyết tâm thực hiện theo đúng thông lệ quốc tế, kết hợp với kinh nghiệm của đất nước trong giải pháp về tài chính thực hiện cuộc chiến chống đói nghèo, tranh thủ các nguồn trợ giúp từ bên ngoài, đa dạng các kênh và các hình thức chuyển tải vốn đến người dân. Qua hơn mười năm thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, cho vay giải quyết việc làm, từ thực trạng của dự án nêu trên, tôi xin đề xuất một vài kiến nghị như sau: 1/ Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh tác dụng tích cực vẫn tồn tại những hạn chế nhất định: Đó là tạo ra sự phân hoá giàu nghèo sâu sắc, nạn thất nghiệp tăng lên đặc biệt đối với phụ nữ, người lao động chưa qua đào tạo, ... là những thành phần yếu thế trong thị trường sức lao động. Chương trình xoá đói giảm nghèo, cho vay giải quyết việc làm là rất bức thiết cần được tăng cường hơn nữa cả về nguồn vốn và đổi mới công tác quản lý nhằm nâng cao hiệu quả của vốn vay. 2/ Nhà nước cần tạo điều kiện cho người dân được tiếp xúc với những thành tựu, tiến bộ của khoa học kỹ thuật, tiếp cận được những kiến thức và điều kiện làm ăn trong cơ chế thị trường, từ đó giúp nâng cao trình độ dân trí, tránh tình trạng tụt hậu của một bộ phận dân cư trong quá trình phát triển chung. 3/ Cho vay vốn phát triển các làng nghề và ngành nghề truyền thống, kinh tế biển, nghề phụ ở nông thôn, kinh tế trang trại,... là một tiềm năng lớn, nhưng do cơ chế đảm bảo tiền vay còn gò bó, nên việc chuyển tải vốn vay còn hạn chế. Những vướng mắc này cần sớm được tháo gỡ. 4/ Vấn đề rủi ro trong cho vay là tất yếu do các nguyên nhân như: thiên tai, giá cả thị trường và việc tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy Nhà nước cần có biện pháp cụ thể giúp đỡ nông dân trong quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Đặc biệt cần tăng quỹ dự phòng rủi ro để đủ đối phó với những biến động bất thường. 5/ Bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, tăng cường trách nhiệm cá nhân của đội ngũ cán bộ công chức trực tiếp tham gia xét duyệt, thẩm định và giám sát các dự án sử dụng vốn vay. 6/ Nên xây dựng cơ chế phân cấp quản lý vốn vay cho cơ quan Nhà nước cấp huyện, đảm bảo sát thực tế, đồng thời tăng cường trách nhiệm cá nhân trước pháp luật trong việc làm thất thoát hay sử dụng, giám sát việc sử dụng vốn vay không có hiệu quả. Công khai dân chủ hoá quá trình xét duyệt vốn cho vay, tránh tình trạng xin cho hoặc thông đồng, lạm dụng. 7/ Nâng mức cho vay, thời gian cho vay và hạ lãi suất cho vay, có cơ chế điều chỉnh lãi suất kịp thời để kích thích phát triển sản xuất. Chú trọng cho vay vốn để thành lập và hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo việc làm bền vững. Khuyến khích ưu đãi các dự án áp dụng công nghệ tiên tiến, tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, có hiệu quả cao. 8/ Tăng cường tuyên truyền giáo dục cho dân hiểu rõ chính sách khuyến khích hỗ trợ tạo việc làm cải thiện đời sống nhân dân của Đảng và Nhà nước để mọi người đều hiểu và tham gia rộng rãi, tích cực. 9/ Cải cách giáo dục theo hướng kết hợp đào tạo nghề ngay từ cấp học phổ thông, đưa những kiến thức cơ bản về cách thức tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh vào chương trình giảng dạy trung học phổ thông nhằm nâng cao trình độ khả năng đội ngũ lao động để có thể nắm bắt khoa học kỹ thuật, sử dụng hiệu quả vốn trong sản xuất và kinh doanh. Cần chú ý phải thực hiện nghiêm túc, không nửa vời như hiện nay. 10/ Nâng cao chất lượng của công tác quy hoạch, coi trọng quy hoạch phát triển kinh tế kết hợp giữa ngành và vùng, đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến nông sản theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Tăng cường liên kết giữa các Tổng công ty với các xã phát triển vùng nguyên liệu, xây dựng các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm cho dân một cách hợp lý và bền vững. Hoàn thiện định chế thưởng phạt trách nhiệm tôn trọng hợp đồng đã ký, tránh tình trạng dân phá bỏ hợp đồng hay công ty ép giá sản phẩm. 11/ Cần có chính sách hỗ trợ thích hợp cho các xã nghèo và hộ nghèo tham gia các chương trình cho vay xoá đói giảm nghèo của Nhà nước. Cụ thể đối với hộ nghèo phải nhằm vào các vấn đề cơ bản: Vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, tiếp cận các dịch vụ giáo dục, đào tạo và dạy nghề (đặc biệt chú trọng các kiến thức liên quan trực tiếp điều kiện cụ thể ở địa phương), miễn giảm các khoản đóng góp xã hội, hỗ trợ vật chất cho các hộ đặc biệt khó khăn, … Đối với các xã nghèo cần hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ chuyển giao công nghệ phát triển sản xuất hàng hoá và tiêu thụ sản phẩm, đào tạo nhân lực, … 12/ Tăng cường vai trò của chính quyền và các đoàn thể ở địa phương, trong đó cần chú trọng tới vai trò và tính hiệu quả trong hoạt động của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, … đặc biệt là các hoạt động trợ giúp có lien quan trực tiếp tới quá trình sản xuất tại địa phương. KẾT LUẬN Cho vay giải quyết việc làm để xoá đói giảm nghèo là một mục tiêu lớn của Đảng và Nhà nước phù hợp với đường lối phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: "Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân"; kinh tế cá thể, tiểu chủ "được Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển"; kinh tế tư bản tư nhân "được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm". Chính phủ đã có Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 4/10/2002 về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Đối tượng cho vay ưu đãi được mở rộng thêm ngoài đối tượng theo Nghị quyết 120/HĐBT ngày 11/4/1992 bao gồm các hộ nghèo; học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn đang theo học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và học nghề; những người đi lao động có thời hạn ở nước ngoài; các tổ chức kinh tế, hộ sản xuất kinh doanh khu vực II, III miền núi... Thành lập Ngân hàng chính sách xã hội để thực hiện tín dụng ưu đãi trên, không vì mục đích lợi nhuận, được Nhà nước bảo đảm khả năng thanh toán, được miễn thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước. Đây là một bước tiến đáng kể trong việc thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xoá đói giảm nghèo, ổn định xã hội. Để thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, không ngừng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của mọi thành phần kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm, có mức tăng trưởng bình quân hàng năm cao hơn hiện nay, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp “công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước”, cũng như những chủ trương của Đảng, Nhà nước trong cuộc chiến chống đói nghèo, chúng ta cần phải tăng cường hơn nữa pháp chế xã hội chủ nghĩa và quản lý, đào tạo tốt đội ngũ cán bộ làm công tác cho vay trực tiếp, tránh tình huống như trên lại xảy ra, nâng cao hiệu quả vốn vay và góp phần cải thiện đời sống nhân dân. Những phân tích và kiến nghị trên của tôi được rút ra qua thực tế công tác và những kiến thức thu nhận được trong quá trình học tập, rèn luyện tại lớp Nguồn công chức hành chính khoá 4 - Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong. Tôi xin chân thành cảm ơn Nhà trường và các thầy, cô giáo đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành khoá học này./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nghị quyết số 120/HĐBT ngày 11/4/1992 của HộI đồng Bộ trưởng. 2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2001. 3. Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ. 4. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đoàn khoá VIII về công tác cán bộ Đoàn trong thời kỳ mới - 2003. 5. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Kết quả điều tra lao động - việc làm 1996 - 2000. 6. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Chiến lược đào tạo nghề 2001 - 2010. 7. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia. Tác động tiêu cực của cơ chế thị trường ở Việt Nam - 2000. 8. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia. Báo cáo phát triển con người Việt Nam 2001. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2001. 9. Quyết định số 2434/QĐ-UB ngày 25/7/1996 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội quy định về chức năng nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội. MỤC LỤC Mở đầu 2 Phần thứ nhất: Thực trạng dự án vay vốn của ông Hoàng Văn Bình 4 1. Quá trình thực hiện dự án 4 2. Nguyên nhân dẫn đến dự án không trả được nợ đến hạn 5 3. Những bất cập trong công tác quản lý và hậu quả 8 Phần thứ hai: Phương án giải quyết 11 1. Mục tiêu xử lý 11 2. Nội dung các phương án 11 3. Phương thức thực hiện phương án ba 14 Phần thứ ba: Những kiến nghị về việc đổi mới chính sách cho vay giải quyết việc làm, tăng cường hiệu quả chương trình xoá đói giảm nghèo trong giai đoạn tới 16 Kết luận 20 Tài liệu tham khảo 22

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28386.doc
Tài liệu liên quan