Nguồn nhân lực là một nguồn lực vô cùng quan trọng ở tất cả mọi quốc gia, là nguồn lực quyết định tới sự phát triển của đất nước và ở Việt Nam nguồn lực này lại càng cần thiết. Việt Nam là đất nước đang phát triển với nhiều tiềm năng to lớn và đặc biệt tiềm năng to lớn và đặc biệt là tiềm năng con người với những đặc tính vô cùng quý báu của người lao động Việt Nam từ xưa đến nay. Chúng ta phải đưa đất nước đi lên " Sánh vai với các cường quốc năm châu " như Bác Hồ đã hằng mong đợi và để làm được điều đó phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nhân lực nước nhà.
Việc gia nhập WTO đã mở ra cho Việt Nam thêm nhiều cơ hội cũng như thách thức mới vì vậy chúng ta cần phải chuẩn bị thật tốt về mọi mặt cho cuộc chơi đầy khó khăn này. Cần phải chuẩn bị về mặt "chất" cho nguồn nhân lực để họ tiếp thu thêm nhiều thành tựu mới trên thế giới, phát triển đất nước thực hiện thành công những nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong thời gian tới.
Nguồn nhân lực là một lĩnh vực rộng với rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu nhưng do thời gian nghiên cứu và kinh nghiệm có hạn do vậy trong quá trình làm em sẽ không tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót. Em rất mong nhận được sự thông cảm gợi ý, sửa chữa của cô và các bạn để bài làm được hoàn thiện hơn nữa.
46 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1381 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những vấn đề thực tiễn về việc sử dụng và phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
óa hình thức sở hữu đã làm cho thị trường lao động ngày càng phát triển, người lao dộng có thêm nhiều cơ hội hơn nữa trong tìm việc làm cũng như tăng thu nhập nâng cao đời sống.
2.2 Tạo lập dồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
Hình thành đồng bộ và phát triển, hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với xây dựng khuôn khổ pháp lý. Phát triển thị trường vốn và tiền tệ, nhất là thị trường vốn trung hạn và dài hạn. Phát triển thị trường lao động; người lao dộng được tìm và tạo việc làm ở mọi nơi trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu lao dộng trong nước với sự tahm gia của các thành phần kinh tế. Nhà Nước tôn trọng nguyên tắc và cơ chế hoạt động khách quan của thị trường, tạo điều kiện phát huy mặt tích cực đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực. Đơn giản hóa thủ tục hành chính; công khai hóa và thực hiện đúng trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong quan hệ với doanh nghiệp và với nhân dân.
2.3 Đổi mới chính sách và kiện toàn hệ thống tài chính - tiền tệ.
Tạo lập môi trường tài chính lành mạnh, thông thoáng nhằm giải phóng và phát triển các nguồn lực tài chính và tiềm năng sản xuất của các daonh nghiệp, các tầng lớp dân cư.
Đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của thị trường tài chính tiền tệ trong toàn bộ nền kinh tế. Tiếp tục cải thiện hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và các cam kết quốc tế. Bổ sung, hoàn thiện, đơn giản hóa các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt doanh nghiệp các thành phần kinh tế khác nhau, doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp nước ngoài. Tiếp tục cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tăng dần tỷ lệ tích lũy cho đầu tư phát triển, thực hiện cải cách tiền lương đi liền với tinh giảm biên chế bộ máy và cải cách thủ tục hành chính. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách nhà nước, đảm bảo tính thông nhất của hệ thống tài chính quốc gia.
2.4 Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Tiếp tục mở rộng kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ độn hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương. Việ tổ chức thành công hội nghị cấp cao APEC ở Hà Nội đã đưa Việt Nam lên một tầng cao mới về thế và lực, đã được các quốc gia khen ngời về sự phát triển không ngừng của Việt Nam. Ngày 7/11/2006 Việt Nam đã chính thức gia nhập tổ chức WTO đã mở ra cho chúng ta nhiều cơ hội cũng như thách thức mới, thị trường rộng mở hơn, thu hút được nhiều nhà đầu tư hơn… nhưng bên cạnh đó chúng ta phải chấp nhận một cuộc cạnh tranh gay gắt hơn.
Đẩy mạnh các dịch vụ thu ngoại tệ: du lịch, xuất khẩu lao động, vận tải, thu hút kiểu hối… Chủ động và tích cực xâm nhập vào thị trường quốc tế, các trung tâm kinh tế thế giới; duy trì và mở rộng trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội thị trường mới. Từng bước hiện đại hóa phương thức kinh doanh phù hợp hơn với xu thế của thương mại thế giới. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện các chính sách đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh trong việc trực tiếp thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Giảm mạnh và tiến tới xóa bỏ sự phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Cải tiến thủ tục hành chính để đơn giản hóa hoạt động đầu tư; khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài về nước đầu tư kinh doanh, doanh nghiệp Việt Nam đầu tư nước ngoài và có chính sách hỗ trợ công dân Việt Nam kinh doanh hợp pháp ở nước ngoài.
3. Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ nhằm cải thiện trình độ và năng lực cho nguồn nhân lực.
3.1 Giáo dục và đào tạo.
Để đáp ứng yêu cầu về con người và con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ CNH - HĐH, cần tạo sự chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục đào tạo.
Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, long nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật… Đào tạo lớp lao dộng có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, quan tâm tới cái mới. Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hóa, doanh nhân… Chính sách sử dụng lao động và nhân tài phải tận dụng mọi năng lực, phát huy mọi tiềm năng của tập thể và cá nhân phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Để thực hiện các mục tiêu đó chúng ta cần:
- Phổ cập giáo dục tiểu học, tiến hành phổ cập trung học cơ sở trên mọi vùng miền trong cả nước.
- Điều chỉnh cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng trong hệ thống giáo dục và đào tạo phù hợp với yêu cầu học tập của nhân dân, yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và các mục tiêu chiến lược của đất nước. Mở rộng đào tạo công nhân, nhân viên kỹ thuật và nghiệp vụ viên theo nhiều trình độ.
- Phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo đại học và sau đại học, xây dựng một số trường đại học trọng điểm của quốc gia và ngang tầm với khu vực và tiến tới đạt trình độ quốc tế, ưu tiên đào tạo nhân lực phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, miền núi…
- Chú trọng trang bị và nâng cao kiến thức tin học, ngoại ngữ cho học sinh, sinh viên.
- Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sang tạo của người học. Phát triển đội ngũ giáo viên, coi trọng chất lượng và đạo đức sư phạm cải thiện chế độ đãi ngộ.
- Tăng cường đầu tư cho giáo dục từ ngân sách nhà nước và đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và đào tạo. Khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư phát triển giáo dục ở tất cả các cấp học.
3.2 Khoa học và công nghệ.
Tăng cường tiềm lực và đổi mới cơ chế để khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực phát triển đất nước. Khoa học xã hội và nhân văn đặt trọng tâm vào tổng kết thực tiễn, đi sâu nghiên cứu những vấn đề lớn của đất nước. Khoa học tự nhiên chú trọng hướng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn, nghiên cứu cơ sở khoa học của sự phát triển các lĩnh vực công nghệ trọng điểm và khai nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Khoa học công nghệ tập trung vào đáp ứng yêu cầu và nâng cao sản xuất, chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh, đảm bảo an ninh quốc phòng.
Đẩy mạnh đổi mới công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vực hoạt động khác, thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ so với các nước tiên tiến trong khu vực. Thực hiện chủ trương “ đi tắt đón đầu ” về công nghệ để tận dụng các lợi thế phát triển đất nước.
Thực hiện cơ chế kết hợp chặt chẽ giữa khoa học xã hội và nhân văn với khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ, giữa nghiên cứu khoa học với đào tạo và sản xuất, kinh doanh; ứng dụng nhanh các kết quả nghiên cứu.
Đẩy mạnh xã hội hóa đa dạng hóa các nguồn đầu tư phát triển khoa học công nghệ. Dành vốn đầu tư thích đáng cho nghiên cứu cơ bản trong các ngành khoa học. Tạo môi trường thuận lợi cho các tổ chức khoa học, công nghiệp và các cá nhân được hoạt động theo luật định. Phát triển thị trường khoa học công nghệ, bảo hộ sở hữu trí tuệ và quyền tác giả.
Phát huy tính sáng tạo, tính dân chủ trong hoạt động khoa học và công nghệ. Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ tri thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài kể cả người Việt Nam ở nước ngoài. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ, thu hút chuyên gia giỏi của thế giới đóng góp cho sự phát triển của đất nước bằng nhiều hình thức thích hợp.
II. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC.
1. Đặc điểm về nguồn nhân lực ở Việt Nam.
1.1 Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào và tăng trưởng nhanh.
Việt Nam là một quốc gia có dân số đông nên có nguồn nhân lực dồi dào, đứng vị trí tứ 13 trên thế giới và thứ 2 trong khối ASEAN. Thập kỷ 90, nước ta có trên 35 triệu lao động và đầu thế kỷ 21 là trên 40 triệu. Do dân số tiếp tục tăng nên nguồn nhân lực ngày một lớn.
Biểu 1: Cơ cấu kinh tế của dân số năm 2004.
Tổng số
% so với dân số từ 15 tuổi trở lên
% so với lực lượng lao động
Tổng số
80.902.400
Dân số từ 15 tuổi trở lên
58.498.577
100,00
Dân số không hoạt động kinh tế
16.373.945
28,00
Dân số hoạt động kinh tế
42.124.635
72,01
100,00
Thất nghiệp
948.919
1,62
2,25
Có việc làm
41.175.623
70,39
97,75
Nguồn: Thông tin thị trường lao động qua đào tạo nghề
NXB Lao động thương binh và xã hội - 2005
Do nguồn lực tăng nhanh nên hàng năm trung bình có them trên một triệu lao động gia nhập vào thị trường lao động nên nguồn nhân lực nước ta là một trong những quốc gia có một nguồn nhân lực trẻ. Lực lượng lao động trẻ cũng là một lợi thế của nước ta trong việc phát triển kinh tế - xã hội cũng như trong sự nghiệp CNH - HĐh.
1.2 Tỷ lệ lao động được đào tạo kỹ thuật, chuyên môn vẫn còn thấp chủ yếu là lao động thủ công.
Mặc dù nhà nước đã quan tâm và đầu tư nhiều cho giáo dục nhưng do nguồn nhân lực tăng nhanh nên phần đông chưa được đào tạo nghề chuyên môn, chủ yếu là lao động thủ công lạc hậu.
Biểu 2: Cơ cấu dân số từ 15 tuổi trở lên phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật năm 2004.
Đơn vị: %
Tổng số
100,00
Không có trình độ chuyên môn kỹ thuật
79,01
Sơ cấp có chứng chỉ nghề
6,63
Công nhân kỹ thuật không có bằng / chứng chỉ
2,60
Công nhân kỹ thuật có bằng / chứng chỉ
3,26
Trung học chuyên nghiệp
4,07
Cao đẳng, đại học và trên đại học
4,44
Nguồn: Thông tin thị trường lao động qua đào tạo nghề
NXB Lao động thương binh xã hội – 2005
Trong giai đoạn nền kinh tế hội nhập và phát triển như hiện nay thì nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao những lao động đã qua đào tạo. Đây đang là khó khăn thách thức cho đất nước ta. Theo nguồn số liệu của Viện Chiến Lược và Chương Trình Giáo Dục vừa công bố năm 2004, Chỉ số tổng hợp về chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực của nước ta chỉ đạt 3,79 trên tổng thang điểm là 10, còn về thành thạo tiếng Anh và công nghệ của người Việt Nam chỉ đạt 2,62 và 2,5 điểm. Mặc dù có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng nhưng dù sao đây cũng là một yếu tố làm giảm sức cạnh tranh của người lao động Việt Nam trên thị trường, ngoài ra tình trạng này còn do thời gian qua chúng ta buông lỏng quản lý cơ cấu đào tạo, để phát triển tự phát theo nhu cầu người dân, còn nặng tâm lý khoa cử, nhẹ tâm lý thực nghiệm, chưa gắn đào tạo với sử dụng và chưa chú ý đúng mức tới công tác đào tạo nghề.
Biểu 3: Cơ cấu lao động có chuyên môn kỹ thuật phân theo thành phần kinh tế.
Đơn vị: %
Tỷ trọng
CNKT
THCN
CĐ ĐH
Trên ĐH
Tổng
I. Thành phần kinh tế
1. Nhà nước
69,82
22,32
36,14
40,03
1,24
100,00
2. Tập thể
5,83
44,27
43,91
11,65
0,17
100,00
3. Tư nhân
1,55
38,99
22,54
37,93
0,54
100,00
4. Cá thể
19,82
52,85
33,08
14,00
0,07
100,00
5. Hỗn hợp
1,94
28,93
18,65
51,52
0,90
100,00
6. 100% vốn nước ngoài
1,04
24,60
15,20
57,92
2,28
100,00
II. Ngành kinh tế
Nông - Lâm - Ngư nghiệp
12,19
43,59
43,97
13,38
0,06
100,00
Công nghiệp - Xây dựng
17,85
42,84
27,33
29,45
0,38
100,00
Dịch vụ
69,96
24,43
35,76
38,56
1,25
100,00
Cả nước
100,00
30,06
35,26
37,74
0,94
100,00
Nguồn: ĐIều tra lao động - việc làm 2004
1.3 Cơ cấu nguồn nhân lực của Việt Nam còn bất hợp lý.
Sự bất hợp lý trong cơ cấu nguồn nhân lực thể hiện ở chỗ: là một nước nông nghiệp, đang trên đà phát triển thì lực lượng lao động nông nghiệp vẫn còn là chủ yếu với tỷ trọng khá cao nhưng đã từng bước được thay đổi, trong giai đoạn từ năm 1993 - 2002 tỉ trọng lao động trong ngành nông nghiệp giảm từ 71% xuống còn 50,04%. Các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ vẫn trên dưới 20%. Với tỷ lệ này chúng ta vẫn còn đang lạc hậu so với thế giới nhất là các nước đang phát triển.
Biểu 4: Cơ cấu lao động kinh tế chia theo vùng kinh tế.
Đơn vị: %
Tổng số
Không có trình độ CM
KT
Sơ cấp có chứng chỉ nghề
CNKT không có bằng / chứng chỉ
CNKT có bằng / chứng chỉ
TH
CN
CĐ, ĐH, trên ĐH
Tổng
100,00
79,01
6,63
2,60
3,26
4,07
4,44
1. ĐB sông Hồng
100,00
72,01
10,03
2,51
3,31
5,35
6,69
2. Đông Bắc Bắc bộ
100,00
82,31
2,69
2,65
3,66
5,16
3,51
3. Tây Bắc Bắc bộ
100,00
89,25
1,20
1,28
1,77
3,90
2,52
4. Bắc Trung bộ
100,00
84,27
3,44
2,25
2,25
4,78
3,01
5. Nam Trung bộ
100,00
79,15
8,11
2,07
2,27
3,49
4,91
6. Tây Nguyên
100,00
85,19
3,44
2,00
1,69
4,51
3,17
7. Đông Nam bộ
100,00
67,03
10,07
5,01
7,52
3,55
8,82
8. ĐB Sông Cửu Long
100,00
86,80
5,52
1,73
1,57
2,21
2,17
Nguồn: Điều tra lao động - việc làm 2004
1.4 Các đặc điểm khác:
- Ngoài những đặc điểm chủ yếu trên thì người lao động Việt Nam giàu lòng yêu nước, cần cù làm việc, chịu khó học hỏi, thông minh tiếp thu nhanh chóng những cái mới nhưng thể lực còn hạn chế, thói quen, tác phong làm việc còn lạc hậu.
- Tính mất cân đối cung cầu lao động của người Việt Nam còn cao cả về tổng thể và cơ cấu đã tạo ra áp lực lớn về việc làm, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn ngày càng gia tăng.
- Quy mô, mức tham gia vào thị trường lao động còn thấp. Hiện nay thị trường lao động chỉ thực sự hoạt động ở các thành phố lớn.
Với những đặc điểm ở trên của nguồn nhân lực thì chúng ta cần phải đặt ra nhiều vấn đề để quản lý nguồn nhân lực quốc gia.
2. Quan điểm của đảng ta về chiến lược con người.
Trong xu thế ngày nay con người càng có vị trí quan trọng, con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm. Ở nước ta trong từng giai đoạn con người cũng được thể hiện trong các chương trình cụ thể:
- " Con người là mục tiêu là động lực phát triển kinh tế xã hội " ( giai đoạn 1991 - 1995 ).
- " Phát triển văn hoá xây dựng con người toàn diện trong thời kỳ CNH - HĐH " ( giai đoạn 1996 - 2000 ).
- " Phát triển văn hoá và nguồn lực trong thời kỳ CNH - HĐH " ( giai đoạn 2001 - 2005 ).
Nguồn: Phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH - HĐH đất nước NXB chính trị quốc gia.
Trải qua biết bao nhiêu cuộc chiến tranh với bao đau thương mất mát chúng ta lại quý trọng con người hơn ai hết. Như Bác Hồ đã từng nói:
" Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người "
Thấm nhuần lời dạy của Người, trung thành với sự nghiệp tư tưởng của Người mà Đảng và nhân dân ta luôn làm theo lời Bác dạy.
- Tại Đại hội lần thứ III của Đảng Cộng Sản Việt Nam ( 1960 ) Đảng ta đã khẳng định: " Con người là vốn quý nhất ".
- Tại Đại hội lần thứ IV, Đảng ta đã đưa ra luận điểm con người mới, con người làm chủ tập thể.
- Tháng 12/1986 Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định vai trò của nhân tố con người trong toàn bộ sự phát triển kinh tế xã hội. Đây là Đại hội chuyển đất nước ta từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đại hội lần thứ VII, Đảng ta đã thông qua cương lĩnh mới và chiến lược ổn định, phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000. Con người được đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược kinh tế xã hội.
- Đại hội VIII, Đảng khẳng định đường lối chiến lược phát triển kinh tế đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước, lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. 1
- Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ " nguồn nhân lực là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH - HDDH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển kinh tế xã hội, tăng trưởng nhanh và bền vững ". 2
- Đại hội X Đảng khẳng định: Nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững... Con người và nguồn nhân lực là yếu tố quyết định phát triển đất nước trong thời kỳ CNH - HDDH. Đảng đã lấy phát triển nguồn nhân lực, giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ là một trong ba khâu đột phá đưa đất nước vào thời kỳ CNH - HĐH, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ tổ quốc.
Từ trên ta có thể thấy được sự quan tâm của Đảng ta cho nguồn nhân lực, luôn xem đây là yếu tố cực kỳ quan trọng và có ý nghĩa to lớn cho sự phát triển đất nước. Trong khi hoạch định chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội nhằm thực hiện từng bước cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1 : Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành trung ương khoá VIII. Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội.
2 : Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội - 2001, tr 108 - 109.
Đảng và Nhà nước ta xuất phát từ quan điểm coi mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là con người, do con người. Quan điểm mục tiêu đó thể hiện ở những tư tưởng cơ bản sau:
- Đặt con người vào vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển hay gọi là chiến lược con người, lấy lợi ích của con người làm điểm xuất phát của mọi chương trình, kế hoạch phát triển.
- Khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, tập thể lao động và cả cộng đồng dân tộc trong việc thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước, ra sức làm giàu cho đất nước.
- Coi lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp của sự phát triển trong sự gắn bó hữu cơ giữa lợi ích của mỗi con người, của từng tập thể và của toàn xã hội.
- Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo vệ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp.
Quan điểm mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người và do con người phải đượcquán triệt trong mọi hoạt động của đời sống xã hội từ lãnh đạo của Đảng, hoạt động quản lý của Nhà nước, của các tổ chức quần chúng đến các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và hoạt động của các doanh nghiệp.
3. Vai trò cùa nguồn lực con người trong quá trình phát triển.
3.1 Nguồn nhân lực - mục tiêu và động lực cảu sự phát triển.
Nói đến vai trò đối với sự phát triển là nói đến vai trò của con người trong sự phát triển. Vai trò con người đối với sự phát triển được thể hiện ở hai mặt. Thứ nhất, con người với tư cách là người tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ và kho tàng văn hoá. Thứ hai, với tư cách là người lao dộng, tạo ra tất cả sản phẩm đó với sức lực và óc sáng tạo vô hạn.
Để tồn tại và phát triển, con người phải được đáp ứng nhu cầu về mặt vật chất. Sự tiêu dùng của con người không chỉ là sự tiêu hao kho tàng vật chất và văn hoá do con người tạo ra mà chính là nguồn gốc động lực của sự phát triển xã hội. Để không ngừng thoả mãn những nhu cầu về vật chất, tinh thần ngày càng được nâng cao về số lượng và chất lượng trong điều kiện các nguồn lực đều có hạn, con người ngày càng phải phát huy đầy đủ hơn khả năng về thể lực và trí lực cho sự phát triển không ngừng kho tàng vật chất và tinh thần đó. Chính vì vậy, sự tiêu dùng của con người, sự đáp ứng ngày càng tốt hơn những nhu cầu của con người là động lực phát triển.
Với tư cách là người sản xuất con người có vai trò quyết định đối với sự phát triển. Tất cả các kho tàng vật chất và văn hoá đã có và còn tiếp tục được sáng tạo thêm làm phong phú sản phẩm lao động của con người, đều là kết quả hoạt động lao động của con người. Trong bất kỳ một trình độ văn minh nào, lao động của con người cũng đóng vai trò quyết định. Xuất phát từ vai trò nguồn nhân lực đối với sự phát triển và đặc điểm cụ thể của nước ta. Đảng và Nhà nước ta xác định nguồn nhân lực và con người Việt Nam là lợi thế và nguồn nhân lực quan trọng nhất của sự phát triển. Điều đó thể hiện ở chỗ:
- Nước ta có nguồn nhân lực dồi dào và còn tăng lên nhanh chóng trong tương tai.
- Con người Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù sáng tạo, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học công nghệ.
- Con người Việt Nam có nhiều năng khiếu, nhanh nhạy với cơ chế thị trường.
Trong điều kiện nguồn vốn đầu tư, vật chất kỹ thuật còn nhiều hạn chế, với nguồn nhân lực dồi dào ngày càng được đào tạo kỹ lưỡng, nước ta có lợi thế trong việc tham gia phân công lao động quốc tế, đặc biệt trên thị trường lao động quốc tế.
3.2 Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực quan trọng nhất trong quá trình CNH - HĐH đất nước. Nguồn nhân lực - chất lượng nguồn nhân lực là nguồn lực bên trong của đất nước, nó cùng với con người, vốn trong nước, vật chất kỹ thuật, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, kết hợp với nguồn lực bên ngoài tạo nên nguồn lực tổng hợp để phát triển xã hội. Vấn đề con ngườ và nguồn nhân lực rất gắn quyện với nhau, hệ thống giá trị vật chất, tinh thần do con người tạo ra qua giáo dục trở lại với con người được con người thừa kế và phát triển tạo thành sức mạnh của mỗi con người, thành vốn người, nguồn lực con người tạo ra giá trị mới đáp ứng nhu cầu của từng cá nhân, của nhóm người và sự phát triển của đất nước nói chung. Trong nhiều năm gần đây, Đảng ta ban hành hàng loạt nghị quyết về phương hướng, mục tiêu, điều kiện và giải pháp thuộc những lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến sự nghiệp chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, phát triển con người Việt Nam toàn diện. Đảng ta coi nguồn lực con người là nguồn lực quyết định cho sự thắng lợi của công cuộc CNH - HĐH đất nước. Chính con người vừa là động lực thúc đẩy, vừa là mục tiêu của CNH - HĐH, chỉ có CNH - HĐH đất nước mới tạo tiền đề để con người phát triển toàn diện.
Ở nước ta, vai trò quan trọng của người quản lý được đề cao qua câu nói: " một người lo bằng kho người làm ". Về cán bộ quản lý, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: "... nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được ". Tại Đại hội VII của Đảng, vai trò con người, nguồn lực con người được khẳng định như một yếu tố cơ bản của sự phát triển. Trong tổng hợp các nguồn lực: vốn, tài nguyên, vị trí địa lý, nguồn lực nước ngoài và nguồn lực con người, các nguồn lực khác chỉ là tiềm năng, vai trò, tác động; sức mạnh của chúng mạnh đến đâu đều thông qua và phụ thuộc vào hoạt động của con người, bởi chỉ có con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có tri thức và ý chí, chỉ có con người mới có thể gắn kết các nguồn lực khác tạo thành sức mạnh tổng hợp cho một mục tiêu nhất định, các nguồn lực khác là khách thể thực sự cải tạo, khai thác và đều phục vụ cho nhu cầu lợi ích của con người.
Có thể thấy các nguồn lực khác đều bị ảnh hưởng của nhiều điều kiện khác nhau như khai thác quá nhiều tài nguyên thiên nhiên có thể dẫn tới sự cạn kiệt và tác hại của sự phá hoại tài nguyên thiên nhiên đó là sự huỷ diệt của môi trường, của con người. Nói tới nguồn nhân lực là muốn nói tới số lượng và chất lượng của nó. Số lượng nguồn nhân lực là khả năng cung cấp lực lượng lao động cho sự phát triển kinh tế xã hội. Số lượng nguồn nhân lực con người đóng vai trò quyết định tới quá trình CNH - HĐH. Yếu tố quan trọng nhất trong nguồn nhân lực là chất lượng nguồn nhân lực; Nói đến chất lượng nguồn nhân lực là nói đến hàm lượng trí tuệ, trong đó bao gồm trình độ tay nghề, phẩm chất tốt đẹp của người lao động, thể lực... trong đó trí tuệ là yếu tố quyết định của nguồn nhân lực. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: ' một dân tộc dốt là một dân tộc yếu".
Bước vào thế kỷ mới, nền kinh tế tri thức đã mang lại những biến động cực kỳ to lớn trong phát triển nguồn nhân lực. Hiện tại ở nước ta nguồn nhân lực đang ở nhiều cấp độ, trình độ của các nước đã phát triển cao qua các cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, các cuộc công nghiệp lần thứ hai và trong thời đại công nghệ thông tin. Chúng ta phải đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực để chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế tri thức theo đường lối hội nhập mở cửa, tức là phải chú ý đến đội ngũ lao động, đại bộ phận là nông nghiệp, đội ngũ lao động phục vụ cơ khí hoá lẫn tin học hoá có nghĩa là chúng ta phải tập trung đào tạo một nguồn nhân lực cho cả ba nền kinh tế công nghiệp, nông nghiệp và tri thức. Thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của trí tuệ và tri thức, các sáng tạo khoa học công nghệ sẽ tác động mạnh mẽ đến toàn nhân loại. Trong khi đó Việt Nam vẫn là nước nông nghiệp lạc hậu đất hẹp, người đông, tài nguyên ít. Con đường để Việt Nam có thể đi lên cạnh tranh và hội nhập là nhanh chóng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đồng thời người lao động phải phát huy phẩm chất quý báu, tốt đẹp của dân tộc. Khâu đột phá quan trọng nhất là phải cải tiến hệ thống giáo dục để đào tạo nhân lực phục vụ CNH - HĐH.
III. NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CỦA ĐẤT NƯỚC.
Trong bối cảnh nước ta hiện nay và từ thực trạng nguồn nhân lực đã trình bày ở trên, để phát huy nguồn nhân lực có chất lượng, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta phải cần đến một hệ thống các giải pháp đồng bộ, từ giải pháp về giáo dục đào tạo, về chăm sóc sức khoẻ, nâng cao chất lượng dân số, cải thiện môi trường sống, về tạo việc làm, tổ chức khai thác lực lượng lao động, đến giải pháp về phát triển văn hoá, tạo ra các động lực kích thích tính tính cực cho con người.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người, giáo dục và đào tạo luôn chiếm vị trí trọng yếu. Ngày nay, có lẽ không một quốc gia nào trên thế giới lại không thấy rõ vị trí nền tảng, vai trò then chốt của giáo dục và đào tạo với công cuộc xây dựng và phát triển của đất nước. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, một trong những yếu tố tạo nên sự phát triển bền vững, sự tiến bộ vượt bậc cho mỗi quốc gia là giáo dục và đào tạo. Cùng với sự đóng góp lớn lao đó, giáo dục và đào tạo đã tham gia một cách trực tiếp và đóng vai trò quyết định trong chiến lược phát triển con người. Đó là một lĩnh vực quan trọng không thể thiếu được để nâng cao trình độ văn hoá, trình độ học vấn, trình độ khoa học kỹ thuật, xử lý công nghệ, tổ chức quản lý và năng lực hoạt động thực tiễn của người lao động. Trong xã hội hiện đại, trình độ và năng lực ấy của người lao động đã trở thành nhân tố quan trọng và là điều kiện thiết yếu cho một xã hội phát triển bền vững.
Để sự nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo thực sự đóng vai trò " quốc sách hàng đầu " cho việc phát triển nguồn nhân lực có chất lượng ở nước ta hiện nay, cần phải thực hiện tốt các giải pháp cụ thể sau:
* Kiên quyết và nhanh chóng tăng nguồn đầu tư ngân sách hơn nữa cho giáo dục và đào tạo.
* Thực hiện xã hội hoá giáo dục và đào tạo.
* Tiến hành đào tạo ban đầu đồng thời với đào tạo lại và đào tạo thường xuyên.
* Mở rộng quy mô và tăng nhanh tốc độ đào tạo.
* Đào tạo có địa chỉ và theo nhu cầu của xã hội.
* Tiếp tục cải cách nội dung và phương pháp đào tạo.
* Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của nhà nước đối với giáo dục và đào tạo.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp cụ thể đó trong quá trình phát triển giáo dục và đào tạo là cơ sở để phát triển nguồn nhân lực. Từng bước phát triển nguồn nhân lực có chất lượng trong giai đoạn đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước trên cơ sở hình thành con người VIệt Nam có trí tuệ và năng lực sáng tạo cao, thể lực và sức khoẻ đảm bảo, đòi hỏi chúng ta phải quan tâm đáp ứng các nhu cầu cần thiết hàng ngày của nhân dân, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động, huy động đi đôi với bồi dưỡng sức dân, chăm lo nhu cầu đời sống hàng ngày đi đôi với tiết kiệm, tích luỹ để đầu tư phát triển. Chỉ có trên cơ sở đó chúng ta mới có khả năng phát triển được một nguôn nhân lực với tư cách là động lực mạnh mẽ và bền vững để thực hiện mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Bởi lẽ, hiện nay nguồn nhân lực ở nước ta không chỉ có những ưu thế, lợi thế như lực lượng lao động rẻ, dồi dào, có truyền thống yêu nước, cần cù lao động, thông minh, năng động, sáng tạo... mà còn có cả những hạn chế như thể lực và trình độ văn hoá chưa cao, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng lao động chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng mới của CNH - HDDH. Do vậy, để nhanh chóng có được một nguồn nhân lực có chất lượng, có trí tuệ đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, làm cho nó thực sự trở thành " quốc sách hàng đầu ", tham gia ngày càng trực tiếp hơn và đóng vai trò quyết định trong chiến lược phát triển con người, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
IV. NÂNG CAO VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC.
1. Những văn bản quy phạm pháp luật về nguồn nhân lực.
Pháp luật lao động quy định quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động, các tiêu chuẩn lao động, các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động, góp phần thúc đẩy sản xuất, vì vậy có vị trí quan trọng trong đời sống xã hội và trong quan hệ pháp luật của quốc gia. Kế thừa và phát triển pháp luật lao động của nước ta từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay, Bộ luật Lao động thể chế hoá đường lối đổi mới của Đảng Cộng Sản Việt Nam và cụ thể hoá quy định của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 về lao động, về sử dụng và quản lý lao động.
Bộ luật Lao động bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác nhau của người lao động, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, tạo điều kiện cho mối quan hệ lao động được hài hoà và ổn định, góp phần phát huy sáng tạo và tài năng của người lao động trí óc và lao động chân tay, của người quản lý lao động, nhằm đạt năng suất, chất lượng và tiến bộ xã hội trong quá trình lao động, sản xuất, dịch vụ, hiệu quả trong sử dụng và quản lý lao động, góp phần CNH - HĐH đất nước. Bộ luật lao động bao gồm rất nhiều chương, mục cụ thể nhưng ở đây chúng ta chỉ xem xét những quy định chung.
Điều 1. Bộ luật lao động điều chỉnh quan hệ lao động giữa người lao động làm công ăn lương với người sử dụng lao động và các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp với quan hệ lao động.
Điều 2. Bộ luật lao động được áp dụng đối với mọi người lao động, mọi tổ chức, cá nhân sử dụng lao động theo hợp đồng lao động thuộc các thánh phần kinh tế các hình thức sở hữu.
Điều 3. Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử.
Điều 4. Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động.
Điều 5. Người lao động phải được trả lương trên cơ sở thỏa thuận với người sử dụng lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
Điều 6 Người lao động có quyền tuyển chọn lao động , bố trí điều hành lao động theo nhu sầu sản xuất kinh doanh .
Điều 7. Quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động được xác lập và tiến hành qua thương lượng, thoả thuận theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác và tôn trọng lợi ích hợp pháp của nhau.
Điều 8. Nhà nước thống nhất quản lý nguồn nhân lực và quản lý lao động bằng pháp luật và có chính sách để phát triển phân bố nguồn nhân lực.
Điều 9. Nhà nước khuyến khích việc quản lý lao động dân chủ, công bằng văn minh trong doanh nghiệp nhằm đạt hiệu quả cao trong quản lý lao động, sản xuất của doanh nghiệp.
2. Những chính sách của nhà nước dành cho nguồn nhân lực.
Chính sách quản lý nguồn nhân lực là toàn thể các quan điểm, tư tưởng, mục tiêu và giải pháp nhằm đào tạo, phát triển và sử dụng một cách có hiệu quả nguồn nhân lực của nhà nước.
Chính sách phát triển nguồn nhân lực là một trong những chính sách xã hội điều tiết các mối quan hệ xã hội phát triển theo hướng công bằng và văn minh, là chính sách vi mô tác động lên những hoạt động cụ thể trong nền kinh tế.
Nội dung chủ yếu của quản lý nguồn nhân lực bao gồm:
- Nắm cung cầu và sự biến động cung cầu lao động, làm cơ sở để quyết định chính sách quốc gia, quy hoạch, kế hoạch về nguồn nhân lực, phân bổ và sử dụng nguồn nhân lực toàn xã hội.
- Ban hành và hướng dẫn thi hành các văn bản quy phạm pháp luật.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình quốc gia về việc làm, đi xây dựng các nguồn kinh tế mới.
- Thanh tra, kiểm tra việc thực thi pháp luật về lao động và xử lý vi phạm.
- Xử lý các tranh chấp về lao động.
- Xây dựng các chính sách về xuất khẩu lao động.
- Quyết định các chính sách về tiền lương, bảo hiểm, an toàn lao động, vệ sinh lao động và các chính sách khác về lao động.
Xét về nội dung cũng như thực trạng nguồn nhân lực ở cấp vĩ mô có thể phân theo 4 nhóm lớn sau:
2.1 Chính sách bảo vệ và tăng cường thể lực nguồn nhân lực.
Đó là những chính sách chăm sóc, bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho mọi người dân nhằm tạo dựng nên thế hệ Việt Nam cân đối, cường tráng đáp ứng nhu cầu phát triển toàn diện con người và thực hiện công cuộc CNH-HĐH. Vì vậy chúng ta không chỉ tác động tới con người hiện đại mà còn thực hiện chính sách nhằm cải thiện thể chất và thể lực cho các thế hệ tương lai.
2.2 Chính sách phát triển giáo dục và kỹ năng của nguồn nhân lực.
2.2.1 Chính sách phát triển giáo dục cơ sở.
Giáo dục có ý nghĩa cơ sở tạo nền móng cần thiết ban đầu, là tiền đề cần thiết cho đào tạo nguồn nhân lực và là một nhân tố cơ bản của phát triển nguồn nhân lực. Vì vậy, trong việc đánh giá phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia, trước hết người ta dựa vào trình độ giáo dục phổ thông, phổ cập giáo dục, số năm giáo dục bắt buộc... coi đó là nhân tố thuận lợi hay trở ngại cho việc đầu tư và hoạt động kinh doanh. Trong các chính sách giáo dục thì chính sách phổ cập giáo dục là trọng tâm và trở thành một trong những chính sách phát triển nguồn nhân lực của nhiều quốc gia trên thế giới, tuy nhiên tuỳ vào từng điều kiện cụ thể của từng quốc gia mà đặt ra mục tiêu phổ cập trong những thời kỳ nhất định.
Thể hiện chủ trương, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam được ghi nhận trong các nghị quyết của đại hội Đảng và các nghị quyết của hội nghị toàn thể ban chấp hành Trung ương Đảng, gần đây nhất là nghị quyết Đại hội VII, VIII, IX, X. Nội dung chính sách giáo dục, đào tạo của Đảng tập trung vào những vấn đề cơ bản sau:
- Xác định vị trí của giáo dục - đào tạo trong tổng thể những vấn đề kinh tế xã hội trong sự phát triển của đất nước. Giáo dục - đào tạo là vấn đề quốc sách hàng đầu của sự phát triển nước ta.
- Xác định mục tiêu phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo ở nước ta. Đó là nâng cao dân trí đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo một lớp người có sức khoẻ, trí tuệ và đạo đức trong sáng.
- Xác định trách nhiệm của nhà nước, của các tổ chức xã hội và toàn thể xã hội đối với sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Trong đó nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong quản lý và đầu tư, sự cần thiết xã hội hoá sự nghiệp giáo dục - đào tạo.
- Xác định các phương hướng mở rộng các hình thức giáo dục đào tạo theo hướng đa dạng hoá mọi điều kiện, cơ hội cho người dân tham gia giáo dục - đào tạo.
2.2.2 Chính sách phát triển đào tạo nguồn nhân lực.
Chúng ta có thể phân biệt nhóm chính sách này như sau:
- Chính sách về quy mô đào tạo: Mục tiêu là nhằm điều tiết quy mô đào tạo chung và của từng cấp độ đào tạo khác nhau, theo đó có thể khuyến khích, mở rộng hoặc thu hẹp quy mô đào tạo ở một cấp độ nhất định nào đó.
- Chính sách về cơ cấu đào tạo: Mục tiêu của chính sách này là nhằm điều tiết hai loại hình cơ cấu đào tạo là trình đọ và nghành nghề đào tạo.
- Chính sách tài chính trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Chính sách này có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong quản lý phát triển nguồn nhân lực. Hiện nay ở nước ta chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đã có nội dung chủ yếu sau:
+ Đa dạng hoá các nguồn tài chính nhằm huy động càng ngày càng nhiều và đa dạng các nguồn tài chính cho phát triển đào tạo.
+ Ưu tiên tăng nhanh chi ngân sách nhà nước cho phát triển đào tạo nguồn nhân lực.
2.3 Chính sách thu hút và sử dụng lao động.
Đây là nhóm chính sách tác động trực tiếp nhất đến quá trình quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay. Cùng với việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các chính sách thu hút và sử dụng lao động đã được đổi mới từng bước nhằm đáp ứng và thích nghi với kinh tế thị trường. Sự đổi mới này được thể hiện ngay cả trong nội dung, phạm vi và phương pháp tác động của các chính sách để vừa tăng cường vai trò của nhà nước vừa sử dụng ngày càng rộng rãi các công cụ của thị trường trong quản lý nguồn nhân lực.
2.3.1 Nhóm chính sách vĩ mô về việc làm:
- Chính sách đa dạng hoá việc làm và theo đó đa dạng hoá các nguồn lực và chủ thể tạo việc làm. Nhà nước không phải nguồn và chủ thể duy nhất tạo việc làm mà thực hiện chính sách hỗ trợ các thành phần kinh tế tạo việc làm cho người lao động.
- Chính sách khuyến khích, hỗ trợ tạo việc làm: Nhà nước chủ động và tích cực trực tiếp tạo việc làm trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trong đó ưu tiên các ngành có tác dụng kích thích và lan toả tác động tới các thành phần kinh tế khác nhau tạo việc làm và chính sách hỗ trợ các thành phần kinh tế. Nội dung của chính sách không chỉ nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi mà còn hỗ trợ về tài chính ( tín dụng ưu đãi, cung cấp thông tin... )
- Chính sách về cơ cấu việc làm: Thông qua chính sách đầu tư, Nhà nước trực tiếp đầu tư và có những giải pháp khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư vào các vùng, lãnh thổ... để tạo việc làm, chuyển dịchcơ cấu nhằm tạo ra sự chuyển dịch tiến bộ về cơ cấu việc làm với ba hình thức cơ cấu chính là:
+ Cơ cấu làm việc theo ngành: chuyển từ lao động nông nghiệp sang lao động phi nông nghiệp.
+ Cơ cấu làm việc theo trình độ trang bị kỹ thuật: chuyển từ lao động thủ công là chính sang lao động cơ giới hoá và tiến tới tự động hoá.
+ Cơ cấu làm việc theo khu vực lãnh thổ: chuyển lao động từ nông thôn sang thành thị với kiểu sống, lối sống thành thị và với kỹ năng, hiệu quả và năng suất lao động cao hơn.
2.3.2 Nhóm chính sách điều tiết quan hệ và điều kiện lao động.
Đó là những chính sách của Nhà nước nhằm điều tiết quan hệ lao động ( hình thức và phương pháp giao kết hợp đồng, trả công lao động , an toàn lao động, bảo hiểm xã hội...) Trong điều kiện kinh tế thị trường nhất là thị trường sức lao động. Nhà nước tập trung nhiều hơn vào việc trả công được điều tiết theo quan hệ cung cầu và trả giá sức lao động trên thị trường.
2.3.3 Chính sách thị trường lao động.
Đây là nhóm chính sách đặc biệt vì nhằm kích thích, điều tiết phát triển thị trường lao động phục vụ lợi ích chung và lợi ích của người lao động. Ở nước ta thị trường lao động chỉ mới trong giai đoạn hình thành nên còn có những đặc điểm là kém phát triển và còn nhiều khuyết tật. Vì vậy, cần phải có những chính sách riêng để quản lý và thúc đẩy sự phát triển của thị trường đặc biệt này. Sự hình thành và phát triển ngày càng rộng rãi của thị trường lao động cùng với việc hội tụ khá đầy đủ những yếu tố thị trường sẽ có tác động nhiều mặt và mạnh mẽ hơn đến quá trình phát triển nguồn nhân lực.
Các chính sách lao động và việc làm ngày càng bao quát rộng hơn đến toàn bộ lực lượng lao động xã hội và từng bước đáp ứng yêu cầu về quản lý phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường, song còn thích ứng chậm, chậm được thi hành và đứng trước hai thách thức lớn:
+ Lao động khu vực nhà nước chậm đổi mới và số người dôi dư sẽ tăng lên trong quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước đang tiếp tục là gánh nặng kể cả cho doanh nghiệp và cho nhà nước.
+ Một lực lượng lớn chưa được quan tâm đầy đủ và chưa được là đối tượng điều tiết của các chính sách lao động, nên dần tạo ra nhiều vấn đề xã hội sẽ tiếp tục dồn nén lại và trở nên ngày càng nhiều bức xúc như lao động khu vực ngoài quốc doanh.
Chính sách đầu tư và chính sách việc làm chưa thực sự gắn kết với nhau vốn đầu tư liên tục tăng song chất lượng việc làm được tạo ra thấp và sự chuyển dịch cơ cấu diễn ra còn chậm chạp.
2.4 Chính sách đặc thù
Cùng với chính sách chung cho toàn bộ nguồn nhân lực, trong từng giai đoạn nhất định, căn cứ vào mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể mà Nhà nước có những chính sách riêng đối với từng nhóm người lao động. Đó là nhóm đối tượng có vai trò đặc biệt quan trọng và quyết định đến sự phát triển, hưng thịnh của quốc gia hoặc những nhóm nhạy cảm trước sự tác động của cơ chế thị trường. Đối với nước ta hiện nay cần phải cải thiện chính sách nguồn nhân lực cho các đối tượng sau:
- Chính sách phát triển nguồn nhân lực khu vực quản lý hành chính Nhà nước, đặc biệt là đối với đội ngũ lao động những người ra quyết định và tham gia hoạch định chính sách.
- Chính sách phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ, trong đó tập trung vào những ngành khoa học - công nghệ mũi nhọn như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ tự động hoá và vật liệu mới.
- Chính sách phát triển đội ngũ các doanh nhân, trong đó ưu tiên vào các doanh nghiệp xuất khẩu và doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Chính sách phát triển công nhân trình độ kỹ thuật cao, trước hết là phải đạt được trình độ chuẩn trong khu vực Đông Nam Á và tiến tới trình độ quốc tế.
- Chính sách đối với một nhóm lao động thuộc các ngành nghề, lĩnh vực và các vùng lãnh thổ đặc biệt.
Mục tiêu chính của những chính sách đặc thù nói trên là cùng với việc sử dụng những công cụ đòn bẩy của thị trường,nhà nước phải hỗ trợ về tài chính và tạo môi trường thuận lợi cho việc mở rộng quy mô,nâng cao chất lượng đào tạo và điều kiện để họ phát huy tài năng, sáng tạo.
Hệ thống chính sách phát triển, thu hút và sử dụng lao động trong quản lý nguồn nhân lực bao gồm những giải pháp rộng, liên quan đến rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tế ở Việt Nam chứng tỏ vai trò có tính chất quyết định của chính sách phát triển nguồn nhân lực với sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực cần phải xác định va lựa chọn những khâu, điểm đột phá tạo nên những bước phát triển có hiệu quả cao. Những điểm mấu chốt trong những chính sách đặc thù xem xét ở trên có thể tạo được sự đột phá cần thiết này.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM
Việc phát triển thị trường lao động ở Việt Nam đã được quan tâm, văn kiện Đại hội IX Đảng CSVN đã chỉ rõ: " Thúc đẩy sự hình thành phát triển, và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng XHCN, đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc sơ khai thị trường lao động. Mở rộng thị trường lao động trong nước có sự kiểm tra, giám sát của nhà nước,bảo vệ lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động; đẩy mạnh xuất khẩu lao động có tổ chức và hiệu quả. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách tạo cơ hội về việc làm cho người lao động, khuyến khích người lao động tự tìm việc làm, nâng cao trình độ, đào tạo lại, học nghề mới."
Để phát triển nguồn nhân lực phục vụ công cuộc CNH - HĐH theo hướng chủ động hội nhập và phát triển thị trường lao động là một điều quan trọng. Việc tạo lập điều kiện này có thể thực hiện quan một số hướng chính sau đây:
1. Các giải pháp liên quan đến cung lao động.
- Duy trì các kết quả đã đạt được liên quan đến chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình, nhằm hạn chế tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhận lực là một đòi hỏi cấp bách để có thể hội nhập với khu vực và quốc tế.
- Nâng cao trình độ của những người dưới độ tuổi lao động bằng cách phát triển mạnh giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông ở các miền, vùng đất nước đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, các hộ nghèo con em gia đình chính sách, có hoàn cảnh khó khăn.... thuộc các thành phần kinh tế như mở các trường lớp bán công, công lập, quốc lập.
- Nhanh chóng nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho người lao động, thông qua đào tạo lao động kỹ thuật gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, nhằm hình thành cơ cấu lao động mới phù hợp với nền kinh tế hiện đại.
- Đẩy mạnh công tác dạy nghề bằng mọi cách, các hình thức dạy nghề cần được mở rộng và nâng cao chất lượng, đa dạng hóa. Cần có các loại hình đào tạo thích hợp như các lớp đào tạo chính quy, tại chức, ngắn hạn, dài hạn, chứng chỉ... Có chính sách khuyến khích các cơ sở dạy nghề, ưu tiên cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực nhất là viẹc đào tạo nguồn nhân lực ở nông thôn. Cần sửa đổi các chính sách thuế đối với người học và người dạy thực hiện xã hội hóa ở mức cần thiết đối với các hệ đào tạo khác nhau. Cần chú trọng đến các nghề áp dụng công nghệ cao cung cấp cho các ngành kinh tế quốc dân các sản phẩm xuất khẩu. Ưu tiên đào tạo đại trà các nghề phổ biến ngắn hạn cho lao động nông thôn để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế lao động nông thôn đáp ứng yêu cầu thị trường lao động.
- Đổi mới công tác giáo dục đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, điều phối tốt công tác đào tạo để có một cơ cấu hợp lý giữa các bậc và các chuyên môn. Nhanh chóng đổi mới cơ cấu kiến thức, trang bị kiến thức cần thiết của CNH - HĐH nền kinh tế thị trường. Tăng cường chất lượng cung cấp nguồn nhân lực từ các cơ sở đào tạo. coi trọng việc nâng cao chất lượng chương trình đào tạo, phương pháp, các điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên... tiến dần đến trình độ quốc tế dể nguồn nhân lực Việt Nam tham gia một cách có hiệu quả vào thị trường lao động thế giới.
2. Mở rộng quy mô và chất lượng cầu lao động.
- Lựa chọn mô hình tăng trưởng kinh tế phù hợp. Chiến lược phát triển sử dụng nhiều lao động, lựa chọn phát triển các ngành kinh tế hiện đại kết hợp với duy trì và phát triển các ngành kinh tế truyền thống, lợi thế trong xuất khẩu của Việt Nam là một số các hướng đi được đánh giá là hiệu quả và hợp thời.
- Tiếp tục cải cách các doah nghiệp nhà nước và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh để phát triển và thu hút việc làm.
- Có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền cơ sở các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Ngoài ra công tác phát triển thị trường phải được đặc biệt chú trọng, cần xây dựng và thực hiện các đề án riêng, phù hợp với đặc điểm của từng thị trường. Phải chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng đủ nhu cầu thị trường và cần phải có sự tuyển chọn, đào tạo một cách thỏa đáng. Coi trọng việc mở cửa từng bước thị trường sức lao động để người lao động Việt Nam tiếp cận dần với trình độ chuyên môn, kỹ năng, kỹ xảo và ý thức kỉ luật, làm quen dần với cường độ làm việc cao của các nước công nghiệp và phát triển khả năng sáng tạo cao của người lao động. Tính liên thông trên thị trường lao động còn đòi hỏi không phân biệt đối xử trong sử dụng nguồn nhân lực và cần tôn trọng nguyên tắc công bằng, bình đẳng việc sử dụng nguồn nhân lực thuộc các quốc gia khác nhau.
3. Hoàn thiện chính sách và thể chế thị trường lao động.
- Tạo đủ điều kiện để thị trường lao động vận hành có hiệu quả. Pháp luật về lao động cần được tiếp tục hoàn thiện theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh của bộ luật lao động. Các quy định về hợp đồng lao động, việc phát huy vai trò của tổ chức công đoàn, bộ máy, cơ chế giải quyết tranh chấp... cần được coi trọng để bảo vệ quyền lợi của người lao động và người sử dụng lao động.
- Các tổ chức giao dịch về việc làm cần có cơ chế để có thể hoạt động tích cực hơn, người lao động và người sử dụng lao động có thể dễ dàng tiếp cận được với nhau. Cần hình thành hệ thống thông tin - thống kê về thị trường lao động, nắm bắt thường xuyên, cập nhập kịp thời về tình hình cung - cầu lao động theo vùng ngành.
- Nên giảm sự can thiệp của Nhà nước trong công tác tiền lương đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhà nước. Cần hoàn chỉnh chế độ tiền lương theo hướng thị trường, tiến tới thống nhất hệ thống chính sách tiền lương cho mọi loại hình doanh nghiệp, trước hết là thống nhất mức tiền lương tối thiểu.
Phát triển nguồn nhân lực là một biện pháp quyết định sự phát triển bền vững của đất nước, nhất là khi thực hiện các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trong thời kỳ cách mạng công nghệ, nền kinh tế tri thức và đặc biệt là khi Việt Nam tham gia vào sân chơi WTO thì chúng ta lại càng có thêm nhiều thách thức bên cạnh những cơ hội đạt được. Để có thể vận dụng cơ hội cũng như hạn chế thách thức thì chỉ có con đường phát triển nguồn nhân lực - nguồn lực đặc biệt của đất nước mới giúp cho đất nước ngày càng hội nhập, mở cửa, " Sánh vai với các cường quốc năm châu " như Bác Hồ hằng mong ước.
KẾT LUẬN
Nguồn nhân lực là một nguồn lực vô cùng quan trọng ở tất cả mọi quốc gia, là nguồn lực quyết định tới sự phát triển của đất nước và ở Việt Nam nguồn lực này lại càng cần thiết. Việt Nam là đất nước đang phát triển với nhiều tiềm năng to lớn và đặc biệt tiềm năng to lớn và đặc biệt là tiềm năng con người với những đặc tính vô cùng quý báu của người lao động Việt Nam từ xưa đến nay. Chúng ta phải đưa đất nước đi lên " Sánh vai với các cường quốc năm châu " như Bác Hồ đã hằng mong đợi và để làm được điều đó phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nhân lực nước nhà.
Việc gia nhập WTO đã mở ra cho Việt Nam thêm nhiều cơ hội cũng như thách thức mới vì vậy chúng ta cần phải chuẩn bị thật tốt về mọi mặt cho cuộc chơi đầy khó khăn này. Cần phải chuẩn bị về mặt "chất" cho nguồn nhân lực để họ tiếp thu thêm nhiều thành tựu mới trên thế giới, phát triển đất nước thực hiện thành công những nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong thời gian tới.
Nguồn nhân lực là một lĩnh vực rộng với rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu nhưng do thời gian nghiên cứu và kinh nghiệm có hạn do vậy trong quá trình làm em sẽ không tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót. Em rất mong nhận được sự thông cảm gợi ý, sửa chữa của cô và các bạn để bài làm được hoàn thiện hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Khoa Khoa học Quản lý - Giáo trình Chính sách kinh tế xã hội - Chủ biên: PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà, TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền - NXB: Khoa học - kỹ thuật, năm 1999.
Khoa Kinh tế học - Giáo trình Lịch sử kinh tế - GS.TS Nguyễn Trí Dĩnh, PGS.TS Phạm Thị Quý - NXB Thống kê, năm 2003.
Khoa Quản trị Kinh doanh - Giáo trình Quản trị nhân lực - NXB Lao động - Xã hội.
Giáo trình Quản lý Nguồn nhân lực - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Giáo trình triết học Mác - Lênin Khoa triết học - NXB Chính trị Quốc gia, năm 2003.
Nhân lực Việt Nam trong chiến lược kinh tế 2001 - 2010 - NXB Chính trị Quốc gia, năm 2004.
Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam - Một số vấn đề và thực tiễn - NXB Khoa học - Xã hội.
Nhân tài trong chiến lược phát triển Quốc gia - NXB Chính trị Quốc gia.
Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước - TS Nguyễn Thanh - NXB Chính trị Quốc gia, năm 2005.
Các văn bản pháp luật hiện hành về lao động thương binh và xã hội - NXB Lao động - Xã hội.
Báo Nhân dân - số ra thứ 4 ngày 8 tháng 11 năm 2006.
Trang web: www.mof.gov.vn - Bộ Tài chính.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0123.doc