Về tổ chức chính quyền Liên bang, Hoa Kỳ là một nhà nước được tổ chức theo chế độ cộng hoà dân chủ tư sản tổng thống dựa trên nguyên tắc “Tam quyền phân lập”. Theo đó, quyền lực chính trị được thực thi theo nguyên tắc “phân quyền và đối trọng” thông qua 3 cơ quan độc lập: Cơ quan lập pháp (Quốc hội), Cơ quan hành pháp (Tổng thống Hoa Kỳ và các văn phòng điều hành của Tổng thống), Cơ quan tư pháp ( Tối cao pháp viện). Mỗi cơ quan này thi hành quyền lực một cách độc lập trong cơ chế kiểm soát và khống chế lẫn nhau.
Đ Cơ quan lập pháp :
Điều I, khoản 1, Hiến pháp Hiến pháp năm 1787 quy định: “Mọi quyền lập pháp sẽ trao cho Quốc hội của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, gồm có một Thượng nghị viện và một Hạ nghị viện”. Thượng nghị viện (Senate) là viện đại diện cho ý chí của 50 bang hợp thành Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, gồm 100 thượng nghị sĩ, mỗi bang dù nhiều hay ít dân chỉ được cử hai đại diện tại cơ quan này. Trong khi đó, Hạ Nghị viện là viện đại diện cho ý chí của toàn Liên bang do cử tri toàn Liên bang trực tiếp bầu ra hai năm một lần, gồm 438 hạ nghị sĩ. Quyền hạn, trách nhiệm của các viện rất khác nhau xuất phát từ bản chất nêu trên của mỗi viện. Song về chức năng lập pháp, hai viện có quyền ngang nhau trong việc biểu quyết các dự luật, thông qua ngân sách và cùng đảm đương ba nhiệm vụ chủ yếu: dự thảo luật, quyết định tham gia vào các vòng đàm phán mới, và phê chuẩn các thoả thuận sau các vòng đàm phán mới.
100 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1423 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những ràng buộc pháp lý của Hoa Kỳ đối với hàng hoá nhập khẩu từ Việt Nam và yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp xuất khẩu nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó nếu nhà nhập khẩu không chắc chắn về trình độ hiểu biết của mình về thị trường, về hệ thống luật lệ của Hoa Kỳ thì chưa nên đưa hàng vào thị trường này. Chính câu nói cửa miệng của giới kinh doanh về thị trường Hoa Kỳ: “Sống bên cạnh một người Hoa Kỳ bao giờ cũng có một bác sĩ và một luật sư” đã cho thấy tính phức tạp của hệ thống luật pháp Hoa Kỳ.
Vậy nhưng, một cuộc điều tra về mức độ am hiểu về thị trường Hoa Kỳ của các doanh nghiệp Việt Nam cho thấy một thực tế hết sức đáng lo ngại, số DN có hiểu biết tường tận về thị trường Hoa Kỳ chỉ có 16,05% : Võ Thanh Thu, Chiến lược thâm nhập thị trường Hoa Kỳ, NXB Thống Kê, tháng 5/2001, trang 117.
. Đây là một khó khăn nghiêm trọng và đặt ra một yêu cầu lớn đối với các cơ quan chức năng của nhà nước, các Hiệp hội và bản thân các DN. Đó là, cần gấp rút đề ra các biện pháp khả thi để nâng cao các nhận thức cơ bản của các DN nước ta về thị trường Hoa Kỳ.
HĐTM Việt Nam-Hoa Kỳ đã khai thông con đường dẫn đến một thị trường lớn nhất với sức mua lớn nhất thế giới. Để vượt qua những trở ngại trên con đường đầy mới mẻ đó, các DN cần coi việc nghiên cứu, tìm hiểu một cách kỹ lưỡng tất cả các quy định pháp luật của Hoa Kỳ, cả ở cấp Liên bang và cấp bang, cả những quy định chung lẫn những quy định đối với từng ngành hàng cụ thể để đảm bảo đưa hàng Việt Nam vào Hoa Kỳ một cách an toàn nhất. Đây là một yêu cầu bức xúc trước mắt cũng như lâu dài đang đặt ra cho các DN Việt Nam.
2. Yêu cầu thứ hai: cần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu Việt
Hiện nay, khả năng thâm nhập thị trường Hoa Kỳ bình đẳng như các DN xuất khẩu của các nước khác trên thế giới đã trở thành hiện thực. Vấn đề chỉ còn là liệu các DN nước ta có khả năng cạnh tranh với họ hay không?
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước, năng lực cạnh tranh của các DN xuất khẩu nước ta chỉ ở mức trung bình của thế giới (theo WEF, Việt Nam đứng thứ 65 năm nay so với thứ 60 năm 2001 và 49 năm 1997) : Tạp chí Thời báo kinh tế Sài Gòn, Nam/, ngày 27/11/2002.
, nếu không muốn nói là thấp, thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
E Quy mô kinh doanh nhỏ
Phần lớn các DN Việt Nam có quy mô vốn vừa và nhỏ. Bảng 5 dưới đây cho thấy rằng chỉ có khoảng 21% DN quốc doanh và 1% DN ngoài quốc doanh (không kể DN liên doanh) có vốn trên 10 tỷ đồng.
Bảng 5: Quy mô vốn của DN Việt Nam
Số Dn có vốn dưới 1 tỷ VND (%)
Số Dn có vốn từ 1-10 tỷ VND (%)
Số Dn có vốn trên 10 tỷ VND (%)
DN quốc doanh
29
49,72
21,28
DN ngoài quốc doanh
87,2
12,8
1
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, số 39, số 50/2000
Một cuộc khảo sát khác thực hiện với 162 DN tham gia xuất khẩu ở Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố dẫn đầu cả nước về xuất khẩu, cũng cho thấy có tới 44,44% DN có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng. (Xem bảng 6)
Bảng 6: Quy mô vốn của DN tham gia xuất khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh
Quy mô vốn (đồng)
Số lượng DN
Tỷ lệ %
Trên 10 tỷ
90
55,56
Từ 5 đến 10 tỷ
30
18,52
Từ 1 đến 5 tỷ
16
9,88
Từ 500 triệu đến 1 tỷ
20
12,34
Từ 300 triệu đến 500 triệu
4
2,47
Dưới 300 triệu
2
1,23
Tổng cộng
162
100
Nguồn: Võ Thanh Thu, Chiến lược thâm nhập thị trường Hoa Kỳ, NXB Thống Kê, 2001, trang 113.
DN có quy mô vừa và nhỏ có lợi thế về tính linh hoạt, dễ quản lý, song cũng có nhiều trở ngại khi thực hiện các hợp đồng xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Thể hiện ở chỗ:
Không đủ vốn để tiếp cận những thị trường mới và phức tạp như Hoa Kỳ, bởi chi phí ban đầu mà DN phải bỏ ra sẽ rất lớn, đôi khi có thể lớn hơn cả quy mô vốn của DN.
Khó thực hiện các đơn đặt hàng lớn, bởi vốn đầu tư cho sản xuất đòi hỏi rất nhiều, do đó các DN này chỉ đủ khả năng làm gia công cho các công ty Hoa Kỳ ở một số công đoạn nhất định và ăn hoa hồng.
Đối với một số ngành hàng mà nhu cầu khách hàng không tập trung thì chi phí vận chuyển sẽ rất lớn khi kinh doanh tại thị trường khổng lồ như Hoa Kỳ.
Chi phí dành cho công tác Marketing không đủ lớn cho việc khẳng định uy tín chất lượng sản phẩm
Quy mô vốn nhỏ khiến cho các DN e ngại sử dụng dịch vụ tư vấn để tìm hiểu về thị trường Hoa Kỳ, về các công ty Hoa Kỳ cũng như hệ thống pháp luật của nước này, thậm chí ngay cả khi quyền lợi bị xâm phạm, DN Việt Nam cũng không dám sử dụng tư vấn hay luật sư do lo sợ chi phí quá lớn vượt quá khả năng của mình.
Vì thiếu vốn, các DN nhỏ thường không có khả năng tích trữ hàng, đợi thời cơ được giá thì bán, mà phải bán ngay sản phẩm để thu hồi vốn, vì thế dễ bị chẹt giá hoặc bỏ lỡ thời cơ
Những DN nhỏ thường khó tạo dựng và khẳng định mình trên thị trường lớn với những đòi hỏi khắt khe như thị trường Hoa Kỳ. Ngoài ra, họ cũng gặp khó khăn trong việc tăng vốn để mở rộng quy mô sản xuất cũng như tìm kiếm đối tác.
Đây là những trở ngại có thể nhìn thấy rất rõ ở hầu khắp các DN Việt Nam. Đến đây, một yêu cầu cấp bách đặt ra cho các DN trong nước là phải tìm cách tăng quy mô vốn của mình nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và đáp ứng tốt hơn các đòi hỏi khắt khe của thị trường Hoa Kỳ.
E Công nghệ và thiết bị lạc hậu
Nhìn chung trình độ công nghệ của các DN Việt Nam hiện thấp hơn nhiều so với các nước láng giềng ASEAN và các nước trong khu vực Châu á có hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, ấn Độ, trong đó công nghệ và thiết bị lạc hậu là nguyên nhân chính dẫn đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm thấp. Theo một cuộc điều tra, trình độ công nghệ của máy may công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh so với máy may của khối ASEAN như sau: Hiện đại hơn: 15%, ngang bằng: 75%, lạc hậu: 10%. , : Nguồn: Võ Thanh Thu, Chiến lược thâm nhập thị trường Hoa Kỳ, NXB Thống Kê, tháng 5/2001, tr. 115
Với trình độ như hiện nay, nếu các DN Việt Nam không tiến hành nâng cấp, đổi mới thì ngay trên thị trường nội địa cũng khó cạnh tranh nổi chứ không nói gì đến thị trường thế giới.
E Nguồn nhân lực có trình độ thấp
Hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam mặc dù đã được nâng cao đáng kể, song vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi của nền kinh tế mang tính cạnh tranh toàn cầu. Các DN của ta hiện nay chủ yếu thiếu các cán bộ lãnh đạo giỏi, có kinh nghiệm kinh doanh, có khả năng làm chủ công nghệ hiện đại, am hiểu về các tiêu chuẩn và pháp luật thương mại quốc tế .
3. Yêu cầu thứ ba: cần tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu
Để tăng nhanh chóng và bền vững khối lượng hàng hoá xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, các DN Việt Nam cần có những bước tiến vượt bậc về năng lực cạnh tranh của hàng hoá.
Theo một cuộc khảo sát về chất lượng hàng hoá tại 162 DN của thành phố Hồ Chí Minh, có tới 93 DN, chiếm 57,41% không đạt được tiêu chuẩn chất lượng nào : Báo cáo 7 tháng đầu năm 2002 của Thương vụ Việt Nam tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
. Con số này cho thấy chất lượng của phần lớn hàng hoá Việt Nam hiện nay không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu sang một thị trường khắt khe như thị trường Hoa Kỳ.
Sản phẩm xuất khẩu của ta sang Hoa Kỳ đa số là các sản phẩm khai thác từ tự nhiên như: nông, lâm, hải sản, khoáng sản với kim ngạch xuất khẩu hàng năm lên đến hơn 820 triệu USD (số liệu năm 2001), chiếm khoảng 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ
. Các sản phẩm này có hàm lượng công nghệ thấp, chủ yếu được xuất khẩu dưới dạng thô, ít qua chế biến, hiệu quả không cao, giá cả rất thấp lại không ổn định, dịch vụ hậu mãi kém, hoạt động xúc tiến thương mại ít ỏi. Song đây lại là những mặt hàng Hoa Kỳ có nhu cầu nhập khẩu lớn, ví dụ, hàng năm, nhu cầu nhập khẩu hàng nông sản của Hoa Kỳ vào khoảng 38 tỷ USD. Ngoài ra, một số mặt hàng khác của Việt Nam như giày dép, dệt may có kim ngạch xuất khẩu vào Hoa Kỳ cao, nhưng chủ yếu được xuất khẩu dưới hình thức gia công, vì thế giá trị gia tăng chỉ chiếm khoảng từ 20 đến 30% tổng giá trị xuất khẩu.
Tuy nhiên, theo xu hướng chung hiện nay, xuất khẩu các mặt hàng sơ chế, có giá trị thấp giảm mạnh, thay vào đó các DN bắt đầu tập trung vào các mặt hàng cao cấp, có hàm lượng công nghệ cao. Một số mặt hàng đã len chân được vào thị trường Hoa Kỳ như máy vi tính và linh kiện điện tử, phần mềm đơn giản, xe đạp và phụ tùng xe đạp, dây điện và dây cáp điệnmặc dù kim ngạch xuất khẩu không đáng kể. Năm 2001, tổng giá trị xuất khẩu của các mặt hàng trên chỉ khoảng 40.000 USD và tăng lên 400.000 USD trong 6 tháng đầu năm 2002 : Báo cáo 7 tháng đầu năm 2002 của Thương vụ Việt Nam tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
. Đây mới chỉ là những mặt hàng có trình độ công nghệ trung bình thấp và về lâu dài, kim ngạch xuất khẩu của những mặt hàng này không thể khá lên được nếu không nâng cấp và áp dụng các quy trình sản xuất với trình độ công nghệ hiện đại hơn.
Thị trường Hoa Kỳ khai thông, hứa hẹn rất nhiều cơ hội cho hàng hoá xuất khẩu của ta, nhưng để khai thác được thị trường đầy tiềm năng này là một vấn đề không hề đơn giản, vì hàng hoá của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với rất nhiều hàng hoá cùng loại có xuất xứ từ nhiều nước lớn trên thế giới, đặc biệt là các nước láng giềng ASEAN vốn có cơ cấu xuất khẩu hàng hoá tương tự như Việt Nam. Những nước này có lợi thế hơn hẳn Việt Nam do họ có ngành công nghiệp chế biến tương đối phát triển, tạo ra được nhiều sản phẩm có hàm lượng chế biến cao, chất lượng tốt, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng đa dạng của các tầng lớp dân cư.
Ngoài yếu tố chất lượng, tính cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam còn bị hạn chế bởi chi phí sản xuất cao, dẫn đến gía thành xuất khẩu cao. Do quy mô vốn nhỏ, nhiều mặt hàng của ta, hoặc không có khả năng sản xuất trên quy mô lớn để xuất khẩu, khiến cho lợi thế so sánh không được phát huy (như mặt hàng gia vị), hoặc sản xuất ra nhiều nhưng lại phân tán khiến cho việc thu mua, áp dụng công nghệ để nâng cao năng suất, hạ giá thành gặp nhiều khó khăn (như sản xuất chè, rau quả), hoặc chưa xây dựng được một hệ thống ngành hàng gắn kết với nhau để sản xuất một loại hàng xuất khẩu, dẫn đến tình trạng rẻ ở khâu này nhưng đắt ở khâu khác, chung quy lại vẫn đội giá thành lên. Thêm vào đó, chi phí đầu vào của sản phẩm như điện, nước, dịch vụ viễn thông, cước phí vận tải của Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực, nên các sản phẩm xuất khẩu của ta càng trở nên kém hấp dẫn về giá cả hơn so với hàng hoá cùng loại của các nước khác.
Không những thế, các DN Việt Nam hầu như có rất ít đội ngũ chuyên gia lành nghề hoạt động thiết kế mẫu mã sản phẩm, hoạt động R&D lại chưa được quan tâm đúng mức, do vậy Việt Nam sở hữu không nhiều các sản phẩm độc đáo và có nhãn hiệu uy tín đối với thị trường nước ngoài.
Một thực tế đáng lo ngại khác làm cho tính cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam đã kém nay lại càng kém hơn là khả năng giao hàng không chắc chắn – một điều tối kỵ khi làm ăn với người Hoa Kỳ.
Những tồn tại nêu trên thực sự là những thách thức, ảnh hưởng đến khả năng trụ vững của hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường trong và ngoài nước. Lộ trình thực hiện các cam kết mở cửa thị trường theo HĐTM đang đến gần, do đó các DN Việt Nam cần bắt tay ngay vào việc tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá mình nếu không muốn bị đẩy ra khỏi “cuộc chiến” tàn khốc sắp tới.
II. Một số kiến nghị nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang Hoa Kỳ
Trên cơ sở của ba yêu cầu cấp thiết nói trên đang đặt ra cho các doanh nghiệp, khoá luận xin đưa ra một số kiến nghị nhằm giúp các DN xuất khẩu nước ta có thể hạn chế tốt nhất những ràng buộc mang tính chất pháp lý khắt khe của Hoa Kỳ, từ đó thúc đẩy hàng hoá xuất khẩu của ta thâm nhập thành công vào thị trường Hoa Kỳ.
1. Kiến nghị đối với Nhà nước
1.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm tạo tính tương thích với các quy định bắt buộc về nhập khẩu của Hoa Kỳ và của Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
Như đã phân tích ở chương II, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã đưa ra rất nhiều quy định mang tính đặc thù và khi có hiệu lực pháp lý, Hiệp định sẽ tạo nên những điểm khác biệt với những quy định của pháp luật trong nước. Đó là những khác biệt trong chính sách thuế quan, các quy định về phí và lệ phí xuất nhập khẩu, về quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, về các biện pháp tự vệ, về giải quyết tranh chấp, về hệ thống các tiêu chuẩn kỹ thuậtTrong lộ trình thực hiện các cam kết của mình, Việt Nam sẽ phải dần khắc phục những khác biệt đó, tạo ra một môi trường pháp lý bình đẳng giữa các nhà kinh doanh Hoa Kỳ và Việt Nam. Trước mắt, Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình, đặc biệt là pháp luật về thương mại, trong đó có pháp luật điều tiết xuất nhập khẩu theo các hướng sau:
E Thứ nhất, tiếp tục rà soát lại hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng của Việt Nam nhằm loại bỏ những văn bản luật và dưới luật đã lỗi thời, đã bất cập.
Đây là công việc phức tạp, tốn kém, đòi hỏi phải có sự đầu tư của Nhà nước về kinh phí cũng như nguồn nhân lực. Cùng với vấn đề tài chính, việc phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành hữu quan cũng đóng vai trò không kém phần quan trọng. Hiện nay, Bộ tư pháp được giao chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan để rà soát, đối chiếu, so sánh các cam kết trong Hiệp định với các văn bản pháp luật hiện hành của nước ta. Tóm gọn lại, những khác biệt về pháp luật càng được giải quyết sớm ngày nào thì hệ thống pháp luật Việt Nam càng tiến gần đến những chuẩn mực pháp luật chung của Hoa Kỳ và của WTO ngày đó và đương nhiên, hàng hoá của Việt Nam càng sớm xâm nhập hơn vào thị trường Hoa Kỳ.
E Thứ hai, sửa đổi Luật thương mại Việt Nam năm 1997 theo hướng mở rộng khái niệm thương mại cho phù hợp với cách hiểu về thương mại trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, hoàn thiện Quy chế thương nhân và bổ sung các quy định về chính sách quản lý xuất khẩu rõ ràng, phù hợp với định hướng chiến lược phát triển xuất khẩu của Đảng, cũng như phù hợp với Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.
E Thứ ba, ban hành và sửa đổi các luật thuế XNK sao cho phù hợp với lịch trình cắt giảm thuế đối với hàng hoá theo quy định của HĐTM. Cần sớm đưa vào các văn bản pháp luật nội dung và các thủ tục áp dụng biện pháp định giá hải quan theo trị giá giao dịch cho thống nhất với các quy định tính thuế của Hoa Kỳ và của WTO. Mặt khác, Biểu thuế của ta chưa thể hiện được chính sách thương mại phân biệt giữa những nước được hưởng MFN và không được hưởng MFN, vậy nên chăng chỉ quy định các mức thuế suất trong Biểu thuế hiện hành là mức thuế MFN, còn mức thuế phi MFN có thể đánh cao hơn thuế MFN một tỷ lệ nhất định, chẳng hạn 200%.
E Đẩy nhanh tiến trình soạn thảo, tiến tới ban hành Luật cạnh tranh và chống độc quyền nhằm tạo sự cạnh tranh bình đẳng cho tất cả các DN Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tăng khả năng cạnh tranh của các DN nước ta trong việc xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài.
E Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) cho phù hợp với những đòi hỏi về chất lượng của Hoa Kỳ và của quốc tế. Những tiêu chuẩn này không chỉ bao gồm các chỉ tiêu về chất lượng, mà phải bao gồm cả các tiêu chí về kiểu dáng công nghiệp, nhãn mác, Chính phủ nên giao cho từng Bộ, ngành và các cơ quan quản lý chuyên ngành khác như: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ văn hoá thông tin, Bộ thuỷ sản, Bộ tài nguyên môi trường, Cục sở hữu công nghiệpđề ra các biện pháp quản lý riêng đối với các sản phẩm nhập khẩu liên quan đến ngành hàng do mình quản lý. Các biện pháp đó phải đảm bảo hàng hoá nhập khẩu phù hợp với các tiêu chuẩn về chất lượng theo tiêu chuẩn của Việt Nam, đồng thời cũng phải đảm bảo an toàn cho hàng hoá trong nước không bị chèn ép, lấn lướt của hàng ngoại nhập, nhưng cũng không nên trái với các quy định của pháp luật Hoa Kỳ.
E Ban hành hệ thống văn bản pháp luật về chống phá giá (dựa trên hệ thống luật chống phá giá của WTO) và những vấn đề có liên quan như xây dựng hệ thống kế toán thích ứng với việc tính toán chi phí sản xuất, doanh thu, lợi nhuận và phù hợp với thông lệ quốc tế, trình tự thủ tục điều tra về bán phá giá, cách xác định biên độ phá giá, xây dựng hệ thống toà án đủ sức giải quyết các khiếu kiện có liên quan đến chống bán phá giá.
1.2. Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu theo hướng hiệu quả hơn
Những ràng buộc của Hoa Kỳ đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam cũng như những cam kết trong khuôn khổ của Hiệp định có ảnh hưởng rất lớn đến cơ chế điều hành quản lý hoạt động xuất khẩu của đất nước, buộc chúng ta phải có những điều chỉnh cho phù hợp. Trước mắt, các công việc cần làm bao gồm:
E Từng bước hạn chế dần, tiến tới xoá bỏ tình trạng độc quyền trong hoạt động xuất khẩu của các DN (chủ yếu là các DN nhà nước), đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng cho tất cả các chủ thể.
E Tăng cường sử dụng các biện pháp kiểm soát nhập khẩu “hợp lệ” với Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, đặc biệt là các biện pháp phi thuế để bảo vệ các ngành sản xuất có tiềm năng xuất khẩu. Hiện nay, để điều tiết hàng hoá xuất nhập khẩu, Việt Nam đang sử dụng các biện pháp phi thuế chủ yếu như: Cấm, tạm ngừng, hạn ngạch, chỉ tiêu, giấy phép không tự động, phụ thu, và giá tính thuế tối thiểu. Các công cụ này đều là đối tượng cắt giảm và tiến tới xoá bỏ trong đàm phán thương mại quốc tế. So với thực tiễn quản lý phổ biến trên thế giới, Việt Nam chưa áp dụng các công cụ như: hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế theo mùa vụ, thuế AD và CVD. Đây là những công cụ được các tổ chức thương mại quốc tế thừa nhận và đồng thời cũng là biện pháp đáp ứng nhu cầu bảo hộ chính đáng sau khi đã bãi bỏ giấy phép mang tính hạn chế định lượng. Đầu năm 2002, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã có văn bản đồng ý cho áp dụng thí điểm hạn ngạch thuế quan đối với ba mặt hàng muối, thuốc lá và bông. Đây là biện pháp quản lý nhập khẩu lần đầu tiên được Việt Nam áp dụng để bảo hộ sản xuất trong nước.
E Tăng cường hoạt động của Quỹ hỗ trợ xuất khẩu và khuyến khích các Hiệp hội ngành hàng tự thành lập các quỹ phòng ngừa rủi ro. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu hiện nay hoạt động thiên về trợ cấp xuất khẩu, không phù hợp với Điều 10 của Luật khuyến khích đầu tư cũng như những ràng buộc pháp lý của Hoa Kỳ theo Hiệp định. Vậy nên chăng, chúng ta chuyển hướng hoạt động của Quỹ sang hỗ trợ các DN có tiềm năng xuất khẩu nhưng không có tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. Quỹ có thể đứng ra bảo lãnh các khoản vay hoặc cung cấp các khoản tín dụng xuất khẩu cho họ. Ngoài Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, các hiệp hội ngành hàng nên tự thành lập các quỹ phòng ngừa rủi ro riêng cho ngành hàng của mình, nhất là trong các ngành quan trọng, có khối lượng sản xuất lớn như ngành nông sản, ngành công nghiệp chế tạo
E Nhà nước cần có biện pháp hỗ trợ các DN có phương án đổi mới kỹ thuật, công nghệ có tính khả thi, chủ yếu là hỗ trợ về vốn và chuyên gia. Đây là những DN có tiềm năng cạnh tranh cao, song trước mắt có thể gặp một số khó khăn về vốn, về việc nghiên cứu thị trường nước ngoài, đặc biệt là thị trường xa xôi như thị trường Hoa Kỳ. Do đó, để hỗ trợ các DN xuất khẩu, Nhà nước có thể thành lập các Quỹ hỗ trợ xúc tiến việc tìm hiểu thị trường Hoa Kỳ và cử các DN có khả năng thâm nhập thị trường Hoa Kỳ đi khảo sát bằng nguồn kinh phí của Nhà nước.
E Triển khai rộng rãi Hệ thống Trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interface) trong việc làm thủ tục khai báo hải quan. Hệ thống này cho phép đơn giản hoá công việc khai báo, tiện cho việc quản lý và cung cấp thông tin nhanh chóng, dễ dàng cho giới kinh doanh cũng như cho các cơ quan quản lý Nhà nước. Hiện nay, đến 98% các loại hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ được làm thủ tục hải quan qua hệ thống này. Do đó nếu không hiểu biết về EDI và về các quy định khác có liên quan đến hình thức thông quan đầy mới mẻ này, các DN Việt Nam có thể mắc nhiều sai sót, như thế không thể giải phóng hàng ngay được.
1.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và phổ biến về đường lối, chính sách, luật lệ và các quy định về nhập khẩu của Hoa Kỳ
Như đã khẳng định ở trên, nâng cao hiểu biết về hệ thống chính sách, luật lệ quản lý nhập khẩu của Hoa Kỳ là một trong những yêu cầu cấp bách đặt ra cho giới DN nước ta trong quá trình thực thi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Tuy nhiên, với hệ thống luật lệ và quy định quá đỗi phức tạp của Hoa Kỳ, cộng với một thực tế rằng các luật lệ và quy định đó nhiều khi mang tính chất đặc thù của từng bang, các DN Việt Nam chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tự nghiên cứu, tìm hiểu, và do đó rất cần sự giúp đỡ từ phía Nhà nước. Để hỗ trợ các DN có những thông tin cần thiết nói trên, Nhà nước cần :
Tổ chức các khoá đào tạo, các lớp tập huấn hay hội thảo, hội nghị về hệ thống pháp luật thương mại của Hoa Kỳ nhằm nâng cao hiểu biết của các DN về khía cạnh pháp lý trong kinh doanh với Hoa Kỳ.
Khuyến khích các cơ quan, Bộ, ngành liên quan và các cá nhân nghiên cứu, xuất bản và lưu hành những ấn phẩm về vấn đề này, có thể dưới dạng sách, báo, tạp chí hay đĩa CD, VCD, hay lập trang Web hỗ trợ thông tin thị trường cho các DN xuất khẩu Việt Nam nhằm tạo nguồn thông tin phong phú và chính xác cho các DN tham khảo.
Hỗ trợ DN thông qua việc cung cấp một số địa chỉ tư vấn pháp luật đáng tin cậy. Các trung tâm này không những chỉ có chức năng cung cấp các thông tin về thị trường, về ngành hàng hay về hệ thống pháp luật thương mại của Hoa Kỳ, mà còn phải là nơi hội tụ nhiều luật sư giỏi, am hiểu về luật pháp thương mại Hoa Kỳ trong sự so sánh với pháp luật của Việt Nam để sẵn sàng bảo vệ quyền lợi cho các DN xuất khẩu Việt Nam khi cần.
Nâng cao vai trò của Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ
Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ là một kênh thông tin vô cùng quan trọng về thị trường Hoa Kỳ bởi Thương vụ có điều kiện tìm hiểu và tiếp cận trực tiếp với hệ thống luật lệ và hoạt động thương mại của Hoa Kỳ. Thương vụ có thể thành lập các tổ, nhóm nghiên cứu các mảng khác nhau của thị trường Hoa Kỳ. Mỗi mảng là một ngành hàng xuất khẩu hoặc có tiềm năng xuất khẩu của ta. Các tổ, nhóm này có nhiệm vụ tìm hiểu tất cả các vấn đề xung quanh ngành hàng đó như: các luật lệ, quy định, nhu cầu, thị hiếu, hệ thống phân phốivà sau đó tổng hợp với nhau để cung cấp cho các DN. Song các thông tin thu thập được không chỉ yêu cầu tính chính xác mà còn phải đảm bảo cả tính tổng hợp, liên tục và cập nhật, muốn thế chúng phải do các tổ chức chuyên nghiệp đứng ra tiến hành.
Tuyên truyền bằng nhiều kênh thông tin đại chúng, bằng nhiều hình thức về thị trường Hoa Kỳ, về pháp luật, về chính sách nhập khẩu của Hoa Kỳ. Trong đó, công cụ trang Web hỗ trợ thông tin và xúc tiến thương mại của Cục xúc tiến thương mại, VCCI, hay của Bộ Thương Mại là công cụ tuy mới nhưng rất hiệu quả. Tuy nhiên, không phải tất cả các DN xuất khẩu của ta đã tiếp cận với mạng Internet và các trang Web này. Trong trường hợp này, vai trò của các Sở, trung tâm xúc tiến thương mại, các phòng thương mại và công nghiệp, các hiệp hội ngành nghề ở các địa phương rất quan trọng trong việc phổ biến thông tin về thị trường Hoa Kỳ cho các DN ở địa phương mình.
1.4. Tích cực đàm phán để xoá bỏ vĩnh viễn Điều luật Bổ sung Jackson Vanik
Tối 23/7/2002, Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua quyết định gia hạn Điều luật Bổ sung Jackson- Vanik (Jackson- Vanik Amendment - JVA) đối với Việt Nam thêm một năm nữa. Đây là lần thứ năm liên tiếp Hạ viện Hoa Kỳ ủng hộ việc miễn áp dụng luật này. Điều đó cho thấy Hoa Kỳ đã có cái nhìn tích cực và thân thiện hơn về vấn đề di cư của Việt Nam.
Trên thực tế, Việt Nam tuân thủ rất chặt chẽ các yêu cầu về di cư của Hoa Kỳ. Song Hoa Kỳ vẫn không cấp chứng nhận đáp ứng đầy đủ JVA cho Việt Nam, mà tiếp tục dùng điều luật này để gây áp lực về mặt kinh tế đối với nước ta. Vốn là một công cụ thuần tuý mang tính chất chính trị, do đó Chính phủ Việt Nam cần thông qua con đường ngoại giao, tích cực đàm phán, thuyết phục Hoa Kỳ xoá bỏ vĩnh viễn Việt Nam ra khỏi danh sách các nước bị áp dụng JVA.
1.5. Tích cực thương lượng với Hoa Kỳ để được hưởng quy chế GSP
GSP là một chương trình ưu đãi thuế quan đặc biệt mà một số nước phát triển, trong đó có Hoa Kỳ dành cho các nước đang phát triển. Hiện nay, Việt Nam chưa được hưởng ưu đãi này từ Hoa Kỳ, nhưng việc được hưởng GSP từ Hoa Kỳ có ý nghĩa rất lớn về kinh tế đối với một nước có trình độ phát triển thấp và đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam. Để sớm gia nhập vào danh sách những nước được hưởng GSP, Chính phủ Việt Nam cần khẩn trương tổ chức các phái đoàn đại diện thương mại sang đàm phán, thương lượng với Hoa Kỳ, đồng thời chuẩn bị kỹ lưỡng các báo cáo phân tích chi tiết về tình hình kinh tế của Việt Nam, về việc đáp ứng các điều kiện kinh tế và chính trị mà Hoa Kỳ đưa ra. Đặc biệt, các thông tin về các ngành hàng, mặt hàng càng chi tiết và thuyết phục bao nhiêu thì khả năng được hưởng GSP đối với nhiều mặt hàng càng cao bấy nhiêu. Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam có thể sử dụng cả các áp lực chính trị, như kêu gọi sự ủng hộ của các nước khác thông qua các Hội nghị, diễn đàn quốc tế để vận động Hoa Kỳ cho Việt Nam hưởng GSP.
1.6. Có cơ chế kiểm soát chặt chẽ giấy chứng nhận xuất xứ hàng Việt Nam khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ
Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) là một chứng từ quan trọng trong bộ hồ sơ nhập khẩu khi làm thủ tục thông quan qua cửa khẩu hải quan của Hoa Kỳ. Trước đây, khi Việt Nam chưa được hưởng NTR của Hoa Kỳ, C/O chưa có ý nghĩa quan trọng lắm với các nhà xuất khẩu nước ta. Bởi có hay không có nó thì Việt Nam vẫn phải chịu mức thuế cao nhất trong Biểu thuế HTS của Hoa Kỳ. Song nay, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã có hiệu lực, Việt Nam được hưởng mức thuế ưu đãi NTR, thấp hơn hàng chục lần so với mức thuế phi NTR mà hàng xuất khẩu Việt Nam trước đây phải chịu. Tuy nhiên để được hưởng NTR, pháp luật Hoa Kỳ quy định rằng hàng hoá nhập khẩu từ những nước được hưởng NTR của Hoa Kỳ phải xuất trình một C/O hợp lệ. Quy định này đòi hỏi VCCI và Bộ thương mại của ta phải tuân thủ nghiêm túc những nguyên tắc xác định xuất xứ của những mặt hàng xin cấp C/O nhằm tránh trường hợp các mặt hàng có nguồn gốc không phải của Việt Nam lợi dụng xuất xứ từ Việt Nam để trục lợi.
Ngoài ra, việc cấp C/O chặt chẽ còn liên quan đến hạn ngạch nhập khẩu của một số mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Hoa Kỳ áp dụng biện pháp quản lý bằng hạn ngạch (cả hạn ngạch thuế quan và hạn ngạch tuyệt đối) đối với một số mặt hàng nhạy cảm của Hoa Kỳ. Những mặt hàng này khi nhập vào Hoa Kỳ đều phải xuất trình C/O. Nếu quản lý không chặt, xuất khẩu chưa đến hạn ngạch đã phải đình lại. Lý do chủ yếu là hàng hoá của các nước khác khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ lại ghi “nhầm” xuất xứ từ Việt Nam. Điều đó giải thích tại sao luôn có sự chênh lệch giữa số liệu do phía Hoa Kỳ và Việt Nam cung cấp về kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều giữa hai nước. Tình trạng này cần phải có giải pháp khắc phục ngay khi Hiệp định có hiệu lực và đặc biệt sau khi Việt Nam ký kết Hiệp định song phương về dệt may với Hoa Kỳ.
Đối với một số hàng thực phẩm (như hải sản), Hoa Kỳ dành cho một số nước được miễn một số thủ tục kiểm tra chất lượng nhất định khi nhập vào Hoa Kỳ. Đó thường là những nước có yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm ở trong nước và những sản phẩm mà Hoa Kỳ miễn kiểm tra đều đã được Hoa Kỳ trực tiếp kiểm tra tại nước được miễn và cấp chứng nhận chất lượng theo các tiêu chuẩn của Hoa Kỳ. Những nước được hưởng ưu ái này phải chứng minh rõ hàng hoá có xuất xứ từ nước mình và phải có biện pháp quản lý gắt gao, không được để nước khác lợi dụng xuất khẩu hàng hoá kém phẩm chất vào Hoa Kỳ, làm ảnh hưởng đến uy tín của mình.
Tóm lại, Nhà nước và các cơ quan có liên quan cần:
+ Kiểm tra hàng hoá cẩn thận trước khi cấp C/O.
+ Hàng hoá đã được cấp C/O thì phải được xuất khẩu và Nhà nước cần kiểm soát chặt chẽ việc xuất khẩu này.
+ Nếu sau một thời hạn quy định, DN vẫn chưa xuất khẩu được hàng, Nhà nước cần thu hồi C/O đã cấp, tránh trường hợp doanh nghiệp không xuất khẩu nhưng lại bán C/O cho người khác.
+ Phối hợp với Hải quan Hoa Kỳ, cũng như Hải quan của các nước khác trong việc kiểm soát lượng hàng nhập khẩu vào nước mình có xuất xứ từ Việt Nam.
2. Kiến nghị đối với doanh nghiệp
Như đã phân tích ở trên, Hoa Kỳ đặt ra rất nhiều các quy định mang tính chất ràng buộc pháp lý đối với hàng hoá của Việt Nam. Ngoài những quy định chung như áp dụng với tất cả các nước khác (đã giới thiệu ở Phần II, Chương I), Việt Nam còn phải tuân theo rất nhiều quy định khác áp dụng riêng cho hàng hoá của Việt Nam. Đây thực sự là những ràng buộc pháp lý của Hoa Kỳ mà các DN xuất khẩu của ta phải nắm rõ và thực hiện trong quá trình thực thi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, bởi lẽ những quy định này tác động trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của DN. Để góp phần hạn chế tối đa những ràng buộc pháp lý của Hoa Kỳ đối với hàng hoá của Việt Nam, khoá luận xin đưa ra một số kiến nghị sau đối với DN.
2.1. DN cần chủ động hơn trong việc tìm hiểu các quy định quản lý nhập khẩu của Hoa Kỳ từ mọi nguồn thông tin
Có thể nói đây là yêu cầu cực kỳ quan trọng đối với bất kỳ DN nào muốn xuất khẩu thành công sang Hoa Kỳ. Khoảng một vài năm trở về trước, khi thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Hoa Kỳ còn chưa sôi động như hiện nay, các thông tin về thị trường Hoa Kỳ quả thật hiếm hoi. Bản thân Nhà nước cũng như DN chưa chú trọng đầu tư, tìm hiểu một cách hệ thống và quy mô do gặp nhiều hạn chế về tài chính, về quan hệ chính trị và về bản thân những ràng buộc quá khắt khe của Hoa Kỳ.
Nay HĐTM đã khai thông một thị trường thông thoáng và với nhiều ưu đãi hơn. Nguồn thông tin về thị trường và về hệ thống luật lệ quản lý nhập khẩu của Hoa Kỳ cũng phong phú hơn, dễ tiếp cận hơn nhiều so với trước đây. DN có thể tìm hiểu thông qua các ấn phẩm, các công trình nghiên cứu của các Viện nghiên cứu, Trung tâm, các trường đại học, trên Internet, qua các cuộc hội thảo, khoá học, Bộ thương mại, Bộ ngoại giao, Ban quan hệ quốc tế của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Cục xúc tiến đầu tư, Thương vụ Việt Nam tại Washington, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam, Đại sứ quán và Tổng lãnh sự Việt Nam tại Hoa Kỳ, các nhà môi giới hải quan của Hoa Kỳ, các công ty vận tải, các cơ quan đăng kiểm xuất khẩu Hoa Kỳ, các đoàn thể ngành nghề và thương mại Hoa Kỳ, Việt kiều sinh sống tại Hoa Kỳ, thậm chí một thương gia nước ngoài từ Hoa Kỳ đến Các nguồn thông tin nói trên vừa dồi dào lại không tốn kém để có chúng, có chăng chỉ là chi phí giao dịch. DN nên tận dụng triệt để nguồn thông tin này nhằm phục vụ cho kế hoạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ của mình. Ngoài ra, DN nên dành một phần chi phí để cử cán bộ sang Hoa Kỳ thực tế, nghiên cứu, khảo sát tìm kiếm cơ hội. Không còn gì hơn là được “mắt thấy tai nghe”, được tiếp xúc với các cơ hội kinh doanh, khi đó kế hoạch sản xuất và xuất khẩu sẽ chắc chắn thành công hơn.
Hiện nay, rất nhiều DN Việt Nam đã bắt đầu quen với một nguồn thông tin mới, chính xác và hiệu quả hơn về hệ thống luật lệ quản lý nhập khẩu của Hoa Kỳ, đó là thông qua dịch vụ tư vấn. Nói chung sử dụng dịch vụ tư vấn của các công ty chuyên nghiệp tại Hoa Kỳ là tốt nhất, bởi họ không những am hiểu tường tận về mọi ngõ ngách của luật pháp thương mại Hoa Kỳ, mà họ còn cập nhật được liên tục những thay đổi của pháp luật Hoa Kỳ. Tuy nhiên, chi phí tư vấn của các công ty Hoa Kỳ khá cao so với khả năng tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, với điều kiện như vậy, các DN có thể sử dụng dịch vụ tư vấn của các công ty Việt Nam, nhưng có điều là nhà tư vấn càng ở xa thị trường thì độ chính xác càng khiếm khuyết. Vậy theo chúng tôi, đối với các thông tin khó kiếm như các quy định riêng về một ngành hàng cụ thể, quy định riêng của các bang mà DN định xuất hàng sang, các quy định mang tính tập quán hay “lệ” riêng của từng vùng, từng bang thì doanh nghiệp có thể tìm đến các nhà tư vấn Hoa Kỳ. Nếu DN gặp khó khăn về tài chính, DN có thể kết hợp với các DN trong hiệp hội ngành hàng, hay với các Bộ, ngành để cùng đầu tư và cùng chia sẻ thông tin. Song đối với các thông tin mang tính chất tổng hợp, không cần cập nhật thường xuyên, các DN chỉ cần đến với các công ty tư vấn trong nước, không tốn kém lắm nhưng vẫn có thể có tất cả các thông tin mà mình cần.
2.2. Tích cực, chủ động nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp
Như đã phân tích ở trên, nâng cao khả năng cạnh tranh là một trong những yêu cầu cấp bách đặt ra cho các DN xuất khẩu Việt Nam hiện nay, đặc biệt sau khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết. Để thực hiện được yêu cầu đó, bản thân các DN của ta cần phải nhận thức được rằng: chưa bao giờ DN Việt Nam có cơ hội như sau khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực. Do đó, các DN Việt Nam phải, ngay lập tức, chuẩn bị cho mình một loạt các điều kiện cần thiết để có thể thâm nhập và cạnh tranh với các nước khác trên thị trường Hoa Kỳ. Trước hết, các DN cần phải:
u Nâng cao trình độ kinh doanh, trình độ quản lý DN.
Hiện nay, mối lo ngại lớn nhất về nguồn nhân lực tại các DN Việt Nam là thiếu trầm trọng các nhà quản lý có kinh nghiệm kinh doanh, am hiểu về luật pháp và có trình độ ngoại ngữ giỏi. Rất nhiều DN trong nước chưa từng va chạm hoặc làm ăn với các DN Hoa Kỳ, hoặc kể cả những DN đã từng kinh doanh với DN Hoa Kỳ cũng thấy vấp váp, lúng túng do họ chưa thể lường hết được những quy định hết sức ngặt nghèo và thường xuyên thay đổi của Hoa Kỳ.
Do đó, để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, bản thân mỗi DN Việt Nam cần nhận thức được tầm quan trọng của việc đào tạo nguồn nhân lực cho chính bản thân mình, không chỉ đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ ngoại thương, về khả năng ngoại ngữ (Tiếng Anh) mà còn cả trình độ hiểu biết pháp luật để có thể nhạy bén hơn trong kinh doanh và có thể bảo vệ DN khi có tranh chấp xảy ra. Đây là vấn đề đã được nhấn mạnh trong phần tranh chấp thương mại, Điều 7, Chương I của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.
v Tiến hành khảo sát thị trường Hoa Kỳ dưới nhiều góc độ, bằng nhiều phương pháp để xây dựng chiến lược sản xuất và/hoặc chiến lược xuất khẩu. Chiến lược xuất khẩu của DN có thể là chiến lược trước mắt, chiến lược ngắn hạn, chiến lược trung và dài hạn. Chiến lược đó phải dựa trên cơ sở đã nghiên cứu, tìm hiểu cẩn thận mặt hàng có khả năng chiếm lĩnh thị trường Hoa Kỳ, nắm rõ về đối tác, và phải có chính sách xây dựng nguồn hàng ổn định và đủ lớn để đáp ứng được nhu cầu của các khách hàng Hoa Kỳ.
w Trước mắt, do tiềm lực của các DN nước ta còn hạn chế, chúng ta có thể xây dựng “thị trường ngách”, cố tạo được uy tín trên thị trường này, sau đó từng bước chiếm lĩnh phần thị trường lớn hơn.
x Từng bước chuyển việc xuất khẩu gián tiếp qua một nước thứ ba hoặc gia công xuất khẩu cho các Công ty của Hoa Kỳ sang hình thức xuất khẩu trực tiếp cho phù hợp với thông lệ buôn bán của thị trường Hoa Kỳ. Các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ có thói quen mua hàng theo điều kiện FOB, tức mua thẳng hàng thành phẩm, như vậy DN xuất khẩu phải đảm nhiệm từ công đoạn tổ chức nguồn nguyên liệu, sản xuất, cho tới khâu bao bì, đóng gói, giao cho khách hàng. Chỉ có thông qua xuất khẩu trực tiếp, hình ảnh về sản phẩm và DN Việt Nam mới được khẳng định vững chắc trên thị trường Hoa Kỳ.
2.3. Khẩn trương cải thiện năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam
Phần I của Chương này đã chỉ rõ một trong những khó khăn trong quá trình xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ của các DN kinh doanh xuất khẩu Việt Nam là năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam còn rất thấp. Để cải thiện tình trạng này, các DN cần phải giải quyết một số vấn đề sau:
u Về vấn đề chất lượng, khoá luận xin đưa ra một số kiến nghị sau:
P Nâng cao hàm lượng công nghệ cho sản phẩm xuất khẩu bằng hai con đường: hoặc DN tự bỏ vốn đổi mới dây chuyền sản xuất theo công nghệ tiên tiến đang thịnh hành, hoặc DN có thể thông qua các dự án đầu tư theo vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hay vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) vào việc sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt những ngành sản xuất sử dụng công nghệ cao nhằm tạo ra những hàng hoá xuất khẩu có chất lượng tốt, đồng đều và có sức cạnh tranh trên thị trường.
P áp dụng các phương pháp quản lý chặt chẽ từ quản lý DN, quản lý quy trình sản xuất, điều kiện sản xuất, cho đến chất lượng sản phẩm theo các bộ tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9000, ISO 14000, SA 8000Trong đó, DN cần quan tâm đến Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 - Bộ tiêu chuẩn khá toàn diện điều chỉnh công tác quản lý các vấn đề liên quan đến môi trường trong một công ty. Ngoài ra, các DN Việt Nam cũng cần phải chú trọng đáp ứng các yêu cầu riêng của Hoa Kỳ về hệ thống HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point – Phân tích nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu). Hệ thống HACCP được ban hành tháng 12/1995 và được đưa vào áp dụng bắt buộc đối với thuỷ sản của Hoa Kỳ và thủy sản nhập khẩu từ nước ngoài từ tháng 12/1997. Hiện nay, FDA đang được Bộ nông nghiệp Hoa Kỳ giao cho giám sát việc thi hành Hệ thống này cho nhiều sản phẩm thực phẩm (như nước hoa quả, thịt, gia cầm). Muốn xây dựng HACCP theo “kiểu Hoa Kỳ”, các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ phải đảm bảo đầy đủ các điều kiện sản xuất bao gồm nhà xưởng, kho tàng, dây chuyền sản xuất, môi trường sản xuất, máy móc thiết bị và cả con người theo các quy chuẩn cơ bản của Quy phạm sản xuất tiêu chuẩn (GMP), Quy phạm vệ sinh (SSOP) và các quy định khác của các cơ quan kiểm soát chất lượng Hoa Kỳ đối với những mặt hàng mà mình tham gia kinh doanh. Điều này có nghĩa là, Việt Nam sẽ phải tiến hành cải tiến một cách toàn diện toàn bộ hoạt động sản xuất của mình và cần coi việc thực hiện các yêu cầu trên là một trong những điều kiện sống còn để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.
v Về mẫu mã, chủng loại, nhãn mác và bao bì sản phẩm
Đi đôi với chất lượng sản phẩm, các DN còn cần phát huy khả năng sáng tạo của mình, đa dạng hoá các mẫu mã và chủng loại sản phẩm cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, thị hiếu và nhu cầu của khách hàng Hoa Kỳ. Để thực hiện yêu cầu này, DN phải khẩn trương đào tạo và xây dựng một đội ngũ chuyên gia lành nghề về lĩnh thiết kế mẫu mã sản phẩm, gửi họ đi đào tạo, nghiên cứu và học hỏi ở thị trường Hoa Kỳ, lúc đó các sản phẩm làm ra sẽ có tiềm năng xuất khẩu hơn.
Ngoài ra, các DN cũng cần chú ý đến những quy định ngặt nghèo về nhãn mác sản phẩm của Hoa Kỳ, về cách đóng gói và quy chế ghi nhãn hàng hoá nhập khẩu của Uỷ ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (FTC) và Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm (FDA) của Hoa Kỳ, về những điều cấm kỵ và quy định riêng của từng bang đối với các sản phẩm của Việt Nam. Để thực hiện tốt các quy định về ghi nhãn của Hoa Kỳ, trước mắt, các DN Việt Nam cần thực hiện nghiêm chỉnh Quy chế ghi nhãn hàng hoá ban hành kèm theo Quyết định số 178/1999/QĐ-TTg ngày 30/8/1999 và Quyết định số 95/2000/QĐ-TTg ngày 15/8/2000 của Thủ tướng Chính phủ. Bởi quy chế này của Việt Nam được xây dựng dựa trên kinh nghiệm quốc tế, trong đó có kinh nghiệm từ Hoa Kỳ.
w Về giá cả, để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh về giá cả của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ, các DN cần tận dụng tối đa các nguyên phụ liệu sản xuất trong nước nhằm hạn chế chi phí đến mức thấp nhất có thể.
x Về cơ cấu xuất khẩu, các DN nên giảm xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến ngày càng sâu và tinh trong cơ cấu hàng xuất khẩu nhằm làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá, đồng thời làm tăng giá trị gia tăng hàng xuất khẩu và đẩy nhanh kim ngạch xuất khẩu.
2.4. Cần đặc biệt quan tâm đến đăng ký sở hữu công nghiệp tại Hoa Kỳ cho các sản phẩm, hàng hoá của mình.
Thị trường Hoa Kỳ là thị trường gần như đạt đến chuẩn mực quốc tế về mọi vấn đề, trong đó có vấn đề về bảo hộ thương hiệu, bảo vệ bản quyền, hay nói chung là bảo hộ sở hữu trí tuệ. Đây cũng là một trong những ràng buộc pháp lý của Hoa Kỳ đối với Việt Nam trong quá trình thực thi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện hết sức nghiêm túc. Hoa Kỳ sẵn sàng áp dụng những biện pháp “trừng phạt”, như ngừng cho hưởng NTR, GSPđối với những nước vi phạm luật sở hữu trí tuệ của Hoa Kỳ và đưa ngay những nước này vào danh sách các nước “bị theo dõi” theo Điều Siêu 301, Luật thương mại Hoa Kỳ. Vì vậy, các DN Việt Nam cần tìm hiểu kỹ lưỡng vấn đề đăng ký quyền sở hữu trí tuệ tại Hoa Kỳ trước khi xuất khẩu sang thị trường này.
Theo quy định của luật về sở hữu công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá và kiểu dáng công nghiệp chỉ trở thành tài sản thực sự của DN (nhà sản xuất) khi DN xác lập được độc quyền Sở hữu công nghiệp đối với sản phẩm đó. Nếu chậm đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ ở thị trường nước ngoài, đặc biệt tại thị trường Hoa Kỳ, DN đó thể bị một DN đối tác cướp mất thương hiệu. Khi đó, DN không thể xuất khẩu dưới những thương hiệu đã đăng ký bảo hộ, bởi những sản phẩm đó bị coi là bất hợp pháp trên thị trường Hoa Kỳ. Do đó, các DN nên nghĩ đến bảo hộ thương hiệu của mình ngay khi có ý định xâm nhập thị trường Hoa Kỳ, hãy đến đăng ký nhãn hiệu tại USPTO theo thủ tục như đã giới thiệu ở trên, tránh trường hợp bị đối tác Hoa Kỳ nhanh tay qua mặt.
Đồng thời, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ cũng nêu ra một số Công ước mà hai bên tối thiểu phải thực hiện để bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ một cách đầy đủ và hiệu quả, trong đó có Công ước Paris 1967 về bảo hộ sở hữu công nghiệp, bảo hộ thương hiệu. Việt Nam và Hoa Kỳ đều đã tham gia Công ước Paris, vì vậy những nội dung trong Công ước này được mặc nhiên coi là những quy định mà hai bên phải tuân thủ. Điều 1 của Công ước về quyền sở hữu công nghiệp quy định “Nếu DN đã đăng ký (nếu không sử dụng thủ đoạn lừa đảo để có được) thì trong vòng 5 năm, DN sở hữu thương hiệu nổi tiếng có quyền đệ đơn yêu cầu huỷ bỏ nhãn hiệu giống hoặc tương tự. Nếu DN dùng thủ đoạn lừa đảo để được đăng ký thương hiệu nổi tiếng thì DN sở hữu thương hiệu nổi tiếng không bị hạn chế về thời gian để được huỷ bỏ thương hiệu nổi tiếng”. Chính nhờ quy định này mà Việt Nam đã giành lại được thương hiệu cà phê Trung Nguyên, Vifon, khỏi tay các gian thương Hoa Kỳ.
2.5. Xây dựng các mối quan hệ tốt với khách hàng, các đại lý, các nhà phân phối, các môi giới hải quan, các hãng vận tải chuyên nghiệp, và các ngân hàng tại Hoa Kỳ
Một trong những vấn đề gây khó khăn nhất cho các nhà xuất khẩu Việt Nam khi tiếp cận và kinh doanh trên thị trường Hoa Kỳ là thiếu thông tin về ngành hàng mà mình định xuất khẩu, đặc biệt là thông tin về các quy định quản lý của Chính phủ liên quan nhập khẩu mặt hàng đó. Chịu trách nhiệm thi hành các quy định của Chính phủ bao gồm nhiều cơ quan khác nhau với chức năng và nhiệm vụ khác nhau như: Cơ quan Hải quan, Bộ thương mại Hoa Kỳ, Hội đồng thương mại Liên bang, các cơ quan quản lý chuyên ngành (USDA, FDA), các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng (như Uỷ ban an toàn tiêu dùng, Cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Kỳ.v.v). Tuy nhiên, sẽ rất phức tạp và tốn kém nếu các nhà xuất khẩu Việt Nam muốn tìm hiểu thông tin trực tiếp qua các cơ quan này. Và đôi khi các thông tin mà DN có được không thiết thực, không tổng hợp và DN phải qua nhiều cầu khác nhau mới có được thông tin mà mình cần. Vì thế, những nhà xuất khẩu thành công sang thị trường Hoa Kỳ thường khuyên rằng nên có quan hệ tốt với các cơ quan hoặc các cá nhân có quan hệ trực tiếp với mình.
Trước hết và quan trọng nhất chính là nhà nhập khẩu (hoặc các nhà phân phối). Nhà nhập khẩu có trụ sở tại Hoa Kỳ, nên có điều kiện tìm hiểu tất cả các quy định lớn nhỏ xung quanh đơn đặt hàng của mình. Nếu có quan hệ tốt với nhà nhập khẩu, nhà nhập khẩu sẽ tư vấn cho nhà xuất khẩu nhiều thông tin hữu ích liên quan đến hoạt động xuất khẩu, kể từ cách thức làm thủ tục hải quan, cách lập bộ hồ sơ hải quan, phương thức thuê tàu, cách thức làm việc với các cơ quan khác như FDA (nếu là hàng dược, thực phẩm) hay USDA (nếu là hàng nông sản và động vật, gia súc), thậm chí nhà nhập khẩu có thể giúp nhà xuất khẩu tiến hành tất cả các thủ tục trên nếu cần với chi phí do người xuất khẩu chịu. Trong trường hợp có gì thay đổi hoặc có tranh chấp xảy ra, nhà nhập khẩu cũng có thể trợ giúp nhà xuất khẩu thông báo hoặc xúc tiến các thủ tục cần thiết để giành lại quyền lợi cho mình.
Ngoài nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu cũng cần xây dựng quan hệ tốt với các cơ quan hải quan, các đại lý hoặc môi giới hải quan, các hãng vận tải chuyên nghiệp, các ngân hàng, và các hãng bảo hiểm có uy tín .v.v... Bên cạnh những lợi ích thu được từ bản thân những dịch vụ do các tổ chức đó cung cấp, đây còn những nguồn thông tin tư vấn quan trọng giúp DN hạn chế được rất nhiều rủi ro hay thiệt hại về tài chính, qua đó đảm bảo cho DN có thể thực hiện được một thương vụ suôn sẻ và an toàn nhất.
2.6. Chủ động làm quen và tiếp thu công nghệ mạng Internet vào hoạt động kinh doanh, thương mại
Công nghệ mạng Internet tuy mới xuất hiện nhưng đã chứng tỏ những ưu việt của nó trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Tại Hoa Kỳ, giao dịch, mua bán trên mạng đã trở thành một tập quán kinh doanh. Mỗi công ty lớn hay bé đều có các trang Web riêng để giới thiệu, giao dịch với bạn hàng và khách hàng của mình. Nhờ đó, các DN xuất khẩu có thể giảm được chi phí quảng cáo, chi phí vận chuyển, và các loại chi phí giao dịch khác.v.vĐây là một đặc điểm mà các DN xuất khẩu Việt Nam cần nắm rõ và học hỏi khi kinh doanh trên thị trường Hoa Kỳ.
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam, dịch vụ Internet phát triển với tốc độ chóng mặt và đang được các DN hết sức quan tâm, vận dụng. Song một phần là do chi phí Internet khá cao so với các nước khác, một phần cũng còn do tính phức tạp, khó quản lý, khó bảo mật nên các DN của ta còn ngần ngại áp dụng chúng trong kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh xuất khẩu. Tuy nhiên, với nhưng tiện ích kinh ngạc của phương thức kinh doanh hiện đại này, các DN Việt Nam cần nhanh chóng chuẩn bị mọi mặt chu đáo hơn, về vốn, về ngoại ngữ, về khả năng tiếp cận và sử dụng công nghệ thông tin để sẵn sàng hội nhập khi có thể, coi đây như phương tiện đẩy mạnh xuất khẩu của ta sang Hoa Kỳ.
2.7. Mua bảo hiểm rủi ro xuất khẩu sang Hoa Kỳ
Kinh doanh trên thị trường Hoa Kỳ tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Song có hai rủi ro thường trực nhất mà nhà xuất khẩu Việt Nam luôn phải đề phòng, đó là rủi ro thanh toán đến từ nhà nhập khẩu và rủi ro kiện tụng của người tiêu dùng.
Do điều kiện địa lý xa xôi giữa hai nước, và trên thực tế, nhiều khi, DN hai bên chỉ gặp gỡ nhau tại Việt Nam hay một địa điểm nào đó ở nước ngoài (như Hội chợ triển lãm, đi theo các đoàn ngoại giao), nên nhà xuất khẩu khó có thể tìm hiểu kỹ lưỡng về tình hình tài chính, thực lực, cũng như khả năng thanh toán của bạn hàng Hoa Kỳ. Trong hoàn cảnh này, rủi ro trong thanh toán sẽ rất cao. Để hạn chế rủi ro, DN nên tham gia dịch vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Công ty bảo hiểm sẽ thông báo thường xuyên cho DN biết về hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính, uy tín trên thương trường của các nhà nhập khẩu. Trong trường hợp nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán, công ty bảo hiểm sẽ đứng ra gánh vác một phần rủi ro cho nhà xuất khẩu trong phạm vi giá trị hợp đồng mà họ nhận bảo hiểm cho DN.
Một loại rủi ro khác có thể khiến bất kỳ nhà xuất khẩu Việt Nam nào điêu đứng đó là khả năng kiện tụng cao của người tiêu dùng Hoa Kỳ. Khi kinh doanh trên thị trường Hoa Kỳ, nhà xuất khẩu Việt Nam luôn đứng trước nguy cơ phải bồi thường trong những vụ kiện về trách nhiệm sản phẩm đối với người tiêu dùng. Nếu không bồi thường theo phán quyết của toà án, tài sản của DN Việt Nam có ở Hoa Kỳ có thể sẽ bị tịch biên, thậm chí tài sản của Việt Nam ở một nước thứ ba cũng có thể bị tịch biên theo thoả thuận mà toà án Hoa Kỳ nhờ nước kia trợ giúp. Để tránh phiền phức và đỡ tốn kém, nhà xuất khẩu nên mua bảo hiểm rủi ro khi xuất hàng sang Hoa Kỳ tại những công ty bảo hiểm quốc tế lớn, có uy tín chuyên cung cấp loại hình bảo hiểm này.
Như vậy, mua bảo hiểm là một biện pháp đúng đắn để hạn chế rủi ro, từ đó đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ.
kết luận
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực ngày 10/12/2001 đã mở ra một cơ hội to lớn cho các DN Việt Nam tiếp cận một trong những thị trường lớn nhất, có nhu cầu phong phú và đa dạng nhất và “mở” nhất thế giới. Song Hiệp định cũng tạo ra rất nhiều ràng buộc đối với hệ thống luật pháp về thương mại của Việt Nam dưới dạng những cam kết mà Việt Nam phải thực hiện để hàng hoá và các DN Việt Nam có thể được hưởng các quy chế thương mại bình đẳng như các nước khác khi xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ.
Những ràng buộc của Hoa Kỳ đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam không chỉ liên quan đến hệ thống luật pháp kinh tế, mà còn liên quan đến cả những chính sách chính trị, môi trường. Với tiềm lực và vị thế của Việt Nam như hiện nay, nhiều quy định có tính chất ràng buộc pháp lý của Hoa Kỳ tương đối mới và quá khắt khe đối với hàng hoá của Việt Nam, điển hình là những ràng buộc liên quan đến hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật đối với sản phẩm nhập khẩu, hay yêu cầu về bảo hộ sở hữu trí tuệ. Nhưng không vì những quy định đó mà làm ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ.
Do đó để hạn chế những ràng buộc nói trên nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Hoa Kỳ, cả Nhà nước và DN đều phải tích cực nâng cao ý thức pháp luật của mình, chủ động khắc phục tình trạng thiếu thông tin nghiêm trọng về hệ thống luật lệ quản lý nhập khẩu Hoa Kỳ, về thị trường và các ngành hàng của Hoa Kỳ, từng bước điều chỉnh các quy định pháp luật của ta cho tương thích với các ràng buộc pháp lý trong Hiệp định. Ngoài ra, khoá luận cũng nêu ra các yêu cầu cho giới DN Việt Nam, bên cạnh việc chủ động tìm hiểu các luật lệ, quy định quản lý nhập khẩu liên quan đến ngành hàng xuất khẩu của mình, DN cũng cần áp dụng mọi biện pháp có thể nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của DN và hàng hoá, chẳng hạn áp dụng các bộ tiêu chuẩn kiểm soát chất lượng quốc tế: ISO, HACCP, SA.8000, ứng dụng công nghệ mạng Internet trong kinh doanh, Khoá luận cũng đề xuất một số kiến nghị như xây dựng quan hệ tốt với nhà nhập khẩu, cơ quan hải quan, đại lý vận chuyển, bảo hiểm và ngân hàng, các nhà tư vấn, các hiệp hội ngành hàng, các thương vụ và văn phòng đại diện của ta ở Hoa Kỳ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá của Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ và hạn chế mọi rủi ro xảy ra cho hàng hoá và DN xuất khẩu.
Tóm lại, những ràng buộc pháp lý của Hoa Kỳ đối với hàng hoá xuất khẩu của ta quả thật là một thách thức đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, song nếu vượt qua được thách thức đó, hàng hoá của ta chắc chắn sẽ có một vị thế cao đáng kể trên thị trường Hoa Kỳ nói riêng và trên thị trường quốc tế nói chung.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NOI DUNG DAY DU.doc