Đề tài Những vấn đề lý luận chung về thẩm định dự án đầu tư

Thẩm định dự án đầu tư không phải chỉ một sớm một chiều mà giải quyết được. Ngân hàng phải tổ chức gặp gỡ khách hàng, thường xuyên xuống cơ sở để kiểm tra. Thẩm định dự án đầu tư không chỉ tiến hành khống chế ở một số giai đoạn kiểm tra trước mà còn tiến hành kiểm tra cả trong và sau khi vay vốn. Như vậy quá trình đó là liên tục, gắn liền với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngân hàng nên lập ra một quỹ riêng để chi phí cho hoạt động thẩm định dự án. Nó sẽ góp phần giảm bớt khó khăn cho cán bộ tín dụng khi tiến hành thẩm định, tạo điều kiện cho việc thẩm định dự án đầu tư được dễ dàng hơn. Đồng thời nó cũng góp phần để đào tạo cán bộ, tăng cường trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng tin học cho quá trình thẩm định để sớm đưa vào việc tính toán các chỉ tiêu tài chính phức tạp vào quy trình thẩm định

doc50 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1156 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những vấn đề lý luận chung về thẩm định dự án đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Máy ép hơi 2c 140000 140000 _ Máy ủi 2c 350000 350000 _ Máy xúc 2c 1500000 1500000 _ Ô tô vận chuyển 2c 156000 156000 _ Trạm nghiền 1c 640000 5119000 4479000 _ Trạm biến thế _ Sân bãi 800000 800000 5 Lao động Người 35 53 + 18 7.1 Thẩm định hiệu quả kinh tế chung của dây chuyền mới - Với số máy mới, thiết bị mới trên được đầu tư sản lượng hàng năm sẽ tăng 46.285 m3 - Hiện tại với số lượng 3 máy cũ năng suất đạt: 30 T/h một năm sản xuất được: 3 máy ´ 30 T ´ 7 h ´ 240 ngày ´50%công suất = 54.000 m3 1,4 tấn - Đầu tư máy mới thay 2 máy cũ năng xuất đạt ( Vì đầu tư chưa đồng bộ nên công suất máy chưa đủ, chỉ tính 60% công suất với ngày lao động bình quân 20 ngày/ tháng ) 100 T ´ 8 h ´ 240 ngày ´ 60% công suất = 82.285 m3 1,4 tấn - Giá thành bình quân 1m3 đó tại mỏ 36.327 đ/m3 - Giá bán bình quân 1m3 đó tại mỏ 41.333 đ/m3 - Giá trị sản lượng tăng so với 2 máy cũ. 82.285m3 - [ ( 54.000 m3 : 3 ) x 2 máy ] x 41.333đ = 1.913.097.905 đ -Lợi nhuận tăng so với 2 máy cũ: m3 ´ ( 41.333 đ - 36.327 đ ) = 231.702.710 đ 7.2 Thẩm định hịệu quả kinh tế riêng do vốn vay ngân hàng đem lại Phần lợi nhuận do vốn đầu tư mang lại. 231.702.710 đ ´ 4.450.000.000 = 123.556.268 đ 8.345.000.000 Phân phối lợi nhuận: 123.556.268 đ Trong đó: - Nộp Ngân sách nhà nước: đ ´ 25% = 30.889.067 đ - Nộp bộ quốc phòng. ( 123.556.268 đ - 30.889.067 ) ´ 20% = 18.533.440 - Trích quỹ đầu tư phát triển. ( 123.556.268 - 30.889.067 - 18.533.440 ) ´ 50% = 37.066.880 -Trích 2 quỹ dự phòng. - 30.889.067 - 18.533.440 ) ´ 25% =11.120.064 - Quỹ khen thưởng phúc lợi. (123.556.268 - 30.889.067 - 18.533.440 -37.006.880 - 11.120.064) = 25.946.817. Phần trả nợ ngân hàng từ phân phối lợi nhuận. + 11.120.064 = 48.186.944 đ Như vậy đầu tư máy đã góp phần tăng sản lượng 46.285 m3, tăng giá trị sản lượng 1.913.097, tăng lợi nhuận 231.702.710 đ, nộp ngân sách tăng 49.422.507đ 7.3 Thẩm định việc dự toán vốn đầu tư Để thẩm định việc dự toán vốn đầu tư cán bộ tín dụng đã dự vào các tài liệu sau. Danh mục đầu tư theo chỉ định của chính phủ ; QĐ 237 KTTH ngày 20/9/1999 của thủ tướng CP. Hợp đồng mua bán hàng hoá số 56 CM 2 - 2000 được ký kết giữa công ty COMEC SPA ITALY và công ty xây dựng công trình 56. Và các tài liệu khác. ( Với tỷ giá 1USD = 11.690VNĐ theo tỷ giá ngày 11/7/2000 ) TT Danh mục đầu tư VNĐ USD 1 Dây truyền nghiền sàng chính 4.238.794.000 362.600 2 Phụ tùng thay thế 151.970.000 13000 3 Phí vận tải đến nơi lắp đặt 49.098.000 4.200 4 Tổng cộng 4.439.862.000 379.800 5 Chi phí khác 750.000.000 Với tổng số tiền 4.439.862.000 cán bộ tín dụng tính tròn số là 4.450.000.000 VNĐ và khi phát tiền vay sẽ tính theo giá cụ thể của ngày vay. * Về nguồn vốn đầu tư: Tổng 5,2 tỷ Trong đó: Vay NH 4,450 tỷ chiếm tỷ trọng 85,58% Vốn đơn vị: 0,75 tỷ chiếm tỷ trọng 14,42% - Nguồn vốn vay Ngân hàng đã có trong danh mục bổ sung ( QĐ 327 ngày 20/9/1999 của thủ tướng chính phủ là 4,5 tỷ ) - Nguồn vốn đơn vị: Trích từ quỹ phát triển sản xuất năm 1999 là 200 triệu, quỹ đầu tư XDCB là 200 triệu, số còn lại thiếu 350 triệu sẽ lấy từ nguồn vốn KHCB - TSCĐ năm 2000. * Xem xét công nghệ nhập. - Nhập ngoại mới 100% của ITALY dây chuyền nghiền sàng đá. 7.4 Thẩm định phương án hoàn trả vốn Ngân hàng - Giá mua thiết bị Ngân hàng cho vay là: 4.450.000.000 đ - Nguồn trả nợ Ngân hàng. + Từ KHCB - TSCĐ mới đầu tư; 5.200.000.000đ: 7năm: 5.200.000.000 đ ´ 4.450.000.000 đ = 635.714.285 + Từ lợi nhuận: 48.186.944 Tổng = 683.901.229 đ 683.901.229 Vậy: Bình quân mỗi tháng trả nợ là: = 56.991.769 12 Số tháng trả nợ. 4.450.000.000 = 78,08 tháng ằ 6 năm 5 tháng 56.991.769 + Thời gian ân hạn : 3 tháng. + Thời gian vay vốn: 6 năm 8 tháng. + Thời gian thu nợ : Từ tháng 11/2000 đén tháng 4/2004 7.5 Tài sản thế chấp Theo văn bản hướng dẫn số 572/NHCT - DA ngày 26/3/2000 đối với các dự án đầu tư theo chỉ định của chính phủ, các doanh nghiệp nhà nước không phải thế chấp tài sản. 8. Đánh giá chung Căn cứ vào kết quả thẩm định đã nêu ở trên cho thấy việc đầu tư dây chuyền nghiền sàng đá của công ty là cần thiết. Công ty là đơn vị có quan hệ tín dụng với Ngân hàng đã nhiều năm và là đơn vị có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng. Mặt khác công ty đã và đang sản xuất đá do đó đầu tư máy là sản xuất được ngay. Công ty là đơn vị làm đường nên bao tiêu được một phần sản phẩm. Trong các năm qua giá trị sản lượng của công ty luôn luôn tăng, thể hiện qua số liệu sau; Năm 1998 tăng 5,12 % so với năm 1997. Năm 1999 tăng 36,15 % so với năm 1998. Năm 2000 tăng 78,57% so với năm 1999. Do đó nhu cầu đổi mới thiết bị cũng như nhu cầu vốn ngắn hạn ngày càng tăng. Về vấn đề đầu tư chưa đồng bộ và thay đổi địa điểm - cơ quan chủ quản đã chấp nhận và xác nhận với dự án của đơn vị theo văn bản số 336/CV ngày 12/5/97. Trong quan hệ vay vốn với Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội, phòng kinh doanh đã đi xác minh tại NHTM cổ phần Quân Đội và đơn vị đã xác nhận tốt trong quan hệ tín dụng là vay trả sòng phẳng và không có nợ quá hạn ( Tại văn bản số 433/ TC ngày 30/7/2000 ). Theo tôi dự án này khả thi, đầu tư được và có khả năng trả được nợ Ngân hàng. Số tiền đề nghị đầu tư: 4.450.000.000 đ Lãi suất : 0.81% (theo công văn số 1806 NHCT - DA ngày 16/08/2000) Thời hạn cho vay: 6 năm 8 tháng Thời hạn thu nợ: 6 năm 5 tháng (từ tháng 11/2000 đến 4/2004 ) Số tiền trả mỗi tháng: 56.991.000 đ. III. Những thành công và tồn tại trong công tác thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng công thương khu vực II - Hai Bà Trưng 1. Một số thành tự đạt được Chúng ta đều biết rằng về nguyên tắc tất cả các dự án xin vay đều phải qua bước thẩm định kỹ càng trước khi duyệt cho vay. Tuy nhiên đối với các món cho vay ngắn hạn thì việc thẩm định sẽ đơn giản hơn so với các dự án cho vay dài hạn. Sở dĩ như vậy là vì các đầu tư trung dài hạn thường đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn dài, do đó khó xác định các yếu tố liên quan quyết định đến hiệu quả vốn vay trong tương lai như phương diện thị trường, độ nhạy của dự án.. . Trong những năm gần đây, hoạt động thẩm định dự án đầu tư đã được Ngân hàng công thương - Hai Bà Trưng đặc biệt coi trọng. Cán bộ tín dụng đã đi sâu, kiểm tra xem xét mọi mặt, mọi phương diện của dự án xin vay vốn đầu tư. Từ đó phân tích, đánh giá kỹ càng để đưa ra kết luận cuối cùng là có đầu tư hay không ? Nỗ lực của cán bộ đã góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động thẩm định dự án tại Ngân hàng, loại bỏ các dự án không có hiệu quả hay không chắc chắn, có nhiều tính rủi ro và đưa ra quyết định đầu tư đối với các dự án được đánh giá khả thi, mang lại lợi nhuận cho cả chủ dự án lẫn Ngân hàng. Cũng nhờ những nỗ lực của cán bộ tín dụng trong việc nâng cao chất lượng của quá trình thẩm định dự án mà mức độ an toàn vốn của Ngân hàng theo đó cũng được nâng lên. Hay nói cách khác việc phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng cũng có cơ sở vững chắc hơn và có hiệu quả hơn. Trong vòng 5 năm trở lại đây, nhờ những cố gắng nâng cao chất lượng thẩm định mà số nợ quá hạn của Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng có xu hướng giảm xuống, không có nợ quá hạn mới phát sinh kể từ sau khi chấn chỉnh hoạt động của Ngân hàng. Dư nợ quá hạn của năm 2000 là 21,3 tỷ chiếm 6,1% trên tổng dư nợ. Nhưng năm 2001 dư nợ đã giảm xuống 15,01 tỷ chiếm 4,4% trên tổng dư nợ. Tuy số nợ quá hạn này còn lớn nhưng chủ yếu là do nợ quá hạn từ năm trước chuyển sang. Mặt khác việc nghiên cứu xem xét thẩm định dự án theo từng bước một cách kỹ càng cũng khiến cho doanh nghiệp xin vay vốn đầu tư trung dài hạn từ khi lập dự án đến khi đi vào hoạt động luôn phải chú ý đến hiệu quả sử dụng vốn của mình. Trong việc kiểm tra phân tích các phương diện của dự án cán bộ thẩm định sẽ một lần nữa giúp chủ đầu tư đánh giá mức độ hợp lý của tổng vốn đầu tư, thời điểm rót vốn, tiến độ của dự án .. . được sử dụng sao cho có hiệu quả nhất, tiết kiệm vốn, đặc điểm là tiết kiệm nguồn ngoại tệ, chỉ ra các phần vốn sử dụng lãng phí kém hiệu quả trong đời hoạt động dự án. Nhờ đó Ngân hàng đã giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm hàng tỷ đồng vốn đầu tư. Các dự án đầu tư trung và dài hạn của Ngân hàng từ những năm trước đây đã phát huy hiệu quả và đang trong giai đoạn hoàn vốn. Tuy công tác đầu tư mới cho các doanh nghiệp thực sự là khó khăn nhưng Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã tìm biện pháp khắc phục nhằm nâng dần vốn đầu tư trung và dài hạn trong tổng dư nợ .. . Đây là những thành tựu mà hoạt động thẩm định dự án tại Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đạt được. Tuy còn nhỏ bé và cũng chưa phải là tất cả những gì mà Ngân hàng mong đợi nhưng những thành công trên đây cũng là đáng mừng. Để đạt được những thành công hơn nữa về mọi mặt đòi hỏi phải không ngừng đổi mới, tăng cường hiệu quả thẩm định dự án đầu tư, góp phần nâng cao hơn nữa về chất lượng kinh doanh của ngân hàng. 2. Những vấn đề còn tồn tại Qua thực trạng công tác thẩm định dự án được tiến hành ở Ngân hàng công thương - Hai Bà Trưng ở trên, đồng thời căn cứ vào những chính sách, cơ chế hiện đang áp dụng, bên cạnh những thành tựu đạt được, em xin đưa ra các vấn đề cần phải xem xét để góp phần nâng cao hiệu quả công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng. 2.1. Đa số chưa phân tích kỹ càng trên mọi phương diện của dự án. Một dự án để đánh giá có khả thi hay không thì phải phân tích trên 6 phương diện chính sau: Phân tích về sự cần thiết phải đầu tư, thẩm định về phương diện thị trường, thẩm định về phương diện kỹ thuật, thẩm định về phương diện tài chính, thẩm định về phương diện tổ chức quản lý, thẩm định về phương diện hiệu quả kinh tế xã hội. Việc phân tích cả 6 nội dung này sẽ đem lại sự nhìn nhận, đánh giá những ưu điểm nhược điểm của dự án một cách chính xác, toàn diện và đưa ra kết luận về tính khả thi của dự án một cách chắc chắn nhất. Muốn đánh giá một dự án thì phải đánh giá nhiều khía cạnh, vì các khía cạnh này có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau. Do vậy không được coi nhẹ bất kỳ phương diện nào khi đánh giá một dự án. ( Nhưng thực tế còn một số tồn tại ). Thứ nhất: Việc phân tích không kỹ càng trên mọi phương diện của dự án đã dẫn tới việc khẳng định đánh giá tính khả thi của dự án đầu tư chủ yếu dựa vào kết quả phân tích, tính toán phần phương diện tài chính của dự án là chủ yếu. Như vậy kết luận về một dự án lại chỉ phụ thuộc chủ yếu vào việc phân tích một phương diện của dự án. Chắc chắn việc phân tích này sẽ cho một kết luận không chính xác, nhiều khi lại sai lầm phiến diện. Thứ hai: Việc phân tích thị trường đánh giá khả năng cạnh tranh khả năng thâm nhập thị trường đối với sản phẩm của dự án liên qua đến nhiều vấn đề đòi hỏi phải có một kiến thức tổng hợp và sự nhậy bén về dự đoán trong tương lai. Vì hạn chế về trình độ của một cán bộ thẩm định nên nhiều khi việc phân tích này chưa đánh giá được khả năng cạnh tranh của sản phẩm, chưa đánh giá được mức độ thâm nhập thị trường của sản phẩm cũng như thị hiếu tiềm năng của người tiêu dùng trong tương lai đối với sản phẩm. Vì vậy trong nhiều trường hợp việc thẩm định về phương diện thị trường còn sơ sài mang tính lấy lệ là chủ yếu.. . đặc biệt đối với những sản phẩm mới, trên thị trường mới hay những sản phẩm đã được phát triển ồ ạt không có sự quản lý. Do đó dự án khi bắt đầu sản xuất mới nhận ra những bất ổn trong khâu tiêu thụ, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của dự án. Thứ ba: Về phương diện kỹ thuật cũng sảy ra tình trạng tương tự. Do trình độ của cán bộ thẩm định tín dụng hạn chế, đồng thời ở nước ta việc có các trung tâm tư vấn về vấn đề này chưa có nhiều và chưa đạt chất lượng tốt nên về vấn đề kỹ thuật bản thân cán bộ tín dụng cũng như Ngân hàng chưa đánh giá được tính tiên tiến của các máy móc, thiết bị của dự án. Máy móc thuộc thế hệ nào lạc hậu không .. . có đảm bảo với công suất của nhà máy không? có đảm bảo vận hành tốt trong môi trường khí hậu của ta không.. . mà mọi vấn đề này Ngân hàng đều bắt chủ dự án đảm bảo. Việc bắt chủ dự án đảm bảo nhiều khi không đáng tin cậy vì chủ quan của họ chỉ muốn vay được vốn của Ngân hàng. Thứ tư: Cán bộ tín dụng nhiều khi chưa phân tích cụ thể khả năng sử dụng thiết bị, vận hành công nghệ mới của dự án như trình độ của đội ngũ kỹ sư, công nhân kỹ thuật.. . xem có đủ khả năng vận hành máy không? .. kết quả là một số dự án duyệt trong tình trạng tính khả thi của dự án và phương diện kỹ thuật không đạt, gây ảnh hưởng đến hoạt động của dự án khi dự án thực sự đi vào hoạt động. 2.2. Chưa có sự vận dụng các phương pháp hiện đại để tính toán và đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư. Việc vận dụng các phương pháp hiện đại ( như các chỉ tiêu NPV,IRR.. .) để tính toán, đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án còn mang tính hình thức chưa thực sự thiết thực, nhiều khi áp dụng vào cho có hình thức, cho đúng. Chính vì vậy những nhận xét từ kết quả của các cách tính từ các phương pháp đó ra chưa được cán bộ tín dụng quán triệt theo đúng ý nghĩa của nó, vì vậy có khi tính nó ra trong quá trình thẩm định dự án nhưng sự nhận xét về tính khả thi của dự án vẫn dựa trên phương pháp giản đơn và kinh nghiệm của cán bộ trong quá trình công tác. Do bản chất của việc đầu tư là rủi ro nên trước khi quyết định đầu tư phải tiến hành phân tích những yếu tố rủi ro, lường trước những tình huống bất trắc sẽ nảy sinh trong tương lai, trên cơ sở đó tính toán lại hiệu quả đầu tư. Vì lý do trên nên việc phân tích tài chính theo phương pháp giản đơn sẽ đem lại một kết quả hoàn toàn không chính xác, nhiều khi sai lệch nghiêm trọng. 2.3. Việc phân tích hoạt động sản suất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn còn sơ sài, thiếu chính xác. Khi thẩm định về doanh nghiệp vay vốn bên cạnh những xác minh về tư cách pháp nhân, sơ lược các giai đoạn phát triển từ khi thành lập tới thời điểm hiện tại thì Ngân hàng phải phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tối thiểu 3 năm gần đây. Việc phân tích này căn cứ vào báo cáo tài chính của doanh nghiệp, mà các báo cáo này thường là các con số trong quá khứ, chính vì vậy nó đã bị lạc hậu so với hiện tại, nhiều khi các báo cáo này còn thiếu chính xác so với thực tế. Bên cạnh đó các chỉ tiêu cần tính toán để đánh giá khả năng tự cân đối tài chính của doanh nghiệp rất quan trọng nhưng có dự án chỉ tính vài chỉ tiêu chứ không tính hết 5 chỉ tiêu: Hệ số tài trợ, năng lực đi vay, khả năng thanh toán chung, khả năng thanh toán ngắn hạn, khả năng thanh toán cuối cùng. Đơn cử như dự án cho vay đối với công ty 56 này cán bộ tín dụng chỉ tính: Tỷ suất lợi nhuận, hệ số tài trợ, khả năng thanh toán chung, khả năng thanh toán ngăn hạn. - Về tình hình công nợ thì Ngân hàng đôi khi còn chưa nắm được hết các thông tin hiện nay doanh nghiệp còn vay nợ ở những tổ chức tín dụng nào, dư nợ bao nhiêu và hiện mở bao nhiêu tài khoản ở các Ngân hàng nào.. . - Việc thẩm định về khả năng tổ chức quản lý, điều hành dự án, thẩm định về môi trường xã hội nhiều khi rất quan trọng, nó có tác động lớn tới hiệu quả của dự án nhưng đôi khi công việc này đã bị bỏ qua hoặc dựa vào mối quan hệ lâu dài với các doanh nghiệp nên Ngân hàng đã chủ quan không chú ý đến. 3. Nguyên nhân của những tồn tại Từ thực tế còn tồn tại trong hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng, có thể nhận định rằng tình trạng còn tồn tại này do một số nguyên nhân sau: Đứng trên giác độ ngân hàng ( có thể được lý giải ) Quy trình thực hiện dự án đầu tư bao gồm 2 giai đoạn: + Thu thập thông tin cần thiết cho việc đánh giá phân tích. + Sau khi thu thập thông tin, tiến hành sắp xếp các loại thông tin, áp dụng phương pháp đối chiếu, so sánh để xử lý, đánh giá phân tích một các có hệ thống theo các nội dung thẩm định. Hai công đoạn trên có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau và có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thẩm định. Nếu thông tin không đầy đủ và chính xác sẽ làm việc phân tích sử lý thông tin mang tính phiến diện và nhiều khi kết quả phân tích không có ý nghĩa dẫn đến kết luận sai về tính khả thi của dự án. Ngược lại mặc dù thông tin thu thập đầy đủ chính xác nhưng việc xử lý thông tin lại không theo một phương pháp đánh giá, phân tích một cách có hệ thống, khoa học cũng dẫn đến kết quả thẩm định không chính xác. Trong cơ chế thị trường vấn đề thông tin ngày càng quan trọng và được đưa lên hàng đầu. Trên thực tế vấn đề thông tin không đầy đủ, không chính xác đã gây ảnh hưởng không nhỏ và tạo ra những bất lợi đối với Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng nói riêng và toàn bộ hệ thống Ngân hàng nói chung. Bởi lẽ do mục đích của người đi vay là được vay vốn, vì vậy có trường hợp họ thường tìm đủ mọi cách để có đầy đủ các điều kiện vay vốn theo quy định của Ngân hàng. Họ sẵn sàng cung cấp các thông tin sai lệch với thực tế như: Khai tăng tài sản cố định, sửa đổi số liệu trong báo cáo tài chính.. . Cho nên nếu như cán bộ thẩm định mà không xem xét kỹ càng, tỷ mỷ hoặc không đủ trình độ để phát hiện gian lận sai sót đó rất dễ dẫn đến hậu quả không thu hồi được vốn cho vay, dẫn đến nợ quá hạn và gây rủi ro cho Ngân hàng. Mặt khác trong quá trình thẩm định dự án đầu tư, cán bộ thẩm định chỉ có một nguồn thông tin do khách hàng cung cấp là chủ yếu, có rất ít nguồn để kiểm chứng, tuy rằng trên thực tế trung tâm phòng ngừa rửi ro đã ra đời nhưng sự cung cấp thông tin của nó cho Ngân hàng rất ít và chưa có sự giúp đỡ của các bên có liên quan tới dự án nên sai sót là điều khó tránh khỏi. Quá trình xử lý thông tin để đánh giá, phân tích về tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng như dự án còn nhiều hạn chế, không đánh giá được đầy đủ mọi biến động của dự án trong thời gian hoạt động hay vòng đời của dự án mà nguyên nhân chủ yếu là do chất lượng của quy trình thẩm định gây ra. b. Đứng trên giác độ chủ đầu tư. Nhiệm vụ của khách hàng là cung cấp đầy đủ, trung thực những thông tin cần thiết liên quan tới dự án. Nhưng trên thực tế có các doanh nghiệp khi vay vốn thường cung cấp cho Ngân hàng những báo cáo tài chính không trung thực, không phản ánh đủ chính xác thực trạng sản xuất kinh doanh của mình, hoặc cung cấp không đầy đủ nếu có thể. Do vậy Ngân hàng khó có thể đi sâu vào những lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên mâu thuẫn trên là mang tính tự nhiên do các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh hạch toán độc lập cho nên kết quả thu nhập sẽ là căn cứ để tính thuế mà doanh nghiệp phải nộp cho Ngân sách nhà nước, do vậy việc khai báo kết quả sản xuất kinh doanh sai thực tế để trốn thuế là điều mà các doanh nghiệp thường làm. Bên cạnh đó dự án muốn được vay vốn phải có hiệu quả và tính khả thi cao, vì vậy luận chứng kinh tế kỹ thuật của dự án thường khai tăng hiệu quả kinh tế, tăng sản lượng tiêu thụ dự kiến và giấu đi các rủi ro tiềm ẩn đối với khoản vay. Như vậy nếu khách hàng không cung cấp cho Ngân hàng những thông tin đầy đủ, chính xác sẽ dẫn đến kết quả thẩm định không phản ánh đúng thực tế và dễ đưa ra quyết định sai lầm. Ngoài ra nền kinh tế nước ta mới chuyển sang cơ chế thị trường, nên các tài liệu về dự án đầu tư và quản lý dự án đầu tư đều của nước ngoài. Do đó các khái niệm, các thuật ngữ được đề cập trong các dự án vẫn còn khá nhiều mới mẻ với các chủ đầu tư và cán bộ thẩm định. Nên không tránh khỏi sự thiếu nhất quán trong cách sử dụng. Thêm vào đó thị trường tư vấn ở nước ta còn chưa phát triển nên hầu hết các dự án đầu tư đều do chủ đầu tư với trình độ hạn chế lập ra. Kết quả là các dự án được lập ra còn sơ sài, không đạt tiêu chuẩn hoặc mất chi phí quá cao. Do vậy công tác thẩm định dự án đầu tư gặp rất nhiều khó khăn, gây ảnh hưởng đến độ an toàn của hoạt động tín dụng. c. Về phía nhà nước Hiện nay cơ chế chính sách thiếu đồng bộ và còn nhiều điều bất hợp lý, đang tạo ra một trở ngại to lớn cho việc thẩm định dự án đầu tư: cụ thể: - Trong những năm gần đây các bộ luật đất đai, về khuyến khích đầu tư đã được ban hành nhưng vẫn còn nhiều thiếu sót. Những quy định cụ thể của chính phủ về việc giao đất hoặc thuê đất còn thiếu yếu tố thời gian - Một yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng trực tiếp đến đời dự án. Những quy hoạch đất đai liên quan đến các vùng kinh tế, vùng dân cư, hay công trình giao thông.. . lại thường xuyên bị thay đổi, gây ra tâm lý bất ổn cho các doanh nghiệp, khiến họ không yên tâm để đầu tư vốn kinh doanh. Và khi có sự thay đổi về quy hoạch đất đai hay chế độ thu phí thuê đất thì rủi ro lại thuộc về phía Ngân hàng và doanh nghiệp. Chính vì vậy trong quá trình thẩm định dự án cán bộ tín dụng thường mất rất nhiều thời gian cho vấn đề này. - Công tác quản lý Nhà nước về chấp hành pháp lệnh kế toán thống kê đối với doanh nghiệp ( đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh ) còn chưa được quan tâm đúng mức. Trong khi đó công ty kiểm toán VACO mới ra đời, phạm vi hoạt động còn hẹp và số lượng các công ty kiểm toán độc lập còn ít mà chủ yếu trong thành phố HCM. Với đặc điểm hoạt động kế toán của doanh nghiệp như vậy cán bộ tín dụng sẽ rất khó khăn trong việc lấy số liệu để tính toán các chỉ tiêu vì giữa hai chế độ kế toán cũ và mới tuy còn dựa trên một nguyên tắc song lại có những điểm khác nhau. Điều này sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới quá trình thẩm định dự án. - Các văn bản, các quy chế cho vay ban hành từ trung ương cũng chưa đảm bảo chặt chẽ. Đơn cử vấn đề tài sản thế chấp, trước đây hầu hết doanh nghiệp vay vốn tín chấp Ngân hàng. Chuyển sang cơ chế thị trường để đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng Ngân hàng thì các khoản cho vay phải được cầm cố thế chấp, bảo lãnh ( quy chế thế chấp, cầm cố theo quyết định 217/QĐ - NH ngày 17/8/1999 của thống đốc NH nhà nước Việt Nam). Việc cho vay sẽ gặp rất nhiều khó khăn vì: Cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì việc thế chấp cầm cố là hợp lý. Nhưng hiện nay vấn đề về thế chấp cầm cố còn tồn tại nhiều vấn đề khiến cho công tác thẩm định dự án của Ngân hàng còn khó khăn như: Do có qua nhiều luật, quy chế chồng chéo, sự phối hợp giữa cách ngành về lĩnh vực này chưa tốt .. . chính vì vậy làm khó khăn cho cán bộ tín dụng trong quá trình thẩm định phải mất nhiều thời gian để kiểm tra xác minh. Hơn nữa việc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường mang đất, nhà xưởng, hay trụ sở làm việc.. . để thế chấp. Nhưng trên thị trường bất động sản hiện nay giá cả biến động rất mạnh do vậy việc đánh giá tài sản thế chấp là rất khó khăn, cơ sở thẩm định rất bấp bênh, chủ yếu là định giá trên sự thoả thuận giữa người vay và Ngân hàng cho nên dễ dẫn đến sai sót. Tóm lại: Ngoài những nguyên nhân cơ bản trên đây thì những tồn tại trong quá trình thẩm định dự án đầu tư còn bị ảnh hưởng nhiều nguyên nhân khác ( trong khuôn khổ 1 luận văn có giới hạn về số lượng em không trình bày hết được ). Vậy việc tìm ra các biện pháp khắc phục và hoàn thiện nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư đang đòi hỏi cấp bách. chương III Một số biện pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án tại ngân hàng công thương khu vực II - Hai Bà Trưng Đất nước ta đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Nói theo quan điểm triết học thì chúng ta đang ở giai đoạn tích luỹ về lượng để đến một “điểm mút” nhảy vọt đưa Việt Nam trở thành con rồng mới trong khu vực kinh tế năng động nhất thế giới. Trong giai đoạn quá độ này, cái cũ chưa tắt hẳn, cái mới thì chưa tới, mọi giá trị dường như bị đảo lộn, vậy để vật lộn với tình hình này nhằm đưa chất lượng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng lên cao không còn cách nào khác Ngân hàng cần phải khắc phục những tồn tại của những năm vừa qua và định hướng hoạt động cho năm tới. I. Phương hướng hoạt động tín dụng của Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng trong thời gian tới. Theo định hướng chung của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, với sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng trong những năm qua đã cố gắng vượt khó khăn, thử thách với phương châm “ổn định, an toàn, hiệu quả, phát triển” Trong năm 2002 chi nhánh đã đề ra phương hướng phát triển, là tiêu chí phấn đấu cho mọi hoạt động tín dụng của mình: ã Tiếp tục phát triển nguồn vốn huy động, đảm bảo tăng trưởng 20% so với năm 2001. ã Thực hiện cơ chế tín dụng để đảm bảo an toàn vốn và tăng trưởng dư nợ một cách lành mạnh từ 10 á 15% so với năm 2001. ã Tăng trưởng dư nợ vay trung và dài hạn, đảm bảo tỷ trọng đầu tư từ 16 á 20% trong tổng mức đầu tư. ã Khắc phục nhanh chóng và có hiệu quả các khó khăn tồn tại trong kinh doanh, những sai sót trong chấp hành cơ chế, thể lệ tín dụng.. . Như chúng ta đã biết, hoạt động Ngân hàng là một hoạt động kinh doanh mang tính đặc thù khác hẳn với kinh doanh hàng hoá thông thường. Bởi vậy trong cơ chế thị trường - một cơ chế mà mặt trái của nó chỉ toàn là thủ đoạn lừa lọc, thực hiện lợi nhuận tối đa bằng bất kỳ giá nào - Ngân hàng rất dễ gặp rủi ro trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã và đang tổ chức thực hiện tốt phương án chấn chỉnh hoạt động Ngân hàng, xem đây là nhiệm vụ cấp bách xuyên suốt trong mọi hoạt động kinh doanh của Ngân hàng: ã Trước hết, mọi cán bộ tín dụng và các cán bộ có liên quan phải thực hiện nghiêm túc công tác chấn chỉnh hoạt động Ngân hàng, chấn chỉnh hoạt động tín dụng, thực hiện đúng chế độ, thể lệ tín dụng hiện hành do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành cũng như chấp hành đúng đắn các văn bản của Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam. ã Chủ động tích cực tìm kiếm và lựa chọn khách hàng, xây dựng một đội ngũ khách hàng ổn định, tin cậy có tính chiến lược để tạo lợi thế cho kinh doanh dịch vụ Ngân hàng. ã Thường xuyên chú trọng đến công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm phát hiện kịp thời những sai sót trong mặt nghiệp vụ, đảm bảo an toàn tài sản, tránh rủi ro trong hoạt động kinh doanh. ã Tổ chức bộ máy cán bộ, đảm bảo cho mọi cán bộ công nhân viên phát huy được khả năng của mình trong công tác.. . II. Những biện pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Qua phân tích thực tế và đánh giá hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng ta thấy rằng Ngân hàng đã và đang cố gắng để thực hiện công tác thẩm định tốt hơn và góp phần khắc phục những tồn tại trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay khi nền kinh tế còn đang trong giai đoạn chuyển tiếp, các chế độ và chính sách còn chưa đồng bộ, nhiều điều còn chưa hợp lý và còn luôn thay đổi thì yêu cầu đòi hỏi phải có các biện pháp tích cực và cụ thể hơn nữa nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả trong hoạt động thẩm định của Ngân hàng là yêu cầu cần thiết. Bằng sự hiểu biết và học hỏi của bản thân và với mong muốn cùng Ngân hàng giải quyết và khắc phục những tồn tại trên em xin trình bày một số đề suất như sau: Về phía nhà nước và các cơ quan hữu quan Như chúng ta đã biết hệ thống chính sách của nhà nước có ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như: Kinh tế, chính trị, văn hoá.. . Bất kỳ một thay đổi nào trong chính sách của Nhà nước cũng đều tác động ngay lập tức đến toàn xã hội, quá trình thẩm định dự án đầu tư không phải là trường hợp ngoại lệ. Dưới đây ta xem xét một số vấn đề còn nổi cộm. 1.1.Xây dựng một sân chơi đồng nhất và ổn định Để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, hiện nay nhu cầu vốn đầu tư của Việt Nam là rất lớn, cả về đầu tư cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng lẫn đầu tư cho các dự án khác. Thông thường các dựa án đầu tư cho cơ sở hạ tầng được nhà nước khuyến khích và hỗ trợ vốn. Thế còn các dự án khác thì sao ? nguồn vốn đầu tư phải tìm ở đâu ? Câu trả lời là: Nguồn vốn tự có, đi vay hoặc viện trợ .. . hầu như các nguồn vốn đó là đi vay. Các dự án này phần nhiều thuộc khu vực tư nhân. Nhưng trong thực tế đầu tư vào khu vực này đang gặp rất nhiều khó khăn, bởi rất nhiều các quy định và quy chế. Việc có quá nhiều quy định và quy chế này dẫn đến việc khi đưa xuống địa phương thực hiện thì đã bị sai lệch đi nhiều hay bị các quan chức địa phương tuỳ tiện áp dụng. Nó đã tạo ra tệ nạn tham nhũng, sách nhiễu gây cản trở nhiều đến việc đầu tư của tư nhân hay của Nhà nước, của nước ngoài hay của trong nước. Bệnh quan liêu giấy tờ trong các thủ tục hành không chỉ là “ cơn ác mộng “ đối với các nhà đầu tư .. . nó còn làm nản lòng các nhà đầu tư, và không loại trừ ảnh hưởng đến công tác thẩm định dự án. Bởi vì những quy định, những điều khoản mập mờ như vậy nó làm cho các cán bộ tín dụng rất khó khăn trong việc đánh giá tính pháp lý trong hồ sơ xin vay. Nạn tham nhũng, ô dù sẽ tạo ra những chứng thực không đúng với thực tế. Do đó khi thẩm định dự án đầu tư cán bộ tín dụng có thể đưa ra những quyết định sai lầm nếu chỉ nhìn vào các dấu son và các chữ ký xác nhận. Bên cạnh đó, trong khi chính phủ công bố đối sử bình đẳng như nhau đối với tất cả các thành phần kinh tế, nhưng lại có hàng loạt các quy chế rắc rối được đưa ra nhằm đặt các doanh nghiệp quốc doanh vào vị trí thuận lợi hơn so với các thành phần kinh tế khác. Trong mọi việc dù là đi vay tiền hay xin giấy phép kinh doanh, xuất nhập khẩu, hay về thuế.. . doanh nghiệp quốc doanh thường được ưu đãi hơn so với doanh nghiệp tư nhân. Như vậy bằng chính sách của mình Nhà nước đã tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi hơn cho doanh nghiệp nhà nước. Chính vì vậy khi nào doanh nghiệp quốc doanh còn cảm thấy được lợi thế này thì họ không cần thiết phải nỗ lực hết sức trong hoạt động kinh doanh của mình. Môi trường kinh doanh không bình đẳng này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động thẩm định dự án. Nó tạo tâm lý thiên vị đối với doanh nghiệp quốc doanh của cán bộ tín dụng. Họ thường muốn duyệt vay cho doanh nghiệp quốc doanh hơn là các doanh nghiệp tư nhân, bởi lẽ các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ thì vẫn có khả năng được Ngân sách cấp bù hay chỉ định các Ngân hàng cho vay với lãi suất ưu đãi.. . Như thế một cách gián tiếp trong quá trình thẩm định cán bộ tín dụng đã bỏ qua những dự án có khả năng sinh lời cao hơn do các doanh nghiệp tư nhân xin vay. Vì vậy có thể nói nguồn vốn trong nước đã bị sử dụng lãng phí. Để cải thiện tình hình này Nhà nước cần xem xét lại các quy chế, chính sách của mình sao cho hợp lý, nhằm tạo môi trường kinh doanh ổn định, tạo một “ sân chơi đồng nhất ”. Có như vậy sự cạnh tranh trong nước mới lành mạnh, tạo sự thúc đẩy phát triển của xã hội, sản xuất tăng lên, chất lượng hàng hoá được nâng cao, giá thành hạ, cạnh tranh được với hàng hoá của các nước, hiệu quả sử dụng vốn cao.. . Mặt khác ngoài việc tạo “một sân chơi đồng nhất” thì Nhà nước cần phải xây dựng một cơ chế, chính sách ổn định để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hiện có hoạt động, thu hút được vốn đầu tư từ nước ngoài vào. Để được như vậy thì Nhà nước chỉ ra các quy chế, chính sách, luật đầu tư .. . hôm nay vẫn còn có hiệu lực vào ngày mai, 5 năm sau và lâu hơn nữa. 1.2.khắc phục những thiếu sót trong luật đất đai Đất đai thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, mọi tổ chức kinh tế và cá nhân đều có quyền sử dụng đất chứ không có quyền sở hữu. Với diện tích đất đai nhỏ hẹp, dân số lớn nên quyền sử dụng đất đai ở Việt Nam rất có giá trị. Việc sử dụng đất đai có hiệu quả hay không trở nên quan trọng đối với nền kinh tế. Hiện nay ngoài việc đầu tư chiều sâu, hầu hết các dự án đầu tư trung và dài hạn đều sử dụng đất đai để mở rộng quy mô sản xuất, hoặc xây dựng mới. Mặt khác ở nước ta đang rất cần có đất để xây dựng, mở rộng, cải tạo các cơ sở hạ tầng .. . Cho nên việc sử dụng đất đai sao cho có hiệu quả càng trở nên phức tạp. Chính vì vậy luật đất đai có ảnh hưởng lớn đến vốn đầu tư. Trên thực tế các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có thể sử dụng đất. Nhưng để có quyền sử dụng đất đai, thông thường các dự án phải thông qua một cơ chế khá phức tạp, phải qua nhiều cấp xét duyệt như nhiều thủ tục, qua nhiều bước trung gian .. .. Rõ ràng với những quy định rắc rối này chủ đầu tư sẽ phải tiêu hao khá nhiều thời gian tiền của và công sức. Đương nhiên khi thẩm định dự án có liên quan tới quyền sử dụng đất đai, vì tính phức tạp của nó nên cán bộ tín dụng phải mất nhiều thời gian rà soát thật kỹ càng. Vì vậy nó làm chậm tiến độ thẩm định dự án. Bên cạnh tính phức tạp của những quy định, thủ tục thì thời gian sử dụng đất đai còn nhiều vấn đề vướng mắc. Luật đất đai hiện nay tuy phần nào khắc phục được các tranh cãi về quyền chuyển nhượng, quyền sử dụng đất đai làm tài sản thế chấp .. . nhưng vẫn cần phải làm rõ thêm về thời hạn sử dụng đất. Luật này không quy định thời hạn sử dụng đất ở các khu công nghiệp, đô thị và thương mại mà lại chuyển phần này sang các văn bản thực hiện. Vì vậy trong các quyết định cho thuê đất của các cấp có thẩm quyền nộp cho Ngân hàng tuy có đưa ra thời hạn cho thuê đất nhưng lại luôn đi kèm với câu “ Trong thời gian thuê đất, nếu Nhà nước hoặc Tỉnh, Thành phố có nhu cầu sử dụng diện tích này thì đơn vị phải chấp nhận và chuyển đi nơi khác ”. Điều đó có nghĩa là bất cứ lúc nào hoạt động của dự án cũng bị đe doạ, nhất là trong tình trạng quy hoạch đô thị luôn bị thay đổi như hiện nay. Một khi có điều đó xảy ra thì dự án coi như bị thất bại, do đó cán bộ tín dụng không khỏi ngần ngại khi xem xét để đưa ra kết luận đầu tư bởi không có sự bảo đảm chắc chắn của pháp luật. Để khắc phục tình trạng trên nhằm khuyến khích đầu tư, cũng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của thẩm định dự án, Nhà nước cần bổ sung thêm một số điều luật cần thiết về thời gian cho thuê đất, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên, giảm bớt các thủ tục phiền hà, xoá bỏ các quy định chồng chéo, xây dựng các căn cứ, phương pháp định giá thuê đất, xây dựng một quy hoạch tổng thể về đất đai trong thời gian dài.. . 1.3.Thiết lập một hệ thống kế toán thực sự có hiệu quả Công tác kế toán ở Việt Nam rất lộn xộn nhất là khu vực ngoài quốc doanh. Hiện nay ngoài một số doanh nghiệp Nhà nước, một số doanh nghiệp tư nhân làm ăn lớn có liên quan đến xuất nhập khẩu có hoạt động kế toán nghiêm túc, chấp hành các quy định của nhà nước. Còn lại hầu hết các doanh nghiệp làm kế toán sơ sài và tuỳ tiện chủ yếu theo hình thức ghi sổ. Do vậy việc đánh giá tình hình tài chính của các đơn vị này rất khó khăn. Đấy là chưa kể đến tình trạng “sổ ma”, một doanh nghiệp có nhiều sổ kế toán: Một quyển gốc phản ánh tình hình kinh doanh thực tế, một quyển để chuyên dùng để đối phó với cơ quan thuế vụ ( thường trong đó thu nhập tính ra sẽ rất thấp hoặc bị lỗ ), một quyển dùng để đối phó với việc kiểm tra của các Ngân hàng cho vay vốn ( Thường làm ăn có hiệu quả, đủ điều kiện vay vốn .. .) Trước tình hình đó, trong quá trình thẩm định dự án cán bộ tín dụng sẽ mất nhiều thời gian, công sức để kiểm tra lại các số liệu trên của các đơn vị trong sổ kế toán, đối chiếu với chứng từ gốc. Có như vậy những chỉ tiêu được tính ra mới có ý nghĩa và phản ánh trung thực khả năng kinh doanh của đơn vị. Như vậy để có thể nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng, để các con số được tính ra xác thực thì phải nâng cao chất lượng công tác kế toán. Muốn vậy Nhà nước cần có các quy định về hình thức sử phạt đối với các đơn vị không thực hiện hay vị phạm chế độ kế toán để số liệu kế toán được trung thực và đầy đủ. Ngoài ra cũng cần thanh tra, kiểm tra sổ sách, chứng từ kế toán nhằm phát hiện những doanh nghiệp vi phạm để xử lý kịp thời. Làm như vậy công tác kế toán sẽ được hoàn thiện, số kế toán mới chính xác và đáng tin cậy hơn. Và khi đó cán bộ tín dụng sẽ dễ dàng tính toán các chỉ tiêu trong quá trình thẩm định cho vay. Về phía ngân hàng nhà nước - NHNN - VN nên sớm ban hành quy định hướng dẫn cụ thể về quy trình, thủ tục cho vay vốn của nhiều Ngân hàng thương mại với cùng một dự án. Trong đó nêu rõ bộ phận thẩm định dự án gồm đại diện của tất cả các Ngân hàng tham gia hợp vốn hay chỉ Ngân hàng cho vay ( Ngân hàng tham gia vốn nhiều nhất chịu trách nhiệm thẩm định, giải ngân, thu nợ..) Về phía ngân hàng công thương Hai Bà Trưng 2.1 Nâng cao chất lượng của công tác thu thập thông tin trong thẩm định dự án đầu tư Khi nền kinh tế phát triển, mâu thuẫn ngày càng phát sinh thì hoạt động thẩm định dự án đòi hỏi ngày càng phải hoàn thiện hơn. Hiệu quả các hoạt động dự án đầu tư lại phụ thuộc rất nhiều vào độ chính xác của thông tin. Cho nên nâng cao chất lượng thông tin là một đòi hỏi khách quan và cấp bách. Nhưng phải làm gì để nâng cao chất lượng thông tin ? Chúng ta biết rằng thông tin sẽ càng chính xác hơn khi được kiểm tra từ nhiều nguồn. Do đó vấn đề đặt ra và cần phải giải quyết trước mắt là tránh sử dụng thông tin phiến diện, mang tính một chiều, nghĩa là ngoài những dữ liệu, thông tin do doanh nghiệp cung cấp cán bộ tín dụng cần phải triệt để khai thác từ nhiều nguồn. Phỏng vấn trực tiếp người xin vay vốn và điều tra trực tiếp cơ sở sản xuất kinh doanh Việc điều tra trực tiếp này mang lại hiệu quả rất lớn cho cán bộ tín dụng trong công tác thu thập thông tin. Tuy rằng thông tin này với các thông tin mà doanh nghiệp cung cấp là cùng một nguồn, nhưng nhờ tính chất linh hoạt của việc phỏng vấn mà nhiều khi cán bộ tín dụng có thể tìm ra các điểm yếu, những gian lận sai sót mà trong hồ sơ xin vay của doanh nghiệp không đề cập đến, hoặc sai. Thông thường cuộc phỏng vấn sẽ diễn ra rất nhanh nhằm thu được các thông tin: - Biết rõ hơn về mục đích, yêu cầu vay vốn. - Biết rõ hơn về khả năng trả nợ, tín nhiệm của người xin vay - Tìm hiểu thêm thông tin về lịch sử, xu hướng phát triển, đội ngũ cán bộ, trình độ quản lý, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Cụ thể thêm trong cuộc phỏng vấn có thể đặt ra các câu hỏi sau: + Tên hãng, của công ty, tên đối ngoại, tên viết tắt, bảng hiệu đang dùng, giấy phép đăng ký kinh doanh. + Trình độ học vấn cũng như trình độ quản lý của chủ đầu tư. + Lĩnh vực hoạt động, sản phẩm chủ yếu, phương thức tiêu thụ. + Tổng số nhân viên trực tiếp và gián tiếp. Cách thức tổ chức và quản lý sản xuất, chi phí lương bổng của công nhân viên từ đó để ước lượng được thu nhập của công ty. + Mối quan hệ tín dụng của công ty, công ty hiện quan hệ tín dụng với bao Ngân hàng và là khách hàng thường xuyên của Ngân hàng nào. + Các nhà cung cấp chính của công ty, cách thức và phương thức thanh toán giữ công ty và nhà cung cấp.. . Công việc phỏng vấn đòi hỏi phải được chuẩn bị kỹ càng và cán bộ tín dụng phải làm chủ được cuộc đàm thoại. Muốn vậy người phỏng vấn phải xem xét kỹ trước tất cả các dữ liệu đã có về công ty và tìm hiểu những vấn đề chưa thoả đáng. Sau khi phỏng vấn người xin vay cán bộ tín dụng phải trực tiếp xuống thăm cơ sở sản xuất, văn phòng làm việc để đánh giá khả năng và hiệu quả quản lý. Tiến hành thu thập thông tin từ những nguồn bên ngoài a) Sử dụng các thông tin về doanh nghiệp xin vay vốn do bộ phận thông tin phòng ngừa rủi ro cung cấp, gồm các phần chủ yếu sau: - Họ tên, địa chỉ doanh nghiệp, số liệu tiêu chuẩn công nghiệp, loại hình doanh nghiệp, đánh giá tín dụng tổng hợp, năm thành lập, doanh số bán, vốn tự có, số lượng lao động, lịch sử doanh nghiệp. - Thông tin về tình hình thanh toán của doanh nghiệp. - Các số liệu mới nhất về bảng tổng kết tài sản, dự trù thu chi tiền mặt trong 2 năm tới, doanh thu, lợi nhuận, dự kiến đầy đủ chi phí cho mở rộng SXKD, bảng giá máy móc mới, danh sách chủ nợ, con nợ theo thứ tự thời gian. Nếu bảng TKTS và số liệu kinh doanh đã lạc hậu từ 6 tháng trở lên thì phải yêu cầu cung cấp số liệu giữa kỳ và được cập nhật mới nhất.. . - Thông tin về tiểu sử của doanh nghiệp, kinh nghiệm làm ăn, các mối quan hệ kinh doanh, các khó khăn trong quá khứ và hiện tại. b) Sử dụng thông tin từ việc điều tra trực tiếp các đơn vị có liên quan. - Kiểm tra các khách hàng của doanh nghiệp để xem sản phẩm của doanh nghiệp có đủ độ tin cậy không, phương thức thanh toán mà doanh nghiệp sử dụng. - Điều tra các bạn hàng chính của doanh nghiệp để xem xét quan hệ thanh toán. Đây là nguồn thông tin có vai trò quan trọng trong việc xác định hiệu quả dự án. Ngân hàng phải nắm được thông tin từ những doanh nghiệp cung cấp và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp đang được thẩm định để đánh giá hiệu quả thực hiện của dự án. - Các chuyên gia kỹ thuật có thể cung cấp những thông số kỹ thuật chuẩn xác về máy móc thiết bị. c) Ngân hàng có thể thuê những công ty Kiểm toán để kiểm tra độ chính xác, trung thực của báo cáo tài chính mà doanh nghiệp xin vay vốn, hoặc yêu cầu tất cả các doanh nghiệp khi xin vay vốn và trình báo cáo tài chính phải có sự nhận xét về trung thực và hợp lý của kiểm toán viên và công ty kiểm toán. d) Cán bộ tín dụng có thể tham gia tham khảo thêm các tài liệu về chủ trương chính sách của Nhà nước về báo cáo thống kê có liên quan đến dự án Trên thực tế do thu thập thông tin từ những nguồn bên ngoài đòi hỏi khá nhiều thời gian nên phương pháp này ít được sử dụng, hạn chế nhiều khả năng kiểm tra độ chính xác của các thông tin. Do đó không ít số liệu được dùng làm căn cứ thẩm định dự án còn sai lệch, giảm chất lượng công tác thẩm định. Cho nên để nâng cao hiệu quả thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng thì công việc thu thập thông tin từ các nguồn bên ngoài rất cần thiết, đảm bảo tính khách quan và chính xác của số liệu. 2.1.3.Phương pháp thu thập thông tin từ quan hệ khách hàng lâu dài Quan hệ khách hàng lâu dài cũng có thể cung cấp những thông tin cần thiết cho thẩm định dự án. Một khách hàng truyền thống của Ngân hàng luôn có các quan hệ tín dụng như vay vốn, nhờ thanh toán, mở L/C, nhờ thu.. . sẽ là những thông tin đầy đủ và chính xác nhất. Bởi vì chính những hồ sơ xin vay, những số liệu trong tài khoản thanh toán.. . đã tự nói lên tất cả tình hình tài chính công nợ .. . của doanh nghiệp. Như thế có thể nói thiết lập mối quan hệ khách hàng lâu dài sẽ giảm chi phí và thời gian tập hợp và làm cho việc xử lý các thông tin đó được dễ dàng hơn, từ đó đưa ra các kết luận cho vay chính xác hơn. Tuy nhiên việc thiết lập các mối quan hệ kiểu này rất cần nhiều thời gian và không phải bao giờ cũng làm được, do tính chất và địa bàn hoạt động của các doanh nghiệp khác nhau, lại hay thay đổi. Cho nên việc thu thập thông tin kiểu này chỉ áp dụng được với một số ít doanh nghiệp mà thôi, không mang tính phổ biến. Tóm lại: Thông tin là vấn đề quan trọng sống còn của hiệu quả thẩm định dự án đầu tư trong thời đại hiện nay. Nâng cao chất lượng thẩm định không thể tách rời việc nâng cao chất lượng thông tin, để độ chính xác của các số liệu sử dụng trong tính toán thẩm định tăng lên, cán bộ tín dụng phải triệt để tận dụng các nguồn có khả năng cung cấp chúng. Có như vậy số liệu thu thập được mới mang tính khách quan không bị bóp méo vì mục đích của doanh nghiệp xin vay vốn. 2.2.Nâng cao trình độ kiến thức của đội ngũ cán bộ thẩm định Trên thực tế các cán bộ tín dụng đều có xu hướng coi trọng một số phương diện này hơn là các phương diện khác trong quá trình thẩm định. Mà từng khía cạnh, từng vấn đề liên quan đến dự án đều rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp, Ngân hàng và xã hội. Cho nên việc hoàn thiện hơn nữa tính toàn diện trong hoạt động thẩm định dự án đầu tư hiện đang là một yêu cầu cấp bách, đòi hỏi một sự nỗ lực hơn nữa từ phía các cán bộ tín dụng. Khách quan mà nói với những gì được trang bị tại một trường đại học các cán bộ tín dụng không thể có được một hệ thống các kiến thức toàn diện bao gồm nhiều vấn đề để có thể đáp ứng được các đòi hỏi của công tác thẩm định dự án đầu tư. Thông thường các cán bộ tín dụng mới chỉ được biết về mặt tài chính của dự án còn việc nghiên cứu thị trường, đánh giá hiệu quả của dự án đối với toàn xã hội và đặc biệt là các vấn đề có liên quan đến kỹ thuật thì rất ít được đề cập đến hoặc có thì chỉ lướt qua thôi. Chính vì vậy việc chọn phương án tài chính làm căn cứ chủ yếu để thẩm định cũng là điều có thể hiểu được. Tuy nhiên đòi hỏi về chất lượng hoạt động thẩm định vẫn cứ là đòi hỏi nên đã dẫn đến sự khập khiễng không hợp lý giữ lý thuyết và thực tế. Trong thực tế quá trình thẩm định dự án đầu tư đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có các kiến thức ở trình độ cao về kinh tế, pháp luật ( trong nước và quốc tế ), về công nghệ, kỹ thuật về thông tin thị trường, về thanh toán quốc tế.. . có liên quan đến phương diện của dự án. Sẽ rất khó nếu đòi hỏi ngay lập tức cán bộ tín dụng phải có ngay trình độ trên. Bởi vậy để đảm bảo cho chất lượng của hoạt động tín dụng đòi hỏi Ngân hàng phải dần dần từng bước nâng cao trình độ của cán bộ tín dụng bằng cách, mở các lớp đào tạo, đào tạo lại, tổ chức các buổi hội thảo mời chuyên gia về nói chuyện, giao lưu trao đổi kinh nghiệm với Ngân hàng bạn, tìm các nguồn tài liệu trong nước và nước ngoài cho cán bộ tín dụng tham khảo.. . đây là những thách thức không mấy khó khăn, hoàn toàn nằm trong tầm tay của ngân hàng. 2.3.Về công tác tổ chức cán bộ Hiện nay đối với đất nước ta đang từng ngày một phát triển, khối lượng dự án cần được vay vốn đầu tư càng nhiều. Chính vì vậy công tác thẩm định dự án và quyết định cho vay vốn là rất quan trọng, nó quyết định đến sự thành công hay thất bại của Ngân hàng. Bên cạnh đó trình độ cán bộ tín dụng còn hạn chế. Chính vì vậy việc tổ chức thẩm định như hiện nay không còn đáp ứng được yêu cầu nữa. Vậy cần phải thành lập một phòng thẩm định từ 10 đến 15 người chuyên làm công tác thẩm định các phần quan trọng của dự án mà một cán bộ thẩm định làm rất khó khăn như: Thẩm định về phương diện kỹ thuật, thị trường .. . và các vấn đề khác.. . Nhờ có sự chuyên môn như vậy mà các cán bộ ở phòng thẩm định có điều kiện để bổ sung kiến thức, chuyên môn cho mình hơn, hai nữa Ngân hàng có tổ chức nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ thẩm định cũng dễ dàng hơn, chi phí ít hơn.. . Sau đây là mô hình thẩm định: Doanh nghiệp Phòng KD Phòng thẩm định Giám đốc chi nhánh Tổng giám đốc 2.4.Hoàn chỉnh hơn nữa những nội dung cần thẩm định Theo văn bản hướng dẫn thẩm định dự án đầu tư của Ngân hàng công thương Việt Nam ban hành trong toàn hệ thống, các nội dung được trình bày tương đối rõ ràng và đầy đủ. Nếu cán bộ thẩm định tuân thủ thì kết quả thẩm định nhìn chung sẽ chính xác. Tuy nhiên trong văn bản mới đưa ra hai phương pháp để so sánh hiệu quả của dự án đó là NPV và IRR. Hai phương pháp trên đều chú trọng xem xét đến tính thời gian của các dòng tiền tệ. Sự thừa nhận giá trị thời gian của tiền tệ làm cho kỹ thuật xác định hiệu quả vốn đầu tư của hai phương pháp này hơn hẳn ( về mặt lý thuyết ) so với các phương án khác do vậy hai phương án này được ưa dùng. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, nếu sử dụng phương pháp NPV thì lựa chọn dự án này, buộc phải từ chối dự án còn lại, nhưng nếu áp dụng phương pháp IRR thì kết quả ngược lại. Vì vậy tôi đưa thêm phương pháp chỉ số sinh lời điều chỉnh theo thời gian nó luôn cho ta tín hiệu chính xác về tính thoả mãn cả về hiệu quả đồng vốn lẫn thời gian sinh lời của dự án. n ồ Bi ´ 1 i=1 (1 + r )i Chỉ số sinh lời của = dự án (RR) n ồ Ci ´ 1 i=1 (1 + r )i Bi: Thu nhập tại năm i Ci: Chi phí tại năm i Trong đó chi phí sử dụng vốn thường được lựa chọn làm tỷ lệ chiết khấu ( r ) Vì vậy, tiêu chuẩn để lựa chọn dự án đầu tư dựa vào chỉ số sinh lời được phát biểu như sau: * RR < 1 dự án bị từ chối * RR >1 dự án được phép chấp thuận ( nếu dự án độc lập ) Nếu dự án thuộc loại xung khắc nhau thì dự án nào có RR lớn nhất dự án đó được chấp nhận. 2.5 Giải quyết nhanh chóng những vướng mắc trong việc thế chấp tài sản ở Việt Nam quyền sở hữu nói chung và đặc biệt là quyền sử dụng nói riêng không rõ ràng. Tình hình này ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nhất là đối với thế chấp được cam kết như là vật bảo đảm cho tín dụng Ngân hàng, sử dụng đất đai làm vật thế chấp còn nhiều vướng mắc bởi các điều luật mơ hồ hiện hành. Việc sử dụng các tài sản khác để thế chấp cũng bị giới hạn. Tất cả các vấn đề trên một phần là do Ngân hàng không có kinh nghiệm trong việc đó, một phần là do quá trình định giá rất khó chính xác. Vì vậy việc chấp nhận tài sản thế chấp cũng đồng nghĩa với việc Ngân hàng thế chấp phần mạo hiểm với quyết định đầu tư. Muốn có được sự an toàn vốn cũng như phát triển vốn trong trường hợp này cần nhanh chóng giải quyết sao cho hợp lý vấn đề thế chấp. Theo thực tế hiện nay Ngân hàng cần tập chung một số điểm. + Tài sản thế chấp cần phải có đầy đủ tính pháp lý là phải chứng minh nó là sở hữu hợp pháp của người đi vay, riêng đối với đất là quyền sử dụng đất. + Tài sản được thế chấp phải không thuộc đối tượng bị pháp luật cấm mua bán chuyển nhượng, không có tranh chấp hay thế chấp cho các tổ chức tín dụng khác. + Ngân hàng phải nắm giữ các giấy tờ gốc chứng minh quyền sở hữu hợp pháp tài sản thế chấp. Trong trường hợp tài sản thế chấp thuộc sở hữu của nhiều người thì khi thế chấp phải có sự nhất chí bằng văn bản của tất cả các đồng sở hữu. + Ngân hàng phải kiểm tra chất lượng của tài sản thế chấp, khả năng dự trữ lâu dài của tài sản, đồng thời phải căn cứ vào cung cầu về tài sản đó trên thị trường tại thời điểm hiện tại cũng như xu hướng trong tương lai, tránh tình trạng giảm giá tài sản thế chấp khi hết thời hạn vay. + Việc định giá tài sản thế chấp thường rất khó vì phần lớn các tài sản đã dùng rồi, khó xác định được phần trăm còn lại của chúng. Hơn nữa giá cả của một số loại tài sản thế chấp thường hay biến động. Vì vậy trong những trường hợp cụ thể Ngân hàng phải nhờ cậy đến các chuyên viên và phải cân nhắc thật kỹ trước khi đưa ra quyết định đánh giá. + Ngân hàng cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng để đánh giá tình hình cũng như kiểm tra, quản lý tài sản thế chấp. 2.6.Lập ra quỹ thẩm định Thẩm định dự án đầu tư không phải chỉ một sớm một chiều mà giải quyết được. Ngân hàng phải tổ chức gặp gỡ khách hàng, thường xuyên xuống cơ sở để kiểm tra. Thẩm định dự án đầu tư không chỉ tiến hành khống chế ở một số giai đoạn kiểm tra trước mà còn tiến hành kiểm tra cả trong và sau khi vay vốn. Như vậy quá trình đó là liên tục, gắn liền với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngân hàng nên lập ra một quỹ riêng để chi phí cho hoạt động thẩm định dự án. Nó sẽ góp phần giảm bớt khó khăn cho cán bộ tín dụng khi tiến hành thẩm định, tạo điều kiện cho việc thẩm định dự án đầu tư được dễ dàng hơn. Đồng thời nó cũng góp phần để đào tạo cán bộ, tăng cường trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng tin học cho quá trình thẩm định để sớm đưa vào việc tính toán các chỉ tiêu tài chính phức tạp vào quy trình thẩm định

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0239.doc
Tài liệu liên quan