Đề tài Những vấn đề lý luận chung về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước

Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một quá trình vô cùng khó khăn phức tạp vì nó đụng chạm đến nhiều vấn đề nhạy cảm, hơn nữa lại không có con đường chung nào cho tất cả các nước tiến hành CPH doanh nghiệp nhà nước. Những thành công và những bài học kinh nghiệm quý giá mà chúng ta thu được đã khẳng định CPh là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước.

doc28 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1375 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những vấn đề lý luận chung về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Đại hội VI (năm 1986), tiếp đó là các Đại hội VII và VIII của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới sâu sắc và toàn diện đất nước, trong đó đổi mới về kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm và đổi mới hệ thống doang nghiệp Nhà nước (DNNN) là khâu đột phá. Trong 10 năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, các cơ quan Đảng và Nhà nước ở Trung ương đã ban hành trên 200 văn bản về sắp xếp lại và đổi mới cơ chế quản lý các DNNN. Đến nay hệ thống DNNN đã được sắp xếp lại một bước khá căn bản, đã giảm quá nửa số doanh nghiệp (những doanh nghiệp nhỏ bé và yếu kém) và số doanh nhiệp còn lại được củng cố một bước, cơ chế quản lý mới được hình thành, ngày càng hoàn thiện giúp các DN chuyển đổi và thích nghi dần với các quy luật của kinh tế thị trường trong bối cảnh nền kinh tế mở, hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế. Trước những yêu cầu to lớn của CNH, HĐH đất nước và cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt, cần tiếp tục đổi mới các DNNN. Công việc này gồm hai nội dung lớn: sắp xếp lại các doanh nghiệp và đổi mới cơ chế quản lý. Trong đó Cổ phần hoá (CPH) một bộ phận DNNN là một trong 4 nội dung đổi mới quản lý DNNN. Hiện nay nó được coi là một chủ trương quan trọmg của Đảng và Nhà nước trong việc huy động vốn của mọi tầng lớp và nâng cao tính tự, lực tự giác, nâng cao tinh thần trách nhiệm của những người trực tiếp gắn lợi ích của mình với lợi ích của DN. Thông qua đó từng bước cải thiện quan hệ sản xuất phù hợp với sự thay đổi của lực lượng sản xuất trong công cuộc CNH, HĐH đất nước, từng bước đưa nền kinh tế nước nhà đi lên tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chương trình CPH đã được triển khai từ giữa năm 1992, theo tinh thần của Quyết định 202/CT-HĐBT về “thí điểm chuyển một số doanh nghiệp thành Công ty cổ phần” (ngày 08/06/1992). Cho đến nay, những thành công mà chương trình CPH mang lại không phải là ít nhưng vẫn tồn tại những bất cập cần kịp thời nhìn nhận và tháo gỡ. Trong khuân khổ bài viết này chúng ta hãy cùng xem xét thực trạng cũng như những mặt được và chưa được của chương trình CPH ở nước ta trong thời gian vừa qua, từ đó đề xuất một số giải pháp cho thời gian sắp tới. Tuy nhiên do mới làm quen với công việc nghiên cứu nên bài viết này không tránh khỏi những sai sót, em rất mong được sự góp ý, hướng dẫn của các thầy cô. Chương I Những vấn đề lý luận chung về cổ phần hoá DNNN 1.1. Khái quát chung về công ty cổ phần 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của công ty cổ phần * Khái niệm: Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp được thành lập trên cơ sở huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu. Vốn của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, trị giá mỗi cổ phần được ghi trên cổ phiếu gọi là mệnh giá cổ phiếu. Cổ phiếu là loại giấy tờ xác nhận quyền sở hữu về một phần vốn của một cá nhân hay một tổ chức naò đó dối với một công ty cổ phần. Cổ phiếu có thể mua bán được. Người mua cổ phiếu gọi là cổ đông. Mỗi cổ đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phiếu cùng lúc. Cổ phiếu có hai loại: cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi, khi cần chuyển nhượng, mua bán cổ phiếu ưu đãi cần phải được sự đồng ý của Hội đồng quản trị. Tuy nhiên nó được hưởng lợi nhuận cao và khi giải thể công ty nó được tanh toán trước. Cổ phiếu thường được mua bán tự do trên thị trường chứng khoán. Trong trường hợp mệnh giá cổ phiếu không đổi thì giá cổ phiếu biến động theo giá thị trường. Giá cổ phiếu chịu tác động của những yếu tố như: lãi suất cổ phiếu, lãi suất ngân hàng, tình hình đầu cơ trên thị trường, thực trạng và tương lai của công ty, những biến đổi về kinh tế - chính trị - xã hội ở trong nước và trên thế giới. Trong công ty cổ phần, cổ đông là người có số vốn góp vào công ty và là người nắm giữ các cổ phiếu. Các cổ đông có quyền hạn như nhau nhưng có vai trò khác nhau trong công ty tuỳ thuộc vào số cổ phiếu mà họ nắm giữ. * Đặc điểm của công ty cổ phần - Vốn của CTCP là do nhiều người đóng góp - CTCP huy động vốn thông qua phát hành cổ phần và trái phiếu - Là hình thức doanh nghiệp có tư cách pháp nhân chỉ dành cho những người có tài sản lưu động độc lập với tài sản của chủ doanh nghiệp. Công ty có quyền trực tiếp ký kết các hợp đồng kinh tế và thực thi các nghĩa vụ như các doanh nghiệp khác trước pháp luật. - Là công ty có trách nhiệm pháp lý hữu hạn. Các thành viên trong công ty có quyền và nghĩa vụ trong phạm vi phần vốn góp của mình. * Hình thức tổ chức của một công ty cổ phần - Đại hội cổ đông: Là đại hội của tất cả những người tham gia mua cổ phiếu. Đây là bộ máy quan trọng nhất trong CTCP có quyền quyết định toàn bộ các hoạt động cuả công ty. Đại hội cổ đông có quyền: + Quyết định mục tiêu và phương hướng nhiệm vụ kinh doanh của công ty + Quyền thông qua điều lệ, bổ sung và sửa đổi điều lệ của công ty + Quyền thông qua quyết toán tài chính hàng năm và quyền phân chia thành quả kinh doanh + Quyền bầu cử hoặc bãi miễn các thành viên trong hội đồng quản trị - Hội đồng quản trị là cơ quan do đại hội cổ đông bầu ra để điều hành công ty giữa hai kỳ đại hội. Thành viên của hội đồng quản trị về nguyên tắc phải là các cổ đông và thường là người nắm giữ số cổ phiếu cao nhất. Hội đồng quản trị thay mặt những người sở hữu công ty tổ chức, quản lý và giải quyết những vấn đề có liên quan đến mục đích và quyền lợi phát triển của công ty. Trong Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng quản trị là người có quyền hạn cao nhất và là người có số vốn góp lớn nhất. - Giám đốc điều hành (Tổng giám đốc) hay những thành viên trong ban giám đốc là những người có năng lực quản lý điều hành toàn bộ các hoạt động sản xuất - kinh doanh của CTCP. Thành viên ban giám đốc có thể là một trong số những cổ đông hoặc có thể do Hội đồng quản trị thuê từ bên ngoài. - Ban kiểm soát: Do đại hội cổ đông bầu ra và thành viên của Ban kiểm soát đồng thời là thành viên của công ty. Ban kiểm soát có quyền: + Kiểm tra, kiểm soát hoạt động tài chính của công ty và báo cáo trước hội đồng quản trị về kết quả kiểm tra tổ chức hàng năm. + Kiểm tra hoạt động tài chính, quản lý của hội đồng quản trị và hoạt động điều hành của giám đốc. + Có quyền đề nghị họp đại hội bất thường khi phát hiện có những biến động lớn về tổ chức diễn ra trong công ty. Từ những nét khái quát trên có thể đánh giá chung về CTCP là loại hình kinh doanh hiện đại có nhiều ưu thế vượt trội so với các loại hình doanh nghiệp khác. Thể hiện ở những mặt sau: - Huy động được nhiều vốn, từ nhiều nguồn khác nhau do đó mà khả năng cạnh tranh cao hơn so với các doanh nghiệp khác. - Quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn tách rời nhau nên hoạt động kinh doanh do đó có khả năng cạnh tranh cao hơn các loại hình doanh nghiệp khác. - Hạn chế được rủi ro cho nhà kinh doanh do có khả năng chia sẻ rủi ro cho nhiều người. - CTCP đã xã hội hoá các hoạt động kinh doanh do nó đã gắn kết các doanh nghiệp trong nền kinh tế với nhau. Chính những ưu điểm này đã khiến cho loại hình CTCP trở nên phổ biến ở các nước trên thế giới nhất là tại các nước phát triển. Tại những nước này CTCP chiếm một khối lượng lớn trong nền kinh tế như ở Nhật loại hình này chiếm khoảng 55%; ở Pháp chiếm khoảng 50%. Tính đến nay ở Việt Nam có khoảng 700 CTCP trong đó có gần 400 công ty được hình thành từ con đường cổ phần hoá các DNNN. Với số lượng khiêm tốn chỉ chiếm khoảng 20% tổng số doanh nghiệp trong cả nước, thì rất cần thiết có những biện pháp thúc đẩy cổ phần hoá nhằm nâng cao số lượng các CTCP ở Việt Nam. 1.1.2.Vai trò của công ty cổ phần * Thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư nhờ vào việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu thông qua thị trường chứng khoán, các CTCP có khả năng huy động được một lượng vốn lớn chỉ trong một thời gian ngắn. Cách thu hút vốn của CTCP không chỉ dừng lại ở những nhà đầu tư lớn mà còn hấp dẫn được một lượng tiền khá lớn đang nằm rải rác trong dân cư kể cả những người nghèo cũng có thể tham gia mua cổ phần bởi hầu hết các cổ phiếu có mệnh giá thấp. Hơn nữa việc đầu tư vào các CTCP thường đem lại lợi ích hơn so với việc gửi tiền vào các quĩ tín dụng hay ngân hàng. Thông thường lợi tức do cổ phiếu đem lại thường cao hơn lãi suất tiền gửi. * Đem lại hiệu quả kinh doanh cao, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Trong CTCP các cổ đông không có quyền rút vốn ra khỏi công ty mà chỉ được mua, bán, chuyển nhượng phần góp của mình cho những người khác thông qua thị trường. Do vậy mà số lượng vốn của công ty luôn ổn định không bị biến động ngay cả trường cổ đông chết hoặc vi phạm pháp luật. Hơn nữa với việc huy động vốn như trên đã tạo cho CTCP nhanh chóng có được một khối lượng vốn lớn, có điều kiện tận dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, nâng cao năng suất lao động, tận dụng được các cơ hội kinh doanh và thích ứng nhanh được với những biến động của thị trường. Do vậy kết quả kinh doanh mà các CTCP đem lại thường cao. * CTCP có vai trò quan trọng thúc đẩy sự ra đời của thị trường chứng khoán. * CTCP tạo điều kiện thực hiện xã hội hoá các hình thức sở hữu. Với loại hình CTCP, các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế liên kết với nhau tạo điều kiện tập trung xã hội hoá về mặt tư liệu sản xuất và sức lao động. Thông qua hoạt động mua – bán cổ phiếu người lao động trực tiếp tham gia vào hoạt động quản lý của CTCP với tư cách là người sở hữu đích thực của công ty. 1.2. Khái niệm, mục tiêu và hình thức cổ phần hoá DNNN 1.2.1. Khái niệm Cổ phần hoá DNNN là một con đường hình thành nên CTCP. Đây là quá trình nhà nước chuyển các doanh nghiệp của mình vào tay các cổ đông thuộc các thành phần kinh tế khác. Theo thông tư của Bộ Tài chính số 50 TC/TCDN ngày 30/8/1996 khẳng định “ DNNN chuyển thành CTCP (hay còn gọi là cổ phần hoá DNNN) là một biện pháp chuyển DNNN từ sở hữu nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần trong đó tồn tại một phần sở hữu nhà nước “. Như vậy, về mặt hình thức cổ phần hoá DNNN là việc tiến hành bán một phần hay toàn bộ giá trị DNNN cho các cổ đông thuộc mọi thành phần kinh tế dưới hình thức phát hành cổ phiếu thông qua thị trường chứng khoán hoặc thông qua đấu giá trực tiếp. Về thực chất, cổ phần hoá DNNN là quá trình đa dạng hoá quyền sở hữu tài sản. Sau khi tiến hành cổ phần hoá thì phương thức kinh doanh và tổ chức quản lý của doanh nghiệp có sự chuyển đổi lớn. Hoạt động của nó bây giờ không chịu sự quản lý của nhà nước nữa mà chịu sự giám sát trực tiếp cuả các cổ đông. Cổ phần hoá DNNN là quá trình xã hội hoá quyền sở hữu ở mức cao nhất, trong đó xu hướng chung và mang tính đặc trưng của nó là bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp cổ phần hoá. Việc làm này khiến cho không một cá nhân hay tổ chức tư bản nào có thể nắm giữ và điều hành được doanh nghiệp. Kết quả của cổ phần hoá là sự ra đời các CTCP. 1.2.2 Mục tiêu cổ phần hoá DNNN Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, sự tồn tại hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả đã đem lại gánh nặng lớn cho ngân sách Nhà nước và kìm hãm sự phát triển nền kinh tế, cho nên quá trình cổ phần hoá DNNN theo xu hướng chung đều nhằm vào những mục tiêu sau đây: - Tạo điều kiện để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. - Giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. - Góp phần làm chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế. - Tạo khả năng thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ mới. - Thúc đẩy phát triển hoàn thiện thị trường vốn. Tuy nhiên, do điều kiện và đặc điểm thực tế của từng nước là khác nhau và từng giai đoạn cụ thể mà cổ phần hoá DNNN có những mục tiêu khác nhau. Theo Quyết định QĐ 202/CT ngày 8/6/1992 thì việc tiến hành cổ phần hoá DNNN nhằm vào 3 mục tiêu chính sau: - Chuyển một phần quyền sở hữu của Nhà nước thàh sở hữu của các cổ đông nhằm nâng cao kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Phải huy động được một khối lượng vốn trong nước và ngoài nước để đầu tư cho sản xuất kinh doanh. - Tạo điều kiện cho người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp. Sau một thời gian tiến hành thí điểm cổ phần hoá, chính phủ đã có sự nghiên cứu và sửa đổi nội dung mục tiêu cổ phần hoá cho phù hợp với điều kiện kinh tế đất nước và xu thế biến đổi chung của thị trường. Theo nghị định 44 CP ngày 29/6/1998 thì mục tiêu cổ phần hoá được rút gọn từ ba mục tiêu xuống còn hai nhưng nội dung chính vẫn được giữ nguyên. Cụ thể: Mục tiêu 1: Huy động vốn của toàn xã hội bao gồm các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu DNNN. Mục tiêu 2: Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. Về nội dung, mục tiêu cổ phần hoá DNNN theo nghị định trên vẫn quán triệt tư tưởng về cổ phần hoá là nâng cao kết quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó là phát huy quyền làm chủ của người lao động. Hai mục tiêu cổ phần hoá lần này được đưa ra sau một thời gian thử nghiệm và tiến hành, được đúc rút từ kinh nghiệm thực tế. Do vậy, nó mang tính xác thực hơn so với ba mục tiêu ở quyết định 202/CT, đồng thời việc thực hiện hai mục tiêu này sẽ thúc đẩy và kéo theo các mục tiêu khác được thực hiện như: + Giảm bớt các DNNN để từ đó giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. + Việc đa dạng quyền sở hữu DNNN sẽ hình thành sự liên kết chặt chẽ giữa các DNNN với các thành phần kinh tế khác do đó tạo ra sức mạnh và động lực thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới. Đây là mục tiêu dài hạn cho nền kinh tế nói chung và mỗi doanh nghiệp nói riêng. + Việc huy động vốn của CTCP sẽ là sợi dây liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp có quyền lợi chung thông qua sự đồng sở hữu cổ phần trong một doanh nghiệp. 1.2.3. Các hình thức cổ phần hoá DNNN Cổ phần hoá DNNN được diễn ra ở hầu hết khắp các nước trên thế giới với những hình thức đa dạng và phong phú. Tuỳ vào mục tiêu cổ phần hoá của từng nước mà có những cách lựa chọn các hình thức cổ phần hoá khác nhau. Xu thế cổ phần hoá DNNN trên thế giới đều thực hiện theo các hình thức sau: - Giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu theo qui định nhằm thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp. - Tách một bộ phận của DNNN có đủ điều kiện để cổ phần hoá. - Bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp. - Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước để chuyển thành CTCP - Bán giá trị hiện có của DNNN mà Nhà nước cần giữ 100% vốn cho các DNNN khác để hình thành CTCP hay còn gọi là công ty cổ phần hoá DNNN. Tại Việt Nam, theo quyết định 44CP ra ngày 29/06/1998 thì cổ phần hoá DNNN được tiến hành dưới các hình thức sau: - Giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp. - Bán một phần giá trị thuộc vốn Nhà nước có tại doanh nghiệp - Tách một bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện để cổ phần hoá. - Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành CTCP. Như vậy, các hình thức cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam đã được bổ sung phù hợp với xu thế chung của thế giới. Việc áp những hình thức cổ phần hoá DNNN theo qui định tại nghị định 44CP vào nước ta là tương đối phù hợp và có hiệu quả. Chương II Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong thời gian qua 2.1. Cổ phần hoá ở Việt Nam qua các giai đoạn 2.1.1. Giai đoạn I (Từ tháng 6/1992 đến tháng 4/1996) - Những bước thử nghiệm đầu tiên - Ngày 08/06/1992, chủ tịch HĐBT đã ra quyết định 202/CT cho phép lựa chọn và triển khai thí điểm cổ phần hoá ở một số DNNN. Mốc quan trọng này mở ra một hướng đi mới cho việc cải cách DNNN ở Việt Nam. - Ngày 04/03/1993, Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị 84/TTg về việc xúc tiến cổ phần hoá DNNN và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các DNNN. + Về mục tiêu của giai đoạn này là thí điểm cổ phần hoá để từ đó rút ra kinh nghiệm và mở rộng việc cổ phần hoá sau này. + Về đối tượng cổ phần hoá ở giai đoạn này là các DNNN kinh doanh trong các nghành thông dụng, không có ý nghĩa chiến lược đối với nền kinh tế quốc dân (như dịch vụ và công nghiệp). Trong giai đoạn này, Nhà nước áp dụng hình thức chuyển một phần sở hữu Nhà nước dưới dạng bán cổ phần DNNN sang sở hữu tư nhân. Sau khi cổ phần hoá, DNNN chuyển sang hoạt động theo luật công ty. Đối với công nhân viên chức trong doanh nghiệp, người lao động được mua cổ phiếu trả chậm với thời gian không quá 12 tháng. ở giai đoạn thí điểm này, các bộ, nghành địa phương đã hướng dẫn DNNN đăng kí thực hiện cổ phần hoá. Trên cơ sở số lượng DNNN dăng kí, chủ tịch HĐBT (nay là Thủ tướng chính phủ) đã ra quyết định số 203/CT thí điểm chọn 7 DNNN do HĐBT chỉ đạo trực tiếp đó là: 1.Nhà máy xà phòng Việt Nam (Bộ Công nghiệp) 2.Nhà máy diêm Thống Nhất (Bộ Công nghiệp) 3.Xí nghiệp nguyên vật liệu chế biến thức ăn gia súc Hà Nội (Bộ Công nghiệp) 4.Xí nghiệp chế biến gỗ Lạng Long Bình (Bộ Nông nghiệp) 5.Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng (Bộ Thương mại) 6.Xí nghiệp sản xuất bao bì (Thành phố Hà Nội) 7.Xí nghiệp dệt da may Legamex (Thành phố Hồ Chí Minh) Tuy nhiên, sau một thời gian làm thử 7 doanh nghiệp này đều xin rút hoặc không có điều kiện để tiến hành cổ phần hoá. Vì vậy, thời gian thí điểm kéo dài và kết quả rất hạn chế. Trong 4 năm mới thực hiện cổ phần hoá được 5 doanh nghiệp, bao gồm 3 doanh nghiệp trung ương và 2 doanh nghiệp địa phương. Tất cả các doanh nghiệp cổ phần đều có quy mô nhỏ và có lợi thế nhất định trong hoạt động kinh doanh. Trong giai đoạn này, Việt Nam chưa bán cổ phần cho thể nhân hoặc pháp nhân nước ngoài. Bảng 1 : Các DNNN đã cổ phần hoá tính đến thời điểm 31/12/1995 Ngày Tổng Cơ cấu vốn (%) TT Tên DN CPH số vốn (triệu đồng) NN CNVC trong DN Cổ đông ngoài 1 Đại lý Liên hiệp vận chuyển 1/7/93 6.200 18 33,1 48,9 2 Cơ điện lạnh TP HCM 1/10/93 16.000 30 50 20 3 Giầy Hiệp An 1/10/94 6.769 30 50 20 4 Chế biến hàng XK Long An 1/7/95 3.540 30,2 48,6 21,2 5 C/ty chế biến thức ăn gia súc 1/7/95 7.912 30 50 20 Nguồn : Ban chỉ đạo trung ương về đổi mới doanh nghiệp * Nhận xét: + Hầu hết các doanh nghiệp cổ phần hoá lần này có số vốn ít, qui mô nhỏ. Tổng số vốn cao nhất là 16 tỷ đồng (công ty cơ điện lạnh Thành phố HCM) và thấp nhất là 3,5 tỷ (công ty chế biến hàng xuất khẩu Long An). + Nhà nước nắm giữ 28,25% (tính bình quân) trong tổng số vốn điều lệ. Như vậy, Nhà nước không nắm mức cổ phần chi phối. Tỉ lệ vốn nhà nước trong các công ty cao nhất chỉ ở mức 30,2%, còn lại hầu như các cổ phiếu do cổ đông trong công ty nắm giữ. Tỉ lệ vốn do các cổ đông ngoài công ty đóng góp rất nhỏ, tính bình quân chỉ chiếm16,37%,... Tóm lại, từ khi có chủ trương cổ phần hoá DNNN vào năm 1987 thì phải đến 6 năm sau (tháng 7/1993), nhà nước ta mới cổ phần hóa được 5 doanh nghiệp. Điều này cho thấy tiến thình cổ phần hoá diễn ra rất chậm. Sự chậm trễ này là do chưa thông suốt các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cổ phần hoá. 2.1.2. Giai đoạn II (Từ tháng 05/1996 đến 05/1998) - Thời kỳ mở rộng công tác cổ phần hoá Giai đoạn này được đánh dấu bằng việc chính phủ ban hành nghị định 28CP ngày 07/05/1995. Lần đầu tiên đã có một qui định một cách có hệ thống từ mục đích, yêu cầu, đối tượng đến phương thức tiến hành, chế độ đủ với người lao động. Ngoài ra, còn có : - Nghị định 25/CP ngày 26/03/1996 sửa đổi một số điểm của nghị định 28/CP. - Quyết định 548/TTg ngày 13/08/1996 của Thủ tướng chính phủ về việc thành lập các Ban chỉ đạo cổ phần hoá. - Quyết định 01/CPH ngày 04/09/1996 của Trưởng ban chỉ đạo trung ương về cổ phần hoá, về ban hành qui trình chuyển DNNN thành CTCP. - Thông tư 50/TC-TCDN ngày 30/08/1996 của Bộ Tài chính hướng dẫn vấn đề tài chính theo nghị định 28/CP. - Thông tư 17/LĐTBXH-TT ngày 07/09/1996 của Bộ Lao động thương binh và xã hội hướng dẫn chính sách với người lao động. - Tháng 12/1997, Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành TW Đảng đã ra nghị quyết, trong đó nêu rõ định hướng và giải pháp cổ phần hoá một bộ phận DNNN “ Phân loại doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp kinh doanh; xác định danh mục loại doanh nghiệp cần giữ 100% vốn Nhà nước; loại DNNN cần giữ tỷ lệ cổ phần chi phối; loại DNNN chỉ cần giữ cổ phần ở mức thấp “ và “ Đối với DNNN không cần giữ 100% vốn Nhà nước, cần lập kế hoạch cổ phần hoá để tạo động lực phát triển thúc đẩy làm ăn có hiệu quả “. - Ngày 19-20/02/1998, Bộ Tài chính đã phối hợp với Ngân hàng thế giới (WB) tổ chức một cuộc hội thảo nhằm thúc đẩy qúa trình cổ phần hoá các DNNN ở Việt nam trên qui mô lớn. - Ngày 20/04/1998, có chỉ thị 20/1998/CTCP-TTg của Thủ tướng chính phủ về việc đẩy mạnh, sắp xếp và đổi mới DNNN. Trong đó, DNNN được chia làm 3 nhóm: 1. Các DNNN quan trọng cần duy trì hoạt động theo luật DNNN. 2. Các DNNN cần chuyển đổi cơ cấu sở hữu. 3. Các DNNN thua lỗ kéo dài. Các DNNN thuộc nhóm 2 là thuộc diện cổ phần hoá. Chính phủ yêu cầu từng Bộ, địa phương và tổng công ty 91 trong kế hoạch cổ phần hoá phải lựa chọn ít nhất 20% số doanh nghiệp không cần duy trì 100% vốn Nhà nước để thực hiện cổ phần hoá. + Về phương thức: Đã mở rộng ra 3 hình thức - Giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp, chỉ phát hành thêm cổ phiếu - Bán một phần DNNN - Tách một bộ phận DNNN để tiến hành cổ phần hoá + Về đối tượng: Mở rộng cổ phần hoá không chỉ có các DNNN vừa và nhỏ mà còn DNNN lớn và vốn trên 10 tỷ đồng trong đó Nhà nước không cần nắm 100% vốn và phải có phương án kinh doanh hiệu quả. Kết quả là trong 2 năm, Nhà nước đã cổ phần hoá được 25 doanh nghiệp. Tuy vậy, tiến độ cổ phần hoá vẫn còn chậm. Chỉ tiêu năm 1998 phải cổ phần hoá được 150 doanh nghiệp chưa được hoàn thành. Trong đó phải kể đến Thành phố HCM - Đơn vị dẫn đầu cả nước về cổ phần hoá. Trong năm 1996, thành phố đã mở lớp tập huấn cho trên 100 cán bộ thuộc DNNN về cổ phần hoá, tại các lớp chuyên viên kinh tế đã hướng dẫn tỷ mỉ về Nghị định 28/CP và lập ra các DNNN sẽ cổ phần hoá, kèm theo các hướng dẫn cụ thể. Riêng Hà Nội trong năm 1997 chỉ cổ phần hoá được 1 doanh nghiệp, chậm nhất trong cả nước. Bảng 2: Danh sách 13 doanh nghiệp chuyển sang CTCP (Tính đến hết năm 1997) Ngày Tổng Cơ cấu vốn (%) TT Tên DN CPH số vốn (triệu đồng) NN CNVC trong DN Cổ đông ngoài C/ty xe khách Hải Phòng 01/09/96 2.915 30 70 0 Khai thác đá Đồng Giao 01/09/96 3.200 49,8 30,7 19,5 C/ty đầu tư sản xuất TMại 01/07/96 356 0 100 0 XN tàu thuyền Bình Định 01/07/96 1.150 51 19 30 XN ong mật TP Hồ Chí Minh 01/07/96 2.500 30 18,5 51,5 Khách sạn Sài Gòn 01/07/96 1.800 40 40 20 C/ty CBXK thuỷ sản Minh Hải 01/01/97 10.000 51 29 20 XN sơn Bạch Tuyết 01/11/97 20.000 35 45 20 C/ty bông Bạch Tuyết 05/11/97 11.370 30 57 13 C/ty CP vận tải thuỷ Hải Dương 01/01/98 2.165 45,7 54,3 0 C/ty khai thác DVTS Đà Nẵng 01/01/98 2.165 45,7 54,3 0 C/ty cáp và vật liệu BCVT 01/01/98 120.000 49 10 41 C/ty cầu xây (Bộ xây dựng) 01/04/98 6.000 10 ... ... * Cổ phần hoá đã thay đổi được phương thức quản lý, chế độ bình bầu, chọn giám đốc, HĐQT các chức danh lãnh đạo của doanh nghiệp đã làm cho đội ngũ này có trách nhiệm cao hơn, quyền lợi và nghĩa vụ gắn với nhau hơn. Phương thức quản lý theo kiểu quan liêu, bao cấp, dùng mệnh lệnh hành chính được hạn chế tối đa, kiểu quản lý cũ không còn tồn tại nữa. * Tình trạng lãng phí của công, tài sản của doanh nghiệp giảm một cách tối thiểu. Điều này xuất phát từ chỗ doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của các cổ đông nên họ phải kiểm soát việc thu chi chặt chẽ hơn thông qua HĐQT và Ban kiểm soát của công ty. * Người lao động phấn khởi, tinh thần làm việc được củng cố. Động lực kinh tế đã tạo nên một không khí làm việc mới, kích thích sự sáng tạo cá nhân vì quyền lợi của họ gắn liền với quyền lợi của công ty. Ngoài thu nhập bình thường, người lao động còn nhận được thu nhập qua cổ tức thường là trên 1,6%/tháng cao hơn lãi suất gửi ngân hàng. * Các chỉ tiêu khác như vốn, nộp ngân sách, việc làm, thu nhập bình quân đều có sự tiến bộ đáng kể. Theo tổng kết 13 doanh nghiệp cổ phần đến giữa năm 1997, Ban cổ phần hoá DNNN đã có đánh giá như sau: - Vốn bình quân tăng: 45%/năm - Doanh thu tăng bình quân: 56,9%/năm - Nộp ngân sách Nhà nước tăng bình quân: 98%/năm - Lợi nhuận tăng bình quân: 70,2%/năm - Việc làm tăng bình quân: 46,8%/năm - Thu nhập người lao động tăng bình quân: 20%/năm - Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu tăng: 14,1%/năm - Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tăng: 74,6%/năm * Tài sản của DNNN được đánh giá lại chính xác hơn: Lâu nay, tài sản thuộc các DNNN bị đánh giá thấp, khấu hao tích nộp rất thấp, không đủ bù đắp vốn để tái đầu tư, mở rộng phát triển sản xuất. Thông qua việc cổ phần hoá 18 doanh nghiệp trong giai đoạn trước 01/01/1998, tổng giá trị đánh giá lại đã tăng 48,8% so với tổng giá trị hạch toán. * Nhà nước tăng nguồn thu ngân sách: thông qua tiền bán cổ phần và tiền lợi tức. Từ đó có thể đầu tư vào những lĩnh vực và vào các doanh nghiệp khác cần thiết hơn. * Tư tưởng cổ phần hoá đã được thống nhất hơn. Cán bộ lãnh đạo cũng như công nhân viên chức hiểu được mục tiêu, lợi ích của chủ trương cổ phần hoá nhiều hơn, tốt hơn so với trước kia. ở trên là những mặt mà doanh nghiệp và Nhà nước đã làm được. Tuy vậy, vẫn còn có những mặt còn tồn tại như: Về phía doanh nghiệp + Các doanh nghiệp nhìn chung chưa có phương án phát triển sản xuất kinh doanh hiệu quả, chưa tìm ra hướng đầu tư mới. Nhiều CTCP thừa vốn không biết dùng vào việc gì và phải cho vay vốn. Trong khi đó, những doanh nghiệp cổ phần có vốn lớn huy động vốn thêm để mở rộng sản xuất lại chiếm một tỷ lệ quá thấp, vì tâm lý của cổ đông cũ là không muốn chia sẻ quyền lực. + Tập thể ban lãnh đạo nhiều doanh nghiệp chưa thực sự ủng hộ cổ phần hoá. Họ sợ mất quyền chức, nhiều người chưa quen với cơ chế mới sau khi cổ phần hoá nên sợ không thích nghi với cơ chế thị trường, không đủ đứng vững, cạnh tranh trên thương trường. Còn công nhân viên chức yếu kém về trình độ thì lo mất việc làm. + Kiểm toán chưa thực hiện chức năng của mình. Chi phí kiểm toán cao, chỉ kiểm toán được hạch toán của doanh nghiệp, còn chưa xác định đúng giá trị doanh nghiệp. Những mặt tồn tại về phía Nhà nước + Tiến hành cổ phần hoá diễn ra vẫn chậm. Số lượng doanh nghiệp được cổ phần hoá còn quá ít. Nghị định 28/CP chưa hoàn thiện để đẩy nhanh cổ phần hoá. + Nhà nước chưa có biện pháp mạnh mẽ, thực hiện đúng quyền sở hữu của mình. Chính phủ chưa kiên quyết, chưa coi cổ phần hoá là nhiệm vụ bắt buộc mà lại chờ sự tự nguyện của các doanh nghiệp, các địa phương và Bộ chủ quản. Chủ trương cổ phần hoá dàn đều, không tập trung vào các vùng trọng điểm. + Việc tổ chức thực thi chưa rõ ràng. Ban cổ phần hoá gồm các tổ chức: Bộ Tài chính, Tổng liên đoàn lao động, Ban tổ chức chính phủ, Bộ Công nghiệp, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ LĐTB – XH, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước nên triệu tập một cuộc họp đã khó, nhưng việc thống nhất ý kiến càng khó hơn. Một số văn bản chỉ đạo chưa cụ thể, chưa khẳng định trách nhiệm rõ ràng của từng Bộ, từng địa phương. + Việc tuyên truyền, vận động đối với công nhân viên chức trong CTCP chưa tốt. Thực tế, chúng ta đã ưu đãi tốt nhất cho người lao động sau khi cổ phần hoá nhưng vẫn chưa nhận được sự thỏa mãn và ủng hộ hoàn toàn của họ. Ngoài ra, người dân vẫn chưa quen mua bán cổ phiếu nên khó mà phát triển được thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, qua giai đoạn này, chúng ta đã thu được nhiều bài học quí giá để cổ phần hoá diễn ra tốt hơn ở giai đoạn sau. 2.1.3. Giai đoạn III (từ tháng 07/1998 đến nay) – Giai đoạn đẩy mạnh cổ phần hoá - Ngày 29/06/1998, chính phủ ban hành nghị định 44/CP về cổ phần hoá. Nghị định này đã mở rộng hơn các chế độ cho công tác cổ phần hoá, đã xác định rõ và giảm thiểu danh mục nghành nghề Nhà nước cần giữ 100% vốn, Nhà nước nắm cổ phần đặc biệt hoặc chi phối, không hạn chế qui mô doanh nghiệp cổ phần hoá, phân cấp nhiều hơn thẩm quyền quyết định cổ phần hoá. - Vấn đề tài chính khi chuyển DNNN thành CTCP, ngày 18/07/1998, Bộ tài chính đã ra Thông tư số 104/1998/TT-BTC. Đến ngày 19/08/1998, Bộ tài chính đã có công văn số 3138 TC/TCDN hướng dẫn sửa đổi một số điểm trong Thông tư trên. - Về phương thức tiến hành: Bên cạnh 3 hình thức cổ phần hoá đã nêu trên trong nghị định 28/CP còn thêm hình thức bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành CTCP. - Trong giai đoạn này, đối tượng cổ phần hoá là tất cả các DNNN mà Nhà nước không cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn đầu tư, không phân biệt qui mô vốn và lao động. Năm 1998 được coi là “năm của cổ phần hoá”. Tuy chưa đạt tới chỉ tiêu đề ra là 150 doanh nghiệp nhưng số doanh nghiệp cổ phần hoá đã tăng nhanh. Đã có đến 5 bộ, 27 tỉnh, thành phố trực thuộc TW và 5 tổng công ty Nhà nước có doanh nghiệp cổ phần hoá. Tính đến hết ngày 31/12/1998 cả nước đã có 116 doanh nghiệp được cổ phần hoá. Đến hết năm1998, các địa phương đã cơ bản hoàn thành việc phân loại và lập lại đề án sắp xếp DNNN. Hai thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh đã hoàn thành việc phê duyệt đề án và đã xây dựng được số DNNN chuyển sang CTCP đến hết năm 2000. Riêng Hà Nội, năm 1998 vừa qua là một năm thành công, đã thực hiện cổ phần hoá được 30 DNNN, chiếm 25% tổng số DNNN được cổ phần hoá. Năm 1999, chỉ tiêu đặt ra là phải cổ phần hoá được 400 DNNN. Trong 6 tháng đầu năm 1999, chúng ta đã cổ phần hoá được 70 doanh nghiệp và ngày càng có nhiều DNNN lớn tham gia vào cổ phần hoá như: Tổng công ty xăng dầu, Hãng hàng không Việt Nam. Hiện đã có 4 doanh nghiệp bán cổ phiếu cho người nước ngoài: Công ty cơ điện lạnh, CTCP chế biến hàng xuất khẩu Long An, CTCP đồ hộp Hạ Long và Công ty may Bình Minh. Trong đó, Công ty may Bình Minh đã bán cho công ty của Nhật và Mỹ 36.000 cổ phần trên tổng số 180.000, trị giá 3,6 tỷ đồng, bằng 20% vốn điều lệ của CTCP. Sau khi cổ phần hoá, bình quân các doanh nghiệp có: - Doanh thu tăng 2,3 lần - Lợi nhuận sau thuế tăng 2,5 lần - Nộp ngân sách Nhà nước tăng 2,5 lần - Cổ tức bình quân đạt 2-3%/tháng. Mặc dù chính sách cổ phần hoá đã thông thoáng và ngày càng được mở rộng cho mọi đối tượng, song tiến trình cổ phần hoá vẫn không đạt được kế hoạch đề ra. Tính đến cuối năm 2000, cả nước mới có 523 DNNN chuyển thành CTCP, chiếm 8,5% tổng số DNNN hiện có, trong khi đó, mục tiêu của chính phủ đề ra là hoàn thành cổ phần hoá 100 doanh nghiệp trong năm 2000. So với kế hoạch 1999, cả nước thực hiện cổ phần hoá được 150DN/400; khối các Bộ đạt 49/140; các tổng công ty đạt 21/61; các địa phương đạt 180/249; thành phố Hà Nội đạt 40/44; Thành phố HCM đạt 35/40 là hai địa phương dẫn đầu cả nước; còn 21 tỉnh chưa thực hiện. Hiện nay, còn khoảng 1670 doanh nghiệp công nghiệp Nhà nước chưa được cổ phần hoá, nếu loại trừ số doanh nghiệp có số vốn trên 10 tỷ đồng và số DNNN nắm cổ phần chi phối thì chỉ còn khoảng 100 doanh nghiệp công nghiệp Nhà nước cần cổ phần hoá. Đây là nhiệm vụ khá quan trọng của các nghành, địa phương. Cần có tính pháp lệnh về việc cổ phần hoá. Quyết định 51/TTg ngày 03/05/2000 đã giao chỉ tiêu cổ phần hoá và đa dạng sở hữu 390 DNNN năm 2000, trong đó 61 doanh nghiệp tồn năm 1999 chuyển tiếp. Thay vì vận động, các cấp cần cam kết về số lượng và đối tượng cổ phần hoá, đưa việc này vào nghị quyết của Hội đồng nhân dân, các cấp uỷ Đảng, các doanh nghiệp cũng phải có cam kết. Bước đầu các cấp cần công bố danh sách doanh nghiệp tạm giữ sở hữu Nhà nước, còn lại là thuộc cổ phần hoá. STT Đến cuối năm 1998 Năm 1999 Đến cuối năm 1999 Tổng số Tăng so với 98 (%) Tổng số % 1 Công nghiệp 44 106 240,9 150 40,5 2 Xây dựng 9 6 66,7 15 4,1 3 GTVT 17 21 123,5 38 10,3 4 Thương mại-Dịch vụ 41 110 268,3 151 40,8 5 Nông nghiệp-Thuỷ sản 9 7 77,8 16 4,3 Tổng số 120 250 208,3 370 100,0 Giá trị doanh nghiệp thuộc vốn Nhà nước khá nhỏ. Đến cuối năm 1999, tổng vốn Nhà nước ở các DNNN cổ phần hoá chiếm khoảng trên 1% vốn Nhà nước ở các DNNN, tương đương với trên 1000 tỷ. Với tốc độ này, nếu cổ phần hoá 30% vốn Nhà nước ở DNNN chúng ta phải mất 30 năm nữa. Điều này một phần do chúng ta chưa tập chung vào cổ phần hoá các doanh nghiệp thành viên thuộc Tổng công ty 90 và 91 (hiện mới cổ phần hoá được 28 doanh nghiệp). Hiện nay cả nước có 17 tổng công ty 91 và 74 tổng công ty 90 với 1150 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập. Tổng số DNNN Tổng công ty 91(%) Tổng công ty 90(%) Doanh nghiệp còn lại (%) Vốn 102.650 tỷ đồng 54,9 17 28,1 Lao động 1.492.264 tỷ đồng 39,8 28 32,2 Doanh thu 310.000 tỷ đồng 26,4 23,4 50,2 Lợi nhuận trước thuế 13.439 tỷ đồng 64,2 18,8 17 Nộp ngân sách 34.500 tỷ đồng 54,9 25,1 20 Thực tế này chúng ta cần có cách nhìn mới về tổng công ty Nhà nước: Xã hội hoá đầu tư, cổ phần hoá DNNN tiến triển nhanh khi các tổng công ty này cổ phần hoá ít nhất 50% vốn hoặc 50% thành viên. Điều này không ảnh hưởng đến mô hình tập đoàn kinh doanh, doanh nghiệp của Nhà nước, trong đó Nhà nước nắm đến trên 50% vốn vẫn đủ chi phối để thực hiện nhiệm vụ cân đối cung cầu cơ bản của nền kinh tế. 2.2. Những đánh giá chung về thực hiện cổ phần hoá ở Việt Nam trong thời gian qua 2.2.1. Những kết quả đạt được Từ cuối năm 1986 đến nay, chính phủ đã chỉ đạo tiến hành 3 đợt sắp xếp, thực hiện đổi mới, phát triển DNNN với 4 nội dung cơ bản: Đổi mới cơ chế quản lý DNNN; Tổ chức lại, củng cố và hoàn thiện tổng công ty Nhà nước; Cổ phần hoá DNNN và sắp xếp áp dụng các hình thức giao, bán, khoán, thuê những doanh nghiệp có qui mô nhỏ. Là một trong 4 nội dung chiến lược trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội trong trời gian 2000-2010, chương trình cổ phần hoá đã được triển khai và được đẩy mạnh ở các Bộ, nghành, địa phương, tổng công ty. Đặc biệt là tại thời điểm hiện nay, khi thị trường chứng khoán đang trển khai hoạt động với việc khai trương Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, thì vai trò và ý nghĩa của công tác cổ phần hoá càng được nhấn mạnh, bởi đây là nguồn cung cấp hàng hoá cho Thị trường chứng khoán. Trên thực tế, công tác cổ phần hoá DNNN trong thời gian qua đã mang lại những kết quả có ý nghĩa quan trọng trên các mặt kinh tế – xã hội của đất nước. Tính đến ngày 31/12/2000, cả nước đã có 618 doanh nghiệp và bộ phận DNNN được chuyển đổi hình thức sở hữu và 2 doanh nghiệp chuyển đổi phương thức quản lý. Tính riêng năm 2000, số lượng doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp hoàn thành chuyển đổi là 250, trong đó: + Cổ phần hoá: 211 doanh nghiệp + Giao, bán : 37 doanh nghiệp + Khoán, cho thuê : 2 doanh nghiệp Tốc độ như vậy tương đương với năm 1999, tuy nhiên, so với chỉ tiêu kế hoạch của chính phủ giao năm 2000 (2 đợt) là 692 doanh nghiệp (Kể cả tồn năm 1999 chuyển sang) thì mới đạt 36% kế hoạch năm, cụ thể có một số bộ, các địa phương, các tổng công ty 91 triển khai tốt là: Bộ công nghiệp; Bộ thương mại; T.Cty Hoá chất; T.Cty Hàng hải; T.Cty Xi măng; T.Cty giấy; T.Cty than; các tỉnh Nghệ An, Nam Định, Lâm Đồng, Quảng Ninh, Tuyên Quang,... Có một số địa phương đã mạnh dạn áp dụng hình thức giao, bán doanh nghiệp như: Nam Định (13 doanh nghiệp bán, 2 doanh nghiệp khoán); Bắc Giang (bán 5 doanh nghiệp); Phú Thọ (giao 5 doanh nghiệp); Hà Nội (bán 4 doanh nghiệp),... Ngoài số doanh nghiệp đã hoàn thành chuyển đổi sở hữu, hiện còn gần 100 doanh nghiệp đã xác định xong giá trị doanh nghiệp đang triển khai các bước tiếp theo. Kế hoạch năm 2000 Số doanh nghiệp chuyển đổi trong năm 2000 Tỷ lệ so với kế hoạch Tổng số 692 250 36% Khối bộ, nghành 137 40 29% Khối địa phương 484 192 40% Khối T.Cty 91 71 18 25% Các doanh nghiệp đã cổ phần hoá thuộc các bộ, nghành, T.Cty 91 chiếm 27%; thuộc các địa phương chiếm 73%. Trong tổng số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông, chiếm 57%; lĩnh vực thương mại dịch vụ chiếm 38%; lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp và thuỷ sản chiếm 5%. Các công ty mía đường như Lam Sơn và La Ngà đã thực hiện cổ phần hoá theo hướng Nhà nước giữ cổ phần chi phối, đồng thời khuyến khích nông dân sản xuất nguyên liệu mua cổ phần của công ty. Theo báo cáo từ Ban đổi mới doanh nghiệp Bộ công nghiệp, từ đầu năm 2001 đến nay đã có thêm 2 doanh nghiệp của Bộ hoàn thành cổ phần hoá. Đó là Xí nghiệp số 5 và số 6 (thuộc T.Cty Dệt may) có giá trị tài sản 10,45 tỷ đồng, trong đó vốn Nhà nước 5,18 tỷ đồng. Đơn vị thứ 2 là Nhà máy vật liệu điện (thuộc T.Cty thiết bị kỹ thuật điện) có tổng giá trị tài sản là 5,2 tỷ đồng, trong đó vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là 2,84 tỷ đồng. Đồng thời, báo cáo từ Ban đổi mới và phát triển DNNN (Bộ GTVT) cho biết tính đến hết tháng 03/2001, toàn nghành đã cổ phần hoá được 44 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp, bằng 12,8% tổng số các doanh nghiệp kinh doanh và công ích thuộc quyền quản lý của Bộ. Mặc dù công tác cổ phần hoá chung của cả nước đang gặp nhiều khó khăn và công việc của nghành giao thông không là ngoại lệ, nhưng nếu so với 391 doanh nghiệp đã được cổ phần hoá trên phạm vi toàn quốc (bằng 7,4% tổng số doanh nghiệp hiện có) thì chỉ số cổ phần hoá của nghành GTVT cao hơn chỉ số chung là 5,4%. Theo thống kê, các doanh nghiệp được cổ phần hoá trong nghành GTVT là loại vừa và nhỏ có vốn điều lệ bình quân là 8,1 tỷ đồng. Cơ cấu vốn điều lệ của các doanh nghiệp này sau khi cổ phần hoá là vốn Nhà nước chiếm 39%; vốn của cán bộ công nhân viên chiếm 34%; vốn các cá nhân và pháp nhân bên ngoài là 27%. Đáng chú ý là so với tổng số vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, thì phần vốn Nhà nước tại các CTCP thuộc nghành GTVT chỉ chiếm 1,71% cao hơn số thực hiện của cả nước là 0,11%. Từ những kết quả đã được ở trên đã cho thấy cổ phần hoá là một hướng đi đúng đắn để sắp xếp lại doanh nghiệp. Việc hình thành một mô hình doanh nghiệp mới, gắn bó chặt chẽ quyền lợi và trách nhiệm, song song với việc thay đổi phương thức quản lý, chế độ bình bầu chọn giám đốc, HĐQT và các chức danh lãnh đạo doanh nghiệp đã làm cho đội ngũ này có trách nhiệm cao hơn do quyền lợi và nghĩa vụ gắn chặt với nhau. Đội ngũ công nhân viên chức do được sàng lọc, tinh gọn lại là các cổ đông nên chất lượng cũng như ý thức làm chủ, tự giác tiết kiệm được nâng lên rõ rệt. Ngoài ra, hiệu quả kinh doanh được nâng cao; lợi ích Nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân đều được đáp ứng. Theo dõi hoạt động của DNNN được cổ phần hoá điều dễ nhận thấy là hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng lên. Các chỉ tiêu vốn, lợi nhuận, nộp ngân sách, việc làm, thu nhập bình quân đều tăng đáng kể. Tại DNNN đầu tiên được cổ phần hoá là Đại lý liên hiệp vận chuyển thuộc T.Cty hàng hải Việt Nam, năm 1993, ở thời điểm cổ phần hoá chỉ có số vốn là 6,2 tỷ đồng sau 5 năm hoạt động số vốn tăng gấp 6 lần (đạt 37,8 tỷ đồng), lợi tức so với vốn tăng 150%. Xí nghiệp cơ điện lạnh TP HCM sau 3 năm hoạt động tăng vốn lên gấp 10 lần, doanh thu tăng 10 lần, lao động tăng 4 lần, thu nhập người lao động cũng tăng 4 lần. Tại 22 doanh nghiệp được cổ phần hoá thuộc Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn hiệu quả này phản ánh qua chỉ tiêu vốn năm 1999 tăng lên 359,5 tỷ đồng so với 280,1 tỷ của năm 1998 (tức là đã huy động thêm được 79 tỷ). Những đơn vị cổ phần hoá từ 1 năm trở lên đều có bước tiến lạc quan: Doanh thu tăng 30%, lợi nhuận thực hiện tăng hơn 30%, nộp ngân sách tăng 15-18%, thu nhập người lao động tăng từ 1,2 lần lên 1,5 lấn so với trước cổ phần hoá. Nhờ kết quả kinh doanh tốt, các doanh nghiệp được cổ phần hoá vừa cứu vãn được nguy cơ đổ vỡ nhiều DNNN, vừa tăng phần nộp ngân sách và tăng thu nhập cho người lao động. Còn đối với Nhà nước thông qua việc bán cổ phần, Nhà nước cũng đã thu về một lượng vốn đáng kể. 2.2.2 Những tồn tại của quá trình cổ phần hoá và những hạn chế cần khắc phục Kể từ thời điểm tiến hành cổ phần hoá DNNN đầu tiên (07/1993), tiến độ cổ phần hoá hầu như không năm nào đạt chỉ tiêu kế hoạch. Cho dù chính sách cổ phần hoá đã thông thoáng và ngày càng được mở rộng cho mọi đối tượng, song tiến trình cổ phần hoá vẫn không đạt kế hoạch đề ra, do vẫn còn những tồn tại và hạn chế như: + Vẫn còn nhiều Bộ, nghành, địa phương, T.Cty chần chừ không muốn thực hiện cổ phần hoá, hoặc có những đơn vị đã có đề án tổng thể sắp xếp lại DNNN trong phạm vi quản lý nhưng lại không có chương trình kế hoạch cụ thể, việc triển khai mang tính chất đối phó hình thức. + Vẫn còn một số quy định bất cập trong các văn bản pháp quy về thực hiện chủ trương cổ phần hoá như khống chế tỷ lệ mua cổ phần của các cán bộ quản lý và cá nhân trong lần mua đầu tiên đã làm giảm niềm tin và nhiệt tình của người lao động. + Thủ tục xác định giá trị doanh ngiệp còn rườm rà, mất nhiều thời gian, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp thuộc các Bộ, T.Cty 91. + Công tác vận động tuyên truyền còn bị xem nhẹ, chưa tạo được sự quan tâm hưởng ứng của xã hội đối với chủ trương cổ phần hoá. 2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại trên Những tồn tại và hạn chế trên chưa khắc phục được là do một số nguyên nhân sau: - Chủ trương cổ phần hoá của Đảng và Nhà nước chưa được quán triệt đầy đủ ở các Bộ, nghành, địa phương, T.Cty. Trên thực tế, nơi triển khai tốt cũng như nơi triển khai chưa tốt thậm chí không làm cũng không sao. - Cơ chế, chính sách cổ phần hoá ban hành chưa đồng bộ, quy trình thủ tục còn phức tạp, chưa có sự chỉ đạo thông suốt từ TW tới cơ sở, đảm bảo việc triển khai vững chắc,... - Chưa có biện pháp giải quyết dứt điểm triệt để các vấn đề công nợ, việc làm, lao động dôi dư, gây ảnh hưởng tới sự thành công của quá trình cổ phần hoá. - Chưa có môi trường thực sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Một số nơi coi CTCP là doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên không được ưu ái như DNNN. Mặt khác do Luật công ty trước đây và Luật doanh nghiệp Nhà nước chưa quy định rõ vai trò quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp đa sở hữu có vốn Nhà nước góp, nên mỗi nơi vận dụng theo nhận thức riêng, không thống nhất. Sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp ngoài quốc doanh với DNNN vẫn đang tồn tại ở nhiều lĩnh vực như: đấu thầu các dự án Nhà nước, vay vốn từ các ngân hàng thương mại quốc doanh, giao quyền sử dụng đất,.... Do vậy đã có nhiều doanh nghiệp đồng ý cổ phần hoá với điều kiện Nhà nước nắm giữ 51% cổ phần để họ được hưởng những ưu đãi như các doanh nghiệp quốc doanh. Để khắc phục những hạn chế và nguyên nhân gây ảnh hưởng chậm tới quá trình cổ phần hoá, Chính phủ cũng đã nhấn mạnh công tác cổ phần hoá và chuyển đổi hình thức sở hữu DNNN nói chung được đặt ở vị trí trung tâm trong lộ trình đổi mới và sắp xếp DNNN. Chương III Phương hướng và các giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá DNNN. 3.1. Phương hướng cho tiến trình cổ phần hoá trong thời gian tới Trong 3 năm 2000-2003, dự kiến sẽ cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu 1.498 DNNN chiếm 63,5 % trong tổng số 2.280 DNNN thuộc diện sắp xếp của thời kỳ này. Cụ thể theo các năm như sau: Hình thức 2000 2001 2002 3 năm Tổng số DNNN cổ phần hoá giao, bán, khoán, cho thuê 508 481 500 1.489 Trong đó: - Cổ phần hoá - Giao, bán, khoán, cho thuê 337 345 374 1.056 171 136 126 433 Ba năm tiếp theo 2003-2005, dự kiến sẽ cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê hơn 900 DNNN. Cùng với các hình thức khác, tổng số trong 6 năm 2000-2005 sẽ sắp xếp 3.280 DNNN. Số lao động hiện đang làm việc trong các doanh nghiệp dự kiến cổ phần hoá trong 3 năm từ 2000-2002 là 311.977 người, bằng 72,7% tổng số lao động trong các doanh nghiệp thuộc diện sắp xếp thời kỳ này và chỉ bằng 1,9% tổng số lao động đang làm việc tại 5.280 DNNN hiện nay. Về qui mô, các doanh nghiệp thuộc diện sắp xếp nói chung cũng như thực hiện cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê nói riêng đa phần là doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ. Số doanh nghiệp có vốn Nhà nước dưới 10 tỷ đồng chiếm tới 75% và thuộc những nghành Nhà nước không cần nắm giữ. Quá trình triển khai cổ phần hoá DNNN với những kết quả đạt được tốt sẽ làm tăng qui mô DNNN từ vốn bình quân 18,425 tỷ đồng lên 27,117 tỷ đồng/doanh nghiệp, giảm 18,5% tổng nợ, 21% nợ ngân hàng, hiệu quả hoạt động kinh doanh của DNNN cũng được nâng lên đáng kể, từ chỗ tỷ trọng DNNN thực sự hoạt động có hiệu quả và có triển vọng đến khi kết thúc kế hoạch vào năm 2003, tỷ lệ này sẽ đạt 50%. 3.2. Các giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa DNNN 3.2.1 Tập trung chỉ đạo cải tiến cách tổ chức thực hiện cổ phần hóa - Ban đổi mới DNNN cần phải được giao các thẩm quyền, chức năng lớn hơn để có thể tổ chức, điều hành phối hợp hoạt động giữa các Bộ, nghành liên quan với địa phương. Cần sớm phân loại các doanh nghiệp, xác định các doanh nghiệp đưa vào cổ phần hóa trong chương trình công tác của Bộ, T.Cty với nhiệm vụ và chỉ tiêu cụ thể làm căn cứ để các cơ quan quản lý, kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện. - Cần tăng cường vai trò của các T.Cty đối với cổ phần hóa, trao cho quyền quyết định cổ phần hóa đối với các DNNN có giá trị từ 10 tỷ đồng trở xuống. - Tổ chức tốt công tác tư vấn cổ phần hóa với việc đào tạo, tập hợp đội ngũ chuyên viên giỏi, để giúp các doanh nghiệp thực hiện các thủ tục cổ phần hóa, xây dựng phương án kinh doanh sau cổ phần hóa. - Yêu cầu các tỉnh, thành phố ban hành qui định về giá nhà xưởng, kho tàng, bến bãi, phương tiện vận tải, máy móc thiết bị để rút ngắn quá trình định giá doanh nghiệp. 3.2.2. Nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý và các cơ chế chính sách liên quan đến cổ phần hóa - Cần xem xét soạn thảo, sớm ban hành một văn bản pháp lý cao về cổ phần hóa để thể chế, chủ trương cổ phần hóa với các quy định rõ ràng cụ thể về các vấn đề: cổ phần khống chế, tiến trình định giá, chế độ hỗ trợ doanh nghiệp được cổ phần hóa, chế độ chính sách đối với người lao động để doanh nghiệp yên tâm cổ phần hóa. - Cần nới rộng tỷ lệ mua cổ phần đối với người và tổ chức nước ngoài đã đăng kí thường trú ở Việt Nam, bỏ khống chế mua cổ phần ưu đãi đối với cán bộ quản lý DNNN để họ tích cực tham gia vận động thực hiện cổ phần hóa, - Giải quyết thoả đáng đối với lao động dư thừa trong quá trình cổ phần hóa, có thể lập quỹ đền bù (quỹ trợ cấp thất nghiệp) từ nguồn tài chính như: tiền bán cổ phần, ngân sách Nhà nước,... - Sớm tổng kết, rút kinh nghiệm về hoạt động của thị trường chứng khoán để hoàn thiện cơ chế hoạt động của thị trường này như một công cụ thúc đẩy, khuyến khích cổ phần hóa. 3.2.3. Đẩy mạnh tuyên truyền cổ động cho cổ phần hóa Mục tiêu của đẩy mạnh tuyên truyền là làm cho các cấp, các nghành, từng doanh nghiệp và từng người lao động nhận thức sâu sắc về cổ phần hóa như một xu thế tất yếu và sẽ đem lại lợi ích lâu dài cho cả Nhà nước, lẫn cá nhân, từ đó tích cực, yên tâm thực hiện cổ phần hóa, đẩy mạnh nhanh tiến độ thực hiện chủ trương quan trọng này của Đảng và Nhà nước. kết luận Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một quá trình vô cùng khó khăn phức tạp vì nó đụng chạm đến nhiều vấn đề nhạy cảm, hơn nữa lại không có con đường chung nào cho tất cả các nước tiến hành CPH doanh nghiệp nhà nước. Những thành công và những bài học kinh nghiệm quý giá mà chúng ta thu được đã khẳng định CPh là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Qua 8 năm kể từ ngày thí điểm CPH, đã có gần 500 DNNN chuyển thành Công ty cổ phần. Cùng với việc thiết lập được một hệ thống quản lý mới chúng ta đã có thêm những doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao sẵn sàng tham gia vào quá trình hội nhập của đất nước. Niềm tin của dân vỡi Đảng được củng cố một bước thể hiện ở chỗ: chúng ta đã huy động được nguồn vốn khá lớn trong dân dùng để đầu tư phát triển sản xuất, giảm gánh nặng ngân sách cho Nhà nước khi mà liên tục phải bù lỗ cho các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Cơ chế mới được hình thành cũng là lúc ta dần xoá bỏ được những thói quen trong cơ chế cũ, tạo ra con người mới năng động, sáng tạo hứa hẹn một tương lai tươi sáng của đất nước sau này. Tuy nhiên, không chỉ có những kết quả tốt đẹp mà cả những thất bại, vướng mắc chúng ta gặp phải cũng không ít. Nhưng tin chắc rằng cùng với quyết tâm của Đảng, Chính phủ và sự ủng hộ của toàn dân thì Chương trình Cổ phần hoá nhất định sẽ thành công, hệ thống doanh nghiệp nhà nước sẽ khẳng định được vai trò và vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần phát triển theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. tài liệu tham khảo Trần Công Bẩy: Tiến trình và triển vọng Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam, Tc Phát triển kinh tế, 3/1998. Phan Thế Hải: Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước - tám năm nhìn lại, Tc CS, số 22, 11/2000. Trương Công Hùng: Cải cách doanh nghiệp Nhà nước, Tc Nghiên cứu kinh tế, số 257, 10/1999. Vũ Xuân Kiều: Cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước, Tc CS, số 13, 7/1999. Ngô Xuân Lộc: Cổ phần hóa, một yêu cầu bức thiết của cải cách doanh nghiệp Nhà nước, Tc CS, số 17, 1998. Nguyễn Minh Thông: Về vấn đề cải cách doanh nghiệp Nhà nước, Tc CS, số 18, 1999. Nguyễn Ngọc Quang: Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước - Cơ sở lý luận và kinh nghiệp thực tiễn, NXB KHXH, 1996. Tào Hữu Phùng: Cổ phần hóa - Nhiệm vụ quan trọng và bức bách, Tc CS, số 13, 1998. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần VII, VIII. 10. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước (các văn bản hiện hành), NXB CTQG, H, 1998.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0896.doc