Đại hội Đảng VI thật sự là Đại hội Đảng của những quyết sách lớn nhằm xoay chuyển tình hình và tạo ra một bước ngoặt cho sự phát triển của đất nước ta.
Đại hội Đảng VII đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hội nghị đại biểu toan quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII đã nêu lên một hệ thống những quan điểm cơ bản về công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước.
Đại hội Đảng VIII của Đảng mở đầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước.
Đại hội Đảng IX của Đảng đã làm rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.Đặc biệt đại hội đã đưa ra mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.Đó là:Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
12 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1798 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Những nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh,thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một thời kỳ lịch sử mà:”Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,...tiến dần lên chủ nghĩa xã hội,có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại,có văn hoá và khoa học phát triển.Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa,chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ,xây dựng nền kinh tế mới,mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
(Trang 13-Hồ Chí Minh toàn tập.Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà nội tháng 10-1996).
Rõ ràng ta thấy thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội cũng phải trải qua,ngay cả với những nước có nền kinh tế rất phát triển,bởi lẽ ở các nước này,tuy lực lượng sản xuất đã phát triển cao,nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và cần xây dựng quan hệ sản xuất mới,xây dựng nền văn hoá mới.Dĩ nhiên với những nước này về khách quan có nhiều thuận lợi hơn.Đối với nước ta,một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội,bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,thì càng phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài.
Chính vì thế,chúng ta cần phải đặt ra những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ và những giải pháp để thực hiện thành công những nhiệm vụ đó.
Những nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam PHẦN NỘI DUNG
I/ Khái quát cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1/ Tính tất yếu khách quan
Như ta đã biết từ khi hoà bình lập lại năm 1954,miền bắc nước ta đã bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội với đặc điểm như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:”Đặc điểm to nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Điều đó thật sự là một tất yếu đối với lịch sử nước ta bởi lẽ:Toàn thế giới đã bước vào thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.Thực tế cho thấy chủ nghĩa tư bản là một chế độ đã lỗi thời về mặt lịch sử,sớm hay muộn cũng phải được thay thế bằng hình thái xã hội khác.Hơn nữa cách mạng Việt Nam đã phát triển theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.Tính tất yếu ấy đã xuất hiện từ những năm 20 của thế kỷ XX.Nhờ đi theo con đường ấy,nhân dân ta đã làm Cách mạng tháng Tám thành công,đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến,hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc.Ngày nay,chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ vững độc lập,tự do dân tộc,mới thực hiện được mục tiêu làm cho mọi người dân được ấm no,tự do,hạnh phúc.Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta như vậy là sự lựa chọn phù hợp với lịch sử và phù hợp với xu thế thời đại.Điều đó cũng thể hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là một tất yếu của lịch sử.
2/ Quá độ lên chủ nghĩa xã hội,bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
Ta thấy bỏ qua chế độ tư bản,về kinh tế có thể hiểu bỏ qua sự thống trị về quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.Chúng ta sẽ không để kinh tế tư bản chủ nghĩa thống trị.Còn không thể bỏ qua những vấn đề có tính quy luật của sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội.Đó là thưc hiện cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật,gắn liền với khoa học kỹ thuật và phân công lại lao động xã hội,thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế:chuyển từ cơ cấu nông-công nghiệp sang cơ cấu công-nông nghiệp và dịch vụ.Chúng ta cần đẩy mạnh việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,vận dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.Ta không thể bỏ qua được phương thức quản lý kinh tế của nền đại công nghiệp,đồng thời không thể bỏ qua kỷ luật lao động của nền đại công nghiệp(không thể bỏ qua trường đại học công nghiệp).
Xét về mặt kinh tế,việc bỏ qua tư bản chủ nghĩa chúng ta có những điều kiện và khả năng sau.Theo chủ quan,Cách mạng Việt Nam luôn có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.Đây là Đảng có tinh thần Cách mạng cao,tranh thủ được sự đồng tình của đông đảo quần chúng.Chúng ta có khối liên minh công-nông vững chắc,nhân dân ta luôn có tinh thần Cách mạng,có nguyện vọng độc lập dân tộc,luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.Theo khách quan,thế giới đã xuất hiện khu vực hoá,toàn cầu hoá,trên cơ sở phân công,hợp tác,tăng cường sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.Nó làm nảy sinh những thời cơ và khả năng cho những quốc gia kém phát triển có thể phát triển nhanh chón,trên cơ sở chính sách đối ngoại đúng đắn.Hơn nữa,tuy rằng nước ta cơ sở vật chất còn yếu kém nhưng vẫn có thể theo kinh nghiệm của các nước đi trước để thực hiện”con đường phát triển rút ngắn”,hoàn thành những nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ.
II/ Những nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam
Về kinh tế,ta phải giải quyết 4 nhiệm vụ sau:
1/ Phát triển lực lượng sản xuất và công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước
Việt nam đã bỏ qua chủ nghĩa tư bản.Nếu so sánh với các nước đã qua chủ nghĩa tư bản để tiến lên chủ nghĩa xã hội thì ta khó khăn hơn.Đó là điện khí hoá toàn quốc(theo Lenin).Cơ sở kinh tế duy nhất là đại công nghiệp cơ khí.
Sở dĩ ta phải giải quyết nhiệm vụ này vì:Công nghiệp hoá-hiện đại hoá là một quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện tất cả các hoạt động kinh tế xã hội,từ việc sử dụng sức lao động thủ công,chuyển sang sử dụng trình độ lao động với khoa học-công nghệ hiện đại,tiên tiến tạo ra năng suất lao động cao.Công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ có tính quy luật của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước có kinh tế lạc hậu,chủ nghĩa tư bản chưa phát triển.Tuy nhiên chiến lược,nội dung,hình thức,bước đi,tốc độ,biện pháp công nghiệp hoá-hiện đại hoá của mỗi nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải được xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước và từ bối cảnh quốc tế trong mỗi thời kỳ.
Công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở Việt nam có những nội dung sau:
1.1/ Đẩy mạnh cuộc Cách mạng khoa hoc-kỹ thuật nhằm phát triển lực lượng sản xuất xã hội
Chúng ta cần xác định phương hướng sự phát triển khoa học công nghệ,cần phát huy những lợi thế của đất nước,tận dụng mọi khả năng để đạt được trình độ công nghệ tiên tiến,đặc biệt là công nghệ thông tin,công nghệ sinh học,từng bước nâng cao tri thức.Chúng ta cần tạo dựng những điều kiện cần thiết cho sự phát triển khoa học công nghệ.Những điều kiện đó là:có một đội ngũ đông đảo cán bộ khoa học công nghệ và chất lượng ngày càng cao.Cần thực hiện việc đầu tư ở mức cần thiết và phải có chính sách kinh tế xã hội.
1.2/ Thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá,hợp lý và hiệu quả cao
Một cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý khi nó đáp ứng được các yêu cầu sau đây:Trong ngành kinh tế,nông nghiệp phải giảm dần về mặt tỉ trọng;công nghiệp,xây dựng,dịch vụ phát triển dần dần, song song.Phải bảo đảm cho trình độ kinh tế của nền kinh tế không ngừng tiến bộ,luôn luôn phát triển đi lên.Cho phép khai thác tối đa mọi nguồn tiềm năng của đất nước,của các ngành,các địa phương và các thành phần kinh tế.Thực hiện sự phân công và hợp tác lao động quốc tế theo xu hướng toàn cầu hoá kinh tế. Phương châm của việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế là phải kết hợp công nghệ với nhiều trình độ,tranh thủ những công nghệ mũi nhọn,lấy quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, đồng thời có tính đến những doanh nghiệp quy mô lớn,nhưng phải đảm bảo tính hợp lý và có điều kiện giữ được tốc độ tăng trưởng,ổn định và sự cân đối giữa các doanh nghiệp,các lĩnh vực và các vùng kinh tế.Cần chú ý khai thác những điểm mạnh và hạn chế tối đa những điểm yếu.
1.3/ Thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Công nghiệp hoá ở nước ta nhằm mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội.Do đó công nghiệp hoá không chỉ là phát triển lực lượng sản xuất mà còn là quá trình thiết lập,củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Trình độ xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất hiện đại tất yếu đòi hỏi phải xác lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu.Vì vậy khi cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về căn bản thì chế độ công hữu sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối.Nhưng để đạt được tới trình độ đó phải trải qua quá trình phát triển kinh tế-xã hội lâu dài,trong đó quan hệ sản xuất được cải biến dần từ thấp đến cao theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.Tiêu chuẩn căn bản để một quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là nó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất,tạo điều kiện cải thiện đời sống nhân dân và thực hiện công bằng xã hội.
2/ Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Chúng ta phải xây dựng từng bước những quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới.Nhưng việc xây dựng quan hệ sản xuất mới không thể thực hiện theo ý muốn chủ quan duy ý chí mà phải tuân theo những quy luật khách quan về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.Xuất phát từ quan điểm cho rằng bất cứ một sự cải biến nào về quan hệ sở hữu cũng đều phải là kết quả tất yếu của việc tạo ra những lực lượng sản xuất mới.Vì vậy việc xây dựng quan hệ sản xuất mới ở nước ta phải được phát triển từng bước,theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sở dĩ chúng ta phải thực hiện nhiệm vụ này vì:Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta,chế độ sở hữu tất yếu phải đa dạng,ở cơ cấu kinh tế tất yếu phải có nhiều thành phần:kinh tế Nhà nước,kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã,kinh tế tư bản Nhà nước,kinh tế cá thể và tiểu chủ,kinh tế tư bản tư nhân,kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.Đường lối phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài,có tác dụng to lớn trong việc động viên mọi nguồn lực cả bên trong lẫn bên ngoài,lấy nội lực làm chính để xây dựng kinh tế,phát triển lực lượng sản xuất.Chỉ có thể cải tạo quan hệ sở hữu hiện nay một cách dần dần,bởi không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu thuần nhất một cách nhanh chóng.Vì quan hệ sở hữu là đa dạng cho nên phải có nhiều hình thức phân phối và nhiều hình thức tổ chức quản lý hợp lý,cũng như việc xác lập địa vị làm chủ của người lao động trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân phải diễn ra từng bước,dưới nhiều hình thức và đi từ thấp đến cao.Trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mới phải thực hiện yêu cầu của quy luật:Quan hệ sản xuất phù hợp với thực hiện tính chất lực lượng sản xuất xã hội sao cho mỗi bước hình thành quan hệ sản xuất mới là một bước thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.Quá trình xây dựng quan hệ sản xuất mới phải hướng tới việc tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước và thực hiện được vị trí chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước.
3/ Mở rộng,nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại
Theo nguyên tắc bình đẳng;cùng có lợi;tôn trọng độc lập,chủ quyền,không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và củng cố định hướng xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn.Các nguyên tắc trên có mối quan hệ mật thiết với nhau,đều có tác dụng chi phối hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta.Vì vậy không được xem nhẹ nguyên tắc nào khi thiết lập,duy trì và mở rộng kinh tế đối ngoại.
Chúng ta cần thực hiện nhiệm vụ này để từng bước nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trên thị trường quốc tế,tích cực khai thác thị trường thế giới,tối ưu hoá cơ cấu xuất-nhập khẩu và tích cực tham gia hợp tác quốc tế ở khu vực lẫn thế giới theo hướng đa phương hoá-đa dạng hoá.Cần tận dụng những lợi thế do xu hướng toàn cầu hoá,khu vực hoá tạo nên.
Kinh tế đối ngoại gồm nhiều hình thức:hợp tác sản xuất(nhận gia công,xây dựng xí nghiệp chung,khu chế xuất,khu công nghệ,khu kỹ thuật cao),hợp tác khoa-học công nghệ(trong đó có hình thức đưa lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài),ngoại thương,hợp tác tín dụng quốc tế,các hoạt động dịch vụ như du lich quốc tế,giao thông vận tải,thông tin liên lạc quốc tế...
3.1/ Ngoại thương
Ngoại thương hay còn gọi là thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá,dịch vụ(hàng hoá hữu hình và vô hình) giữa các quốc gia thông qua xuất-nhập khẩu.Đối với nước ta hiện nay,để đẩy mạnh hoạt động ngoại thương cần hướng vào giải quyết các vấn đề sau:
Tăng kim ngạch xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu.Từ năm 1990 đến nay,chúng ta đã duy trì được mức độ thu nhập xuất khẩu tương đối cao,khắc phục được hậu quả của việc thị trường truyền thống giảm sút đột ngột ngay sau khi Liên xô tan rã và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ.Tuy nhiên mức xuất khẩu bình quân đầu người vẫn còn rất thấp, chưa có hoặc có rất ít mặt hàng xuất khẩu chủ lực có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường quốc tế.Nhìn chung,chất lượng hàng xuất khảu của ta còn kém khả năng cạnh tranh.Chính sách xuất khẩu trong những năm tới vẫn là tiếp tục nâng cao tốc độ kim ngạch xuất khẩu và mức xuất khẩu bình quân đầu người,tăng nhanh hàng đã qua chế biến,giảm tỉ trọng hàng xuất khẩu sơ chế.Do vậy phải gấp rút nâng cao trình độ công nghệ,hạ thấp giá thành,tiếp cận thị trường thế giới,xây dựng đồng bộ chương trình và công nghệ xuất khẩu,thực hiện nhà nước thống nhất quản lí ngoại thương,nhưng không độc quyền kinh doanh ngoại thương.Bằng cách đó,vừa tăng kim ngạch xuất khẩu,vừa tạo điều kiện ổn định thị trường tiêu thụ hàng hoá xuất khẩu.
Về nhập khẩu,chính sách mặt hàng nhập:chúng ta cần tập trung vào nguyên liệu,nhiên liệu,vật liệu,các loại thiết bị công nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá-hiện đại hoá.Coi trọng phạm vi việc xây dựng kết cấu hạ tầng,thực hiện tiết kiệm ngoại tệ,bảo vệ sản xuất trong nước,điều tiết thu nhập qua việc bán hàng cao cấp,tăng việc làm,đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chính sách thương mại tư do và chính sách bảo hộ thương mại.Chính phủ không can thiệp bằng biện pháp hành chính vào ngoại thương,cho phép hàng hoá cạnh tranh tự do trên thị trường trong nước và nước ngoài.Chính phủ thông qua biện pháp thuế quan và phi thuế quan như hạn chế về số lượng nhập khẩu,chế độ quản lý ngoại tệ,hạn chế hàng hoá nước ngoài xâm nhập.Cho nên các vấn đề đặt ra đối với nước ta là phải xử lý thoả đáng hai xu thế nói trên sao cho vừa bảo vệ,phát triển kinh tế,công nghiêp hoá-hiện đại hoá,bảo vệ thị trường trong nước,thúc đẩy tự do thương mại,khai thác hiệu quả thị trường thế giới.
Hình thành một tỉ giá hối đoái sát với sức mua của đồng Việt nam.Tỉ giá hối đoái là giá cả ngoại tệ,tỉ giá giữa hai đồng tiền của nước sở tại với đồng tiền nước ngoài.Nó là một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng trong trao đổi kinh tế quốc tế.Do đó việc xây dựng một tỉ giá hối đoái thống nhất,sát giá thị trường tiền tệ là rất cần thiết cho mỗi nước.Đây là một công việc khó khăn,đòi hỏi phải có sự nỗ lực trong quản lý kinh tế vĩ mô.
3.2/ Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất
Nhận gia công cho nước ngoài là một hình thức rất tốt,giúp tận dụng nguồn dự trữ lao động,tạo nhiều việc làm và tận dụng công suất máy móc hiện có.Hiện nay nước ta có trên 30 triệu người có khả năng lao động trong độ tuổi lao động.Dự kiến đến năm 2010 sẽ có 56,8 triệu người ở độ tuổi lao động,tăng gần 11 triệu người so với năm 2000.
Một hình thức phổ biến khác là xây dựng xí nghiệp chung với sự hùn vốn và công nghệ từ nước ngoài.Các xí nghiệp này thường được ưu tiên xây dựng ở những ngành kinh tế quốc dân hướng vào xuất khẩu hay thay thế hàng nhập khẩu.Ở nước ta hiện nay hình thức này đóng vai trò rất quan trọng.
Hợp tác sản xuất quốc tế trên cơ sở chuyên môn hoá.Nó có thể diễn ra một cách tự giác theo những hiệp định hay hợp đồng giữa các bên tham gia.Chuyên môn hoá bao gồm chuyên môn hoá những ngành khác nhau hoặc có thể chuyên môn hoá một ngành.Nó làm cơ cấu ngành kinh tế nước ta đan kết vào nhau,phụ thuộc lẫn nhau.
3.3/ Hợp tác khoa học-kỹ thuật
Đây là chính sách được thực hiện dưới nhiều hình thức như:trao đổi những tài liệu-kỹ thuật và thiết kế,mua bán giấy phép,trao đổi kinh nghiệm,chuyển giao công nghệ,phối hợp nghiên cứu khoa học-kỹ thuật,hợp tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ,công nhân.
3.4/ Đầu tư quốc tế
Đây là hình thức mà trước đây Lenin gọi là xuất khẩu tư bản.Nó là quá trình trong đó hai hay nhiều bên(có quốc tịch khác nhau) cùng góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư quốc tế nhằm mục đích sinh lợi.Có hai loại:đầu tư trực tiếp(xuất khẩu tư bản hoạt động) là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu và quyền sử dụng quản lý vốn của người đầu tư thống nhất với nhau,tức là người có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức,quản lý,điều hành dự án đầu tư,chịu trách nhiệm về kết quả,rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận.Còn đầu tư gián tiếp(xuất khẩu tư bản cho vay)là loại hình đầu tư mà quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn đầu tư,tức là người có vốn không trực tiếp tham gia vào việc tổ chức,điều hành dự án mà thu lợi dưới hình thức cho vay(nếu là vốn cho vay) hoặc lợi tức(nếu là vốn cổ phần),hoặc có thể không thu lợi trực tiếp(nếu là vốn ưu đãi).
Sự khác nhau rõ rệt giữa đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp là người đầu tư trực tiếp có quyền khống chế xí nghiệp đầu tư,còn người đầu tư gián tiếp không có quyền khống chế xí nghiệp đầu tư mà chỉ có thể thu lợi tức trái phiếu,cổ phiếu và tiền lãi.Nhưng dù là hình thức đầu tư nào,trực tiếp hay gián tiếp thì cũng cần có chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài và sử dụng nguồn vốn đó hợp lý để mang lại hiệu quả cao trong kinh tế.
3.5/ Các hình thức dich vụ thu ngoại tệ,du lịch quốc tế
Du lịch quốc tế là nhu cầu khách quan,vốn có của con người.Kinh tế càng phát triển,năng suất lao động càng cao thì nhu cầu du lịch-nhất là du lịch quốc tế càng tăng vì thu nhập của con người tăng lên,thời gian nhàn rỗi,nghỉ ngơi cũng nhiều hơn.Tuy nhiên muốn thu hút khách du lịch,ta phải chú ý những điểm sau:Cần tiếp tục nâng cấp các khách sạn hiện có để đảm bảo phục vụ du khách tốt hơn.Cần mở thêm các tours du lịch hấp dẫn.Phải có chính sách cho đầu tư du lịch mang tính tổng thể với trách nhiệm không chỉ của ngành du lịch.Phải cải cách thủ tục hành chính,tạo thuận lợi và sự hứng khởi cho khách du lịch.
Vận tải quốc tế là hình thức chuyên chở hàng hoá và hành khách giữa hai nước hoặc nhiều nước.Việt nam có vị trí địa lý quan trọng,lại co nhiều hải cảng thuận tiện cho vận tải đường biển nên có thể phát huy thế mạnh của mình thông qua việc đẩy mạnh vận tải quốc tế.
Các hoạt động thu dịch vụ ngoại tệ khác.Ngoài những hoạt động nêu trên,còn nhiều hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác như:dịch vụ thu bảo hiểm,dịch vụ thông tin bưu điện,dịch vụ kiều hối,dịch vụ ăn uống,dịch vụ tư vấn...Nhìn chung,các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ ở nước ta mới đang ở giai đoạn hình thành và phát triển bước đầu.Chúng có triển vọng to lớn trong tương lai.Tuy nhiên muốn đưa các hoạt động này thành một lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế cần phải có cái nhìn đúng đắn vai trò của chúng,cần đầu tư thoả đáng và có chính sách thích hợp tích luỹ ngoại tệ,tăng thu cho ngân sách nhà nước,giải quyết việc làm,cải thiện đời sống nhân dân...
Để thực hiện mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại cần thực hiện đồng bộ hàng loạt các giải pháp,trong đó có các giải pháp sau:
Một là:Đảm bảo sự ổn định về môi trường chính trị,kinh tế xã hội.Môi trường gồm các nhân tố cơ bản,có tính quyết định đối với hoạt động kinh tế đối ngoại,đặc biệt là thu hút vốn đầu tư nước ngoài.Nếu sự ổn định chính trị không đước đảm bảo,môi trường kinh tế không thuận lợi,thiếu các chính sách khuyến khích,môi trường xã hội sẽ không an toàn.Do đó cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, sự nỗ lực của các ngành các cấp.
Hai là có chính sách thích hợp với từng hình thức kinh tế đối ngoại.Tăng cường mở rộng và có biện pháp hữu hiệu đối với các hình thức đối ngoại khác như gia công,hợp tác khoa học-công nghệ và các dịch vụ thu ngoại tệ,có chính sách tỉ giá hợp lý.
Ba là xây dựng,phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật.Kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế nói chung.Trong đó đặc biệt là kết cấu hạ tầng kỹ thuật mà trước hết là hệ thống thông tin liên lạc,giao thông vận tải.Đối với nước ta,bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực bưu chính viễn thông thì trong lĩnh vực giao thông vận tải mặc dù đang có nhiều cố gắng song vẫn còn quá lạc hậu so với các nứoc trong khu vực,vốn đầu tư còn nhiều hạn chế.Do vậy phải đầu tư tập trung có trọng điểm,dứt điểm,có hiệu quả cao,đặc biệt phải kiên quyết chống lại các hiện tượng tiêu cực gây thất thoát vốn đầu tư.
Bốn là tăng cường vai trò quản lý Nhà nước đối với kinh tế đối ngoại.Cần đổi mới bộ máy tổ chức,cơ chế quản lý vừa đảm bảo sự thống nhất quản lý của Nhà nước về kinh tế đối ngoại,song vẫn phát huy tính chủ động sáng tạo của các đơn vị đưa lại hiệu quả kinh tế-xã hội ngày càng lớn.Trong đó vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng là:Nâng cao được năng lực của bộ máy quản lý,năng lực phẩm chât đạo đức của cán bộ công chức hoạt động kinh tế đối ngoại và có được hệ thống pháp luật ngày càng đổi mới,thủ tục hành chính gọn nhẹ,thông tin thị trường cập nhật...
Năm là xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác trong quan hệ kinh tế đối ngoại.Đối với việc xây dựng đối tác trong nước,điều quan trọng là phải từng bước xây dựng các đối tác mạnh,có tầm cỡ quốc tế có vai trò đầu tàu trong quan hệ.Đối với đối tác nước ngoài việc lựa chọn đối tác thích hợp luôn là vấn đề quan trong đối với Việt nam.Cần quan tâm tới các công ty xuyên quốc gia vì đó là nguồn quốc tế lớn về vốn,công nghệ,kinh nghiệm quản lý mà chúng ta cần khai thác.
Trên đây là năm giải pháp chủ yếu trong hệ thống các giải pháp.Mỗi giải pháp có vị trí khác nhau và sự phân định cũng chỉ có ý nghĩa tương đối.Để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp trên.
4/ Cải thiện,nâng cao đời sống nhân dân
Nhiệm vụ này liên quan trực tiếp đến nhân tố con người.Phát triển kinh tế nhằm phục vụ lợi ích của con người và do con người tiến hành.Nhân tố con người có vai trò quyết định,nâng cao và mở rộng hơn hệ thống giáo dục,đào tạo,tương xứng với sức sản xuất vật chất xã hội.Bởi lẽ”Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội,trước hết cần những con người xã hội chủ nghĩa”.Mặt khác yêu cầu định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện tốt nhiệm vụ này.Cần kết hợp chặt chẽ giữa phát triển sản xuất công nghiệp hoá-hiện đại hoá,xây dựng quan hệ sản xuất,mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với nâng cao đời sống nhân dân.
PHẦN KẾT THÚC
Đại hội Đảng VI thật sự là Đại hội Đảng của những quyết sách lớn nhằm xoay chuyển tình hình và tạo ra một bước ngoặt cho sự phát triển của đất nước ta.
Đại hội Đảng VII đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hội nghị đại biểu toan quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII đã nêu lên một hệ thống những quan điểm cơ bản về công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước.
Đại hội Đảng VIII của Đảng mở đầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước.
Đại hội Đảng IX của Đảng đã làm rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.Đặc biệt đại hội đã đưa ra mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.Đó là:Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do đó việc đặt ra những nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ và những giải pháp thực hiện chúng rất quan trọng.Đảng và Nhà nước cần phải đưa ra những chính sách hợp lý để thực hiện thành công những nhiệm vụ này.Còn chúng ta,những sinh viên,sau này sẽ là chủ nhân của đất nước,cần phải phấn đấu học tập thật tốt,để mai sau xây dựng đất nước Việt nam thêm hùng mạnh,tươi đẹp hơn!
Cuối cùng,em xin cảm ơn thầy Vũ Văn Hân,đã giúp đỡ em,để em hoàn thành bài tiểu luận này.Trong quá trình trình bày,nếu có sơ xuất,em mong thầy giúp đỡ để bài làm của em được hoàn thiện hơn.
Em xin cảm ơn thầy!
môc lôc
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35803.doc