MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
PHẦN I 7
TỔNG QUAN VỀ VIỆT NAM 7
1.Tổng quan về Việt Nam 8
1.1.Vị trí địa lý 8
1.2. Khí hậu - địa hình 9
1.3. Hành chính 9
1.4. Dân tộc 9
1.5. Tôn giáo 10
1.6. Các di sản thế giới ở Việt Nam 12
1.6.1 Di sản thiên nhiên 12
1.6.2. Di sản văn hóa 12
1.7. Cơ sở nảy sinh hình thành nên nền văn hoá Việt Nam 12
CHƯƠNG II 14
VĂN HÓA HỌC ĐẠI CƯƠNG 14
Dẫn nhập 14
2.1. Khái niệm Văn hoá 14
2.2. Các đặc trưng và chức năng của văn hóa 15 2
__________________________________________________ __________________
2.2.1. Tính hệ thống và chức năng tổ chức xã hội 16
2.2.2. Tính giá trị và chức năng thúc đẩy xã hội vận động đi lên 16
2.2.3. Tính lịch sử và truyền thống có chức năng giáo dục, duy trì cộng đồng. 16
2.2.4. Tính dân tộc tạo nên cá tính, bản sắc riêng, phân biệt với dân tộc khác. 16
2.3. Phân biệt văn hóa, văn hiến, văn vật và văn minh. 16
2.4. Cấu trúc của một nền văn hóa 18
2. 5. Các bộ môn nghiên cứu văn hóa 18
2.6. Hai loại hình văn hoá cơ bản trên thế giới 18
CHƯƠNG III 21
TỌA ĐỘ CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM 21
3. 1.Chủ thể văn hóa Việt Nam là các dân tộc Việt Nam 21
3.2. Không gian văn hóa 22
3.3 Các vùng văn hóa Việt Nam 23
3.3.1. Vùng văn hóa Tây Bắc 26
3.3.2. Vùng văn hóa Việt Bắc (Vùng Đông Bắc) 27
3.3.3. Vùng văn hóa Bắc Bộ (vùng Thăng long, vùng đồng bằng sông Hồng) 28
3.3.4. Vùng văn hóa Trung Bộ 28
3.3.5. Vùng văn hóa Tây Nguyên 29
3.3.6. Vùng văn hóa Nam Bộ 29 3
__________________________________________________ __________________
3.4. Mối quan hệ không gian văn hóa Việt Nam - Trung Quốc 31
TIẾN TRÌNH VĂN HOÁ VIỆT NAM 33
4.1.Giai đoạn 1: giai đoạn tiền sử 33
4.2. Giai đoạn 2: giai đoạn Văn Lang - Âu lạc 34
4.4. Giai đoạn 4: Văn hóa Đại Việt thời tự chủ 35
4.5.Giai đoạn 5: Văn hóa Đại Nam 37
4.6. Giai đoạn 6: Văn hóa hiện đại 38
CHƯƠNG V 42
VĂN HOÁ NHẬN THỨC 42
CỦA NGƯỜI VIỆT NAM XƯA VÀ NAY 42
5.1. Triết lý âm dương 42
5.1.1. Khái niệm 43
5.1.2. Hai qui luật của triết lý âm dương (quan hệ giữa âm và dương) 44
5.1.2.1 Qui luật 1 44
5.1.1.2. Qui luật 2 45
5.2.Hai hướng phát triển của triết lý âm dương 47
5.2.1 Hướng lên phía Bắc 47
5.2.2. Tam tài 48
5.3. Triết lí về cấu trúc thời gian - lịch âm dương 49
5.3.1. Lịch 49
5.3.1.1. Lịch dương 49
5.3.1.2. Lịch âm 50 4
__________________________________________________ __________________
5.3.1.3. Lịch âm dương 50
5.3.2. Hệ đếm Can -Chi 51
5.3.2.1. Hệ Can – thiên can 51
5.3.2.2. Hệ Chi - Địa chi 51
5.4.Triết lý - nhận thức về con người 54
5.4. 1.Nhận thức về con người tự nhiên 54
5.4. 2. Nhận thức về con người xã hội 56
CHƯƠNG VI 57
VĂN HÓA TỔ CHỨC ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG 57
VÀ CÁ NHÂN 57
6. 1.Tổ chức cộng đồng 57
6.1.1.Tổ chức nông thôn: làng xã 57
6.1.2. Tổ chức quốc gia 61
6.1.3 Tổ chức đô thị 63
6.2.Văn hoá tổ chức đời sống cá nhân 65
6.2.1.Tín ngưỡng 65
6.2. 2.Phong tục 69
6.2.3. Văn hoá giao tiếp và Tiếng Việt 72
6.2.3.1.Đặc điểm giao tiếp của người Việt Nam 72
6.2.3.2. Ngôn ngữ tiếng Việt trong giao tiếp 73
6.2.4. Sinh hoạt nghệ thuật. 74
6.2.4.1. Văn chương 74
6.2.4.2. Nghệ thuật tạo hình 76
CHƯƠNG VII 795
__________________________________________________ __________________
VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
XÃ HỒI 79
Văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên 79
7.1. Ăn uống 79
7.2. Mặc (trang phục, trang điểm) 81
7.3. Nhà ở 82
7.4. Sự đi lại – giao thông 84
7.5 Văn hoá tình dục 85
CHƯƠNG VIII 88
VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI 88
Giao lưu với Ấn Độ 89
8.1 Văn hóa Chăm và nguồn gốc Bà la môn, Hồi giáo 89
8.2. Văn hoá Phật Giáo (Buddhism) 90
8.2.1. Sự hình thành đạo Phật 90
8.2.2. Quá trình phát triển của Phật Giáo ở Việt Nam 93
8.2.3. Một số đặc điểm của Phật Giáo Việt Nam 95
Giao lưu với Trung Hoa 98
8.3.Nho giáo và văn hoá Việt Nam 98
8.3.1.Sự hình thành Nho giáo 98
8.3.2. Nội dung cơ bản của Nho giáo 101
8.3.3. Nho giáo Việt Nam 103
8.4. Đạo giáo và văn hoá Việt Nam 104
8.4.1.Đạo gia, Đạo, Đạo đức kinh, Đạo giáo 104
8.4.2. Đạo giáo ở Việt Nam 107
Phương Tây với văn hoá Việt Nam 109
8.5. Kitô giáo với văn hóa VN 109 6
__________________________________________________ __________________
8.5.1 Quá trình phát triển của Kitô giáo ở Việt Nam 109
8.5.2.Văn hóa phương Tây ở Việt Nam 111
CHƯƠNG IX 117
VĂN HOÁ VIỆT NAM 117
TỪ TRUYỀN THỐNG ĐẾN HIỆN ĐẠI 117
9.1. Hằng số văn hoá Việt Nam 117
9.2. Bản sắc văn hoá dân tộc 117
9.3. Gía trị văn hoá truyền thống 118
9.4. Gía trị văn hoá tiêu biểu 118
9.5. Văn hoá truyền thống đứng trước công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại
hóa 119
Phụ Lục 122
Đất Nước 134
THƯ MỤC THAM KHẢO 139
139 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2279 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những nét văn hóa của con người Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quí, yến sào, ngà voi, sừng tê, đồi mồi
và các gia vị quí (hạt tiêu) … tạo ra”con đường hồ tiêu”(từ Địa Trung Hải đến Đông
Nam Á).
8.5.1 Quá trình phát triển của Kitô giáo ở Việt Nam
Đầu tiên, linh mục Ignatio lén vào giảng đạo ở vùng Nam Định. Sau đó các
giáo sĩ Bồ và Tây Ban Nha kế tiếp, đi dọc các tỉnh ven biển miền Trung.(Kitô giáo,
còn đọc là Cơ đốc giáo, thờ chúa Jesus Christ. Nguồn gốc do Jesus người Do Thái xứ
Palestin khởi xướng, nhằm nâng cao và phát triển đạo Do Thái. Do thái giáo và Ki tô
giáo vốn là tôn giáo của người nô lệ, kẻ bị áp bức, xua đuổi. Ở Châu Âu, Kitô giáo
chia tách thành công giáo La Mã và Đạo Tin Lành. Tin Lành theo hệ tư tưởng tư sản,
chỉ thờ Jesus và đọc Kinh Thánh, không thờ Maria và không chịu sự chỉ đạo của Tòa
thánh La Mã, do đó mang tên là Protestanism, gốc chữ Latin là Protestatio- nghĩa là
phản đối. Ở nước Anh thế kỉ XVI có một cuộc phân hóa sinh ra Anh giáo
(Anglicanism) độc lập với Ki tô giáo La Mã.)
Nhà truyền giáo và nhà tư bản liên kết với nhau vươn cánh tay tới phương
Đông, truyền đạo và tìm hiểu thị trường, buôn bán. Chúa Trịnh, vua Lê, chúa Nguyễn
đều sẵn lòng giúp đỡ họ để tranh thủ lực lượng trợ giúp mình củng cố quyền lực.
Cuối năm 1624, giáo sĩ Pháp Alexandre de Rhodes (thuộc giáo hội Bồ Đào
Nha) vận động tòa thánh La Mã thành lập 2 giáo hội Đàng Ngoài và Đàng Trong ở
nước ta. Vị giám mục Đàng Trong, gọi tiếng Việt là Bá Đa Lộc, tên thật là Pièerre
Pignneaux de Béhaine (1741-), dân gọi là Cha Cả, đỡ đầu hoàng tử Cảnh đi Pháp, thay
mặt Nguyễn Ánh kí hiệp ước Versailles năm 1787. Do cách mạng Pháp 1789, hiệp ước
này vô hiệu. Bá Đa Lộc tự mình mộ quân, sắm vũ khí giúp Nguyễn Aùnh đánh Tây
110
____________________________________________________________________
Sơn. Hoạt động của ông linh mục này tạo cơ sở cho thực dân Pháp sau này mở đường
vào VN.
Khi lên ngôi Gia Long, Nguyễn Ánh lâm vào thế khó xử: nhận ra ảnh hưởng
xấu của Kitô giáo đối với văn hóa dân tộc và nguy cơ bị xâm lấn nhưng lại chịu ơn
giáo sĩ Pháp. Ánh chủ trương hạn chế Kitô giáo, giữ nguyên hiện trạng, ngăn cấm phát
triển thêm. Nhà Nguyễn khôi phục, chấn hưng Nho giáo.
Đến các đời Minh Mạng Thiên Trị, Pháp đẩy mạnh ý đồ xâm lược, tranh thủ
đạo Kitô gây khó khăn cho triều đình PK VN khi Tự Đức ra lệnh cấm Đạo.
Tháng 5- 1862, vua Tự Đức bị ép cắt 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ cho Pháp và
hủy bỏ lệnh cấm đạo. Các nhà Nho và sĩ phu yêu nước phản đối, kéo dài tới phong
trào Cần Vương. Năm 1954, Pháp tung tin”Chúa đã vào Nam”để lôi kéo nhiều người
di cư vào Nam.
Sau 4 thế kỉ truyền đạo, đến nay Kitô giáo đã có khoảng 5 triệu tín đồ Công
giáo và nửa triệu tín đồ Tin Lành ở VN.
Kitô giáo không thể đạt đa số ở VN vì 2 lẽ: Thứ nhất, Kitô giáo đã dính líu đến
các cuộc xâm lược của Đế Quốc Phương Tây ở nước ta, để lại ấn tượng xấu khó phai
mờ. (dân chúng không chấp nhận thoải mái như Phật giáo Ấn Độ vô tư). Thứ hai là:
Kitô giáo mang tính chất văn hóa du mục, mặc dù đã cố gắng cải biến hòa hợp văn hóa
nông nghiệp nhưng vẫn trái với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Ngày nay, với nhiều thay đổi quan trọng từ vấn đề truyền đạo phài phủ hợp với
văn hoá của người bản địa được Vatican nhìn nhận từ thực tế ở các nước vùng Châu
Á, các Kitô hữu VN sống hòa mình trong dân tộc, kính chúa gắn với yêu nước,”sống
phúc âm trong lòng dân tộc”, được quyền thờ cúng tổ tiên như bao người Việt khác.
111
____________________________________________________________________
8.5.2.Văn hóa phương Tây ở Việt Nam
Tóm tắt một số thành tựu cơ bản sau
Phát triển đô thị, xây dựng kiến trúc mới.
Xây dựng công nghiệp.
Giao thông vận tải
Trường học mới.
Tài chính, ngân hàng.
Báo chí xuất bản.
Hợp tác làm ra chữ quốc ngữ tiện lợi dễ dàng.
Khoa học xã hội - nhân văn phát tiển theo phương pháp mới. Khoa học tự
nhiên - kĩ thuật được phổ biến có hệ thống.
Văn học - nghệ thuật Tây Âu thấm sâu với các thể loại, phương thức sáng tác
và tư tưởng nghệ thuật mới (văn học, kịch, hội họa, múa). Trong văn học: tiểu thuyết,
thơ mới, kịch nói … theo phương pháp lãng mạn và hiện thực Tây Aâu thế kỉ 19, đã
bùng nổ ở VN trong giai đoạn 1930 - 1945.
Về tư tưởng, ban đầu chủ yếu là hệ tư tưởng dân chủ cộng hòa tư sản. Đầu
những năm 20, Nguyễn Aùi Quốc và đồng chí đã tìm ra chủ nghĩa Mác - Lê nin truyền
bá về Việt Nam khi hệ tư tưởng này vẫn bị các thế lực phản động cấm ở Tây Âu.
Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh là biểu tượng kết hợp tuyệt vời của 2 nguồn
văn hóa Đông và Tây (nông nghiệp phương Đông và du mục phương Tây).
112
____________________________________________________________________
Đặc điểm văn hóa đối phó của dân tộc Việt Nam
Vì sao một dân tộc nhỏ bé như Việt Nam lại không bị đồng hóa sau HƠN 1000
năm xâm lược và đô hộ của Trung Quốc, và hơn 100 năm dưới tay Pháp và Mỹ ? Trái
lại còn luôn luôn chiến thắng ! Đó là huyền thoại về sức mạnh quân sự và sức đề
kháng của nền văn hóa Việt Nam.
Người dân nông nghiệp thường yếu kém khả năng tổ chức và lực lượng quân
sự.
Khi cần phải đối phó với nạn ngoại xâm, truyền thống Việt Nam là tránh đối
đầu bằng chiến tranh, cố gắng thương lượng tìm giải pháp hòa bình. Dân ta trọng văn
hơn võ nên nhà nước không đầu tư tổ chức quân sự.
Khi nhận thấy không thể tránh được nạn chiến tranh, nhân dân ta kiên quyết tổ
chức kháng chiến, dùng chiến lược tổng hợp để đối phó, đó là:
Toàn dân kháng chiến
Toàn diện kháng chiến
Trường kỳ kháng chiến
Đó là đường lối chiến tranh nhân dân. Khi có chiến tranh, mỗi người dân là một
người lính,”giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Đất quốc gia như đất làng xã, quyết
không thể một tấc đất rơi vào tay kẻ khác.
Khi đánh giặc, dân tộc ta sử dụng mọi cách đánh miễn là có kết quả. Đánh du
kích (bất ngờ), phục kích, tránh giáp trận đối đầu) … Đánh bằng binh vận, đánh bằng
tuyên truyền. Đặc biệt,”vừa đánh vừa đàm”, đàm phán để sớm chấm dứt chiến tranh,
giảm bớt thiệt hại
Nghệ thuật ngoại giao Việt Nam rất khéo léo, tài giỏi và cương quyết, kéo dài
thời gian làm cho quân giặc mỏi mệt. Quân ta còn tìm cách gửi thư lung lay ý chí quân
Minh (Nguyễn Trãi - Quân Trung từ mệnh tập - gồm thư từ gửi tướng giặc Minh suốt
10 năm). Đó là lấy thời gian làm lực lượng tiêu hao ý chí giặc.
113
____________________________________________________________________
“Biết trồng tre để đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
(Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm)
“Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỉ độ Long Tuyền đới nguyệt ma”
(Thù nước trả chưa xong đầu đã bạc
Vẫn ngồi mài kiếm dưới ánh trăng)
(Cảm Hoài - Đặng Dung)
Mẹ đào hầm từ lúc tóc còn xanh
Nay mẹ đã phơ phơ đầu bạc
Mẹ vẫn đào dưới tầm đại bác
Bao đêm rồi tiếng cuốc vọng năm canh…
(Đất quê ta mênh mông- Dương Hương Ly)
Khi chiến thắng, dân tộc ta tỏ lòng bao dung khoan thứ. Lý Thường Kiệt mở lối
cho quân Tống rút chạy trong danh dự (giả xin điều đình khi quân Tống sắp thua trận).
Sau khi đánh xong quân Nguyên, vua Trần Nhân Tông sai đem đốt hết thư từ của
những kẻ phản bội liên lạc, đầu hàng giặc. Sau khi đánh tan 10 vạn quân Minh tại Chi
Lăng năm 1427, Lê Lợi đồng ý giảng hòa với Vương Thông, cấp ngựa xe tàu thuyền
cho chúng rút chạy. Đề Thám tha mạng cho tên toàn quyền Pháp Paul Dumer sau khi
bắt được y. Kết thúc 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, nhân dân ta đối xử nhân
đạo, cao thượng đối với kẻ bại trận, đi thu nhặt hài cốt lính giặc và trao trả cho gia
đình họ.
Trong thời phong kiến, sau khi chiến thắng, các vua chúa nước ta còn sai sứ
sang Trung Quốc cống nạp (biếu quà quí) và xin làm chư hầu để giữ thể diện cho kẻ
bại trận để tránh xung đột về sau.
Nguyên nhân chiến thắng là sự tổng hợp của
Lòng yêu nước của nhân dân ta
114
____________________________________________________________________
Đoàn kết một lòng.
Khả năng tổng hợp
Tính linh hoạt
Tổng kết về sự giao lưu văn hóa Việt Nam với quốc tế
- Khả năng dung hợp các nguồn văn hóa
Chung đúc các nền văn hóa phương Đông:
Vốn bản tính bao dung, người Việt Nam không kì thị dân tộc, trước hết chấp
nhận văn hóa ngoại lai. Sau đó xảy ra sự dung hợp và tiếp biến (tích hợp) để cuối cùng
sáng tạo giá trị văn hóa mới. Nói cách khác, mọi giá trị văn hóa nước ngoài lan vào
VN đều được”Việt Nam hóa”, sao cho thích hợp với bản lĩnh / bản sắc văn hóa VN.
Ba hệ tư tưởng phương Đông Nho, Phật, Đạo khi vào VN trở thành”tam giáo
đồng qui”coi như cùng một gốc với văn hóa bản địa. Tận dụng tất cả những ưu điểm
của tam giáo để bồi dưỡng cho con người và văn hóa dân tộc. Tăng dần chất dương
tính bằng Đạo Nho, Đạo Lão và Đạo Phật làm cho văn hóa quân bình trở lại bằng chất
âm tính. Nhà Trần có đền thờ cả 3 vị: Phật Thích Ca ngồi giữa, Lão Tử ngồi bên trái
(âm tính), Khổng Tử ngồi bên phải (dương tính)
Tiếp thu văn hóa phương Tây, kết hợp Đông - Tây
Chiếc áo dài tân thời là sự kết hợp truyền thống dịu dàng, nhẹ nhàng với tính
táo bạo của phương Tây.
Kiến trúc cổ truyền kết hợp kiến trúc gothic của phương Tây còn để lại các tòa
biệt thự thời Pháp, nhà thờ Phát Diệm, Lăng Khải Định. Hãy xem Lăng Khải Định có
cấu trúc tổng hợp: Phần ngoài: trang trí kiểu cung đình (Nho giáo) như tứ linh, tứ bình,
nhật nguyệt, rồng mây. Chính điện: những môtif bát bửu của Đạo Lão xuất hiện, vầng
mặt trời (vua) đang lặn xuống. Hậu điện: trang trí 400 chữ”vạn”() ước mơ được siêu
thoát ở cõi Niết Bàn (Phật). Đan xen ở ba phần là những con vật nuôi của nông dân
(chó, mèo, gà, chuột,….) và những đồ vật phương Tây như đồng hồ, vợt tennis, ly
rượu sâm banh, cây kính loupe, hộp thuốc lá, cây đèn hoa kì
115
____________________________________________________________________
Đạo Cao Đài (Đại đạo tam kì phổ độ) hình thành vào những năm 20 thế kỉ XX.
Đạo Cao Đài tìm lối thoát tư tưởng cho tâm trạng buồn nản của dân tộc khi hàng loạt
phong trào yêu nước chống Pháp đầu thất bại. Cao Đài đã tổng hợp các tôn giáo cũ để
tạo ra một tôn giáo mới Thượng Đế là vị giáo chủ có tên là Cao Đài Tiên ông: biểu
tượng”con mắt trái”(thiên nhãn). Các thần tượng gồm nhiều bậc như sau:
Tam giáo tổ sư:
Lão Tử, Phật Thích Ca, Khổng Tử (cao nhất)
Quan Công, Lý Bạch, Quán Thế Âm Bồ Tát
Victor Huygo, Nguyễn Bỉnh Khiêm,Tôn Dật Tiên
Còn có tranh thờ Jesus, Khương Tử Nha. Sau 1975, có chân dung Hồ Chí Minh.
Cấu trúc Cao Đài là con số 3 và số 5 (tam tài và ngũ hành)
Người sáng lập đạo Cao Đài là ông Ngô Minh Chiêu, đạo hiệu là Ngô Minh
Chiêu (mất năm 1932).
Ngày nay có khoảng 2 triệu tín đồ Cao Đài với 20 tổ chức chi phái. Chùa Từ
Lâm ở Tây Ninh gọi là tòa thánh thất Cao Đài.
Đạo này có 2 phái: vô vi và phổ độ. Phổ độ rộng mở cho mọi người, giản dị và
dễ hiểu. Vô vi chỉ dành cho số tín đồ trí thức. Nghi lễ Cao Đài đơn giản, không phiền
phức.
+ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, danh nhân văn hóa thế giới - sự tích hợp
văn hóa Đông Tây với lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Suốt nửa cuộc đời bôn ba năm châu bốn biển, Nguyễn Aí Quốc - Hồ Chí Minh
vẫn giữ được giá trị văn hóa dân tộc Việt, văn hóa phương Đông, lại còn tiếp thu
những tinh hoa văn hóa phương Tây và thế giới. Người thực là sự dung hợp Nho -
Phật - Đạo vớiø tư tưởng văn hóa hiện đại Aâu - Mỹ, thấu suốt tư tưởng Mác - LêNin
đỉnh cao nhân loại.
Về quan điểm giáo dục, Hồ Chí Minh học tập ở Nho học cái vai trò, phương
pháp giáo dục cải thiện và cải tạo con người
116
____________________________________________________________________
Người có tầm nhìn rộng lớn, phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc và nhân dân
thế giới vì lợi ích dân tộc ta và cách mạng của nhân loại.
Từ Nguyễn Ái Quốc đến Hồ Chí Minh, Người đi từ chủ nghĩa yêu nước truyền
thống Việt Nam đến một người cộng sản chân chính. Nhà báo Nga Mandelstamm đã
nhận xét”Nguyễn Aùi Quốc thấm đượm một chất văn hóa - không phải thứ văn hóa
Châu Aâu, có lẽ đấy là nền văn hóa của tương lai”. Nghị quyết của UNESCO ghi
rõ:”sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực
văn hóa, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của
nhân dân Việt Nam, và những tư tưởng của Người là hiện thân những khát vọng của
các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình”.
117
____________________________________________________________________
CHƯƠNG IX
VĂN HOÁ VIỆT NAM
TỪ TRUYỀN THỐNG ĐẾN HIỆN ĐẠI
9.1. Hằng số văn hoá Việt Nam
Những yếu tố khách quan vũ trụ (còn gọi là yếu tố địa - văn hóa) cố định đã tạo
ra nền tảng của một nền văn hóa dân tộc, từ đó sinh ra những đặc điểm cơ bản không
thay đổi trong lịch sử (và trong tương lai) - gọi là hằng số văn hóa.
Lớp văn hóa bản địa Việt Nam được tạo ra trên nền tảng Nam Á và Đông Nam
Á (nguyên là vùng Đông Nam Á cổ đại) đã sinh ra những đặc điểm bền vững sau đây:
Nghề nông trồng lúa nước.
Kéo theo những giá trị văn hóa khác như: kĩ thuật canh tác, một số gia súc chăn
nuôi như trâu, bò, heo, gà, vịt, một số cây trồng: khoai, sắn, bắp, rau trái...
Cơ cấu bữa ăn chủ yếu vẫn là: cơm - rau - ca ù.
Từ những hằng số văn hóa ấy, một số đặc trưng được hình thành gọi là bản sắc
văn hóa dân tộc.
9.2. Bản sắc văn hoá dân tộc
Xuất phát từ nghề nông trồng lúa nước và các hằng số văn hóa, dẫn đến các giá
trị văn hóa chủ yếu sau:
Tổ chức làng xã bền vững, ổn định.
Tính cộng đồng, tính đoàn kết
Tính tự trị, tính dân chủ, ý thức độc lập dân tộc và lòng yêu nước nồng nàn
Lối sống thiên về quân bình hài hòa âm dương,trọng tình cảm hơn lí trí,
trọng văn hơn võ, mềm dẻo hiếu hòa.
Lối ứng xử năng động, linh hoạt, khả năng thích nghi cao với mọi tình
huống, biến đổi.
118
____________________________________________________________________
Lối tư duy tổng hợp và biện chứng
Tinh thần dung hợp và xu hướng kết hợp, tích hợp nhiều nguồn văn hóa.
Bản sắc văn hóa dân tộc là sự kết tinh toàn bộ giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc và tồn tại dưới dạng tinh thần (trong mỗi con người Việt Nam tiêu biểu). Bản
sắc ấy còn gọi là tính cách văn hóa - cá tính văn hóa của dân tộc.
Bản sắc văn hóa dân tộc cũng chứa đựng cả mặt trái (những nhược điểm cố
hữu). Chúng ta cần nhìn nhận nhược điểm ấy để có quyết tâm và biện pháp sửa chữa
Bản sắc văn hóa rất ổn định, bền vững, chậm thay đổi.
9.3. Gía trị văn hoá truyền thống
Là tất cả những giá trị văn hóa còn thích hợp với thời đại ngày nay.(Truyền: lớp
trước chuyển giao, Thống: lớp sau tiếp nhận. Khi truyền và nhận đều có sự chọn lựa,
gạn lọc bỏ đi những giá trị lỗi thời)
Giá trị văn hóa truyền thống, bao gồm cả những giá trị văn hóa dân tộc khác
vốn đã được dân tộc ta tiếp thu,trải nghiệm qua thời gian, đã được dung hợp, tích hợp
(còn gọi là Việt Nam hóa).
9.4. Gía trị văn hoá tiêu biểu
Là một số trong những giá trị văn hóa truyền thống,đặc biệt riêng của Việt
Nam, là phần đóng góp vào nền đại văn hóa vô cùng phong phú của nhân loại.
Gồm một số nhóm giá trị văn hóa sau:
Đồ cổ: Trống đồng,thạp đồng,đồ gốm, đồ thủ công mỹ nghệ cổ, đồng tiền cổ
… Những thứ này cần được bảo tàng. Đó là những kỉ vật của tổ tiên để lại.Viện (nhà)
bảo tàng là nơi trưng bày các di vật cổ cho các thế hệ con cháu xem, nhằm thỏa mãn
tình cảm của người dân một nước, giáo dục lòng tự hào dân tộc và giới thiệu, giao lưu
với bạn bè dân tộc khác.Bên cạnh đó, viện baỏ tàng cũng phục vụ cho nghiên cứu khoa
học. Đồ cổ là những vật quí,di sản chung của dân tộc, không thể sản xuất thêm
nữa.Các quốc gia đều nghiêm cấm buôn bán đồ cổ, đặc biệt không để lọt ra nước
ngoài.
119
____________________________________________________________________
Công trình kiến trúc cổ: Đền đài, lăng tẩm, công trình cổ khác cần được bảo
tồn (giữ gìn, trùng tu, khai thác)
Tiếng Việt: Là sản phẩm đặc biệt do tất cả người Việt tạo nên suốt trường kì
lịch sử.Tiếng Việt cần được giữ gìn, phổ thông hóa, chính âm, chính tả và trong sáng.
Các giá trị văn nghệ dân gian: cần được sưu tầm, khai thác, kế thừa và phát
huy. Đây là những giá trị cổ nhưng vẫn còn sức sống như:
Thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, ngụ ngôn, ca dao, tục ngữ.
Âm nhạc cổ truyền, dân ca, sân khấu dân gian (Chèo, tuồng, ca tài tử Nam
bộ, dân ca kịch các vùng, như Quan họ Bắc Ninh, Nghệ Tĩnh, và các dân tộc như
Khmer, Tây nguyên, Tày, Thái. v.v…
Những tác phẩm cổ điển đặc sắc như Thơ văn Lý -Trần, thơ văn Nguyễn
Trãi, Truyện Kiều, Bà huyện Thanh Quan..v.v…
Một số nghề thủ công độc đáo như mây tre đan (đương), làm trống, kim
hoàn, thêu may, áo dài phụ nữ, dệt lụa tơ tằm...
Những thủ thuật y học cổ truyền (Đông Nam Y), cây thuốc nam
Những món ăn dân tộc độc đáo. . v. v...
9.5. Văn hoá truyền thống đứng trước công cuộc công nghiệp hoá -
hiện đại hóa
Từ cuối thế kỉ 20 sang thế kỷ 21, Việt Nam bước vào cuộc giao lưu rộng rãi đa
phương với các nền văn hóa Aâu - Mỹ, Đông Nam Á và các dân tộc khác.Chúng ta
cần đặc biệt lưu ý khi giao lưu với các nền văn hóa Aâu - Mỹ.
Đứng trước thời đại mở cửa, đất nước ta tiến hành đổi mới, trước hết phải đối
mặt với nền kinh tế thị trường. (Trong nền văn hóa truyền thống, dân tộc Việt Nam đã
quen với kinh tế bao cấp và lối sản xuất nhỏ tiểu nông, chưa trải qua kinh tế thị
trường)
Chắc chắn sẽ có những cái được và cái mất. Được những cái hay nhưng
cũng”được”cả những”cái dở”. Mất đi những cái cũ xấu, nhưng cũng có nguy cơ mất
luôn cả những giá trị tốt đẹp truyền thống. Xem bảng dự báo dưới đây:
120
____________________________________________________________________
CÁI HAY CÁI DỞ
Cái
được(thêm)
Cái thoát
khỏi
Cái mất mát
Cái nhiễm
phải
Đô thị, công
nghiệp phát triển
Đô thị nông
thôn bị khống chế
Môi trường
tự nhiên
Nạn ô nhiễm
môi trường
Đời sống vật
chất cao, tiện nghi
đầy đủ
Sự nghèo nàn
thiếu thốn
Lối sống tình
nghĩa
Lối sống thực
dụng
Tinh thần tự
do phê phán
Thói gia
trưởng
Tính tập thể,
Sự ổn định gia đình
Lối sống cá
nhân chủ nghĩa
Sự liên kết
quốc tế rộng rãi
Thói địa
phương cục bộ chủ
nghĩa
Tính tự trị, tự
lực
Hiện tượng
đồi trụy
Theo Trần Ngọc Thêm 2006 Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TPHCM,
t584
Trong tình hình đó , chúng ta cần phát huy những ưu điểm của bản sắc văn hóa
dân tộc như : tính tổng hợp , năng động , thích nghi cao trong việc xây dựng nền văn
hóa mới tiên tiến .
Đặc biệt , chúng ta cần mạnh dạn , dũng cảm sửa chữa những căn bệnh như :
Bệnh tùy tiện
Ý thức yếu kém về pháp luật
Thói quen sản xuất nhỏ
Thói gia trưởng , bệnh quan liêu và cửa quyền
Thói gia đình chủ nghĩa , xuề xòa đại khái
Thói cục bộ địa phương. . .
121
____________________________________________________________________
Hiện nay , đất nước ta cũng đã có sẵn những điều kiện thuận lợi cơ bản là :
Vị trí địa lý thuận lợi cho giao thông , giao thương quốc tế
Tình hình an ninh chính trị quốc gia ổn định , bền vững
Nhân dân đoàn kết một lòng
Tóm lại , đất nước ta đã có đủ ba điều kiện : thiên thời - địa lợi - nhân hòa để
bước vào giai đoạn phát triển mới .
122
____________________________________________________________________
Phụ lục
Thành phần và phân bổ các dân tộc
STT Tên gọi Tên gọi khác Các nhóm nhỏ Địa bàn cư trú
1 Kinh Việt Trong cả nước
2 Tày Thổ Ngạn, Phán, Thu lao, Pa dí Hà giang, Tuyên Quang, Lào
cai, Yên Bái, Cao Bằng, Lai
Châu, Bắc Thái, Hà Bắc.
3 Thái Táy Táy Khao(Thái Trắng), Táy
Đăm (Thái Đen), Táy Chiềng
hay Táy Mương(Hàng Tổng),
Táy Thanh(Man Thanh), Táy
Mười, Pu Thay, Thổ Đà Bắc,
Táy Mộc Châu(Táy Đeng)
Sơn La, Lai Châu, Nghệ An,
Thanh Hoá, Lào Cai, Yên
Bái, Hoà Bình, Lâm Đồng...
4 Mường Mol, Mual, Mọi Mọi Bi, Ao Tá (ÂuTá) Hoà Bình, Thanh Hoá, Vĩnh
Phú, Yên Bái, Sơn La, Ninh
Bình
5 Hoa Khách, Tàu,
Hán
Triền Châu, Phúc Kiến,
Quảng Đông, Quảng Tây, Hải
Nam, Xạ Phang, Thoòng
Nhằn, Hẹ
Kiên Giang, Hải Phòng, Vĩnh
Long, Trà Vinh, Quảng
Ninh,Đồng Nai, Hậu Giang,
Minh Hải, tp Hồ Chí Minh
6 Khơ-me Miên, Cur, Cul, Thổ, Việt gốc
Khơ-me, Khơ-me Krôm Hậu Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Kiên Giang, Minh Hải,
Tây Ninh, tp Hồ Chí Minh,
Sông Bé, An Giang
7 Nùng Nùng Xuồng, Nùng Giang,
Nùng An, Nùng Phàn Sình,
Nùng Lòi, Nùng Tùng Slìn,
Nùng Cháo, Nùng Quý Rỵn,
Nùng Khèn Lài, Nùng Dín,
Nùng Inh...
Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc
Thái, Hà Giang, Tuyên
Quang, Hà Bắc, Quảng Ninh,
tp. Hồ Chí Minh, Lâm Đồng,
Đắc Lắc, Lào Cai
8 Hơmông Mèo, Mẹo,
Mán, Miêu Tộc
Mèo Hoa, Mèo Xanh, Mèo Đỏ,
Mèo Đen, Ná Miẻo, Mèo
Trắng
Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai,
Lai Châu, Sơn La, Cao
Bằng, Lạng Sơn, Nghệ An,
Thanh Hóa, Hoà Bình, Bắc
Thái
9 Dao Mán, Động,
Trại, Dìu, Miền,
Kiềm, Kìm Mùn
Dao Đại Bản, Dao Đỏ, Dao
Cóc Ngáng, Dao Cóc Mùn,
Dao Lô Gang, Dao Quần
Chẹt, Dao Tam Đảo, Dao
Tiền, Dao Quần Trắng, Dao
Làn Tiẻn, Dao áo Dài
Hà Giang, Tuyên Quang,
Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng,
Lạng Sơn, Bắc Thái, Lai
Châu, Sơn La, Vĩnh Phú, Hà
Bắc, Thanh Hoá, Quảng
Ninh, Hoà Bình, Hà Tây
10 Gia-rai Mọi, Chơ-rai Chỏ, Hđrung, Aráp, Mdhur,
Tbuăn Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc
11 Ê-đê Đe, Mọi Ra-đê, Rha-đê, Êđê-Êga,
Anăk Êđê, Kpă, Ađham,
Krung, Ktul Dliê, Ruê, Blô,
Êpan, Mđhur, Bih, Kđrao,
Dong Kay, Dong Măk, Êning,
Arul, Hning, Kmun,Ktlê
Đắc Lắc, Phú Yên, Khánh
Hoà
12 Ba-na Bơ-nâm, Roh, Tơ-lô, Gơ-lar, Rơ-ngao, Kon Tum, Bình Định, Phú
123
____________________________________________________________________
Kon Kde, Ala
Công, Kpang
Công
Krem, Giơ-lơng(Y-lơng) Yên
13 Sán Cháy Mán, Cao Lan-
Sán Chỉ, Hờn
Bạn, Hờn
Chùng, Sơn Tử
Cao Lan, Sán Chỉ Bắc Thái, Tuyên Quang,
Quảng Ninh, Hà Bắc, Lạng
Sơn, Vĩnh Phú, Yên Bái
14 Chăm Chiêm Thành,
Chăm Pa, Hời,
Chàm
Chăm Hroi, Chàm Châu Đốc,
Chà Và Ku, Chăm Pôông Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang, tp. Hồ Chí Minh, Bình
Định, Phú Yên, Châu Đốc,
Khánh Hoà
15 Xơ-đăng Kmrâng,
Hđang, Con-
lan, Brila
Xơ-teng,Tơ-đrá, Mơ-nâm, Hà-
lăng, Ca-dong, Châu, Ta
Trẽ(Tà Trĩ)
Kon Tum, Quảng Nam-Đà
Nẵng, Quảng Ngãi
16 Sán Diù Trại, Trại Đát,
Sán Dợo, Mán
quần Cộc, Mán
Váy Xẻ
Quảng Ninh, Hà Bắc, Hải
Hưng, Bắc Thái, Vĩnh Phú,
Tuyên Quang
17 Hrê Mọi Đá Vách,
Chăm-rê, Mọi
Luỹ, Thạch
Bých, Mọi Sơn
Phòng
Quảng Ngãi, Bình Định
18 Cơ-ho Xrê, Nốp (Tu Nốp), Cơ-don,
Chil, Lát (Lách), Tơ-ring Lâm Đồng, Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hoà
19 Ra-glay O-rang, Glai,
Rô-glai, Radlai,
Mọi
Ra-clay (Rai), Noong (La-
oang) Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hoà, Lâm Đồng
20 Mnông Gar, Chil, Rlâm, Preh, Kuênh,
Nông, Bu-Đâng, Prâng, Đip,
Biêt, Si Tô, Bu Đêh
Đắc Lăc, Lâm Đồng
21 Thổ Kủo, Mọn, Cuối, Họ, Đan Lai-
Ly Hà, Tày Poọng (Con Kha,
Xá La Vàng)
Nghệ An, Thanh Hoá
22 X'tiêng Xa-điêng, Mọi,
Tà-mun
Sông Bé, Tây Ninh, Lâm
Đồng, Đắc Lắc
23 Khơmú Xá Cốu, Pu
Thênh, Tày
Hạy, Việt Cang,
Khá Klậu, Tềnh
Quảng Lâm Sơn La, Lai Châu, Nghệ An,
Yên Bái
24 Bru-Vân
Kiều
Vân Kiều, Măng Coong, Trì,
Khùa, Bru Quảng Bình, Quảng Trị
25 Giáy Nhắng, Giẳng,
Sa Nhân, Pầu
Thỉn, Chủng
Chá, Pu Nắm
Pu Nà (Cùi Chu hoặc Quý
Châu) Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu
26 Cơ-tu Ca-tu, Ca-tang,
Mọi, Cao, Hạ
Phương, Kan-tua Quảng Nam-Đà Nẵng, Thừa
Thiên-Huế
27 Gié-
Triêng
Giang Rẫy,
Brila, Cà-tang,
Mọi, Doãn
Gié (Dgieh, Tareh), Triêng
(Treng, Tơ-riêng), Ve (La-ve),
Pa-noong (Bơ Noong)
Quảng Nam-Đà Nẵng, Kon
Tum
28 Ta-ôi Tôi-ôi, Ta-hoi,
Ta-ôih, Tà-uất
(Atuất)
Pa-cô, Ba-hi, Can-tua Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế
29 Mạ Châu Mạ, Chô Mạ, Mọi Lâm Đồng, Đồng Nai
30 Co Trầu, Cùa, Mọi,
Col, Cor, Khùa
Quảng Ngãi, Quảng Nam-Đà
Nẵng
124
____________________________________________________________________
31 Chơ-ro Châu-ro, Dơ-
ro, Mọi
Đồng Nai
32 Hà Nhì U Ní, Xá U Ní,
Hà Nhì Già
Hà Nhì Cồ Chồ, Hà Nhì La Mí,
Hà Nhì Đen Lai Châu, Lào Cai
33 Xinh-mun Puộc, Pụa, Xá Dạ, Nghẹt Sơn La, Lai Châu
34 Chu-ru Chơ-ru, Kru,
Mọi
Lâm Đồng, Ninh Thuận,
Bình Thuận
35 Lào Lào Bốc, Lào
Nọi
Lai Châu, Sơn La
36 La-chí Thổ Đen, Cù
Tê, Xá, La ti,
Mán Chí
Hà Giang
37 Phù Lá Bồ Khô Pạ (Xá Phó), Mun Di
Pạ, Phù Lá Đen, Phù Lá Hoa,
Phù Lá Trắng, Phù Lá Hán,
Chù Lá Phù Lá
Lao Cai, Lai Châu, Sơn La,
Hà Giang
38 La Hủ Khù Sung (Cò Sung), Khạ
Quy (Xá Quỷ), Xá Toong
Lương (Xá Lá Vàng), Xá Pươi
Lai Châu
39 Kháng Xá Khao, Xá
Đón, Xá Tú
Lăng
Kháng Xúa, Kháng Đón,
Kháng Dống, Kháng Hốc,
Kháng ái, Kháng Bung,
Kháng Quảng Lâm
Lai Châu, Sơn La
40 Lự Lừ, Duôn,
Nhuồn
Lai Châu
41 Pà Thẻn Pà Hưng, Mán
Pa Teng, Tống
Tống, Mèo Lài Hà Giang, Tuyên Quang
42 LôLô Mùn Di, Ô Man,
Lu Lọc Màn,
Di, Qua La, La
La, Ma Di
Lô Lô Đen, Lô Lô Hoa Hà Giang, Cao Bằng, Lao
Cai
43 Chứt Xá La Vàng,
Chà Củi (Tắc
Củi), Tu Vang,
Pa Leng
Sách, Mày, Rục, Mã Liềng,
Arem, Xơ-lang, Umo Quảng Bình
44 Mảng Mảng Ư, Xá Lá
Vàng, Niễng O,
Xa Mãng, Xá
Cang Lai
Mảng Hệ, Mảng Gứng Lai Châu
45 Cờ lao Cờ Lao Trắng, Cờ Lao Xanh,
Cờ Lao Đỏ Hà Giang
46 Bố Y Chủng Chá,
Trung Gia, Pầu
Y, Pủ Dí
Bố Y, Tu Dí Hà Giang, Lào Cai
47 La Ha Xá Khao, Xá
Cha, Xá La Nga
Khlá Phlạo, La Ha ủng Yên Bái, Sơn La
48 Cống Xám Khôống, Xá Xeng, Xa,
Xá Côống Lai Châu
49 Ngái Sán Ngái Xín, Lê, Đản, Khánh Gia, Hắc
Cá (Xéc) Quảng Ninh, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng
50 Si La Cú Đề Xừ Lai Châu
51 Pu Piéo Ka Bẻo, Pen Ti
Lô Lô, La Quả,
Mán
Hà Giang
52 Brâu Brao Kon Tum
53 Rơ-măm Kon Tum
125
____________________________________________________________________
54 Ơ-đu Tày Hạt Nghệ An
Nước sạch, dân an, phú cường!
Trông người...
Hãy thử lấy Nhật Bản làm tấm gương soi.
Nói đến sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản, lịch sử thường nhắc đến ba
thời kỳ: cải cách Minh Trị những năm 70 của thế kỷ XIX, sau Chiến
tranh thế giới thứ hai và từ những năm 70 thế kỷ trước cho đến nay. Mỗi
một chặng đường, người Nhật đã đưa ra những mục tiêu cụ thể, thiết
thực, thể hiện quyết tâm của cả một dân tộc.
Khẩu hiệu của thời kỳ Minh Trị là:”Học hỏi phương Tây, đuổi kịp
phương Tây và vượt phương Tây". Kết quả chỉ sau hai thập niên (đến
cuối thế kỷ XIX), Nhật Bản đã trở thành một cường quốc. Nhật không
những thoát khỏi nguy cơ trở thành một nước thuộc địa của tư bản
phương Tây, mà còn tiến hành chiến tranh xâm chiếm Trung Quốc và
đánh bại đế quốc Nga trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật 1904-1905. Rồi
sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đất nước hoang tàn đổ nát, khẩu hiệu
của họ lúc này là:”Trước mắt người Nhật, cả thế giới đều là người lười". Nhờ cái tinh thần lao
động ấy mà họ đã khôi phục nền kinh tế nhanh chóng và đến những năm 70 của thế kỷ trước,
Nhật đã trở thành một trong ba trung tâm kinh tế tài chính của thế giới. Lúc này thì khẩu hiệu
của họ là:”Những cái gì con người có thể tưởng tượng được thì con người có thể đạt được".
Đến bây giờ đã là một siêu cường rồi thì mục tiêu phía trước của Nhật Bản là phải trở thành
thành viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc.
...Rồi nghĩ đến ta
Vì sao Việt Nam
đứng thứ hai trên
thế giới về xuất
khẩu gạo, nhưng
nhiều vùng dân
vẫn loay hoay với
miếng ăn ? Ảnh:
Đào Ngọc Thạch
126
____________________________________________________________________
Những thành tựu mà Việt Nam đã làm được trong hai mươi năm đổi mới là rất lớn,
không ai có thể phủ nhận. Nhưng có một điều chắc chắn rằng, sự phát triển đó còn nằm dưới
mức tiềm năng. Đến bây giờ, tuy ta đã có chút dư dật, song thực tế là cả nước vẫn loay hoay
với miếng ăn. Là nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo, nhưng nhiều vùng dân vẫn
đói, rét. Đặc biệt là quốc nạn tham nhũng đang hoành hành. Ước tính khoảng 5% số vụ tham
nhũng được phanh phui, 95% còn lại thì hình thù như thế nào, di căn đến đâu vẫn đang là một
câu hỏi lớn (theo TS Lê Đăng Doanh, Tuổi Trẻ ngày 11.4.2006). Thử hỏi, bộ nào, ngành nào
mà không có tham nhũng? Đi đôi với sự thất thoát tài sản quốc gia là sự giảm sút nghiêm
trọng niềm tin của người dân vào cán bộ quản lý và bộ máy Nhà nước. Nạn tham nhũng lớn
cũng làm cho hình ảnh nước Việt Nam ta trở nên bé nhỏ trong mắt người nước ngoài.
Những gì xảy ra ở vụ PMU 18 đang được người dân quan tâm cho thấy, nếu không giải quyết
vấn đề chống tham nhũng một cách quyết liệt, tận gốc và hiệu quả thì quốc nạn số một này sẽ
đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của chính thể.
Vì vậy, để nước Việt Nam ta không nhỏ, tâm nguyện của muôn dân lúc này là: Đại hội
Đảng lần thứ X phải đặt nhiệm vụ làm sạch bộ máy Nhà nước, cải cách hành chính là nhiệm
vụ cấp bách hàng đầu. Đấy là cách duy nhất để bảo vệ chính thể, là con đường ngắn nhất để
lấy lại niềm tin của người dân và cũng là con đường duy nhất đúng để Việt Nam hội nhập và
phát triển bền vững. Đặt một mục tiêu cụ thể trong thời hạn ngắn mươi lăm năm chẳng hạn,
để toàn Đảng, toàn dân hướng vào quyết tâm thực hiện kỳ được. Mục tiêu đó có thể là:”Nước
sạch, dân an, phú cường”(nhà nước trong sạch, dân an lạc tin vào Nhà nước, đất nước giàu
mạnh). Nước có sạch thì dân mới an, và lúc đó mới có thể nói đến đất nước giàu mạnh được.
Xin được đưa ra để tiện đường trao đổi.
Lê Quang Dũng
(huy_romance83@yahoo.com)
Chưa mạnh vì thiếu đoàn kết
Vì sao một dân tộc có hơn 80 triệu dân mà vẫn bị coi là một dân tộc nhỏ? Là vì chúng
ta chưa đoàn kết. Vì sao một dân tộc có 3.260 km đường bờ biển và sở hữu hơn 1.000.000
km2 mặt biển mà vẫn bị xem là một dân tộc nhỏ? Là vì chúng ta chưa đoàn kết. Tại sao chúng
ta chưa đoàn kết? Vì mỗi người chỉ lo sống cho cá nhân mình, lo cho quyền lợi của mình, chỉ
mong cho cuộc đời mình, gia đình mình ấm no, yên ổn chứ không hề nghĩ vận mệnh của đất
nước sẽ đi về đâu. Vì trong mỗi chúng ta có tầm nhìn quá hạn hẹp nên mỗi người chỉ là một
127
____________________________________________________________________
cá thể chứ chưa hẳn đoàn kết thành một sức mạnh dân tộc to lớn. Người Việt Nam có tính tự
trị quá cao, tinh thần làng xã quá lớn nên nhà ai nấy giữ, làng ai nấy quản chứ không nhìn
rộng hơn, nghĩ xa hơn, ngoài làng, xã còn là quốc gia, dân tộc. Cái bản tính ích kỷ như kiểu”ta
về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”chỉ càng hun đúc cho mỗi người mình một
cái nhìn thiển cận xem ta là trên hết và xem người khác không ra gì mặc dù người khác có
nhiều điều để ta học hỏi. Cái tâm lý ganh ghét, kèn cựa, hãm hại khi người khác tài hơn mình,
giàu hơn mình, có nhiều ưu điểm hơn mình càng làm cho dân mình nhỏ lại, đất nước mình
không thể vươn mình.
Hơn bao giờ hết, nếu chúng ta muốn theo kịp các nước thì trước hết phải thức tỉnh dân
tộc mình, thức tỉnh chiều sâu ý thức dân tộc, lòng tự tôn dân tộc và thể diện công dân một
nước trước hoàn cảnh này chứ không phải để khi giặc đến rồi thì mọi người mới cầm súng,
dựng lũy thì không kịp. Phải làm thế nào cho người mình thương yêu người mình và nghĩ đến
vận mệnh dân tộc, đất nước nhiều hơn. Phải làm sao để người mình hiểu là người mình phải
sử dụng sản phẩm do người mình sản xuất. Phải làm cho người mình ý thức được là nước
mình cũng có nhiều thứ có giá trị chẳng thua gì nước ngoài. Phải làm sao cho người mình biết
căm giận khi người nước ngoài coi thường người nước mình, xem người mình như hàng hóa
trưng bày trong các shop. Phải làm sao cho người mình biết căm hờn khi bị các ông chủ nước
ngoài đánh đập. Phải làm sao cho người mình phẫn nộ khi người mình bị bắn dã man khi đánh
cá ngoài khơi. Khi công dân của một quốc qia bị người nước ngoài khinh rẻ, đánh đập, sát hại
mà không biết lên tiếng thì đó là cái nhục của một dân tộc, là sự xúc phạm đến quốc thể. Nếu
biết căm giận khi người khác coi rẻ người mình, nếu biết căm phẫn khi người khác sát hại
người mình thì đó là đoàn kết.
54 dân tộc Việt Nam là anh em gắn bó keo sơn, tình đà thắm thiết thì không có lý do gì
chúng ta lại không đoàn kết. Đoàn kết là phát triển.
Như thời điểm này, đất nước ta như một con rồng đang nằm ngủ, ẩn mình chờ thời vùng vẫy
nhưng như người xưa có nói, nếu ngủ nhiều quá sẽ phát sinh bệnh. Đã đến lúc con rồng ấy
xuất hiện và bay lên trời xanh.
Bài tham gia diễn đàn, xin gửi về e-mail: thanhhang@thanhniennews.com
Đỗ Văn Ảnh
(dophilip2003@yahoo.com)
128
____________________________________________________________________
129
____________________________________________________________________
Ông Đặng Lê Nguyên Vũ (Tổng Giám đốc công ty cà phê Trung
nguyên)vừa gửi đến tham gia diễn đàn một bài viết dài, rất súc
tích Một nước Việt vĩ đại, tại sao không? Xin giới thiệu phần
đầu của bài viết và mời bạn đọc tham gia tranh luận.
Chúng ta vẫn thường tự hào về truyền thống đánh thắng giặc ngoại
xâm của dân tộc. Nhưng có bao giờ chúng ta đặt câu hỏi tại sao
Việt Nam luôn phải đối mặt với các cuộc chiến tranh?
Chúng ta tự hào là một đất nước có rừng vàng biển bạc, tài nguyên
phong phú, con người thông minh nhưng có bao giờ chúng ta tự hỏi rằng những yếu tố đó Nhật
Bản, Hàn Quốc thua kém chúng ta nhiều nhưng tại sao hiện nay họ lại đang giàu mạnh hơn ta
gấp nhiều lần? Tại sao đất nước ta lại là một đất nước có truyền thống đói nghèo?
Quả thật, soi rọi lại lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc mình trong hàng ngàn
năm nay, chúng ta đều có thể thấy hiển hiện những mâu thuẫn, những nghịch lý lớn. đó luôn là
nỗi trăn trở trong mỗi người Việt, đòi hỏi chúng ta cần phải nhận ra và có lời giải đáp trọn vẹn.
Dân tộc ta, đất nước ta có hai nghịch lý chính như sau:
Nghịch lý thứ nhất: Yêu hòa bình nhưng luôn bị chiến tranh
Đây là một nghịch lý cơ bản nhất, lớn nhất của dân tộc Việt. Lịch sử cho thấy chúng ta
luôn phải vừa dựng nước vừa giữ nước, luôn luôn ở trong thế của kẻ bị chinh phục. Sau khi
thoát khỏi sự nô lệ hơn nghìn năm của phong kiến phương Bắc, dân tộc Việt chưa bao giờ
được hưởng một thời kỳ thái bình tới ba trăm năm. Hết Nam Hán, đến Nam Tống, đến Nguyên
Mông, đến Minh, đến Thanh, rồi đến hai cuộc kháng chiến trường kỳ gần đây. Trong lịch sử
phát triển của loài người từ trước đến nay, không có một dân tộc nào, không có một quốc gia
nào lại phải chịu nhiều cảnh đao binh máu lửa đến như vậy.
Chúng ta có những chiến công hiển hách của dân tộc, nhưng đó chỉ là những chiến công
trong việc giữ nước, trong những tình thế bị dồn vào đường cùng, bị bức bách lựa chọn nô lệ
Không ít lần những tài
năng trẻ Việt Nam làm
rạng danh đất nước tại
các kỳ thi quốc tế
130
____________________________________________________________________
hay tự do. Vậy tại sao chúng ta luôn luôn bị rơi vào các cuộc chiến tranh về quân sự trong khi
chúng ta là một dân tộc vô cùng yêu chuộng hòa bình? Chúng ta còn gì để tự hào trước thế giới
ngoài những chiến thắng thật anh hùng nhưng cũng thật quá nhiều đau thương mất mát?
Nghịch lý thứ hai: Các điều kiện để phát triển kinh tế đầy đủ nhưng luôn sống
trong đói nghèo và chưa bao giờ thực sự giàu mạnh
Việt Nam có đầy đủ những điều kiện để trở thành một nước giàu mạnh nhưng trên thực
tế chúng ta lại là một nước có truyền thống đói nghèo. Chúng ta có vị trí địa lý thuận lợi, thiên
nhiên tương đối ưu đãi, tài nguyên khoáng sản phong phú, con người cần cù, thông minh, sáng
tạo. Nhưng tại sao chúng ta vẫn nghèo? Chúng ta còn bao nhiêu nghịch lý nhỏ trong một
nghịch lý lớn?
Nghịch lý về”mở cửa": Nước ta có vị trí địa chính trị mang tầm chiến lược cao và thuận
lợi cho giao lưu văn hóa và văn minh với thế giới. Nhưng hầu hết trong chiều dài lịch sử,
chúng ta luôn thực hiện chính sách”bế quan tỏa cảng", từ chối học hỏi những cái hay của thế
giới để cho quốc gia, cho dân tộc. Trong khi điều kiện tương tự của Nhật Bản kém thuận lợi so
với ta nhiều nhưng họ lại luôn biết chủ động cưỡi thuyền đi học hỏi những tinh hoa của các
quốc gia khác trên thế giới và họ đã thành công như thế nào hẳn chúng ta đều đã thấy.
Chúng ta có nghịch lý biển: Việt Nam có hơn 3.000 km đường biển(chính xác là
3260km), của một vùng biển có ý nghĩa chiến lược lớn trên bình diện thế giới. Nhưng Việt
Nam chúng ta lại đã và đang chối bỏ tiềm năng hướng ra biển, khai thác và chinh phục biển để
trở thành một cường quốc biển.
Chúng ta có nghịch lý về trí tuệ Việt Nam: Người Việt Nam luôn được các dân tộc khác
trên thế giới ví là một dân tộc thông minh như người Do Thái nhưng đồng thời, mọi người lại
chấp nhận điều nghịch lý”một người Việt Nam hơn hẳn một người Nhật, ba người Việt thì thua
3 người Nhật". Phải chăng do chúng ta thiếu đoàn kết, thiếu một mục tiêu chung và đúng đắn
để trí tuệ Việt Nam có thể hội tụ và thăng hoa?
Chúng ta có thể đổ lỗi cho chiến tranh gây nên đói nghèo, nhưng có phải vì bị suy yếu
nên mới phải rơi vào tình trạng chiến tranh?
131
____________________________________________________________________
Có một số người còn đổ lỗi cho thể chế, chính sách nhưng ngay cả trong thời điểm hiện
tại, người Việt đã cư ngụ khắp năm châu và vẫn luôn được các dân tộc khác tôn trọng vì sự
thông minh cần cù hiếm có, nhưng cũng không có lấy một tỉ phú người Việt tầm cỡ thế giới,
không có những cá nhân thành đạt ở tầm mức toàn cầu? Những quốc gia, dân tộc có nhiều
điểm tương đồng với Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, rồi tới Thái Lan,
Malaysia, Singapore thì lại có, và ngày càng có nhiều.
Tóm lại, chúng ta thấy nghịch lý của một dân tộc có truyền thống anh hùng bất khuất
nhưng dân khí lại không cao, không liền mạch. Một dân tộc có truyền thống thông minh và
hiếu học nhưng dân trí lại không hữu dụng. Một dân tộc có đầy đủ điều kiện làm giàu mà dân
sinh lại không được sung túc.
Chúng ta có nhận ra, có thấy trăn trở, có thấy đau xót trước hàng loạt nghịch lý đó? Hay
phải chăng điều nghịch lý duy nhất là chúng ta đã chấp nhận tất cả những nghịch lý trên là
chân lý, là điều hiển nhiên?
Những nghịch lý nêu trên đã tồn tại ngàn năm nay, vậy đâu là căn nguyên đích
thực gây nên nghịch lý?
Bất cứ ai có một lòng yêu nước thật sự sẽ không ảo tưởng về sức mạnh của dân tộc
mình. cần phải dũng cảm tìm ra cho được căn nguyên của những nghịch lý nêu trên để có thể
có những liệu pháp chữa trị tận gốc. Theo tôi, có thể nêu ra ba nguyên nhân sau:
Thứ nhất, Việt Nam có vị trí địa chính trị có ý nghĩa chiến lược trong khu vực cũng như
trên bình diện thế giới. Với vị trí địa chính trị của mình, từ thuở đầu dựng nước đến nay, Việt
Nam luôn là đối tượng thôn tính của các thế lực bành trướng. Việt Nam là cửa ngõ để Trung
Quốc bành trướng sang Đông Nam Á; là cửa biển để Nhật Bản hay Hoa Kỳ ảnh hưởng đến các
nước Đông Dương, và tới cả Ấn Độ và Trung Quốc; là vùng đệm của văn hóa Ấn Độ ảnh
hưởng đến phần còn lại của châu Á.
Thứ hai, tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên con người giàu có, đa dạng và phong phú.
Đó chính là miếng mồi béo bở cho những thế lực bành trướng hăm he chiếm đoạt. Và với điều
kiện sống tương đối sung túc và dễ dàng như vậy, người Việt không cần phải cố gắng nhiều
cũng có thể tự nuôi bản thân mình.
132
____________________________________________________________________
Yếu tố thứ ba là những rào cản về văn hóa. Những rào cản về văn hóa ở đây được
xác định là những tính chất tiêu cực không phù hợp của nền văn hóa Việt gây nên những
nghịch lý Việt Nam. Đầu tiên là những đặc tính cố hữu của nền văn hóa dựa trên nền tảng kinh
tế nông nghiệp lúa nước. Nó bao gồm các tính cách: tính manh mún, tính ưa ổn định và thiên
về bảo tồn, không muốn khám phá và phát triển. Tóm lại, đó là các đặc tính rất thiên về Âm
tính.
Ban đầu, đó là những tính chất văn hóa âm tính để cân bằng với môi trường sống gần
với thiên nhiên ở một vùng nhiệt đới. Nhưng sau đó, chính những đặc tính văn hóa ngoại lai đã
biến nhiều đặc trưng của nền văn hóa lúa nước truyền thống thành nguyên nhân chủ yếu tạo
nên nghịch lý Việt Nam. Đó là những mặt trái khi chúng ta phải tiếp thu văn hóa một cách
cưỡng ép, thiếu chủ động và thiếu chọn lọc từ bên ngoài.
Người Trung Hoa mang theo Nho, Lão và Phật giáo dạy cho dân tộc Việt sự”dĩ hòa vi
quý", hài lòng với hiện tại, ít khát vọng khám phá và chinh phục. thêm vào đó là người Pháp,
người Mỹ mang lại sự chia rẽ sâu sắc trong lòng dân tộc Việt với sự phân chia Bắc, Trung,
Nam và còn chia rẽ tới làng xã họ tộc. Đó là những nguyên nhân chính làm cho người Việt mất
đoàn kết mà đã đẩy tính Âm của nền văn hóa Việt thành Thái Âm, tức là gần như mất đi khát
vọng lớn mạnh, chỉ muốn sự ổn định và kìm hãm trong cái”ao làng”nhỏ bé của mỗi người.
Không những vậy, nguy hiểm hơn nữa là tâm lý cào bằng, kéo lùi mọi nhân tố mới nổi trội và
có thể có tính đột phá.
Thuộc tính Thái Âm chỉ thể hiện sức mạnh khi người Việt bị dồn vào đường cùng, vào
thế không còn sự lựa chọn mà bắt buộc phải chiến đấu. Nhưng sau khi được coi là”chiến
thắng", sự âm tính thái quá đó lại phát huy tác dụng, như ru ngủ cả một dân tộc, để dân tộc đó
lại trở nên yếu ớt và lại bị dồn vào bước đường cùng. Vậy đã đến lúc chúng ta nên nhận ra cái
vòng tròn luẩn quẩn đó và phải tìm cách thoát khỏi nó cho bằng được, thoát khỏi cái hậu quả
của”một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây”hay không? Chúng ta có dám
cùng đồng lòng, đồng sức xây dựng một nước Việt vĩ đại ngàn năm giàu mạnh, ngàn năm thái
bình hay không?
Như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể kết luận, trong ba nguyên nhân trên, chính nguyên
nhân cuối cùng - những rào cản về văn hóa, là căn nguyên tạo nên những nghịch lý Việt Nam.
133
____________________________________________________________________
Một nền văn hóa thiên về âm tính chỉ có thể bảo toàn một quốc gia chứ không thể tạo nên một
quốc gia giàu mạnh và phát triển, không thể tạo nên một nền văn minh lớn. Chúng ta cần cải
sửa một nền văn hóa ưa hài hòa thiên về âm tính sang một nền văn hóa một mặt vẫn giữ được
đặc tính hài hòa, nhưng mặt khác phải thiên về dương tính, thiên về phát triển, khám phá, chinh
phục. Khi đó, chúng ta có thể biến hai nguyên nhân đầu tiên thành những điều kiện vô cùng
thuận lợi để trở thành một quốc gia vĩ đại, thật sự sánh vai với các cường quốc năm châu.
Đặng Lê Nguyên Vũ
(tỔng Giám đốc công ty cà phê Trung Nguyên)
134
____________________________________________________________________
Đất Nước
(chương 5 của trường ca Mặt Đường Khát Vọng - tác giả Nguyễn Khoa Điềm)
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa . . .mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo , cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất Nước có từ ngày đó . . .
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
*
135
____________________________________________________________________
Quốc hiệu Việt Nam qua các thời đại
Từ đầu thời đại đồng thau, các bộ lạc người Việt đã định cư chắc
chắn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Bấy giờ có khoảng 15 bộ lạc Lạc
Việt sống chủ yếu ở miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ, hàng chục
bộ lạc Âu Việt sống chủ yếu ở miền Việt Bắc. Tại nhiều nơi, người
Lạc Việt và người Âu Việt sống xen kẽ với nhau, bên cạnh các thành
phần dân cư khác.
Do nhu cầu trị thuỷ, nhu cầu chống ngoại xâm và do việc trao đổi kinh tế,
văn hoá ngày càng gia tăng, các bộ lạc sinh sống gần gũi nhau có xu hướng tập
hợp và thống nhất lại. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, bộ lạc Văn Lang hùng mạnh
hơn cả. Thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất tất cả các bộ lạc Lạc Việt,
dựng lên nước.
♦ Văn Lang - Tồn tại 2671 năm (2876 trước CN - 258 trước CN):
Văn Lang, tự xưng là vua - mà sử cũ gọi là Hùng Vương và con cháu ông
nhiều đời về sau vẫn nối truyền danh hiệu đó.
Căn cứ vào các tài liệu sử học, có thể tạm xác định địa bàn nước Văn Lang
tương ứng với vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nước ta hiện nay cùng với một phần
phía nam Quảng Ðông, Quảng Tây (Trung Quốc).
♦ Âu Lạc - Tồn tại 50 năm (257 trước CN - 207 trước CN):
Năm 221 TCN, Tần Thuỷ Hoàng cho quân xâm lược đất của toàn bộ các
nhóm người Việt. Thục Phán - thủ lĩnh liên minh các bộ lạc Âu Việt - được tôn
làm người lãnh đạo cuộc chiến chống Tần. Năm 208 TCN, quân Tần phải rút lui.
Với uy thế của mình, Thục Phán xưng vương (An Dương Vương), liên kết các bộ
136
____________________________________________________________________
lạc Lạc Việt và Âu Việt lại, dựng nên nước Âu Lạc.
Năm 207 TCN, Triệu Đà - vua nước Nam Việt - tung quân đánh chiếm Âu
Lạc. Cuộc kháng cự của An Dương Vương thất bại. Suốt 7 thế kỷ tiếp đó, mặc dù
các thế lực phong kiến phương Bắc thay nhau đô hộ, chia nước ta thành nhiều
châu, quận với những tên gọi khác lạ mà chúng đặt ra, nhưng vẫn không xoá nổi
cái tên”Âu Lạc”trong ý thức, tình cảm và sinh hoạt thường ngày của nhân dân ta.
♦ Vạn Xuân - Tồn tại 58 năm (544-602)
Mùa xuân năm 542, Lý Bí khởi nghĩa đánh đuổi quân Lương, giải phóng
lãnh thổ. Tháng 2/544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân,
khẳng định niềm tự tôn dân tộc, tinh thần độc lập và mong muốn đất nước được
bền vững muôn đời.
Chính quyền Lý Bí tồn tại không lâu rồi lại rơi vào vòng đô hộ của các
triều đại phong kiến Trung Quốc (từ năm 602). Quốc hiệu Vạn Xuân bị vùi dập và
chỉ được khôi phục sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán bằng chiến thắng
Bạch Ðằng năm 938, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc.
♦ Ðại Cồ Việt - Tồn tại 86 năm (968-1054)
Năm 968, Ðinh Bộ Lĩnh dẹp yên các sứ quân cát cứ, thống nhất quốc gia,
lên ngôi Hoàng đế và cho đổi quốc hiệu là Ðại Cồ Việt (nước Việt lớn). Quốc
hiệu này duy trì suốt đời Ðinh (968-979), Tiền Lê (980-1009) và đầu thời Lý
(1010-1053).
♦ Ðại Việt - Tồn tại 748 năm (1054-1804)
Năm 1054, nhân điềm lành lớn là việc xuất hiện một ngôi sao sáng chói
nhiều ngày mới tắt, nhà Lý liền cho đổi tên nước là Ðại Việt và quốc hiệu Ðại
Việt được giữ nguyên đến hết thời Trần…
137
____________________________________________________________________
Sau 10 năm kháng chiến (1418-1427), cuộc khởi nghĩa chống Minh của
Lê Lợi toàn thắng. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đặt tên nước là Ðại Việt (lãnh thổ
nước ta lúc này về phía Nam đã tới Huế).
Quốc hiệu Ðại Việt được giữ qua suốt thời Hậu Lê (1428-1787) và thời
Tây Sơn (1788-1802).
♦ Ðại Ngu - Tồn tại 7 năm (1400-1406)
Tháng 3/1400, Hồ Quý Ly phế Trần Thiếu Ðế, lập ra nhà Hồ và cho đổi
tên nước thành Ðại Ngu ("ngu”tiếng cổ có nghĩa là”sự yên vui"). Quốc hiệu đó
tồn tại đến khi giặc Minh đánh bại triều Hồ (tháng 4/1407).
♦ Việt Nam - Tồn tại 80 năm (1804-1884)
Năm 1802, Nguyễn Ánh đăng quang, mở đầu thời Nguyễn và cho đổi tên
nước là Việt Nam, Quốc hiệu Việt Nam được công nhận hoàn toàn về mặt ngoại
giao để trở thành chính thức vào năm 1804. Tuy nhiên, hai tiếng”Việt Nam”lại
thấy xuất hiện từ khá sớm trong lịch sử nước ta. Ngay từ cuối thế kỷ 14 đã có một
bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí do trạng nguyên Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn
Dư địa chí của Nguyễn Trãi (đầu thế kỷ 15) nhiều lần nhắc đến hai chữ”Việt
Nam". Ðiều này còn được đề cập rõ ràng trong những tác phẩm của trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), chẳng hạn ngay trang mở đầu tập Trình tiên
sinh quốc ngữ đã có câu:”Việt Nam khởi tổ xây nền". Người ta cũng tìm thấy hai
chữ”Việt Nam”trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như bia chùa Bảo Lâm
(1558) ở Hải Phòng, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Tây, bia chùa Phúc Thành
(1664) ở Bắc Ninh.... Ðặc biệt bia Thuỷ Môn Ðình (1670) ở biên giới Lạng Sơn
có câu đầu:”Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan”(đây là cửa ngõ yết hầu của
nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Về ý nghĩa, phần lớn các giả
thuyết đều cho rằng từ”Việt Nam”kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý
(người Việt ở phương Nam).
♦ Ðại Nam - Tồn tại trên lý thuyết 107 năm (1838-1945)
138
____________________________________________________________________
Ðến đời vua Minh Mạng (1820-1840), quốc hiệu được đổi thành Ðại
Nam. Dù vậy, hai tiếng”Việt Nam”vẫn được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm
văn học, trong nhiều giao dịch dân sự và quan hệ xã hội.
♦ Việt Nam
Ngày 19/8/1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, lật đổ hoàn toàn ách
thống trị phong kiến và thực dân, mở ra một kỷ nguyên mới. Ngày 02/9/1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà.
Suốt 30 năm tiếp theo, tuy đất nước lâm vào cảnh chiến tranh, rồi chia cắt,
hai tiếng”Việt nam”vẫn được phổ biến từ Bắc chí Nam và trở thành thân thiết,
thiêng liêng với mọi người.
Ngày 30/4/1975, miền Nam được giải phóng, non sông quy về một mối.
Ngày 02/7/1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất,
toàn thể Quốc hội đã nhất trí lấy tên nước là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Hiến pháp năm 1980 và hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định quốc hiệu
đó, đưa nó trở thành chính thức cả về pháp lý lẫn trên thực tế.
139
____________________________________________________________________
THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh 1938 Việt Nam văn hóa sử cương, Quan Ngoại Tùng Thư,
Huế.
2. Phan Ngọc 1998 Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb VH-TT
3. Will Durant Lịch sử văn Minh Ấn Độ, Nguyễn Hiến Lê (dịch) 1971, Nxb
Lá Bối, Sài Gòn.
4. Trần Ngọc Thêm 1997 cơ sở văn hóa Việt Nam , Nxb Giáo Dục
5. Trần Ngọc Thêm 2001 Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam , Nxb TPHCM
6. Ngô Đức Thịnh 2001 Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb
Trẻ.
7. Trần Quốc Vượng 1997 Cơ sở văn hóa Việt Nam - Văn hóa học đại cương
– Nxb Giáo Dục
8. và nhiều tài liệu khác liên quan đến vấn đề…
Các trang web
1. www. egov.gov.vn – www.chinhphu.vn
2. www.vanhoanghethuat.org.vn
3. www.suutap.com
4. www.ctu.edu.vn- khoa sư phạm- Giảng viên :Lê Đình Bích.
5. www.agu.edu.vn -khoa sư phạm- Giảng viên :Phùng Hoài Ngọc
6. www.google.com.vn – trang web tìm kiếm thông tin.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- csvhvn_5192.pdf