Từ những phân tích đánh giá trên cũng như thực tiễn ở Việt Nam hiện nay: để chúng ta có thể tực hiện thành công thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải xây dựng cho mình một nền tản lý luận vững chắc, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi chính sách phát triển. Ngoài ra, phải tùy thuộc vào tình hình, điều kiện kinh tế - xã hội trong nước hiện nay để có những điều chỉnh, định hướng phù hợp với xu thế của thời đại.
Cụ thể là chúng ta phải biết tiếp thu cái mới, cái tiên tiến của nhân loại, phải hội nhập cùng nền kinh tế Thế giới và khu vực; phải biết phát huy những mặt tích cực của toàn cầu hóa, đồng thời khắc phục những khó khăn, mặt trái của nó.
Một điều quan trọng nữa là đi đôi với phát triển kinh tế, nâng cao trình độ lực lượng sản xuất, chúng ta cũng phải quan tâm nhiều đến công bằng xã hội, duy trì nền văn hóa truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trương sinh thái.
37 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1675 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ắm lấy thời cơ, phát huy những ưu điểm để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, tạo ra thế và lực mới để vượt qua những khó khăn, đẩy lùi nguy cơ, đưa nền kinh tế tăng trưởng, phát triển bền vững.
1.1.4 Tác dụng của công nghiệp hóa.
Thực tiễn đã chứng minh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ có những tác dụng to lớn về nhiều mặt trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đó là:
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trước hết là quá trình tạo ra những điều kiện vật chất - kĩ thuật cần thiết về con người và khoa học.
- Công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để không ngừng tăng năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa cho nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo ra cơ sở vật chất để làm biến đổi về chất lực lượng sản xuất, nhờ đó mà nâng cao vai trò của người lao động - nhân tố trung tâm của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa; tạo điều kiệnvật chất cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cơ sở kinh tế để củng cố và phát triển khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và dội ngũ trí thức trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là góp phần tăng cường quyền lực, sức mạnh và hiệu quả của bộ máy quản lí kinh tế của Nhà nước.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, vững mạnh, trên cơ sở đó mà thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thúc đẩy sự phân công lao dộng xã hội phát triển, thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lí theo hướng chuyên canh tập trung làm cho quan hệ kinh doanh giữa các vùng, các miền trở nên thống nhất cao hơn.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng phát triển cao mà còn tạo tiền đề vật chất để xây dựng, phát triển để hiện đại hóa nền quốc phóng - an ninh. Sự nghiệp quốc phòng và an ninh gắn liền với sự nghiệp phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo ra tiền đề kinh tế cho sự phát triển đồng bộ về kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng và an ninh. Thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chính vì vậy mà công nghiệp hóa kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.1.5 Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại
- Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội dựa trên một nền khoa học và công nghệ tiên tiến, tạo ra lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất ngày càng tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống vật chất, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Để từng bước thực hiện thành công mục tiêu lâu dài trên, mục tiêu tổng quát của sự nghiệp công nghiệp hóa ,hiện đại hóa của nước ta được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định tại Đại hội lần thứ VIII và tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần thứ IX và lần thứ X là: “sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển…Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tẳn để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”.
- Mặt khác, trong mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế, công nghiệp hóa cần phải thực hiện được những mục tiêu cụ thể nhất định. Trong những năm trước mắt, trong điều kiện khả năng về vốn vẫn hạn hẹp, nhu cần về công ăn việc làm rất bức bách, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, tình hình kinh tế - xã hội phát triển, tăng trưởng chưa thật ổn định, chúng ta cần tập trung nỗ lực đẩy mạnh công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn, phát triển nhanh các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, phát triển kinh tế vùng, kinh tế biển…
1.1.6 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài trên cơ sở xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước có hiệu quả.
- Công nghiệp hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó thàng phần kinh tế nhà nước là chủ đạo.
- Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích lũy cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
- Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa; kết hợp công nghệ truyền thông với công nghệ hiện đại. Tranh thủ đi nhanh vào công nghiệp hiện đại ở những khâu quyết định.
- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh. Đòng thời, xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả.
- Kết hợp chặt chẽ và toàn diện phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường nền quốc phòng - an ninh của đất nước.
Bước vào thế kỉ 21, trước những biến đổi to lớn của tình hình trong nước và quốc tế, Đại hội IX nhấn mạnh thêm ba quan điểm:
- Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chuyển động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
- Phát triển kinh tế nhanh có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội, và bảo vệ gìn giữ môi trường sinh thái.
1.2 Nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
1.2.1 Những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
a. Phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội - trên cơ sở thực hiện cơ khí hóa nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại.
- Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước hết là quá trình cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng máy móc, tức là phải cơ khí hóa nền kinh tế quốc dân. Đó là bước chuyển đổi rất căn bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Gắn liền với quá trình cơ khí hóa là điện khí hóa, tự động hóa sản xuất từng bước và tiến tới là cả nền kinh tế quốc dân.
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin tái sản xuất mở rộng của khu của khu vực sản xuất tư liệu sản xuất quyết định quy mô tái sản xuất mở rộng hay tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, đối tượng công nghiệp hóa hiện đại hóa là xây dựng và phát triển mạnh mẽ nền công nghiệp, trong đó then chốt là ngành chế tạo tư liệu sản xuất.
- Trong thời đại mà nền khoa học của thế giới đang có sự phát triển như vũ bão, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, công nghệ đang trở thành nhân tố quyết định chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất,… tức là nói đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa, hiệu quả của kinh doanh thì khoa học công nghệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, trở thành động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, phát triển khoa học công nghệ ở Việt Nam cần chú ý đến các vấn đề sau:
+ Xác định được phương hướng đúng đắn trong phát triển khoa học công nghệ, phát huy lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt được trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và sinh học; tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, mức độ cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu về khoa học công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
+ Tạo dựng được những điều kiện cần thiết cho phát triển khoa học - công nghệ: đầu tư ở mức cần thiết và có các chính sách kinh tế - xã hội phù hợp, nhận chuyển giao khoa học công nghệ.
b. Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lí.
Quá trình công nhiệp hóa hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân là cấu tạo hay cấu trúc của nền kinh tế bao gồm các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các vùng kinh tế… và mối quan hệ hữu cơ giữa chúng. Trong cơ cấu của nền kinh tế, cơ cấu các ngành kinh tế là quan trọng nhất, quyết định các hình thức cơ cấu kinh tế khác. Cơ cấu kinh tế hợp lí là điều kiện để nền kinh tế tăng trưởng, phát triển. Vì vậy, công nghiệp hóa - hiện đại hóa đòi hỏi phải xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lí. Do sự vận động, biến đổi của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nên cơ cấu kinh tế cũng vận động và biến đổi không ngừng. Do đó, xây dựng cơ cấu kinh tế là yêu cầu khách quan của mỗi nước trong thời kỳ công nghiệp hoá. Vấn đề quan trọng là tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý. Ở nước ta, một cơ cấu kinh tế được gọi là hợp lý khi nó đáp ứng được các yêu cầu sau đây:
- Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng; công nghiệp, xây dựng và dịch vụ phải tăng dần về tỷ trọng.
- Trình độ kỹ thuật của nền kinh tế không ngừng tiến bộ, phù hợp với xu hướng của sự tiến bộ khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới.
- Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế.
- Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu thế toàn cầu hoá kinh tế, do vậy cơ cấu kinh tế được tạ dựng phải là “cơ cấu mở”.
- Ở nước ta, kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đến nay, dưới ánh sáng của đường lối đổi mới, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đạt được những thành tựu quan trọng.
1.2.2 Những nội dung cụ thể của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong những năm trước mắt.
a. Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Vì:
- Nông nghiệp nông thôn có nhiều tiềm năng nhưng chưa được khai thác và khai thác chưa có hiệu quả.
- Nông nghiệp nông thôn vẫn trong tình trạng sản xuất nhỏ, trình độ lạc hậu, năng suất thấp.
- Quan hệ sản xuất chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nền nông nghiệp hàng hoá theo cơ chế mới.
- Nông nghiệp, nông thôn còn là thị trường đầu ra cho công nghiệp.
- Đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, môi trường sinh thái bị suy thoái.
b. Phát triển công nghiệp, xây dựng
Hướng ưu tiên phát triển công nghiệp ở nước ta là: khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghệ chế tác công nghệ phần mềm và công nghệ bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút lao động, phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế; khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại. Khẩn trương thu hút vốn trong và ngoài nước để thực hiện một số dự án quan trọng về khai thác dầu khí, lọc dầu, hoá dầu, luyện kim, cơ khí chế tạo.
c. Cải tạo, mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới, có trọng điểm kết cấu hạ tầng vật chất của nền kinh tế
d. Phát triển nhanh du lịch, các ngành dịch vụ.
e. Phát triển hợp lí các vùng lãnh thổ.
f. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Trong việc mở cửa, hội nhập, phải đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm. Chuyển hướng chiến lược, xây dựng nền kinh tế mở đòi hỏi phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập toàn cầu.
1.3 Những tiền đề thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi nguồn vốn rất to lớn. Do đó, mở rộng quy mô huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một điều kiện, tiền đề quan trọng để công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công.
- Đào tạo nguồn nhân lực
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ đòi hỏi phải có vốn, kĩ thuật, tài nguyên…mà còn cần phải phát triển một cách tương xứng năng lực của con người sử dụng những phương tiện đó. Vì vậy, yếu tố nguồn nhân lực quyết định tốc độ và chất lượng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Phát triển khoa học công nghệ
Khoa học và công nghệ được xác định là động lực của công nghiệp hoá, hiện đậi hoá. Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển nói chung, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng của các quốc gia.
- Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
Trong xu thế toàn cầu hoá, quan hệ kinh tế đối ngoại càng phát triển rộng rãi và có hiệu quả bao nhiêu thì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước càng được tiến hành thuận lợi và càng thành công nhanh chóng bấy nhiêu. Đó được coi là tiền đề quan trọng, không thể thiếu của công ngiệp hoá, hiện đại hoá nước ta.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lí của Nhà nước
Đây là tiền đề quan trọng quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
2. Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
2.1 Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2.1.1 Tính tất yếu khách quan của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Đó là một tất yếu khách quan, vì:
- Bước vào thời kì quá độ, nền kinh tế nước ta còn ở trình độ kém phát triển, lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau, do đó chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ có nhiều hình thức, tức là nền kinh tế sẽ có nhiều thành phần.
- Một số thành phần kinh tế do xã hội cũ để lại: các thành phần kinh tế này vẫn có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế, có lợi cho đất nước trong việc giải quyết việc làm, tăng sản phẩm, huy động các nguồn vốn…( thành phần kinh tế tư nhân).
- Một số thành phần kinh tế mới xuất hiện trong quá trình cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư bản nhà nước.
- Các thành phần kinh tế cũ và các thành phần kinh tế mới tồn tại khách quan và có quan hệ với nhau, tạo thành cơ cấu kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2.1.2 Vai trò của cơ cấu nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta không chỉ là một tất yếu khách quan mà còn có vai trò to lớn, vì:
- Nền kinh tế tôn tại nhiều thành phần, có nghĩa là tồn tại nhiều hình thức quan hệ sản xuất, sẽ phù hợp với thức trạng thấp kém và không đồng đều của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Sự phù hợp này, đến lượt nó, lại có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện năng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở nước ta.
- Nền kinh tế nhiều thành phần thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, phát triển các mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
- Cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong nước như: vốn, lao động, tài nguyên, kinh nghiệm tổ chức quản lý, khoa học và công nghệ mới trên thế giới…
- Tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ, trong đó có hình thức kinh tế tư bản nhà nước, nó như những “cầu nối” trạm “trung gian” cần thiêt để đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
- Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tạo tiền đề khắc phục tình trạng độc quyền, tạo ra quan hệ cạnh tranh, động lực quan trọng thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất.
2.1.3 Các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay.
a. Thành phần kinh tế nhà nước
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nhiệp Nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế. “Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế”.
b. Kinh tế tập thể
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn, cùng kinh doanh, tự quản lí theo nguyên tắc tập trung, bình đẳng, cùng có lợi.
c. Kinh tế tư nhân
Thành phần kinh tế tư nhân bao gồm:
- Kinh tế cá thể là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình.
- Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên, thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình người lao động.
- Kinh tế tư bản tư nhân là hình thức kinh tế mà sản xuất, kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê.
d. Kinh tế tư bản nhà nước
Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh.
e. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm các doanh nghiệp có thể 100% vốn nước ngoài có thể liên kết, liên doanh với doanh nghiệp nhà nứơc hoặc doanh nghiệp tư nhân của nước ta.
2.2 Từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam suy cho cùng là tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế đều phát triển, từ đó phát huy tốt nhất vai trò của mỗi thành phần kinh tế.
Xử lý hài hoà mối quan hệ hợp tác và cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, từng bước phát huy vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Phương hướng cơ bản đó đòi hỏi việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phải tuân thủ theo quan điểm chỉ đạo sau đây:
2.2.1 Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa phải làm cho quan hệ sản xuất phù hợp hơn với các thành phần kinh tế, đồng thời thúc đẩy cải cách môi trường thể chế nhằm thực hiện các mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trước hết cần nhận thức rõ bản chất, nội dung, phạm vi cà các hình thức biểu hiện của các thành phần kinh tế. Cần thấy rằng đặc trưng kinh tế nước ta trong thời kỳ chuyển đổi là một cơ cấu động. Do vậy, trong quá trình phát triển phải thừa nhận sự chuyển đổi giữa các thành phần cũng như những bước tiến hoặc bước lùi trong việc hoàn thiện quan hệ sản xuất ở mỗi một thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan. Theo hướng đó việc phát triển các thành phần kinh tế cần chú ý tới các vấn đề như:
- Đối với kinh tế tự nhiên phải chuyển sang kinh tế hàng hoá. Đối với sản phẩm hàng hoá nhỏ cần đẩy mạnh các hình thức liên kết, tổ chức quản lý và định hướng sự phát triển nhằm phục vụ sự phát triển chung. Đối với kinh tế tiểu chủ và tư bản tư nhân cần tạo điều kiện để có thể phát huy hết tiềm lực của họ. Đối với kinh tế nhà nước cần sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp với lực lượng sản xuất hiện có và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đối với thành phần kinh tế tư bản có vốn đầu tư nước ngoài cần tạo môi trường đầu tư thông thoáng và cần bình đẳng đối xử với các doanh nghiệp trong nước.
Đồng thời với việc đổi mới sở hữu, muốn hoàn thiện đồng bộ các mặt của quan hệ sản xuất, phải chú ý nâng cao trình độ tổ chức quản lý và hoàn thiện các quan hệ phân phối một cách thích ứng trong các thành phần phù hợp với điều kiện của nền kinh tế vận hành theo cơ chế mới.
- Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất đòi hỏi phải nâng cao hiệu lực điều tiết của nhà nước, thực hiện phân phối theo nguyên tắc kinh tế thị trường, đẩy mạnh phúc lợi xã hội.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đa hình thức sở hữu đang làm nảy sinh những quan điểm mới về quan hệ phân phối.
Quan hệ phân phối trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải kết hợp phân phối theo lao động và hưởng theo thành tích. Phấn đấu để tạo điều kiện cho mỗi người lao động đều có một phần tài sản, vốn đóng góp cổ phần của mình vào các cơ sở sản xuất, dịch vụ để tạo điều kiện phát huy vai trò của họ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Mục tiêu là phải đảm bảo đời sống của người lao động từng bước được nâng cao góp phần xoá đói giảm nghèo. Chấp nhận sự phân hoá giàu nghèo trong từng tần lớp dân cư và giữa các vùng nhưng có giới hạn.
Khuyến khích mọi người tạo việc làm chính đáng. Nghiêm cấm các hành vi bất chính, bòn rút của công, hà hiếp quần chúng lao động làm mất long tin của nhân dân và triệt tiêu động lực của người lao động. Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu độc lập và đan xen sẽ tạo ra nhiều hình thức phân phối, tỷ lệ phân phối khác nhau về nguồn lực sản phẩm.
Quan hệ đối với tài sản bao gồm nhiều quyền khác nhau. Do vậy, cần phân biệt rõ các quyền này và gắn chúng với việc hưởng lợi trong phân phối kết quả sản xuất kinh doanh.
Phân phối vật phẩm, vật phẩm tiêu dùng phải căn cứ vào lao động giản đơn và lao động phức tạp, khuyến khích nâng cao tay nghề lao động giản đơn, chú ý tới lao động của các nhà koa học quản lý.
Phân phối dựa theo nguyên tắc thị trường không tránh khỏi sự bất bình đẳng trong thu nhập, mà hậu quả của nó là sự mất ổn định kinh tế, chính trị, xã hội như nhiều nước phát triển theo con đường kinh tế thị trường đã trải qua. Vì vậy phải có sự điều tiết của nhà nước thong qua thuế thu nhập và phúc lợi xã hội. Cần tiếp tục hoàn thiện chính sách tài chính theo hướng tăng cường khả điều tiêt Vĩ mô của nhà nước nhằm điều hoà thu nhập, đảm bảo phúc lợi giữa các tầng lớp dân cư.
2.2.2 Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất, một mặt phảii tạo điều kiện để các thành phần kinh tế nhà nước vươn lên nắm vai trò chủ đạo, mặt khác phải đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Trong bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào cũng có phương thức sản xuất tiêu biểu cho chế độ kinh tế xã hội đương thời, giữ vị trí thống trị chi phối, còn trong thời kỳ quá độ, chưa có thành phần kinh tế nào đủ mạnh để giữ vai trò thống trị chi phối các thành phần kinh tế khác. V.I.Lênin đã chỉ ra, các thành phần kinh tế chỉ là những mảng, những bộ phận hợp thành kết cấu kinh tế xã hội, vừa có tính độc lập tương đối, vừa tác động lẫn nhau.
Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần, đang trong quá trình chuyển đổi. Các thành phần kinh tế vừa vừa đan xen vừa cạnh tranh nhau, luôn vận động và chuyển đổi trong quá trình phát triển. Định hướng xã hội chủ nghĩa là phải tạo điều kiện cho thành phần kinh tế nhà nước vươn lên nắm vai trò chủ đạo. Thực tế, các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta chưa đáp ứng được vai trò này kể cả về hiệu quả sản xuất kinh doanh, trình độ tổ chức quả lý và phương thức phân phối. Vì vậy, Việt Nam cần phải tiếp tục sắp xếp lại, phát triển doanh nghiệp nhà nước, một mặt phải đặt trong tương quan với nguồn lực nhà nước, một mặt phải đặt trong quan hệ với các thành phần kinh tế khác. Về tổ chức quản lý phải chặt chẽ hơn, phải có chế độ phân phối hợp lý để vừa nâng cao mức sống người lao động, vừa đảm bảo tái sản xuất cho doanh nghiệp, củng cố và năng cao chất lượng hoạt động các doanh nghiệp nhà nước cũng có nghĩa là nâng cao khả nâng cao khả năng cạh tranh của các doanh nghiệp nhà nước. Điều đó có nghĩa là củng cố tính chất xã hội chủ nghĩa trong thành phần kinh tế này trên tất cả các mặt của quan hệ sản xuất để tạo cho nó nhanh chóng giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam.
Đồng thời với việc thiết lập vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, hoàn thiện quan hệ sản xuất phải đảm bảo tính dân chủ và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tạo điều kiện phát huy đầy đủ năng lực và vị trí của mỗi thành phần kinh tế, hình thành hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất. Với điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, nền kinh tế chỉ có thể phát triển bền vững nếu các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng, có hiệu quả, có sức phát triển và cạnh tranh cao. Vấn đề này cần được thể hiện trong việc hoạch định các chính sách của nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc hai mặt: đối xử công bằng với mọi thành phần kinh tế để đảm bảo công bằng theo chiều ngang và đối xử khác nhau với các thành phần kinh tế để đảm bảo công bằng theo chiều dọc.
2.2.3 Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phải tính đến yếu tố thời đại mà đặc trưng của nó là quá trình mở cửa và hội nhập với xu thế quốc tế hoá và khu vực hoá.
Trong xu thế quốc tế hoá với đời sống kinh tế, hiện nay không còn một quốc gia nào đóng cửa mà có thể phát triển. trong điều kiện mới, thong qua việc mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế, các nước có thể tranh thủ, tận dụng nguồn lực của nước ngoài tạo ra những bước nhảy vọt, đột biến trong sự phát triển rút ngắn của mình.
Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam những nguồn lực thu hút được từ bên ngoài sẽ góp phần tạo ra lực lượng sản xuất mới, năng suất lao động cao hơn, đảm bảo cho sự phát triển thắng lợi của đất nước. Về quan hệ sản xuất, điều đó có nghĩa là rút ngắn sự phát triển mang tính chất tuần tự theo tiến trình lịch sử, đẩy nhanh quá trình xây dựng nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cần phải có chính sách thông thoáng để thu hút các nguồn lực đó và biến chúng thành nhân tố tích cực góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đấy nước.
Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất ở nước ta thao hướng phù hợp với điều kiện hội nhập phải tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đều được bình đẳng tham gia vào các quan hệ kinh tế đối ngoại. Muốn vậy, cần xoá bỏ những nhận thức không đúng đang ngăn cản sự tham gia của các thành phần kinh tế trong quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo ra các quan hệ thông thoáng cho các quan hệ kinh tế phát triển. Phải điều chỉnh lại các chính sách đối ngoại của mọi thành phần kinh tế. Sắp xếp, bố trí, tổ chức lại nền kinh tế, thực hiện chuyển dịch cơ cấu theo hướng xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những hàng hoá có khả năng là lợi thế sản xuất trong nước.
Quan niệm về kinh tế mở để hội nhập không có nghĩa là chỉ mở cửa với bên ngoài mà còn mở cửa thị trường bên trong. Điều này có nghĩa là phát triển sản xuất kinh doanh cần tuân theo tiêu chuẩn của thị trương thế giới hàng hoá của Việt Nam phải không được thua trên sân nhà. Việc mở cửa bên trong như vậy cũng đòi hỏi sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong các quan hệ sở hữu, phân phối và điều hành trong quản lý ở tầm vĩ mô của nhà nước. Đó là điều kiện cần thiết để tạo ra sự cạnh tranh trong nền kinh tế để các chủ thể kinh tế có điều kiện phát huy những tiềm năng và lợi thế của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chất sản phẩm được nâng cao theo tiêu chuẩn quốc tế.
Việc mở cửa, hội nhập với bên ngoài theo phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá các hình thức và quan hệ đối ngoại đòi hỏi phải đáp ứng nhu cầu lợi ích vủa bên đối tác, phù hợp với thông lệ quốc tế, mặt khác đòi hỏi phải đảm bảo phục vụ cho nhu cầu lợi ích quốc gia, dân tộc, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững.
Trong quá trình mở cửa, hội nhập, phải tăng cường và nâng cao năng lực quản lý công tác kiểm tra, giám sát của nhà nước nhằm khắc phục những mặt tiêu cực do mở của gây ra, cũng như hoàn thiện hệ thống pháp luật để khai thác tối ưu các nguồn lực bên ngoài và phát huy có hiệu quả nguồn lực bên trong, đáp ứng kịp thời các nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
3. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Kinh tế đối ngoại của một quốc gia là một bộ phận kinh tế quốc tế, là tổng thể các qua hệ kinh tế, khoa học, kĩ thuật, công nghệ của một quốc gia với các quốc gia khác hoặc với các tổ chức kinh tế quốc tế khác, được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế.
3.1 Vai trò to lớn của kinh tế đối ngoại.
- Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sãn xuất và trao đổi quốc tế; nối liền thị trường trong nước với thị trường thế giới và khu vực.
- Hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư trực tiếp và vốn viện trợ chính thức từ các chính phủ và tổ chức tiền tệ quốc tế; thu hút khoa học, kĩ thuật, công nghệ, khai thác và ứng dụng những kinh nghiệm xây dựng và quản lí nền kinh tế hiện đại vào nước ta.
- Góp phần tích lũy vốn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu lên một nước công nghiệp tiên tiến hiện đại.
- Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân theo mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3.2 Tính tất yếu khách quan của việc hình thành và phát triển kinh tế đối ngoại
Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế phát triển mạnh mẽ, lôi cuốn tất cả các quốc gia vào vòng xoáy của nó, dù là quốc gia tiên tiến hay lạc hậu, phát triển hay đang phát triển. Nó tạo ra những thời cơ và thách thức mới; quốc gia nào nắm bắt tốt cơ hội sẽ phát triển nhanh hơn, ngược lại sẽ càng tụt hậu xa hơn. Trong bối cảnh đó, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất yếu đối với mọi quốc gia.
Vì vậy, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại là một trong những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và đã được nhấn mạnh nhiều lần trong các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước “Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn về các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước là mục tiêu cao nhất”.
3.3 Những hình thức chủ yếu của kinh tế đối ngoại
Kinh tế đối ngoại gồm có nhiều hình thức, song, ngoại thương, đầu tư quốc tế và dịch vụ thu ngoại tệ là những hình thức chủ yếu và có hiệu quả cần được coi trọng.
3.3.1 Ngoại thương.
- Ngoại thương, hay còn gọi là thương mại quốc tế, là sự trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các quốc gia thông qua xuất nhập khẩu.
- Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, ngoại thương giữ vị trí trung tâm và có tác dụng to lớn: góp phần làm tăng sức mạnh tổng hợp, tăng tích lũy của mỗi nước nhờ sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong trao đổi quốc tế; là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; “điều tiết thừa thiếu” trong mỗi nước; nâng cao trình độ công nghệ và cơ cấu ngành nghề trong nước; tạo công ăn việc làm và nâng cao dời sống của người lao động nhất là trong các ngành xuất khẩu.
3.3.2 Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất.
- Nhận gia công: là một hình thức tốt, giúp tận dụng nguồn dự trữ lao động, tạo nhiều việc làm và tận dụng công suất máy móc hiện có.
- Xây dựng những xí nghiệp chung với sự hùn vốn và công nghệ từ nước ngoài.
- Hợp tác sản xuất quốc tế trên cơ sở chuyên môn hóa.
3.3.3 Hợp tác khoa học - kĩ thuật
- Hợp tác khoa học - kĩ thuật được thực hiện dưới nhiều hình thức như trao đổi tài liệu - kĩ thuật và thiết kế, mua bán giấy phép, trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ, phối hợp nghiên cứu khoa học - kĩ thuật,hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công nhân…
- Đây là điều kiện thiết yếu để rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến.
3.3.4 Đầu tư quốc tế
- Đầu tư quốc tế là quá trình trong đó hai hay nhiều bên (khác quốc tịch) cùng góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư quốc tế nhằm mục đích sinh lợi.
- Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu và quyền sử dụng quản lí vốn của người đầu tư thống nhất với nhau. Đầu tư trực tiếp được thực hiện dưới các hình thức: hợp tác kinh doanh trên cơ sở có hợp đồng, xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao.
- Đầu tư gián tiếp là loại hình đầu tư mà quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn đầu tư. Đầu tư gián tiếp được thực hiện thông qua các hình thức: cho vay, viện trợ không hoàn lại, mua cổ phiếu và các chứng khoán có giá… Trong đó, một bộ phận quan trọng là viện trợ phát triển chính thức của chính phủ một số nước có nền kinh tế phát triển.
3.3.5 Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ, du lịch quốc tế
Với Việt Nam, việc đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ là giải pháp cần thiết, thiết thực để phát huy lợi thế đất nước.
- Du lịch quốc tế sẽ phát huy lợi thế của Việt Nam về cảnh quan thiên nhiên, về nhiều loại lao động đặc thù mang tính dân tộc, truyền thống. Tuy nhiên, muốn thu hút khách du lịch cần phải chú ý: tiếp tục nâng cấp các khách sạn; mở thêm nhiều tour du lịch hấp dẫn; cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi và sự hứng khởi cho khách du lịch.
- Vận tải quốc tế là hình thức chuyên chở hàng hóa và hành khách giữa hai nước hoặc nhiều nước. Việt Nam có vị trí địa lí quan trọng, lại có nhiều hải cảng thuận tiện cho vận tải đường biển nên có thể phát huy thế mạnh của mình thông qua việc đẩy mạnh vận tải quốc tế.
- Xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ: việc xuất khẩu lao động sẽ thu được lượng ngoại tệ đáng kể cho trực tiếp người lao động và cho ngân sách nhà nước; người lao động được rèn luyện tay nghề và thói quen hoạt động công nghiệp ở các nước có nền kinh tế phát triển sau khi hết hợp đồng sẽ trở thành lực lượng lao động có chất lượng.
- Các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác.
3.4 Mục tiêu, phương hướng, nguyên tắc cơ bản nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
3.4.1 Mục tiêu: thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.4.2 Phương hướng cơ bản nhằm mở rộng, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại: “Thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn, đầy đủ hơn với khu vực và thế giới”
- Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế không phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Củng cố và tăng cường vị trí của Việt Nam ở các thị trường quen thuộc và với bạn hàng truyền thống; tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở thị trường mới, phát triển các quan hệ nới dưới mọi hình thức.
- Kinh tế đối ngoại là một trong các công cụ kinh tế bảo đảm cho việc thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra cho từng giai đoạn lịch sử cụ thể và phục vụ đắc lực mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Chủ động tạo những điều kiện để hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới; phát huy ý chí tự lực, tự cường; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.
3.4.3 Các nguyên tắc cơ bản cần quán triệt trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế: bình đẳng; cùng có lợi; tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia; giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc và củng cố định hương xã hội chủ nghĩa đã chọn.
III. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ KINH TẾ CƠ BẢN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Những nhận xét về thực trạng thực hiện các nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.1 Những thành tựu đạt được trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế:
1.1.1 Đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng cao, tăng cường cơ sở vật chất, tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới.
Tổng sản phẩm trong nước ( 2001- 2005) tăng bình quân 7,5%/năm, trong đó nông nghiệp tăng 3,8%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng 7%. Quy mô tông sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 838 nghìn tỷ đồng, gấp đôi so với năm 1995. GDP bình quân đầu người khoảng 640 USD.
1.1.2 Tạo dựng được những tiền đề phát triển kinh tế - xã hội trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
- Giảm dần tỷ lệ tiêu dùng trong cơ cấu tích lũy - tiêu dùng, tăng khả năng tích lũy để đầu tư phát triển, đảm bảo công cuộc công nghiệp hóa. Tổng quỹ tích lũy tăng bình quân trong thời kỳ ( 2001- 2005) là 11,3%/năm.
- Nâng cấp, mở rộng và làm mới các tuyến giao thông huyết mạch và trọng yếu, đảm bảo thông suốt trong cả nước. Đến cuối năm 2005, tổng chiều dài đường quốc lộ trong cả nước vào khoảng 17.300km, tổng chiều dài đường sắt khoảng 3.400km; tổng năng lực thông qua các cảng biển vào khoảng 73 triệu tấn, tồng năng lực vận tải hành khách thông qua các sân bay vào khoảng 12 triệu hành khách / năm.
- Kết cấu hạ tầng ở nông thôn có nhiều cải thiện; đến cuối năm 2005, 100% số xã có trường tiểu học; 85,1% có lớp mẫu giáo; 99,45% số xã có trạm y tế; 83% số xã có trạm văn hóa, bưu điện xã; 94,2% số xã có đường ô tô đến trung tâm; 89,7 % số xã đã có điện lưới.
1.1.3 Thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển tiềm năng của từng ngành, từng vùng, từng thành phần kinh tế.
- Năm 2005, tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP chiếm 20,89%; công nghiệp và xây dựng chiếm 41,04%; dịch vụ chiếm 38,07%.
- Ba vùng kinh tế trọng điểm bước đầu đã phát huy được tiềm năng, lợi thế của mình, nhờ đó đã tăng trưởng khá nhanh, đóng góp khoảng 63,16% GDP cả nước vào năm 2005, 70% kim ngạch xuất khẩu, 70% giá trị gia tăng công nghiệp, 73% thu ngân sách cả nước (năm 2005).
- Cơ cấu các thành phần kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng hợp lý, phát huy tiềm năng của từng thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước tiếp tục đổi mới, sắp xếp, cổ phần hóa và đa dạng các hình thức sở hữu, nhờ đó đều có hoạt động hiệu quả hơn. Kinh tế tập thể tiếp tục phát triển với nhiều hình thức đa dạng. Kinh tế cá thể, tư nhân phát triển khá, nhất là trong các lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục có bước phát triển, thực sự trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Năm 2005, kinh tế nhà nước chiêm 25,1% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp, kinh tế tập thể chiếm 0,4%, kinh tế tư nhân chiếm 22,7%, kinh tế cá thể chiếm 8,1%, khu vức có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 43,7%.
1.1.4 Thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại, tăng khả năng hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
- Mở rộng thị trường xuất khẩu ra các khu vực trên thế giới; ra nhập ASEAN, APEC, WTO.
- Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh; bình quân tăng 17,5%/năm (2001-2005). Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người vào khoảng 390 USD (2005).
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 20 tỷ USD năm (2001- 2005); nguồn ODA dành cho Việt Nam là 16,7 tỷ USD ( 2001- 2005).
1.2 Những hạn chế vẫn còn tồn tại trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế
1.2.1 Vấn đề phát triển lực lượng sản xuất.
a. Trước hết, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật ở Việt Nam còn thiếu trình độ thực tế và những bài học kinh nghiệm. Đội ngũ những công nhân, thợ lành nghề còn yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu cho một nền sản xuất lớn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Còn tình trạng thừa thầy thiếu thợ, rất nhiều những cử nhân, kỹ sư phải làm trái nghành nghề mà mình đã học, trong khi đó, những thợ lành nghề và công nhân sử dụng tốt máy móc, dây truyền hiện đại của một nền sản xuất lớn thì còn thiếu. Qua đó ta thấy được sự lãng phí không nhỏ của lực lượng sản xuất và sự mất cân đối mang tính chất tiêu cực làm tổn hại đến quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Mặc dù đã có rất nhiều những trường dạy nghề và trung học chuyên nghiệp được xây dựng nhằm đào tạo ra lực lượng sản xuất tiên tiến phục vụ cho nền kinh tế nước nhà nhưng lực lượng lao động này còn chưa đáp ứng được nhu cầu của nền sản xuất cả về số lượng và chất lượng bởi một số nguyên nhân sau đây:
- Vẫn còn tư tưởng học đại học và không chịu học các bậc học thấp hơn trong lớp trẻ nên vẫn chưa có nhiều học sinh thi vào các trường hệ dạy nghề và trung học chuyên nghiệp.
- Cơ sở vật chất cho đào tạo còn nghèo nàn, hầu hết là những trang thiết bị, máy móc có từ thời bao cấp còn qúa lạc hậu so với giai đoạn hiện nay.
- Trình độ chuyên môn của giáo viên giảng dạy còn một số vấn đề như thiếu kinh nghiệm thực tế, nặng về lý thuyết
- Nạn tiêu cực trong giáo dục còn xảy ra phổ biến.
Sự yếu kém về chất lượng của nguồn dự trữ lao động ở Việt Nam đã khiến cho các công ti đầu tư phải mất thêm thời gian và chi phí đào tạo lại. Đó chính là những trở ngại mà nước ta gặp phải trong thời kỳ qúa độ về lực lượng sản xuất, làm xấu đi hình ảnh lao động trong nước, làm cho các nhà đầu tư nước ngoài chuyển hướng đầu tư sang một số nước trong khu vực có lực lượng sản xuất phát triển hơn như: Trung Quốc, Thái Lan. Malaysia…
b. Việt Nam tiến hành công nghiệp hóa muộn nên gặp phải thế bất lợi trong cạnh tranh quốc tế, do năng suất thấp, chất lượng sản phẩm thấp, hàm lượng vốn và trí tuệ trong sản phẩm không cao, lại thường bị động trong việc tuân thủ các luật lệ kinh tế quốc tế…
- Mặt khác, mức độ suy kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên cùng với sự xuốn cấp của môi trường sống là hậu quả của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặc biệt là với nước ta - một nước đang trong giai đoạn phát triển.
1.2.2 Vấn đề xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước chưa được thực hiện theo một đề án tổng thể kết hợp giữa ngành và địa bàn mà lại được thực hiện theo đề án của từng bộ, ngành, địa phương, tổng công ti nên dẫn đến sự chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, giữa doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa phương trên cùng một địa bàn.
Phần lớn các ngành, các cấp vẫn còn tư tưởng giữ lại nhiều doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hoặc có cổ phần chi phối của Nhà nước. Trong khi hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triển; chưa giảm được tình trạng xóa nợ, giãn nợ, bù nợ….và năng lực cạnh tranh kém.
Khu vực kinh tế tiểu chủ tập trung nhiều ở nông thôn, chưa có sức sản xuất lớn và biện pháp kỹ thuật hiện đại nên giá trị kinh tế đem lại còn thấp.
1.2.3 Vấn đề mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại còn mắc phải một số hạn chế như sau:
- Hoạt động ngoại thương còn ít. Chúng ta mới chỉ xuất khẩu những sản phẩm công nghiệp nhẹ như: may mặc, da giầy, các nguyên liệu thô, sản phẩm sơ chế…vv. Nói chung, những sản phẩm này có giá trị thấp nhưng lại nhập khẩu lại những mặt hàng có giá trị cao như: máy móc, dược phẩm, sản phẩm y tế…vv. Mặt khác, các sản phẩm xuất khẩu của ta còn chưa đáp ứng được yêu cầu và chất lượng của các thị trường ngoài nên đã có những trường hợp bị trả lại.
- Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ còn phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, ví dụ như ngành du lịch: do chất lượng của cơ sở hạ tầng còn yếu kém, chưa tổ chức được nhiều tour du lịch hấp dẫn nên chúng ta vẫn chưa thu hút được nhiều khách du lịch quốc tế và thời gian khách du lịch lưu trú còn ít, các dịch vụ kèm theo trong du lịch còn thiếu nhiều nên việc thu ngoại tệ từ du lịch còn gặp nhiều khó khăn so với một số nước trong khu vực Đông Nam Á.
- Hợp tác khoa học kỹ thuật còn ít, các công ty, tập đoàn nước ngoài còn chưa muốn giúp đỡ Việt Nam phát triển khoa học kỹ thuật, họ còn rất nhiều những vướng mắc trong vấn đề thủ tục luật pháp và chi phí đầu tư cho cơ sở hạ tầng ở Việt Nam
- Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất thì các công ty Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc gia công xây dựng xí nghiệp cho nước ngoài, chưa thể sản xuất ra những mặt hàng có giá trị và hàm lượng khoa học kỹ thuật cao.
2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ kinh tế
2.1 Vấn đề phát triển lực lượng sản xuất
Cần thúc đẩy tăng cường việc đào tạo đội ngũ công nhân, thợ lành nghề cũng như đội ngũ khoa học kỹ thuật ở nước hiện nay.
Tiếp tục việc xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục mà Đảng và Nhà nước ta đã chọn lựa. Chúng ta cần đổi mới phương pháp giáo dục từ bậc học phổ thông đến đại học. Tiếp tục phổ cập giáo dục đến những bậc học cao hơn, đặc biệt là vùng núi và các dân tộc thiểu số.
Chúng ta cần đưa thêm nhiều những thiết bị giáo dục cũng như những giáo trình hiện đại, tiên tiến hoà nhập với thế giới bên ngoài. Xây thêm nhiều các trường dạy nghề trung học chuyên nghiệp và đưa vào các máy móc hiện đại phù hợp với điều kiện sản xuất hiện nay, thay thế dần cho những trang thiết bị đã cũ kĩ, lạc hậu.
Tiếp tục xây dựng mô hình các trường đại học theo tiêu chuẩn quốc tế để nâng cao dần chất lượng đào tạo bậc học này ở nước ta, tránh tình trạnh lý thuyết suông, khi ra ngoài làm việc phải đào tạo lại. Đưa thêm nhiều cán bộ khoa học kĩ thuật trong nước tar a nước ngoài học tập tiếp thu khoa học công nghệ. Có những chính sách để thu hút người tài, đặc biệt là những Việt kiều tri thức đang công tác trong các trường đại học và trung tâm khoa học của nước ngoài, hạn chế tình trạng chảy máu chất xám như hiện nay. Thực hiện tổng thể hơn nữa các biện pháp để nâng cao chất lượng lực lượng sản xuất, đáp ứng cho một nền sản xuất lớn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2.2 Vấn đề xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để phát triển đông bộ các thành phần kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, cần chú ý :
- Đẩy mạnh việc sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước một cách vững chắc theo hướng hình thành loại hình doanh nghiệp nhà nước có nhiều chủ sở hữu để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, làm tốt vai trò nòng cốt trong những ngành then chốt, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội. Tiếp tục thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo các đề án đã được chính phủ phê duyệt, bao gồm các tổng công ti lớn mà nhà nước không cần giữ 100% vốn. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trong các lĩnh vực quan trọng: bưu chính viễn thông, dần khí, điện lực, hàng không…
- Tiếp tục đổi mới kinh tế tập thể và phát triển mạnh hình thức kinh tế đa sở hữu. Tạo điều kiện phát triển các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng phù hợp với trình độ phát triển của các ngành nghề, trên các địa bàn, tiếp tục nghiên cứu xây dựng mô hình hợp tác xã kiểu mới; đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân đầu tư phát triển, không hạn chế về quy mô, ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn. Xóa bỏ triệt để mọi hình thức phân biệt đối xử, tôn vinh những người sản xuất, kinh doanh giỏi.
- Phát triển mạnh kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Triển khai thực hiện tốt Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp; giảm dần và tiến tới bãi bỏ những quy định phân biệt giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp và gián tiếp vào tất cả những ngành, những lĩnh vực mà nhà nước không cấm. Sớm áp dụng thống nhất quy định về giá phí hàng hóa dịch vụ, giá thuê đất, chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
2.3 Vấn đề mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Để thực hiện mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, cần thực hiện đồng bộ hàng loạt các giải pháp sau:
- Bảo đảm sự ổn định về môi trường chính trị, kinh tế xã hội
- Có chính sách kinh tế thích hợp đối với từng hình thức kinh tế đối ngoại. Khuyến khích mạnh mẽ sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu, tăng nhanh tỉ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, phát triển mạnh mẽ những sản phẩm hàng hóa dịch vụ có khả năng cạnh tranh, có cơ chế bảo hiểm hàng xuất khẩu, đặc biệt là nông sản. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tăng sức hấp dẫn nhất là đối với các công ty xuyên quốc gia, có chính sách thích hợp tranh thủ nguồn vốn ODA.
- Xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - kĩ thuật: mở rộng các loại hình thông tin liên lạc cả trong nước và quốc tế, tăng cường vốn đầu tư nâng cấp và phát triển nhiều loại hình giao thông vận tải.
- Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước đối với kinh tế đối ngoại: đổi mới tổ chức bộ máy, cơ chế quản lý của nhà nước để vừa đảm bảo sự thống nhất quản lý của nhà nước về kinh tế đối ngoại vừa phát huy được tính chủ động sáng tạo của các đơn vị. Mặt khác, tăng cường các thiết chế quản lý và kiên quyết chống lại hiện tượng tham nhũng, tiêu cực, gây thất thoát vốn đầu tư nhằm đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội ngày càng lớn.
- Xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác để thu lợi về vốn đầu tư và học hỏi về công nghệ, kinh ngiệm quản lý.
Kết luận
Từ những phân tích đánh giá trên cũng như thực tiễn ở Việt Nam hiện nay: để chúng ta có thể tực hiện thành công thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải xây dựng cho mình một nền tản lý luận vững chắc, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi chính sách phát triển. Ngoài ra, phải tùy thuộc vào tình hình, điều kiện kinh tế - xã hội trong nước hiện nay để có những điều chỉnh, định hướng phù hợp với xu thế của thời đại.
Cụ thể là chúng ta phải biết tiếp thu cái mới, cái tiên tiến của nhân loại, phải hội nhập cùng nền kinh tế Thế giới và khu vực; phải biết phát huy những mặt tích cực của toàn cầu hóa, đồng thời khắc phục những khó khăn, mặt trái của nó.
Một điều quan trọng nữa là đi đôi với phát triển kinh tế, nâng cao trình độ lực lượng sản xuất, chúng ta cũng phải quan tâm nhiều đến công bằng xã hội, duy trì nền văn hóa truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trương sinh thái.
Để hoàn thành đề án này, em vô cùng cảm ơn thầy giáo Trần Việt Tiến đã nhiệt tình hướng dẫn và giảng dạy.
Tài liệu tham khảo:
- Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI
- Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX
- Tổng cục thống kê
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Thứ trưởng Trần Đình Khiển: “ Thành tựu phát triển kinh tế - xã hội sau 20 năm đổi mới (1986- 2006) và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006- 2010)”
- Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin
- Tạp chí Đảng cộng sản
- www.vnep.org.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10614.doc