Đề tài Những lợi ích mang lại từ việc tái sử dụng rác thải sinh hoạt để sản xuất phân Compost ở Hà Nội

Để quyến khích những người dân sử dụng phân compost thay vì sử dụng phân bón hoá học để bón cho cây trồng nhằm tăng nhu cầu về sản xuất phân compost từ đó quyến khích việc sản xuất phân compost, thì cần qui hoạch những khu sản xuất rau sạch xung quanh Hà Nội. Một mặt để hạn chế việc sử dụng rác thải không qua ủ vì việc sử dụng như vậy gây ra mức nguy hiểm tiềm tàng cho con người khi tiêu dùng sản phẩm đó. Mặt khác việc đó sẽ cung cấp cho Hà Nội một lượng rau sạch đáp ứng nhu cầu tiêu thụ rau sạch ngày càng tăng ở Hà Nội.

doc29 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1838 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những lợi ích mang lại từ việc tái sử dụng rác thải sinh hoạt để sản xuất phân Compost ở Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu Trong những năm gần đây, tốc độ đô thị hoá, công nghiệp hoá ở Việt Nam đã tăng mạnh mẽ và đang có xu hướng tiếp tục tăng mạnh trong những năm tới. Đặc biệt ở thành phố Hà Nội, thủ đô của chúng ta đã từng được cộng đồng quốc tế tôn vinh là “Thành phố xanh”, “Thành phố hoà bình”. Hà Nội là thành phố văn hiến có bề dày lịch sử lâu đời . Hà Nội bây giờ đã phát triển lớn lên , vươn cao cùng năm tháng . Sự phát triển mãnh mẽ như vậy là một điều cần thiết để cho Hà Nội phát triển , hội nhập với nền kinh tế trong nước và trên thế giới . Nhưng chính sự phát triển cao như vậy đã gây ra nhiều áp lực nặng nề đối với môi trường và cộng đồng . Nhiều vấn đề nan giải , những thách thức lớn đangđặt ra trong công tác bảo vệ môi trường nhằm phát triển ổn định và bền vững thành phố . Muốn vậy cần giải quyêt hài hoà các yếu tố kinh tế , văn hoá , xã hội và môi trường . Hơn lúc nào hết, vấn đề giữ gìn bảo vệ môi trường đối với Hà Nội ngày càng cấp thiết, đòi hỏi sự quan tâm từ các cơ quan quản lí chức năng đến mọi tổ chức, đoàn thể và quần chúng. Bên cạnh nhiều khó khăn, tồn tại trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến nước thải và ô nhiễm không khí, vấn đề rác thải rắn đang thực sự là một thách thức lớn, một mối đe doạ khủng khiếp đối với môi trường và sức khoẻ cộng đồng. Giải quyết vấn đề rác thải đô thị thành phố Hà Nội là một bài toán phức tạp, từ khâu thu gom, vận chuyển và xử lí rác. Hiện nay có nhiều biện pháp kỹ thuật được áp dụng để xử lí rác thải đô thị trong đó biện pháp xử lí rác thải chủ yếu vẫn là chôn lấp. Nhưng thực trạng các bãi rác hiện nay đã quá tải và gây ô nhiễm môi trường rất nghiêm trọng. Bên cạnh đó việc xử lí rác thải bằng phương pháp sử dụng chúng làm phân Compost, một phương pháp được nhiều nơi trên thế giới áp dụng đã mang lại lợi ích to lớn về kinh tế cũng như môi trường. Đó chính là nội dung của đề tài “Những lợi ích mang lại từ việc tái sử dụng rác thải sinh hoạt để sản xuất phân Compost ở Hà Nội” do nhóm sinh viên Kinh tế môi trường K42 thực hiện. Nội dung I. Thực trạng của việc xử lý rác thải sinh hoạt ở Hà Nội 1. Tình trạng rác thải hiện nay Nước ta đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do các chính sách cơ chế khuyến khích đầu tư đang dần dần trở nên hợp lý nên các thành phần kinh tế đã có sự phát triển nhanh chóng. Tình hình phát triển kinh tế nước ta đang ngày càng có những bước tiến bộ đáng khích lệ, các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ … được mở rộng và phát triển nhanh chóng. Các hoạt động này một mặt đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhưng mặt khác cũng tạo ra một khối lượng lớn chất thải mà nếu không được quản lí một cách đúng đắn thì sẽ gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Nguy cơ ô nhiễm môi trường do chất thải gây ra đang trở thành một trong những vấn đề cấp bách cuả công tác bảo vệ môi trường của nước ta hiện nay. So với các nước trong khu vực và trên thế giới, tổng lượng chất thải rắn của Việt Nam hiện nay là không lớn. Thế nhưng, điều quan tâm ở đây là chất lượng của chất thải này, nhất là chất thải sinh hoạt và chất thải bệnh viện ở hầu hết địa phương và thành phố chưa được xử lí hợp vệ sinh trước khi thải ra môi trường. Các chất thải rắn ở các đô thị và khu công nghiệp hầu như không được phân loại trước khi chôn lấp. Tất cả các loại đều được chôn lấp lẫn lộn . Tỉ lệ thu gom mới chỉ đạt 20-30%, lượng chất thải không được chôn lấp (70-80%) đã và đang gây nên những tác động môi trường, ảnh hưởng không tốt không chỉ tới đời sống, sinh hoạt mà còn cả tới hoạt động kinh tế . Ước tính hiện nay tổng lượng chất thải rắn thải ra ở Việt Nam khoảng 49,3 nghìn tấn/ngày, trong đó chất thải rắn công nghiệp khoảng 27 nghìn tấn (54,8%), chất thải sinh hoạt 21,9 nghìn tấn (44,4%), và chất thải bệnh viện: 0,4 nghìn tấn (0,8%). Hà Nội là một trong những thành phố điển hình, tiêu biểu cho các đô thị của Việt Nam. Hà Nội là thủ đô của nước cộng hoà XHCNVN, là trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế và khoa học kĩ thuật của cả nước. Thành phố Hà Nội là một trong những thành phố lớn nhất của Việt Nam với diện tích 927,3 km2, dân số 2,3 triệu người, trong đócó 1,1 triệu người sống tập trung trong 4 quận nội thành Hà Nội trên diện tích 43km2. Hàng ngày có 30-40 vạn người ở các tỉnh qua lại và sinh sống ở Hà Nội. Cùng với sự phát triển công nghiệp, dân cư trong thành phố, hệ thống dịch vụ, bệnh viện, chất thải rắn ở các nguồn trên cũng tăng lên nhanh chóng. Ước tính hàng ngày nội thành thải ra khoảng 3000m3 chất thải .chất thải sinh hoạt chiếm 80% chất thải rắn công nghiệp chiếm 12%. Công ty Môi trường- Đô thị Hà Nội mới thu gom được 80% tổng số rác trong nội thành. Lượng rác thải đô thị tập trung nhiều nhất ở các đô thị thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam. Trong đó rác thải sinh hoạt chiếm tỉ lệ cao nhất (khoảng 70%) trong tổng lượng rác thải. Thành phần rác thải sinh hoạt gồm : rác hữu cơ,thực phẩm, lá cây, nilông, chất dẻo, các đồ dùng văn phòng phẩm và các chất vô cơ khác . Trong các thành phần này, rác hữu cơ, thực phẩm, lá cây chiếm khoảng 40-60% ( tại Hà Nội là 46%-năm 1996) . Tỉ lệ rác hữu cơ cao cho phép xử lí rác thải sinh hoạt bằng phương pháp sử dụng chúng làm phân Compost, một phương pháp được áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới để tránh mất diện tích chôn lấp. Rác thải sinh hoạt theo số liệu của công ti SODEXEN.INC và URENCO Hà Nội, khối lượng rác thải nội thành năm 1997 là: Chỉ tiêu Khối lượng /ngày Thể tích/ngày Tổng(tấn) BQđầu người (Kg) Tổng(m3) BQđầu người (m3) Chất thải sinh hoạt 1368 1140 2652 0,000221 Chất thải công nghiệp 328 0,276 336 0.00028 Chất thải bệnh viện 12 0,01 26 0.00002 Chất thải độc hại 140 0,117 300 0,000205 Tổng cộng 1848 1,543 3312 0,00272 Tổng cộng năm 601520 1208000 Từ những số liệu và phân tích trên cho thấy vấn đề rác thải sinh hoạt (cả vô cơ và hữu cơ) đang là vấn nổi cộm hết sức bức xúc ở các đô thị hiện nay. Nhưng một vấn đề thực tế đặt ra hiện nay là phương thức thu gom, phân loại, xứ lí, chế biến rác thải sinh hoạt cũng đang chứa đựng nhiều bất cập và ở vào tình trạng bế tắc. Phương pháp xử lí chủ yếu hiện nay là chôn lấp trực tiếp mà không qua phân loại, xử lí tại nguồn nên đã gây ra ô nhiễm nặng nề ở khu vực bãi rác . Mặt khác, rác hữu cơ vốn là loại rác có khả năng tự phân huỷ, thậm chí phân huỷ nhanh, nhưng nay thanh phần lớn lại được bỏ vào túi nilon buộc lại nên bị yếm khí, làm chậm quá trình phân huỷ, tăng thêm mức độ ô nhiễm. Nếu cứ giữ nguyên phương thức thu gom, xử lí rác thải như hiện nay thì quy mô bãi rác ngày càng tăng, chi phí cho xây dựng các bãi rác ngày càng lớn . vì vậy phải giải quyết vấn đề từ gốc, từ nơi bắt đầu của sự ô nhiễm môi trường do rác thải gây ra. 2. Chôn lấp - hình thức xử lí rác thải chủ yếu hiện nay Chính phủ Việt Nam đang gặp khó khăn trong nhiều lĩnh vực. Trong đó lĩnh vực y tế và môi trường bao gồm nhiều vấn đề nghiêm trọng như vệ sinh, thoát nước, ô nhiễm không khí và nhiều vấn đề khác .Vấn đề gay go nhất trong lĩnh vực này là tìm ra giải pháp cần thiết và có hiệu quả để xử lí phế thải đô thị. Các biện pháp quản lí chất thải hiện có chưa đáp ứng được nhu cầu đối với khối lượng phế thải cuả thành phố. Việc xử lí phế thải độc hại hầu như chưa được quản lí riêng, trong đó các phế thải hoá chất độc hại như pin, thuỷ ngân… Nghiên cứu, xác định phương pháp xử lí phế thải đô thị phù hợp với điều kiện Việt Nam nói chung và môi trường đô thị Hà Nội nói riêng là đề tài đang được nhiều chuyên gia trong nước và ngoài nước quan tâm. Hiện nay năng lực xử lí chất thải rắn của các thành phố và các cơ sơ công nghiệp không theo kịp được với nhịp độ tăng của sản xuất công nghiệp cũng như của sinh hoạt. Thực tế cho thấy mới khoảng 10-20% chất thải rắn ở các đô thị được thu gom (ở Hà Nội và TP HCM cao hơn, khoảng 60%) thì sẽ thấy rằng phải có sự nỗ lực về đầu tư như thế nào mới nâng cao đáng kể năng lực thu gom và xử lí chất thải rắn ở đô thị và khu công nghiệp. Sự gia tăng dân số nhanh chóng ở các đô thị và khu công nghiệp là xu thế không thể cưỡng lại nổi bới sự áp dẫn to lớn về công ăn, việc làm,thu nhập và cả điều kiện sống đối với người lao động. Sự phát triển với tốc độ cao của kinh tế đô thị kéo theo sự gia tăng đáng kể thu nhập và đồng thời kéo theo cả sự tiêu dùng của dân cư, trong đó có cả những tiện nghi đi lại (xe máy, ô tô) và các nhu cầu giải trí khác. Từ đó đã dẫn đến sự gia tăng chất thải gây ô nhiễm không khí, tiếng ồn và cả chất thải rắn mà trong điều kiện năng lực quản lí của Nhà nước có được nâng cao đáng kể cũng không đủ sức ngăn chặn đà quay lớn của cỗ xe nhu cầu tiêu dùng ấy của người dân đô thị. Có thể nói phương thức thu gom, vận chuyển và công nghệ xử lí rác ở Việt Nam vẫn còn thô sơ, lạc hậu. Hệ thông kiểm tra, kiểm soát các chất thải ở đô thị còn yếu kém . Các cơ quan nghiên cứu, đánh giá môi trường đô thị nói chung và chất thải rắn đô thị nói riêng cong thiếu đội ngũ chuyên gia và nghèo nàn về thiết bị nghiên cứu . Đồng thời cũng rất thiếu vốn và thiếu khả năng kỹ thuật để áp dụng các công nghệ xử lí chất thải đô thị . Hệ thống thu hồi chất thải tái sinh trong các đô thị chưa được hợp pháp hoá mà được “tổ chức” lỏng lẻo với một mạng lưới gồm những người thu nhặt và thu mua tự phát . Do vậy hiệu quả thu gom rất thấp. Theo số liệu năm 1999, lượng chất thải rắn đô thị được thu gom, quản lí mới chỉ đạt khoảng 40 - 70% (Hà Nội : 65%). Nhiều thị xã , tỷ lệ thu gom chất thải rắn trung bình chỉ đạt từ 20 - 40%, thậm chí có một số thị xã và nhiều thị trấn chưa có tổ chức thu gom chất thải rắn và chưa có bãi đổ rác chung của đô thị. ở các đô thị lớn, chất thải từ các đường phố được công ty môi trường, dịch vụ công cộng hoặc công ty vệ sinh thu gom và vận chuyển tới các bãi đổ rác hoặc xí nghiệp chế biến rác. Hiện nay có một số giải pháp xử lí phế thải sau : - Làm phân ủ : đối với loại phế thải chứa các chất hữu cơ - Chôn lấp hợp vệ sinh : đối với loại phế thải không thể chế biến được nữa. - Đốt : đối với một số loại phế thải độc hại. Những biện pháp xử lí chất thải rắn đô thị ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là chôn lấp. Tuy nhiên, chưa có bãi chôn lấp chất thải rắn nào ở Việt Nam đạt tiêu chuẩn kỹ thuật vệ sinh môi trường mà chỉ là những bãi đổ rác lộ thiên không được chèn lót kỹ. Vị trí chôn lấp chất thải hiện thời chưa được thiết kế thích hợp, hầu hết các bãi rác đều nằm cách khu dân cư từ 200-500 m, do đó không đảm bảo yêu cầu vệ sinh. Cũng cần nhấn mạnh là không đô thị nào có phương tiện đầy đủ và thích hợp để xử lí chất thải nguy hại từ công nghiệp và y tế. ở Hà Nội hiện nay tuy có nhiều cố gắng trong việc thu gom chất thải sinh hoạt nhưng xử lí còn gặp rất nhiều khó khăn, phát sinh nhiều vấn đề môi trường và xã hội. Nguyên nhân chủ yếu là chưa có đủ cơ sở để xử lí tận gốc chất thải rắn. Giải pháp hiện tại là chôn lấp nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu về môi trường và mất nhiều phí tổn : Hà Nội trước đây đã sử dụng các bái rác ở vạn Phúc, Thủ Lệ, Ngọc Khánh, Thái Hà, Thành Công, Bồ Đề, Gia Lâm, Tam Hiệp, văn Điển, Mễ Trì, Tây Mỗ (Từ năm 1992 đến 7- 1997, toàn bộ rác thải sinh hoạt của thành phố Hà Nội được chôn lấp tại bãi rác Mễ Trì . Từ ngày 7-7-1997 , do tình trạng quá tải, nhân dân xung quanh phản đối, bãi rác đã phải ngừng hoạt động . Từ 8-1997, việc chôn lấp rác được tiến hành tại bãi phế thải Tây Mỗ). Các bãi này đều đã đầy và đóng cửa. Hiện nay, Hà Nội đang chôn lấp chất thải rắn chung ở đô thị ở bãi rác Tây Mỗ và chủ yếu là ở bãi Nam Sơn. Tại bãi này, thành phố đã và đang tiến hành xây dựng “Khu liên hợp xử lí chất thải rắn” (Từ ngày 1-6-1999, việc chôn lấp rác được tiến hành tại bãi Nam Sơn - Sóc Sơn khoảng 30%, Tây Mỗ 70%. Từ 1-1-2000 việc chôn lấp rác được tiến hành tại bãi Nam Sơn. Ngoài ra cũng xuất hiện các bãi rác lộ thiên tự phát của nhân dân các vùng dọc quốc lộ gây ảnh hưởng đến môi trường, gây mất mỹ quan. Việc xử lí rác thải chủ yếu bằng biện pháp chôn lấp chỉ giải quyết được nhu cầu rác thải trước mắt ở Hà Nội . Nhưng chi phí vận chuyển rác đến bãi chôn lấp rất lớn. VD : Kinh phí vận chuyển rác từ nội thành đến bãi rác Nam Sơn tính cho 900 tấn/ngày có kết quả cụ thể : + Một ngày : 62,949 triệu đồng + Một tháng : 1.888,488 triệu đồng + Một quí : 5.728,414 triệu đồng ( Theo số liệu phân tích của JICA - dự thảo báo cáo cuối cùng) Đồng thời các bãi rác chiếm diện tích đất rất lớn : + Diện tích bãi rác Nam Sơn : 150 ha + Diện tích bãi rác Kiêu Kỵ (Gia Lâm) : 5,3 ha + Diện tích bãi rác Nguyên Khê (Đông Anh) :1,5 ha + Diện tích bãi rác Phú Ninh - Sóc Sơn : 1,2 ha Ngoài thiệt hại về kinh tế nêu trên thì việc xử lí rác bằng chôn lấp còn gây ra ô nhiễm môi trường rất nghiêm trọng từ đó gây ra những ảnh hưởng tới sức khoẻ của những người dân xung quanh .Đặc biệt do lượng rác thải không được phân loại tại nguồn nên các rác thải sinh hoạt được chôn lấp lẫn với các chất thải độc hại khác nên gây ô nhiễm nước ngầm nghiêm trọng và gây độc hại cho những người nhặt rác tại các bãi rác. Do vậy cần phải có những biện pháp cấp bách trong việc xử lí rác thải để đảm bảo cho thành phố Hà Nội thoát khỏi tình trạng ùn tắc rác như hiện nay. 3. Hiện trạng một số bãi rác hiện nay Để giải quyết nhu cầu cấp bách về xử lí rác thải ở Hà Nội đã có rất nhiều bãi rác được xây dựng như khu xử lí chất thải Nam Sơn_Sóc Sơn, Tây Mỗ, Kiêu kỵ (Gia Lâm), Nguyên Khê (Đông Anh)... Nhưng các bãi rác không được xây dựng đúng tiêu chuẩn kĩ thuật. Hầu hết các bãi rác đều xử lí rác theo các bước: xe đổ xuống hố mỗi ngày sau khi đổ song rác xe nén rác được vận hành để trải đều rác và nén chặt rác tiếp đó dùng xe rắc vôi bột nên bề mặt nhằm tẩy trùng sau đó dùng hai xe bồn để phun chế phẩm EM nhằm hạn chế mùi hôi.Cuối cùng dùng xe phủ cán một lớp đất mỏng 3-4 cm lên bề mặt. Với kết cấu và kĩ thuật chèn lấp rác như trên, các bãi rác ở Hà Nội hiện nay đã nảy sinh nhiều vấn đề nhức nhối, nguy hiểm về vệ sinh môi trường, khó khăn trong khâu quản lí, phức tạp về mặt kinh tế xã hội: -Đang tiếp nhận quá tải lượng rác thải hàng ngày của thành phố. Nguy hiểm về vệ sinh môi trường với các yếu tố đặc thù: + Mùi hôi thối bốc lên nồng nặc từ bãi rác (mặc dù đã giảm đáng kể so với trước đây khi chưa phun chế phẩm EM) và mùi do những người nhặt rác phơi bao bì nilon dọc hai bên đường nhựa. + Các khí độc hại do rác phân huỷ không có lối thoát, phun trào tự nhiên trên khắp bề mặt bãi rác. + Phát sinh ruồi, nhặng, muỗi, các loại côn trùng và các loài gặm nhấm khác làm mầm gây bệnh lây lan rất nguy hiểm(dân quanh vùng phải giăng mùng để ăn cơm do có quá nhiều ruồi). + Do không được chống thấm nên nước rò rỉ từ rác thải xuống đất gây ô nhiễm các tầng nước ngầm. Rất nhiều giếng đào và giếng khoan của dân cư xung quanh vùng này không còn sử dụng được vì nước rất đen và bốc mùi hôi thối. + Nước rò rỉ từ bãi rác(chủ yếu là các hồ tích trữ nước rác bố trí xung quanh tường bao) ra ngoài hệ thống bờ bao gây thiệt hại nặng nề đến đời sống sản xuất và sinh hoạt của nhân dân: cá nuôi bị chết, lợn gà vịt bị chết, năng suất hoa màu tụt giảm... + Nước rác từ các hồ tích trữ chưa được xử lí đạt yêu cầu và không có lối thoát, chỉ trông chờ vào khả năng bay hơi, còn lại là hầu như bị thấm hết xuống các tầng nước ngầm. Mộ nguy cơ khủng khiếp về ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước ngầm đang đặt ra ở phía trước. +Việc sử dụng chế phẩm EM ở bãi rác có an toàn về mặt sinh thái chưa vẫn còn là vấn đề cần nghiên cứu ( hiện nay ở Nhật Bản đã cấm sử dụng loại chế phẩm này vì có những hiệu ứng phụ đối với môi trường và sinh thái) Công tác xử lí chất thải sinh hoạt trong năm 1999 gặp khó khăn rất lớn về địa điểm chôn lấp. Các bãi rác bị ngừng hoạt động do gây ô nhiễm nặng nề đối với môi trường xung quanh nên người dân không đồng tình ủng hộ. Cính vấn đề này đã làm cho Hà Nội bị tồn đọng rác ngay trên đường phố trong ngày 19-20/9/1999. Hiện trạng các bãi rác này như sau: - Bãi rác Kiêu Kỵ (Gia Lâm): diện tích 5,3 ha được xây dựng từ năm 1997 và công trình đã được đưa vào sử dụng tháng 9/1999 do bãi rác Tây Mỗ, Nam Sơn bị ngừng hoạt động. Đến tháng 4/2000 do nhân dân xung quanh phản đối và chưa giải quyết được trợ cấp môi trường nên bãi rác phải ngừng hoạt động. Rác thải của xí nghiệp môi trường đô thị Gia Lâm phải đưa về bãi rác Nam Sơn _ Sóc Sơn. -Bãi rác Nguyên Khuê (Đông Anh): diện tích khoảng 1,5 ha tiếp nhận rác của huyện với khối lượng khoảng 40 m³/ngày bằng hai xe 92A và một xe huyndai của xí nghiệp môi trường đô thị huyện. Bãi rác Nguyên Khuê dựa trên một số hố gạch do các chủ lò gạch khai thác để lại. Việc tiếp nhận không được đầm nén ngay, không được phủ đất thậm chí không có xe ủi để san ủi mặt bằng. Bãi rác Nguyên Khuê cũng gây ảnh hưởng tới môi trường xung quanh nhưng với khối lượng nhỏ nhưng vẫn còn được duy trì, mặc dù vậy nhưng đây là bãi rác không đúng tiêu chuẩn. -Bãi rác Phú Ninh_Sóc Sơn: diện tích khoảng 1,2 ha, hàng ngày tiếp nhận khoảng 50m³ cũng trong tình trạng không có xe ủi mặt bằng, đây cũng là bãi rác không đúng tiêu chuẩn. -Bãi Nam Sơn: nằm trong tổng thề khu liên hợp xử lí chất thải rắn của Hà Nội với diện tích 150 ha. ở đây sẽ có các nhà máy xử lí chất thải bệnh viện, chất thải công nghiệp, chất thải sinh hoạt, phân loại và tái chế. Diện tích đã giải phóng giai đoạn một để thực hiện chôn lấp rác là 13,5 ha. Đến nay đã tiến hành xây dựng xong hai lò và lò thứ ba đang tiếp tục thi công, hệ thông xử lí nước rác cũng đang được thi công. Ngoài các bãi rác trên cũng xuất hiện các bãi rác lộ thiên tự phát của nhân dân các vùng dọc quốc lộ gây mất mỹ quan và ảnh hưởng tới môi trường. Từ hiện trạng các bãi rác ở trên ta có nhận xét chung về hoạt động của các bãi rác thải tại Hà Nội: xử lí rác tại các bãi chôn lấp không đúng yêu cầu kĩ thuật, không triệt để... dẫn đến ảnh hưởng tới môi trường là điều khó tránh khỏi. Cần phải có những giải pháp thích hợp đảm bảo cho thành phố Hà Nội ngày càng sạch đẹp. II. Lợi ích của việc sản xuất phân compost từ rác thải sinh hoạt 1. Lợi ích kinh tế. Ngay từ những năm đầu của thập niên 80, nhận thấy thành phần hữu cơ trong rác thải Hà Nội rất cao 53%, công ty môi trường đô thị Hà Nội đã nghiên cứu giải pháp làm phân ủ. Năm 1990 đề án “VIE 186”_023 xử lí chất thải cứng ở Hà Nội đã được chính phủ Việt Nam và chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc chính thức phê duyệt và được khai triển thực hiện. Một trong những mục tiêu quan trọng nhất của đề án là xây dựng nhà máy phân ủ thí điểm tại Cầu Diễn. Từ 3/1993 nhà máy thí điểm phân ủ đầu tiên sử dụng công nghệ ủ đống tĩnh, sục khí cưỡng bức đã đi vào hoạt động để xử lý 30000 m³ rác/ năm thành 7500 tấn phân hữu cơ. Nhà máy phân ủ thí điểm Cầu Diễn đã đánh dấu một bước tiến mới trong công nghệ xử lí phế thải. Để thấy được lợi ích kinh tế của việc sản xuất phân compost từ rác thải ta nên xem xét qui trình công nghệ của nhà máy: Phân hầm cầu qua xử lí Nguyên liệu tươi Cân điện tử Bể chứa Sàn tập kết Tái chế Băng phân loại Trộn Nghiền Thổi khí cưỡng bức Lên men Kiểm tra tự động Cung cấp độ ẩm ủ chín Sàng phân loại Tinh chế Sản phẩm Đóng bao Trọn phụ gia và chất kích thích Thực tế qua quá trình hoạt động của nhà máy xử lí rác làm phân bón hữu cơ có những ưu việt về môi trường, kĩ thuật và kinh tế xã hội do đó cần phải tiếp tục xử lí rác kết hợp với các bãi chôn lấp làm phân bón hữu cơ. 1.1 Tiết kiệm diện tích đất Xét về mặt kinh tế thì việc sản xuất phân từ rác thải đã mang lại hiệu quả kinh tế cao từ việc tiết kiệm diện tích đất chôn lấp. Cùng với sự phát triển kinh tế, phát triển dân số thì quá trình đô thị hoá ngày càng nhanh, do đó dân cư từ khắp các địa phương đều có xu hướng tập trung về Hà Nội để làm kinh tế, nên vấn đề đất đai ngày càng là vấn đề cần phải quan tâm. Đất đai đô thị hạn hẹp, nhu cầu nhà ở ngày càng tăng, lượng rác thải ngày càng tăng. Vậy mà xử lí rác thải theo kiểu chôn lấp thì mỗi năm Hà Nội phải bỏ ra một diện tích đất rất lớn để chôn lấp. Nhưng nếu có nhà máy sản xuất làm phân compost thì nhà máy đã giúp cho Hà Nội tiết kiệm được một diện tích đất không nhỏ. Diện tích đất đó có thể sử dụng vào việc khai thác, dùng làm đất ở cho nhân dân, dùng làm đất nông nghiệp... 1.2 Tiết kiệm chi phí vận chuyển. Ngoài việc tiết kiệm được diện tích đất chôn lấp thì chi phí vận chuyển cũng tiết kiệm được một khoản không nhỏ. Thực tế nghiên cứu chi phí vận chuyển dựa trên bảng giá sau: Bảng giá thành vận chuyển rác từ thành phố đi bãi Nam Sơn TT Chỉ tiêu Xe chuyên dùng 1 Cự li tính cước vận chuyển 60,773 km 2 Cước phổ thông đường loại 1, hàng bậc 3 588,9 đ/T km 3 Cước phổ thông đường loại 3, hàng loại 3 928,2 đ/ T km 4 Cước vận tải tính cho 1 tấn hàng: 38 km đường loại 1 24 km đường loại 3 43.525,3 đ/tấn 22.362,3 đ/tấn 21.163 đ/tấn 5 Các hệ số tính theo cước cơ bản Phương tiện có thiết bị tự đổ (15%) Chở thiếu tải (10%) 6528,8 đ/tấn 4352,5 đ/tấn 6 Các loại phụ phí Cộng chi phí (4+5+6) 13,500 đ/tấn 69906,6 đ/tấn 7 Trích quỹ khen thưởng phúc lợi Tổng cộng Làm tròn 2037,2 đ/tấn 69943,8 đ/tấn 69944 đ/tấn Nguồn: nghiên cứu khả thi “Dự án đầu tư xây dựng khu liên hợp xử lí chất thải rắn tài Nam Sơn-Sóc Sơn- Hà Nội giai đoạn 1999-2000, tập 2” -áp dụng bảng tính giá trên vào việc tính giá vận chuyển rác thải từ phường Kim Liên đến bãi Nam Sơn ta có: Quãng đường 61km Số lượng vận chuyển trong một tháng Khi đã thực hiện tốt việc phân loại rác thải tại nguồn, rác vận chuyển tới Nam Sơn gồm: + Rác có thể tái chế: 4,3 tấn/tháng + Rác chôn lấp: 26,5 tấn/tháng + Độc hại: 0,5 tấn/tháng Tổng số: 31,3 tấn/tháng 1,044 tấn/ngày Kinh phí vận chuyển rác từ nội thành đến bãi rác Nam Sơn tính cho 900 tấn/ngày: Một tháng : 1888,188 triệu đồng Suy ra kinh phí vận chuyển rác từ nội thành đến bãi rác Nam Sơn tính cho 1,044 tấn/ngày: 2190300 đồng/tháng. Trong khi đó kinh phí vận chuyển chất thải từ phường Kim Liên tới xí nghiệp phân Cầu Diễn: - Quãng đường 18km - Số lượng rác vận chuyển bình quân trong 1 tháng. Khi đã phân loại rác tại nguồn, rác vận chuyển tới xí nghiệp gồm phân hữu cơ 22,7 tấn/tháng. Do tác dụng của phế phẩm EM nên làm trọng lượng của loại rác hữu cơ giảm khoảng 50%. Khối lượng thực tế rác thải vận chuyển tới xí nghiệp chế biến phân compost Cầu Diễn. Tổng khối lượng xấp xỉ 11,4 tấn/tháng tương đương với 0,38 tấn/ngày. Căn cứ vào kinh phí vận chuyển ở phần trên, bằng phương pháp tính tỉ lệ, tổng chi phí vận chuyển tới xí nghiệp Cầu Diễn khoảng : 235,250 đồng/tháng. 1.3 Cung cấp nguyên liệu tái chế. Ngoài các vấn đề trên, việc vận tải gần giúp cho công tác thu gom không phải chờ đợi, tuổi thọ xe, máy kéo dài, tiết kiệm chi phí sửa chữa,đại tu, an toàn giao thông được đảm bảo hơn, cung cấp một nguồn phân bón hữu cơ phục vụ nông nghiệp theo hướng phát triển nền nông nghiệp bền vững. Xử lí rác thải ở Cầu Diễn ta đã tận dụng được nguồn tài nguyên rác, biến rác thải từ phế thải gây ô nhiễm, phải mất tiền và công sức để xử lí, đổ đi trở thành nguồn nguyên liệu có ích là đầu vào của ngành công nghiệp phân bón hữu cơ vi sinh. Lợi ích đem lại là các kết quả sau: -Kết quả thứ nhất: từ nguồn phế thải gây ô nhiễm có thể chuyển thành 3 loại sản phẩm hữu ích cho ngành sản xuất rau sạch và hoa, phục vụ trở lại cho người dân đô thị. đó là: + Từ nilon, đồ nhựa phế thải tái chế ra các loại đồ nhựa. +Từ mùn hữu cơ sản xuất ra một loại đất công nghiệp nhẹ, xốp, đủ dinh dưỡng thay thế hoàn toàn đất tự nhiên. +Phân bón hữu cơ vi sinh Giải pháp này có thể thực hiện theo hướng chế biến hoàn toàn thủ công, vốn đầu tư thấp không tốn năng lượng và có hiệu quả kinh tế. -Kết quả thứ hai: giảm chi phí cho ngành xử lý rác thải nhờ: + Xoá bỏ được quy mô bãi rác và tăng tuổi thọ cho bãi rác. + Giảm được khối lượng rác thải vận chuyển từ nguồn phát sinh. + Giảm hẳn được sức ép phải thu gom và vận chuyển rác thải Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng thử nghiệm hai chế phẩm vi sinh nêu trên vào công việc xử lí , chế biến rác thkải sinh hoạt để làm phân bón, cho thấy có thể giải quyết được tình trạng ô nhiễm môi trường do rác thải sinh ra, đồng thời sản phẩm là phân bón hữu cơ vi sinh phục vụ cho sản xuất nông nghiệp 2. Lợi ích môi trường Việt Nam đang phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với nhịp độ tăng trưởng cao, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, dịch vụ và đô thị hoá. Trong những năm 1996-2000 nhịp độ tăng trưởng trung bình của công nghiệp và dịch vụ đều trên mức 10%/năm, trong khi GDP của đất nước tăng trung bình khoảng 6-8%/năm cùng thời kì. Cùng với đà tăng trưởng ấy là sự gia tăng mạnh mẽ dân cư ở các khu đô thị, đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh... tạo nên sức ép lớn cả về môi trường đô thị. Sự tăng trưởng cao như vậy là một điều cần thiết nhằm làm cho đất nước nhanh chóng phát triển, hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực. Nhưng chính sự phát triển với nhịp độ cao cũng có nghĩa là một khối lượng tài nguyên thiên nhiên ngày càng tăng được khai thác từ tự nhiên để chế biến và một khối lượng chất thải từ sản xuất và tiêu dùng ngày càng tăng được thải vào tự nhiên, gây ô nhiễm và sức ép đối với môi trường sinh thái. Lượng rác thải sinh hoạt ngày càng nhiều, đòi hỏi các nhà lãnh đạo thành phố phải tìm ra nhiều phương án xử lí lượng rác thải đó. Các phương pháp xử lí rác thải hiện nay như là chôn lấp, tái sử dụng làm phân compost, đốt...nhưng phương pháp chôn lấp là phương pháp chủ yếu. Tuy phương pháp này có nhiều ưu điểm nhưng do các hình thức chôn lấp vẫn chưa đảm bảo về yêu câù kĩ thuật, vẫn gây ra ô nhiễm môi trường: môi trường không khí, môi trường đất, môi trường nước mặt và nước ngầm. Phương pháp tái sử dụng rác thải làm phân compost đã phần nào khắc phục được những nhược điểm của phương pháp trên. Bởi lẽ công nghệ của nhà máy sản xuất phân compost được thực hiện qua các công đoạn ở trong nhà có mái che nên đảm bảo không gây mùi. Quá trình lên men ở bể ủ được ôxy hoá tạo điều kiện cho vi sinh vật hữu ích phát triển và tiêu diệt những vi sinh vật có hại. Các quá trình xử lí này không gây mùi do đó sẽ không gây ra ô nhiễm không khí. Tức là đã hạn chế được những hậu quả do ô nhiễm không khí tới sức khoẻ của con người. Công nghệ này không phát sinh ra nước rác, tận dụng được nước rác trong các nhà máy chế biến đưa quay vòng về bể ủ lên men để bổ sung độ ẩm. Do không tạo ra nước rác do đó không gây ô nhiễm nước (cả nước mặt và nước ngầm), không gây ô nhiễm đất xung quanh nhà máy. Như vậy xử lí rác thải theo qui trình công nghệ của nhà máy phân compost không chịu ảnh hưởng của điều kiện thời tiết như việc xử lí rác thải theo kiểu chôn lấp. Ví dụ: nếu như trời mưa thì nhà máy sản xuất rác làm phân compost cũng không tạo ra nước rác chảy tràn ra khu vực dân sinh sống xung quanh khu vực đó. Như vậy đã không gây ra những bệnh như: bệnh ngoài da, đau mắt hột... Trong khi đó việc chôn lấp lại chịu ảnh hưởng nhiều của thời tiết: Nếu trời nắng thì rác bốc mùi rất mạnh do đó gây ô nhiễm không khí ở môi trường xung quanh, điều đó đã gián tiếp ảnh hưởng tới sức khoẻ con người thông qua con đường hô hấp. Mặt khác nếu trời mưa thì lượng nước rác phát sinh ra nhiều, nhất là mưa to thì lượng nước rác kết hợp với lượng nước mưa sẽ tràn ra một vùng đất rộng xung quanh bãi chôn lấp, điều này vừa gây ô nhiễm nguồn nước, vừa gây ô nhiễm đất. Bên cạnh đó, nước rác chảy ra nhiều nơi sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Như vậy mới xét đến qui trình ủ men mà việc xử lí rác làm phân compost đã đem lại một ích lợi nhất định về mặt môi trường. Theo qui trình công nghệ của nhà máy phân compost thì tiếp quá trình lên men là phải đưa vào lò ủ chín rồi mới đến sàng phân loại. Như vậy quá trình sàng phân loại này không gây ô nhiễm môi trường xung quanh cũng như môi trường làm việc của công nhân trong nhà máy. điều đó đã phần nào đem lại sự bảo đảm về sức khoẻ của người công nhân trong nhà máy. Bởi vì rác đã được ủ chín, do đó sẽ hạn chế mùi hôi thối và phần nào diệt được những sinh vật gây hại đến sức khoẻ con người và tạo ra những sinh vật có lợi để phân huỷ rác. Sau qua trình tinh chế, chộn phụ gia và chất kích thích được đóng bao tạo thành sản phẩm đem bán ra thị trường. Do kĩ thuật sản xuất của nhà máy đảm bảo yêu cầu kĩ thuật nên lượng phân bón được tạo ra từ rác khi đem bón cho cây trồng không gây ô nhiễm môi trường mà ngược lại nó còn làm cho đất tơi xốp nhờ có những vi sinh vật có lợi do quá trình lên men, ủ chín tạo ra những chất kích thích được trộn thêm vào. Tuy nhiên trong quá trình sản xuất của nhà máy vẫn còn một số công đoạn gây ô nhiễm do qui trình công nghệ chưa đáp ứng với yêu cầu tiêu chuẩn kĩ thuật. Ví dụ trong công đoạn đảo trộn rác hữu cơ sau khi được phân loại, nghiền nhỏ tiếp tục chuyển về sân đảo chộn. Trong công đoạn này một số chất phụ gia và chế phẩm EM được trộn với chất thải. Nhìn chung điều kiện làm việc và vệ sinh tại khu vực này không đảm bảo. Bùn bể phốt chứa các loại vi khuẩn gây bệnh lan truyền trong không khí và nước. Còn trong công đoạn ủ do nhà ủ không được thiết kế cách li với môi trường bên ngoài và bên trong, khu vực ủ men vẫn còn mùi hôi của quá trình bốc lên. Nó chỉ hạn chế được 30% mùi hôi thối thải ra môi trường. Từ thực tế qui trình công nghệ nêu trên nhà máy cần phải có biện pháp để sử dụng công nghệ hợp lí hơn để việc sản xuất phân bón không gây ảnh hưởng tới môi trường xung quanh. Tóm lại quá trình sản xuất phân compost là một biện pháp xử lí rác đạt tiêu chuẩn về mặt môi trường nhất ở Việt Nam hiện nay. Cho dù công suất của nhà máy còn nhỏ 30000 tấn rác/năm nhưng nó đã dự báo một khả năng lớn về phương pháp xử lí rác thải hợp vệ sinh ở Việt Nam trong tương lai. Một phần lớn các chất thải hữu cơ trong các dòng chất thải của thành phố đã làm cho việc chế biến rác thải thành phân trở thành biện pháp xử lí rác thải thích hợp nhất ở Việt Nam hiện nay. 3. Lợi ích xã hội Hiện nay ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước trên thế giới vấn đề việc làm đang là vấn đề bức xúc và được xã hội hết sức quan tâm. Do đó nhà nước rất quyến khích các nhà máy đầu tư vào các lĩnh vực tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội. Việc xây dựng nhà máy phân compost đã thu hút một số lượng lớn lao động vào làm việc trong nhà máy và họ đã có thu nhập ổn định. Bên cạnh đó nhờ xí nghiệp có khâu tuyển chọn nên đã tạo được công ăn việc làm cho một số lao động xung quanh nhà máy bằng việc như thu nhặt phân loại các sản phẩm tái chế như nilon, kim loại, giấy...Họ thu nhặt các sản phẩm còn hữu ích đó rồi đem bán cho các đại lý hoặc các cửa hàng đồng nát và những cơ sở thu mua này bán lại các vật liệu được tái chế cho ngành công nghiệp địa phương hoặc để xuất khâủ. Thông qua công việc này họ đã tiết kiệm được cho xã hội một nguồn tài nguyên đáng kể góp phần hạn chế sự cạn kiệt đang diễn ra nhanh chóng của các nguồn tài nguyên không phục hồi. IV. So sánh ảnh hưởng tới môi trường giữa việc sử dụng phân bón hoá học với việc sử dụng phân hữu cơ trong nông nghiệp. 1. Những tác động khi sản xuất và sử dụng phân bón hoá học tới môi trường 1.1 Sản xuất phân bón hoá học. Hiện nay để đáp ứng những nhu cầu sử dụng phân bón hoá học trong nông nghiệp, dẫu việc sản xuất phân bón ngày càng nhiều nhưng chủ yếu tập trung ở 4 nhà máy lớn là: công ty supe phốt phát và hoá chất Lâm Thao, công ty phân lân nung chảy Văn Điển, công ty phân lân nung chảy Ninh Bình và công ty phân bón miền Nam. Với công suất tổng cộng lên tới 1180000 tấn/ năm, việc sản xuất của các nhà máy hầu hết công nghệ đều lạc hậu, máy móc thiết bị cũ kĩ chắp vá do vậy trong quá trình sản xuất đã thải ra nhiều chất thải độc hại làm ô nhiễm môi trường. Thí dụ như tại nhà máy supe phốt phát Lâm Thao việc sản xuất supe lân theo công nghệ axit nên phải sử dụng nhiều thiết bị để làm sạch khí, sử dụng nhiều nguyên liệu thô nên đã thải ra nhiều chất thải, chủ yếu là bụi aptít, xỉ pirits, khí HF, SO2, H2SO4. Tính theo công suất hiện nay thì mỗi ngày nhà máy thải ra 16-17 tấn Florua, 15-16 tấn SO2, 300-400 tấn xỉ pyrit với hàm lượng S tới 2%, 50-60 nghìn tỉ m³ nước thải có khí hoà tan và bụi chảy vào sông Hồng gây ô nhiễm rất nghiêm trọng. Còn tại nhà máy phân lân nung chảy Văn Điển sản xuất theo công nghệ lò đứng nên đã gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Chất thải chủ yếu của nhà máy này là bụi, khí flo, xỉ, nước thải đã ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của con người sống xung quanh. Trung bình nhà máy thải ra 5-10 tấn bụi ( bụi apatít và bụi than ) và 4-5 tấn khí flo. Qua sự phân tích ở trên ta thấy so với việc sản xuất phân compost thì việc sản xuất phân hoá học gây ô nhiễm đến môi trường lớn hơn rất nhiều. Đồng thời việc sản xuất phân hoá học trên còn gây lãng phí tài nguyên rất lớn do sử dụng không hiệu quả. 1.2 Sử dụng phân bón hoá học. Trong những năm vừa qua, sự phát triển nông nghiệp đã đem lại một khối lượng nông sản lớn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của con người và như vậy cũng đồng nghĩa với việc sử dụng một lượng lớn các hoá chất bảo vệ thực vật, phân bón hoá học. Theo nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học thì con đường đảm bảo an ninh lương thực ở những nước hạn chế về diện tích canh tác là yếu tố thâm canh, trong đó thâm canh bằng con đường đầu tư phân bón có vai trò quan trọng. Xu thế này hiện vẫn thích hợp với các nước đang phát triển. Theo kết quả của viện thổ nhưỡng nông hoá (1989) thì ở Việt Nam trung bình bón 1kg N+P2O5+K2O làm tăng 7,5-8,5 kg lương thực qui thóc. Như vậy theo tỉ lệ này, sử dụng phân bón làm tăng 8,3-9,3 triệu tấn lương thực chiếm 27-30,4% tổng sản lượng lương thực qui theo thóc của cả nước(1997). ở nước ta giai đoạn từ 1976 đến nay lượng phân hoá học được tăng lên nhanh chóng. Năm 1990 lượng phân bón dùng cho một ha gieo trồng tăng so với năm 1980 là 418,6% năm 1995 tăng 557% so với năm 1980. Đến năm 1997 lượng phân bón N, P, K cho một ha gieo trồng đã đạt 126,1 kg/năm. Những tác động của phân bón hoá học này đã thay thế qua các quá trình kiểm soát tự nhiên của môi trường, khiến chúng trở lên dễ bị tổn thương hơn, thậm chí còn bị ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến chất lượng môi trường sống. Qua nghiên cứu cho thấy việc bón phân ở Việt Nam có một số điểm hạn chế như sau: tỉ lệ N, P, K ở Việt Nam hiện nay mất cân đối nghiêm trọng, tỉ lệ này là 10:3:1. Như vậy tỉ lệ K rất thấp so với đạm , lân. Trong khi đó yêu cầu thông thường phải đạt 1: 0,5: 0,3. Hàm lượng đạm cao đã làm mất cân bằng dinh dưỡng trong đất làm đất ô nhiễm ở các lĩnh vực sau: - Làm chua đất: các loại phân bón hoá học thường dùng có đặc tính chua sinh lý như CO(NH2)2 và (NH4)2SO4 khi bón vào đất chúng bị hoà tan và bị phân li thành các iôn như NH4+ trao đổi trực tiếp với các iôn trong keo đất và cây trồng. Quá trình axit hoá gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đất theo 3 khía cạnh: + Làm nghèo kiệt các iôn kiềm và kiềm thổ, khi PH thấp dưới 3,5 còn gây hiện tượng thiếu các chất dinh dưỡng khác do bị giữ lại ở trạng thái khó tiêu. + Tích luỹ nhiều các iôn Al5+, Fe2+, Mn2+, di động làm độc hại cho sinh trưởng phát triển cuả cây trồng. + Làm giảm hoạt tính sinh học của đất. Đa số vi sinh vâth có ích trong đất như vi sinh vật cố định đạm, vi sinh vật phân giải chất hữu cơ thường thích nghi ở môi trường đất chua ít và trung tính vì vậy đất chua mạnh thì các loại vi sinh vật này hoạt động kém, làm giảm khả năng cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng. - Ô nhiễm NO3-: Do chạy theo lợi nhuận cao trong sản xuất nông nghiệp người nông dân thường sử dụng một hàm lượng phân đạm khá cao. Khi bón phân đạm vào môi trường đất, chỉ khoảng 30-40% phân đạm được sử dụng, phần còn lại bị lãng phí theo các con đường như bay hơi vào không khí, rửa trôi theo nguồn nước hoặc tích luỹ trong môi trường đất trong quá trình hấp thụ. Lượng NO3- tích luỹ nhiều trong đất và nước tưới, trong sản phẩm nông nghiệp đã gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của con người. ở Việt Nam nhiều nơi sản xuất rau đã sử dụng quá nhiều đạm gây nên tình trạng hàm lượng NO3- quá cao trong hầu hết các rau ăn( thân, lá...)làm giảm chất lượng nông sản. - Ô nhiễm đất phú dưỡng: phú dưỡng là sự gia tăng hàm lượng nitơ và phôt pho trong nước thường do quá trình sử dụng phân bón trong sản xuất. Do vậy, gây ra sự phát triển mạnh mẽ của các loài thực vật phù du như rêu, tảo dẫn đến tình trạng thiếu ôxy trong nước làm giảm chất lượng nước, phá hoại môi trường trong sạch của thuỷ vực, sản sinh nhiều chất độc trong nước như H2S, CO2, CH4...tiêu diệt nhiều sinh vật có ích trong nước. Như vậy, mặc dù việc sử dụng phân bón hoá học đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, nâng cao năng suất sản lượng cây trồng góp phần đảm bảo an ninh lương thực. Tuy nhiên, do thiếu hiểu biết của người dân và tính vụ lợi trong sản xuất, một số nông dân đã sử dụng không hợp lí phân bón hoá học, nên đã gây độc hại tới môi trường và nông phẩm từ đó dẫn đến mất cân bằng sinh thái, đe doạ sự phát triển của sản xuất nông nghiệp và sức khoẻ con người. Cho nên cần có biện pháp hạn chế việc sử dụng phân bón hoá học. 2. Lợi ích của việc sử dụng phân compost Từ những phân tích ở trên ta thấy rõ tác hại của việc sản xuất đến việc sử dụng phân bón hoá học, cho nên chúng ta cần đẩy mạnh việc sản xuất phân compost để từng bước thay thế phân bón hoá học. Muốn khuyến khích sự đầu tư lớn vào việc sản xuất phân compost thì điều quan trọng là tìm cho được đầu ra của nó. Vậy để tăng việc sử dụng phân compost thì ta phải tìm hiểu lợi ích của việc sử dụng nó để từ đó có cơ sở để quyến khích sử dụng nó. Trước hết do thành phần của phân compost chủ yếu là rác thải qua ủ được trộn với lượng kali với tỉ lệ nhất định vì thế khi bón phân xuống đất sẽ không gây nên ô nhiễm môi trường đất mà ngược lại do tác dụng của các vi sinh vật có ích trong đất nó còn làm cho đất trở nên tơi xốp hơn và cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng. Từ đó, năng suất cây trồng được nâng cao đồng thời cải tạo độ phì cho đất làm cho đất đai màu mỡ hơn. Ngoài ra việc sử dụng phân compost còn góp phần nâng cao chất lượng nông sản từ đó góp phần đảm bảo an toàn lương thực cho người tiêu dùng. Từ nghiên cứu “ ảnh hưởng của phân bón hữu cơ sinh học đối với chất lượng trái và đất trồng nho ở Ninh Thuận” cho thấy: Nho là loại cây trồng quan trọng trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. Đặc tính hoá học của cây nho tỏ ra phù hợp với điều kiện tự nhiên ở đây. Trong quá trình canh tác, giống nho đỏ đã bị thoái hoá dần qua những biểu hiện như : giảm độ Bri X, dễ nhiễm một số bệnh về nấm ...một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng trên đó là việc bón phân chưa hợp lí. Mặt khác bón phân hoá học với liều lượng cao ( 300-400 kg n /ha/vụ) liên tục làm đất chai cứng, làm nghèo đi số lượng vi sinh vật có ích trong đất.Trong thời gian qua các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm đưa phân hữu cơ sinh học với đầy đủ chất đa, trung, vi lượng bón cho nho. Kết quả là cây sinh trưởng tốt, tạo ra sự đề kháng với một số loại sâu bệnh đồng thời làm tăng phẩm chất nông sản. Thành phần dinh dưỡng trong đất tại xã thuận hoà, huyện Ninh Phước, Ninh Thuận Năm 2000 CT PH Tổng số % Dễ tiêu (mg/100g) Mùn H2O KCl N P K N P K 1 6,75 6,22 0,13 0,26 0,83 0,43 83,34 61,92 1,8 2 6,60 6,13 0,12 0,27 1,01 0,44 86,00 44,92 1,7 3 6,74 6,30 0,12 0,26 0,81 0,37 91,43 50,26 1,7 4 6,75 6,26 0,11 0,27 0,90 0,44 95,51 47,46 1,7 LSD5% ns ns ns ns ns ns ns ns ns C.V(%) 3,27 6,25 13,05 13,52 18,79 28,22 19,24 20,95 6,5 Năm 2001 CT PH Tổng số % Dễ tiêu (mg/100g) Mùn H2O KCl N P K N P K 1 6,99a 6,51a 0,2 0,63 1,39 0,76 341,17 88,42b 3,2 2 6,83ab 6,31ab 0,19 0,53 1,34 0,91 355,11 88,42b 2,9 3 6,06bc 5,67bc 0,20 0,70 1,30 0,65 502,98 132,07a 3,2 4 5,56c 5,09c 0,18 0,76 1,36 1,04 399,35 149,87a 2,7 LSD5% 0,91 0,77 ns ns ns ns ns 37,64 ns C.V(%) 5,66 5,11 13,93 43,14 13,24 34,99 29,34 18,26 16,7 V. Biện pháp để giải quyết những khó khăn trong việc sản xuất và sử dụng phân compost 1. Phân loại rác thải tại nguồn phát thải Một trong những hạn chế chính của việc sử dụng chất thải hữu cơ nhiều hơn để làm phân compost là do rác thải không được phân loại tại nguồn phát thải làm cho nhiễm bẩn tăng lên, có nhiều chất vô cơ còn lẫn trong rác thải: thuỷ tinh vỡ, túi nilon.... Phân loại rác thải là công đoạn quan trọng nhất trong qui trình sản xuất, ảnh hưởng lớn tới chất lượng của phân. Trong giai đoạn này rác thải chưa được phân loại tại sàn tập kết được đưa lên băng truyền để công nhân phân loại. Họ chỉ chọn chất thải hữu cơ và một số chất thải có khả năng tái chế. Vì vậy giai đoạn này ảnh hưởng trực tiếp đến công nhân phân loại, công nhân trong xí nghiệp và môi trường xung quanh. Sự ô nhiễm này do các chất hữu cơ bị phân huỷ, các chất độc hại, các vi sinh vật có hại trong rác gây ra.... Nếu rác không được phân loại thì mức độ ô nhiễm này càng cao và sức khoẻ công nhân càng bị đe doạ. Hiện phân loại rác do một đội quân không chính thức đảm nhiệm, nó mang tính tự phát. Những người bới rác và thu nước phế liệu chủ yếu là phụ nữ và trẻ em. Họ thu nhặt những thành phần có giá trị từ rác như: kim loại, nhựa và giấy trực tiếp từ hộ gia đình, điểm tập kết và cả bãi rác của đô thị. Thực tế hiện nay Hà Nội có khoảng 6000 người nhặt rác và thu mua đồng nát với nhiều đại lý hoạt động rải rác khắp thành phố. Những người này nhặt được hoặc mua được khoảng 180-270 tấn nguyên liệu tái sinh trong một ngày. Trong đó phần phế liệu để tái sinh lớn nhất là: chai thuỷ tinh 40%, giấy 28%, kim loại 19%. Việc thu hồi chất thải cho phép tái chế và tái sử dụng được hơn 15% chất thải phát sinh ở Hà Nội. Điều đáng quan tâm ở đây là hầu hết những người nhặt rác đang làm việc trong môi trường hết sức nguy hại, họ phải hàng ngày, hàng giờ phải tiếp xúc trực tiếp với những chất nguy hiểm lẫn trong rác ... nên ảnh hưởng lớn tới sức khoẻ của họ. Mặt khác do không có sự phân loại rác tại nguồn nên đã làm cho chi phí phân loại rác trước khi đưa vào sản xuất lên rất cao. Ví dụ như chi phí phân loại khi tập kết ở nhà máy phân Cầu Diễn là 3240000 đồng/ tháng chiếm 20% tổng chi phí . Đồng thời làm giảm tỉ lệ tái sinh chất thải hay nói cách khác nó làm giảm nguồn nguyên liệu đầu vào nhà máy cho nên công suất của nhà máy chỉ đạt 70%. Chính vì thế cần phải phân loại rác tại nguồn để làm giảm chi phí phân loại khi sản xuất và tăng tỉ lệ tái sinh chất thải, cũng có nghĩa là giảm bớt khối lượng chất thải phải vận chuyển và xử lí. Căn cứ vào qui trình công nghệ của sản xuất, nhóm nghiên cứu tạm ước tính % giảm chi phí đối với các công đoạn sản xuất khi thực hiện việc phân loaị tại nguồn: Ước tính giảm chi phí các công đoạn sản xuất khi phân loại rác tại nguồn rác thải phát sinh tại địa bàn phường Kim Liên trong một tháng TT Công đoạn CP khi chưa phân loại tại nguồn (đ/tháng) % giảm CP khi phân loại rác tại nguồn CP sau khi phân loại rác tại nguồn (đ/tháng) 1 Phân loại 3.240.000 70 927.000 2 Đảo trộn 2.430.000 0 2.430.000 3 ủ 1.620.000 80 324.000 4 ủ chín 810.000 90 81.000 5 Sàng phân loại 2.430.000 65 850.000 6 Quạt tinh chế 2.430.000 80 486.000 7 Tinh chế 1.620.000 0 1.620.000 8 Đóng bao 1.620.000 0 1.620.000 Tổng cộng 16.200.000 8.338.500 Chênh lệch chi phí sản xuất khi thực hiện phân loại tại nguồn: DC = 16200000- 8338000= 7861500 (đồng/tháng) Thấy được lợi ích của việc phân loại rác tại nguồn như đã nêu trên ta cần có những biện pháp tuyên truyền giáo dục ý thức của người dân thực hiện phân loại rác từ trong gia đình và phải bố trí thùng rác ở nơi công cộng một cách hợp lí. Hiện trạng thu gom rác thải Hà Nội và giải pháp đề xuất: Hệ thống đề xuất Nguồn rác thải dân cư Vô cơ Tái chế ủ thành phân Vô cơ Hữu cơ Nhà máy sx phân Bãi chôn lấp Thùng đựng rác Ô tô tải Ô tô tải Xe đẩy Nguồng rác thải dân cư Hệ thống hiện hành Xe đẩy Xe tải Hữu cơ Thùng rác Xe tải Chôn lấp Tái chế Nhà máy sx phân 2. Giải pháp về tuyên truyền giáo dục Trong quá trình đổi mới nền kinh tế chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở cửa và hoà nhập thì vai trò của các hoạt động thương mại, dịch vụ,sản xuất... ngày càng tăng và kéo theo đó là lượng rác thải trong các lĩnh vực này ngày càng tăng. Trong khi đó nền kinh tế thị trường lại làm cho ý thức của người dân kém đi: họ chỉ chạy theo tư lợi mà quên đi lợi ích của toàn xã hội, chỉ chạy theo lợi ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài, chỉ hướng tới lợi ích kinh tế mà mặc cho môi trường ngày càng bị ô nhiễm nặng nề. Như vậy có thể khẳng định rằng chất lượng môi trường cũng phụ thuộc nhiều vào ý thức của con người. Và muốn bảo vệ môi trường thì việc giáo dục ý thức cho người dân là điều tất yếu. Khuyến khích đẩy mạnh các hoạt động xã hội hoá đối với công tác vệ sinh trên địa bàn thành phố, cụ thể: - Một là, xây dựng đội tự quản các công trình công cộng như các công viên, tuyến đường phố, các tụ điểm vui chơi....Giao cho các đội tự quản này chịu trách nhiệm về chất lượng vệ sinh môi trường tại nơi đó. Họ có quyền được xử phạt những hành vi vi phạm theo qui định của thành phố và hoá đơn do cấp quận và số tiền xử phạt được trích lại một phần cho đội hoạt động. - Hai là, khen thưởng các tổ dân phố, các phường tích cực tham gia công tác xanh- sạch - đẹp bảo vệ môi trường trên địa bàn thành phố. Vào mỗi tháng các quận huyện sẽ có một đợt tổng kết công tác hoạt động tuyên truyền vận động nhân dân trên từng địa bàn và sẽ có một cơ chế thưởng đối với những địa phương có kết quả hoạt động tốt. - Ba là, đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân thành phố tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường, thành phố có thể huy động sinh viên tham gia công tác tình nguyện phối hợp với đoàn thanh niên trong các trường đại học và cả đoàn viên trong mỗi phường để mỗi đoàn viên trở thành những tuyên truyền viên về vệ sinh môi trường. Hàng quí các quận huyên nên tổ chức các buổi tập huấn về tuyên truyền viên cho các bộ đoàn chủ chốt. - Bốn là, thành phố cần có kế hoạch lồng ghép những bài giảng về nếp sống văn minh, giữ gìn vệ sinh sạch sẽ cho khối trường phổ thông trên địa bàn từ các lớp tiểu học tạo cho các em có ý thức bảo vệ môi trường. Bên cạnh việc giáo dục cho người dân thành phố biết cách bảo vệ môi trường thì việc giáo dục, tuyên truyền cho người dân làm trong lĩnh vực nông nghiệp biết được những lợi ích từ việc sử dụng phân compost để họ hạn chế sử dụng phân hoá học mà chuyển sang sử dụng phân compost bón cho cây trồng cũng là một việc rất cần thiết. Ví dụ tuyên truyền cho họ biết được lợi ích của phân compost: làm cho đất tơi xốp hơn, màu mỡ hơn là dùng phân hoá học, nghĩa là sử dụng phân compost vừa có tác dụng làm tăng năng suất cây trồng vừa cải tạo độ tơi xốp cho đất. Và giáo dục cho nông dân hiểu được rằng sử dụng phân compost nhiều tức là kích thích việc sản xuất nó tức là họ đã góp phần vào bảo vệ môi trường. 3. Đầu tư mở rộng và xây dựng các nhà máy xử lí rác để làm phân compost Qua quá trình hoạt động thực tế của nhà máy xử lí rác thải làm phân bón hữu cơ Cầu Diễn có những ưu việt về môi trường, kĩ thuật và kinh tế xã hội cần phải tiếp tục xây dựng các nhà máy xử lí rác kết hợp với bãi chôn lấp làm phân bón hưũ cơ. Bởi vì mới có 7% dòng thải hữu cơ được nhà máy phân ủ Cầu Diễn chế biến. Cho nên vẫn còn một khối lượng rác thải rất lớn vẫn chưa được tái sử dụng mà chủ yếu là đem chôn lấp vì vậy gây ra sự lãng phí nguồn rác thải và ô nhiễm môi trường. Do đó cần có giải pháp quyến khích sự đầu tư lớn vào lĩnh vực sản xuất phân compost từ rác thải. 4. Xây dựng vành đai rau sạch quanh Hà Nội Để quyến khích những người dân sử dụng phân compost thay vì sử dụng phân bón hoá học để bón cho cây trồng nhằm tăng nhu cầu về sản xuất phân compost từ đó quyến khích việc sản xuất phân compost, thì cần qui hoạch những khu sản xuất rau sạch xung quanh Hà Nội. Một mặt để hạn chế việc sử dụng rác thải không qua ủ vì việc sử dụng như vậy gây ra mức nguy hiểm tiềm tàng cho con người khi tiêu dùng sản phẩm đó. Mặt khác việc đó sẽ cung cấp cho Hà Nội một lượng rau sạch đáp ứng nhu cầu tiêu thụ rau sạch ngày càng tăng ở Hà Nội. Đề Cương Chi Tiết I. Thực trạng của việc xử lí rác thải sinh hoạt 1. Tình trạng rác thải hiện nay 2. Chôn lấp - hình thức xử lí rác thải chủ yếu hiện nay 2.1 Ưu điểm chôn lấp 2.2 Nhược điểm 2.2.1 về kinh tế 2.2.2 về môi trường 3. Hiện trạng một số bãi rác hiện nay 3.1 Kĩ thuật xử lí. 3.2 Qui mô bãi rác. II. Lợi ích của việc sản xuất phân Compost từ rác thải sinh hoạt 1. Lợi ích kinh tế 1.1 Tiết kiệm diện tích trôn lấp . 1.2 Tiết kiệm chi phí vận tải 1.3 Tận dụng được nguồn tài nguyên rác 2. Lợi ích môi trường 3. Lợi ích xã hội 3.1 Tạo công ăn việc làm cho người thu gom rác 3.2 Đảm bảo sức khoẻ III. So sánh ảnh hưởng tới môi trường giữa việc sử dụng phân bón hoá học với việc sử dụng phân vi sinh trong nông nghiệp 1. Những tác động khi sản xuất và sử dụng phân hoá học 1.1 Sản xuất phân hoá học 1.2 Sử dụng phân hoá học 2. Lợi ích sử dụng phân Compost 2.1 Hạn chế bạc màu đất 2.2 Nâng cao chất lượng nông sản 2.3 Phát triển nông nghiệp bền vững IV. Biện pháp để giải quyết những khó khăn trong việc sản xuất và sử dụng phân Compost 1. Phân loại rác thải tại nguồn 2. Tuyên truyền giáo dục cho mọi người 3.Mở rộng và xây dựng nhà máy xử lí rác làm phân bón. 4. Xây dựng vành đai rau xanh quanh Hà Nôị.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35342.doc
Tài liệu liên quan