Quốc tế hoá đời sống kinh tế là một xu hướng khách quan, là sự phát triển tất yếu của nền sản xuất xã hội, trên cơ sở sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Xu hướng này đã tác động tới nền kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới nói chung và tác động tới chính sách kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia nói riêng. Chính vì vậy mà đòi hỏi mỗi một quốc gia - trong đó có Việt Nam phải có chính sách kinh tế đối ngoại thích hợp nhằm đưa đất nước hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
31 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1582 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới trong những năm gần đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n cản trở việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên phù hợp với nguyên tắc của GATT/WTO, ở những lĩnh vực thích hợp và không làm tổn hại tới các nền kinh tế khác.
Tổ chức thương mại quốc tế (WTO): Sau chiến tranh thế giới thứ hai nhằm cứu nền thương mại thế giới khỏi khủng hoảng, trì trệ nghiêm trọng mà lịch sử đã chứng kiến ở đầu thập kỷ 30. Người ta kịp nhận thấy rằng một trong những nguyên nhân đẩy đến tình trạng trên chính là chính sách bảo hộ thái quá mà mỗi quốc gia, vì những lợi ích riêng đã có thi hành bất chấp ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại chung. Những chính sách bảo hộ thái quá này đã làm cho buôn bán quốc tế phải tiến hành trong môi trường kém an toàn và việc dự đoán xu hướng phát triển cũng như dung lượng trao đổi hàng hoá và dịch vụ rất khó khăn. Điều này tác động xấu tới nền kinh tế toàn cầu, làm hãm sự phát triển kinh tế của từng quốc gia. Đây chính là bối cảnh cho ra đời GATT (General Agreement on Tareffs and Trade) nhưng mới đầu GATT chỉ là một hiệp định đa phương giữa các quốc gia có nền kinh tế thị trường để các nước tham dựu tạo một quy chế mậu dịch, là diễn đàn quốc tế để các nước thành viên đàm phán mở rộng buôn bán thương mại... sau cùng là diễn đàn quốc tế để các bên tham gia giải quyết những bất đồng hoặc tranh chấp trong thương mại song phương hoặc đa phương. Sau một thời gian phát triển và cuối cùng tại vòng đàm phán Urugoay kéo dài từ 9/1986 đến 1/1/1995 thì GATT chuyển thành tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Với mục tiêu cao cả là: tạo một môi trường thương mại quốc tế an toàn và rộng khắp, nhằm đạt được sự tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn cầu. Hiện nay WTO thu hút sự tham gia của 132 thành viên chiếm hơn 90% tổng giá trị thương mại thế giới.
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN - The Association of Southeast ASEAN Nations) được thành lập 8/8/1967 với sự ra đời của bản tuyên bố ASEAN do bộ trưởng ngoại giao của 6 thành viên đầu tiên ký kết gồm Indonexia, Malaixia, Philippin, Singapor, Thái Lan, nay có thêm bốn thành viên mới đó là Brunay, Lào, Myanma và Việt Nam. ASEAN với mục tiêu là tăng cường và hợp tác kinh tế giữa các nước trong khu vực thúc đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế, văn hoá, tiến bộ xã hội, duy trì hoà bình an ninh khu vực tạo cơ sở cho một cộng đồng các quốc gia Đông Nam á hoà bình và thịnh vượng. ASEAN luôn được thế giới biết tới là khu vực có tiềm lực về kinh tế là nơi có môi trường đầu tư hấp dẫn, và trong tương lai không xa sẽ trở thành khu vực có nền kinh tế phất triển năng động nhất thế giới.
I.2. Quan hệ kinh tế quốc tế trong nền kinh tế thế giới:
Năm 1995 là năm mà xu thế toàn cầu hoá - khu vực hoá diễn ra mạnh mẽ ở khắp các lục địa và ở cả bốn tầng nấc: toàn cầu, liên khu vực, cấp vùng và các tiểu vùng. Thêm nhiều tổ chức liên kết kinh tế ra đời. Các tổ chức liên kết hiện có được mở rộng hoặc đang đẩy nhanh tốc độ hợp tác hay hình thành khu vực mậu dịch tự do. Liên hiệp quốc (UN), Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB), Ngân hàng thế giới ( WB) và điển hình là vào tháng 1/1995: WTO (World Trade Organization) - Tổ chức thương mại thế giới - ra đời thay thế cho hiệp định chung về buôn bán và thế quan GATT, nhằm thực hiện tự do hoá buôn bán trên thế giới. Hoạt động của nó đã kích thích các nền kinh tế là thành viên và chưa phải là thành viên phát triển nhanh, thúc đẩy buôn bán trên thế giới tăng trưởng với tốc độ khá cao và tăng cường hợp tác hoá giữa các khu vực và trên toàn cầu.
Ngoài tự do thương mại hoá ra, các tổ chức liên kết kinh tế, liên lục địa, khu vực nở rộ như EU, ASEAN , NAFTA, TAFTA ( thị trường xuyên Đại Tây Dương )... Các thị trường hàng hóa và dịch vụ phát triển khắp nơi và đa dạng tạo nên một sự cạnh tranh toàn cầu. Các nguồn vốn tư bản chuyển dịch dần ra ngoài vào các nước đang phát triển ( Developing Countries ), hợp tác Bắc - Nam có quy mô ngày càng lớn, ngoài ra còn có hợp tác Nam- Nam. Thị trường tiền tệ, trao đổi thương mại, hàng hoá và dịch vụ cũng ngày một sôi động trên thế giới.
Ngoài ra còn có các tổ chức phi chính phủ - NGO( Non Government Organization), các công ty đa quốc gia với hình dạng muôn màu muôn vẻ ngày càng thâm nhập một cách sâu sắc vào nền kinh tế thế giới.
Có thể nói xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá đang được thúc đẩy bởi một cuộc cách mạng kinh tế - công nghệ hiện đại và diễn ra như vũ bão trên thế giới. Khi sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, tính phụ thuộc lẫn nhau và sự hợp tác phát triển giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế,... và trên toàn cầu ngày càng tăng. Với xu thế này, sự hợp tác cạnh tranh về kinh tế giữa các quốc gia ở từng khu vực và trên thế giới diễn ra ngày càng sôi động trong những năm còn lại của thập kỉ 90, góp phần đưa nền kinh tế thế giới phát triển nhanh hơn trong thiên niên kỉ XXI.
Chương II
Những xu hướng vận động cơ bản của nền kinh tế thế giới trong những năm gần đây
Nền kinh tế thế giới ngày nay chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau bởi vậy sự vận động của nền kinh tế thế giới cũng diễn ra với nhiều xu hướng khác nhau. ở đây xin đề cập đến những xu hướng cơ bản chi phối chính sách kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia nhưng chỉ phân tích sâu hai xu hướng có tác động mạnh đến việc hoạch định chính sách thương mại quốc tế và chính sách đầu tư quốc tế, đó là: Xu hướng quốc tế hoá của nền kinh tế thế giới và sự phát triển của vòng cung Châu á - Thái Bình Dương.
II.1.Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật phát triển nhanh như vũ
bão tác động vào mọi mặt nền kinh tế thế giới - Thúc đẩy sự thống
nhất của nền kinh tế toàn cầu.
Trong tiến trình lịch sử, nhân loại đã trải qua ba cuộc cách mạng công nghiệp. Nội dung cơ bản của các cuộc cách mạng đó là sự thay thế các công cụ sản xuất thô sơ, thủ công cũng như thay thế các quá trình sản xuất lạc hậu đơn điệu bằng việc áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, tiến dần lên cơ khí hoá đến tự động hoá, sản xuất theo kiểu dây truyền hiện đại và với những nguồn năng lượng mới. Sự thay thế trên cho thấy một thực tế là ngày nay, khoa học - kỹ thuật đã trở thành một yếu tố tác động trực tiếp của quá trình sản xuất, một yếu tố có vai trò hết sức quan trọng chứ không như trước đây, giữa khoa học và sản xuất còn có sự cách biệt.
Về tốc độ phát triển khoa học - kỹ thuật cũng rất nhanh chóng: chu kỳ thay thế sản phẩm ngày nay chỉ cần từ 3 - 5 năm thay cho từ 15 - 20 năm như trước đây.
Khoa học - kỹ thuật không chỉ dừng ở đó mà còn phát triển liên tục, trong những thập kỷ gần đây, nó đã có sự chuyển biến về chất. Vì thế, cách mạng khoa học - kỹ thuật đã trở thành cách mạng khoa học - công nghệ.
Xét từ góc độ phương thức sản xuất, những thay đổi về cơ cấu sản xuất nói trên do cách mạng khoa học - công nghệ đã tạo ra sự phát triển mới: Sự nhảy vọt về chất của lực lượng sản xuất dẫn đến sự tăng trưởng hết sức mạnh mẽ. Chỉ trong vòng 20 năm (1970 - 1990) sản xuất của cải trên thế giới đã tăng 2 lần, tức là vượt khối lượng được sản xuất ra trong 230 năm trước (1740 - 1970).
Để thích ứng với một trình độ của lực lượng sản xuất cụ thể, tất phải có một trình độ quản lý tương ứng nhưng để đạt được trình độ quản lý cao, tất yếu các nước cùng phải trao đổi phương tiện, kinh nghiệm cho nhau, thậm chí còn phải giúp đỡ lẫn nhau nâng cao trình độ. Việc nối mạng Internet, việc các nước phát triển mở những lớp bồi dưỡng kiến thức cho các nước khác là những ví dụ cụ thể cho vấn đề trên.
Cách mạng khoa học - công nghệ phát triển là cùng với nó có nhiều vấn đề khác cần được giải quyết như môi trường, dân số,... mà xét trên góc độ kinh tế cũng là những vấn đề liên quan đến nhiều quốc gia, nhiều khu vực trên thế giới.
II.2. Quá trình quốc tế hoá (quy mô, tốc độ, mọi lĩnh vực đời sống
kinh tế, xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá).
Có thể nói, bản thân nội tại “ngôi làng kinh tế” mà chúng ta đang sống biến đổi không ngừng với quy mô từ nhỏ đến lớn và tác động đến mọi mặt đời sống Kinh tế - Chính trị - Văn hoá,... của các cá thể sống trong đó.
Quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế Thế giới ngày nay diễn ra rất nhanh, mạnh và trở thành phổ biến. Tác động của nó ảnh hưởng đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống quốc tế và đã gây ra những phản ứng thuận, nghịch khác nhau đối với từng khu vực, từng quốc gia. Một câu hỏi của dư luận quốc tế đặt ra là: Tại sao lại xuất hiện xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế trên thế giới ? và điều đặc biệt là ngoài quan hệ chặt chẽ về kinh tế trước đây giữa Bắc - Bắc (các nước phương Tây giàu có) ngày nay có quan hệ giữa Bắc - Nam (các nước giàu và các nước nghèo) lại trở nên sôi động mạnh mẽ đến như vậy. Để trả lời những câu hỏi này ta phải xét đến một phần của một xu thế mới - Xu thế dung hoà lợi ích. Ngày nay, mỗi nước đều phải tự bảo vệ lợi ích quốc gia và dân tộc mình. Muốn có một nền an ninh tốt và vững mạnh để bảo vệ lợi ích của mình thì cần phải có một nền kinh tế phát triển, mà muốn có điều kiện để phát triển và gìn giữ một nền kinh tế hùng mạnh thì tất yếu cần có một nền an ninh ổn định cả trên khu vực lẫn trên thế giới. Do vậy, mối quan hệ biện chứng này liên quan chặt chẽ, bổ xung lẫn nhau. Vào thế kỷ XX này, chiến tranh nóng và chiến tranh lạnh đã làm hao tổn lớn đến nền kinh tế toàn cầu, nó đã làm chậm tiến trình phát triển nền kinh tế thế giới và tàn dư của nó vẫn còn là hiểm họa cho nhân loại hiện nay và trong tương lai. Ngày nay, nhắc đến chiến tranh xung đột, đổ máu thì không một quốc gia nào là không ngao ngán mặc dù vẫn còn tiềm ẩn một vài điểm nóng cục bộ tại một số khu vực.
Xu thế mới của thời đại ngày nay là loại trừ chiến tranh nóng nhưng lại nổi lên một cuộc chiến tranh mới - Chiến tranh kinh tế - với sự cạnh tranh và hợp tác mạnh mẽ mang tính liên quốc gia, tính liên khu vực và tính toàn cầu.
Cạnh tranh quốc tế càng gay gắt càng đòi hỏi các quốc gia phải tự bảo vệ mình. Nhưng mặt khác, loài người cũng có nhiều lợi ích chung vượt trên tầm quốc gia như vấn đề môi trường,... và hơn thế nữa, lợi ích của một nước phải thông qua sự phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau giữa nhiều nước mới có thể đạt được. Bởi vậy, phối hợp thế nào giữa lợi ích một nước với lợi ích của nước khác và lợi ích toàn cầu đã trở thành một vấn đề lớn của cộng đồng quốc tế. Trong quá trình đối lập - thống nhất giữa va chạm và phối hợp - điều chỉnh lợi ích cũng là một xu thế lớn của thế giới ngày nay.
Xung đột tất có giới hạn nhất định. Thông qua dung hoà lợi ích, các cuộc xung đột sẽ dịu dần. Tuy vậy, mâu thuẫn giữa các nước Đông - Tây sẽ tiếp tục tồn tại nhưng ở trên bình diện khác - mâu thuẫn trong cạnh tranh kinh tế.
Cùng với việc kết thúc thời kỳ chiến tranh lạnh “Cold war“ mâu thuẫn Tây - Tây lại tăng lên. Những cuộc tranh cãi gay gắt đã liên tục nổ ra giữa EU (Liên hiệp Châu  u) - Mỹ - Nhật Bản; giữa Mỹ - Nhật Bản trên các vấn đề về phê chuẩn ra nhập thị trường buôn bán nông sản phẩm, trợ giá xuất khẩu,... song những cuộc tranh cãi này có giới hạn. Nền kinh tế các nước trên đã ở vào tình thế “trong tôi có anh, trong anh có tôi “, dựa vào nhau, không bên nào rời được bên nào. Thông qua phối hợp “lợi ích“ để cuối cùng đi đến dung hoà, không đến mức tan vỡ. Chính vì vậy, trong thời gian gần đây đã xuất hiện nhiều tín hiệu của một mối quan hệ ổn định giữa các cường quốc là: Mỗi quốc gia đều cố gắng đặt mối quan hệ với các quốc gia khác dưới nhiều hình thái và điều khoản khác nhau, tháng 7/1997 Thủ tướng Hashimoto bày tỏ một khái niệm "Quan hệ ngoại giao Âu - á“ và đưa ra ba nguyên tắc cho mối quan hệ Nga - Nhật là " Tin tưởng lẫn nhau, lợi ích tương hỗ và hướng tới tương lai". Tháng 9/1997 tại Trung Quốc, Thủ tướng Hashimoto đã khởi xướng bốn nguyên tắc "Hiểu biết lẫn nhau, tăng cường đối thoại, mở rộng hợp tác và tạo dựng một trật tự chung" với Trung Quốc. Trong một cuộc viếng thăm Mỹ tháng 10/1997, Chủ tịch Giang Trạch Dân đã đưa ra nguyên tắc "Tăng cường hiểu biết, mở rộng các lợi ích chung, phát triển hợp tác và làm việc vì một tương lai chung"...
Mâu thuẫn giữa Nam - Bắc đã có từ lâu, sau chiến tranh lạnh vị trí các nước đang phát triển tương đối giảm, khoảng cách kinh tế Nam - Bắc tiếp tục tăng lên. Những cuộc đấu tranh kiểm soát và chống kiểm soát, bóc lột và chống bóc lột giữa Nam - Bắc vẫn còn tồn tại lâu dài.
Kinh tế toàn cầu hoá mang lại lợi ích và cũng đem lại rủi do cho một quốc gia. Để tránh mọi rủi do trong khi mở cửa nền kinh tế của mình ra bên ngoài, các nước cũng tăng cường các biện pháp tự bảo vệ mình và càng tích cực thiết lập, phát triển các tập đoàn kinh tế khu vực theo quan hệ địa lý. Vai trò của cơ chế tập đoàn hoá kinh tế này là điều tiết quan hệ nội bộ tập đoàn, ưu đãi lẫn nhau và cùng có lợi, hai là cùng đối phó với cuộc cạnh tranh bên ngoài để thực hiện bảo hộ khu vực. Ví dụ : EEC (cộng đồng kinh tế Châu âu) đã trở thành một tập đoàn khu vực hùng mạnh, rộng 2,36 triệu Km2, với tổng số dân 346 triệu, giá trị tổng sản phẩm quốc dân khoảng 7.000 tỷ USD. Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA- Nouth American Free Trade Area) do Mỹ - Canada - Mêhicô đóng vai trò chính cũng bắt đầu vận hành từ năm 1994. Khu vực Châu á - Thái Bình Dương vươn lên nhanh tuy khó thực hiện nhất thể hoá kinh tế toàn khu vực nhưng hợp tác khu vực nhỏ đã phát triển nhanh như việc thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Namá - ASEAN (Association of Southeast Asian Nations), Diễn đàn kinh tế Châu á - Thái Bình Dương- APEC (Asia Pacific Economic Conference) đã thúc đẩy kinh tế phát triển trao đổi, hợp tác và cạnh tranh trong toàn khu vực.
Trong xu hướng quốc tế hoá ngày nay, kinh tế - thương mại trở thành lĩnh vực quan trọng nhất, tiêu điểm tập chung vào hiệp định chung thuế quan và thương mại (GATT) và bây giờ được thay thế bằng WTO (Tổ chức thương mại thế giới). Ngoài ra, còn có tổ chức Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF (International Moneytary Funds) và Ngân hàng thế giới - WB - (World Bank). Đây là 3 trụ cột lớn điều hoà quan hệ kinh tế - thương mại quốc tế.
Có thể nói, xu hướng quốc tế hoá toàn cầu đã trở thành phổ biến. Mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế, mọi khu vực kinh tế đều có xu hướng mở cửa để giao lưu, hợp tác trong cạnh tranh để cùng nhau phát triển. Như vậy, các quốc gia vì có cùng mục đích chung là phát triển kinh tế cho nên mới có sự song trùng lợi ích lẫn nhau, tiến tới xu thế toàn cầu và khu vực hoá.
Với một quốc gia coi nền kinh tế là hàng đầu thì đối với họ lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc là trên hết. Mọi hành động của một quốc gia đều xoay quanh việc bảo vệ lợi ích của mình. Như một câu nói của Bộ trưởng ngoại giao áo - Mettenic “Không có bạn bè nào là vĩnh viễn, không có đồng minh nào là vĩnh viễn, mà chỉ có lợi ích là vĩnh viễn “(2).
II.3. Nền kinh tế thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại, từ biệt
lập sang hợp tác.
Từ thế kỷ thứ XVIII, tương lai kinh tế của một quốc gia liên quan hết sức chặt chẽ tới khả năng vũ trang và sự lựa chọn đồng minh. Sự năng động của một quốc gia là chìa khoá để giải quyết tất cả các vấn đề trên, sự được thua về kinh tế là sự được thua của một quốc gia: Buôn bán tay ba, tính hám lợi, bao vây kinh tế của chiến tranh Napoleon. Các cuộc tranh chấp kinh tế thường được giải quyết bằng biện pháp quân sự. Ví như nước Anh đã trở thành cường quốc thương mại đầu tiên trên thế giới nhờ sức mạnh bất khả xâm phạm của Hạm đội Hải quân.
Sự tương quan giữa quyền lực kinh tế và sức mạnh quân sự đã trở nên bị lu mờ khi chủ nghĩa tự do kinh tế ra đời. Sự xuất hiện của Chủ nghĩa tư bản làm mất đi ý nghĩa của cuộc tranh luận về tương quan lực lượng kinh tế giữa các quốc gia. Từ nửa sau thế kỷ XX, các nước phát triển đã hầu như không phải dùng đến giải pháp quân sự để bảo vệ quyền lợi kinh tế của mình.
Ngày nay, phần lớn các quốc gia phụ thuộc vào nước ngoài để bổ xung nguồn cung ứng nguyên liệu và lương thực, thực phẩm sống còn khác. Những thoả thuận của GATT: Xem xét lại các hàng rào thuế quan,... là những danh giới kinh tế của một nước, nó kìm hãm và là trở ngại cho sự phát triển thương mại quốc tế. Những thách thức chiến lược chủ yếu lâu dài đã dịch chuyển từ bàn cờ địa lý chính trị sang bàn cờ địa lý kinh tế.
Ranh giới về kinh tế giữa các quốc gia xét về tổng thể mà nói đã bị mờ nhạt. Nhiều quan hệ mới về kinh tế nổi lên giữa các nước: Bắc - Nam, Nam - Nam, Bắc - Bắc đan xen chặt chẽ với nhau tạo thành tổng thể của nền kinh tế thế giới. Mọi tranh chấp về lợi ích đều được hoá giải bằng “thương lượng kinh tế“. Lịch sử ngoại giao 1979 đến nay - Học viện QHQT - Liên minh tứ cường - Sách đã dẫn
Liên hợp quốc (UN) cùng với các tổ chức kinh tế, tài chính khác như IMF, WB, G8 (Câu lạc bộ những nước công nghiệp phát triển), London club, Paris club,... đã đứng ra làm người “giúp đỡ“ trực tiếp hay gián tiếp tác động đến mọi nền kinh tế của các nước để hướng các quốc gia này về một kiểu kinh tế thị trường toàn cầu nhằm phục vụ lợi ích cho tất cả các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển.
Các quan hệ kinh tế nổi cộm lên vẫn là quan hệ giữa các nước phát triển và đang phát triển. Các nước phát triển vốn có công nghệ và kinh nghiệm quản lý còn các nước đang phát triển có nguồn nhân lực dồi dào, trẻ, có khả năng tiếp thu nhanh,... Quan hệ này bổ xung cho nhau tạo nên một môi trường kinh tế thế giới mới.
II.4. Châu á - Thái Bình Dương sự ra đời của một trật tự thế giới mới:
Vòng cung Châu á - Thái Bình Dương vào cuối thế kỷ XX này được nhắc đến rất nhiều không phải vì cái tên mang tính địa lý học, mà là do trong bản thân nó (khu vực này ) bao bọc nhiều nền kinh tế đang phát triển với tốc độ cao, năng động. Chính “vòng cung“ này đã tạo ra một trật tự kinh tế thế giới mới, ngoài những nguyên nhân chủ quan trong nội tại đó là:
- Sức mạnh kinh tế tiềm ẩn.
- Sự sụp đổ Chủ Nghĩa Xã hội ở Liên Xô và Đông Âu.
- Cuộc cách mạng trong lĩnh vực truyền thông.
Đây chính là ba điểm quan trọng tạo nên một trật tự thế giới mới đặc biệt là về kinh tế.
Vùng bờ biển Châu á - Thái Bình Dương được bao quanh bởi 4 trung tâm kinh tế thế giới: Tokyo - Thượng Hải - Hồng Kông - Singapore. Các trung tâm này đã vượt qua được sự thống trị của Atlantic (Đại Tây Dương) với nền văn hoá công nghiệp của New York - Paris - London. Năm trăm năm trước, nền kinh tế thế giới đã chuyển từ Địa Trung Hải sang Atlantic và ngày nay, trung tâm này đang chuyển từ Atlantic sang Thái Bình Dương.
Trên thực tế, vấn đề này đã được giải thích, nền kinh tế Atlantic: Mỹ và EU đang tụt hậu về tốc độ phát triển kinh tế. Một Châu Âu già cỗi đang tự lôi cuốn mình với thị trường chung Châu Âu và bản thân nước Mỹ cũng đang bận tâm tới Châu Âu - tranh giành ảnh hưởng với Liên Xô, mở rộng NATO,...
Những hoạt động kinh tế thực sự đã chuyển sang vùng Châu á - Thái Bình Dương - một khu vực phát triển nhanh - với khả năng chi tiêu lớn, sự lan truyền công nghệ mới, sự lớn mạnh về vốn tích tụ và sự gia tăng buôn bán nội khu vực đã đạt đến mức tới hạn của sự tăng trưởng kinh tế tự lực và ảnh hưởng ra bên ngoài.
Châu á với thị trường sản xuất bùng nổ nhanh tróng mạnh mẽ đã kéo theo khu vực tiêu dùng của nó mặc dù mới chỉ hé mở so với Mỹ và Châu Âu.
Ví dụ: Nhu cầu tiêu thụ sắt của Châu á (Trừ Nhật) đã lớn hơn cả Mỹ và EC. Nhu cầu chất bán dẫn của Châu á lớn hơn EU, vận tải container và đường hàng không của Châu á lớn hơn Mỹ lẫn EC.
Một trong những yếu tố để đạt được mức tới hạn cho sự phát triển trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương là sự tăng trưởng của khối lượng vốn trong vùng. Mỹ và sau là Châu Âu chính là động lực cho sự tăng trưởng đó. Bởi vì họ cung cấp thị trường cho xuất khẩu từ Châu á và họ cũng là người cung cấp phần lớn vốn và công nghệ cho các nước ở khu vực này trong giai đoạn đầu của sự phát triển.
Ngày nay, các nước Châu á - Thái Bình Dương đang nắm lấy vai trò mới trong cộng đồng thế giới, với con số ước tính khoảng 2 tỉ dân, chiếm 40% GNP toàn thế giới, tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng cộng thêm vào đó là một nền văn minh xưa rực rỡ của nhân loại, Châu á - Thái Bình Dương rất xứng đáng là trung tâm kinh tế thế giới trong giai đoạn tới.
Theo tính toán của các nhà kinh tế học John Naisbitt thì: Tổng sản phẩm của Châu á cộng với Nhật Bản vượt Bắc Mỹ năm 1996 và nếu không kể Nhật Bản thì Châu á sẽ vượt Bắc Mỹ vào năm 2018 và EEC (Cộng đồng kinh tế Âu Châu) vào năm 2022. Thêm vào đó, Châu á (trừ Nhật) sẽ chiếm 57% nền kinh tế thế giới vào năm 2050; 24 nước OECD (Tổ chức kinh tế các nước phát triển) gồm có cả Mỹ, Nhật và hầu hết các nước Châu Âu, sẽ chỉ chiếm 15%. So sánh với năm 1990 các nước OECD chiếm 75% kinh tế thế giới trong khi các nước Châu á chỉ chiếm 9%. Nguồn tạp chí tài chính số 10 (396) - 1997 Bài nghịch lý toàn cầu “Châu Âu còn phải đi những bước dài” John Naisbitt.
Liệu trong vòng 60 năm (Từ 1990 đến 2050) các nước Châu á có thể khẳng định được vị trí và vai trò nền kinh tế của mình như trên đề cập hay không ?
Trên khía cạnh kinh tế, Châu á đã nhận biết được vai trò mới lớn hơn và quan trọng hơn của mình trong nền kinh tế thế giới. Các nước còn lại cũng đã nhận biết được vai trò tiềm ẩn của Châu á. Nhưng có một tiềm năng rất lớn, một cơ hôi rất lớn cho Châu á tham gia vào trật tự thế giới mới, giành quyền lãnh đạo kinh tế. Từ Chilê đến Trung Quốc, giới quan sát đều chăm chú theo dõi sự phát triển của Châu á - Thái Bình Dương và Châu Mỹ.
Chương III
những Xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới ảnh hưởng tới việc hoạch định chính sách thương mại và đầu tư quốc tế của việt nam
Cục diện thế giới đang thay đổi nhanh chóng và sâu sắc trên nhiều mặt. Một trật tự thế giới mới đang từng bước được hình thành theo hướng tạo nên sự cân bằng mới về lực giữa các cuốc gia, trước hết là các trung tâm và các quốc gia lớn. Chính những xu hướng vận động biến đổi này đã tác động tới nền kinh tế chung và chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng của các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam.
III.1/ Tác động tới chính sách thương mại quốc tế.
Sau khi khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế như: IMF, WB, ADB, từ ngày 25/7/1995, Việt Nam đã chính thức ra nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN), từ ngày 1/1/1995 đã bắt đầu thi hành nghĩa vụ thành viên theo chương trình CEPT để thực hiện AFTA,... Tháng 12/1994 Việt Nam gửi đơn xin ra nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và đã gửi tới “Bị vọng lục “ giới thiệu chính sách thương mại Việt Nam, 3/1996 Việt Nam tham gia với tư cách là thành viên sáng lập diễn đàn hợp tác á - Âu (ASEM) và đặc biệt vào ngày 14/11/1998 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dương (APEC). Ngoài ra, chúng ta đang trong quá trình đàm phán hiệp định thương mại Việt - Mỹ với những điều kiện và nguyên tắc cơ sở WTO .
Như vậy, trong thời gian qua Việt Nam đã thực sự tham gia vào “Vòng quay “ của xu hướng quốc tế hóa điều này đã tác động tới chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam .
Một là: Để đạt được mục tiêu mở rộng thị trường nước ngoài theo xu thế từng bước hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới đòi hỏi Việt Nam cần cải thiện hơn nữa hệ thống thuế quan vì hiện tại hệ thống thuế quan của Việt Nam còn khá phức tạp và chưa hoàn toàn phù hợp với các thông lệ quốc tế.
Bảng 1. Mức thuế bình quân của một số nhóm hàng nhập khẩu chính vào thị trường Việt Nam
ôtô, xe máy
55%
Rượu
60%
Bia
50%
Xăng dầu
55%
Máy điều hoà, tủ lạnh
40%
Dụng cụ điện trong gia đình
30%
Xi măng
5%
Nhựa, giấy, cao su
30%
Sắt thép
10%
Tuy hệ thống thuế đã được đơn giản hoá và mức thuế trần đối với các mặt hàng nhập khẩu chính đã giảm từ 200% xuống còn 60%. Số mặt hàng chịu thuế 0 - 5% chiếm 53,1% tổng số mặt hàng nhập khẩu. Và chỉ có 0,78% số mặt hàng chịu thuế xuất trên 60%. Tuy nhiên cần lưu ý là xét về giá trị nhập khẩu thì phần lớn là các hàng hoá chịu thuế xuất cao. Mức thuế bình quân gia quyền của 9 mặt hàng chủ yếu như nêu ở trên là 33,5%,... Mặc dù đã có những cải cách đáng kể trong thời gian qua, hệ thống thuế quan Việt Nam còn khá phức tạp và hoàn toàn chưa phù hợp với các thông lệ quốc tế. Thứ nhất là thuế xuất dàn trải quá rộng và có quá nhiều mức thuế (150 mức),...Vì vậy, hệ thống thuế quan Việt Nam cần tiếp tục sửa đổi theo hướng đơn giản hơn, rõ ràng hơn.
Hai là: Trong xu hướng quốc tế hoá sản xuất diễn ra ngày một nhanh chóng như hiện nay đã tác động tới chính sách sản phẩm đòi hỏi phải có những nhìn nhận mới. Chúng ta phải có những sửa đổi bổ sung để tạo ra được những chính sách sản phẩm phải vừa tận dụng được những “kẽ hở“ của thị trường khu vực và thị trường thế giới vừa phải nhằm vào lĩnh vực có khả năng cạnh tranh lớn nhất. Kinh nghiệm của các nước NICs và các nền kinh tế phát triển năng động như Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia, Thailand,... là ví dụ sinh động cho nhận định này.
Ba là: Trong những năm của thập kỷ 80, Liên Xô cũ và Đông Âu vẫn là bạn hàng chính của Việt Nam chiếm phần lớn trong tổng kim nghạch xuất - nhập khẩu, nhưng đến 1991, thị trường Châu á chiếm 80% tổng kim nghạch xuất khẩu của Việt Nam, thì năm 1994 còn 75,8% và năm 1997 chỉ còn chiếm 67,7%. Riêng thị trường Đông Bắc á chiếm 50% tổng kim nghạch vào năm 1995, và năm 1997 giảm xuống còn 44,0%.
Thị trường xuất khẩu của Việt Nam phát triển theo hướng mở rộng sang Châu Âu, đặc biệt Tây Bắc Âu, thị trường Liên bang Nga và các nước Đông Âu có dấu hiệu phục hồi. Nếu năm 1991, thị trường Châu Âu mới chỉ chiếm tỷ trọng 9,79% trong tổng kim nghạch xuất khẩu của Việt Nam thì đến năm 1994 đã tăng lên gấp 2 lần, đạt tỷ trọng 17,16% và năm 1997 tiếp tục tăng lên 21,5%.Châu Mỹ, mà đặc biệt là Hoa Kỳ, là một hướng mới trong phát triển mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Nếu năm 1991, Châu Mỹ mới chỉ chiếm tỷ trọng 0,16% trong tổng kim nghạch xuất khẩu của Việt Nam thì năm 1994 đã tăng lên 2,76% và năm 1997 chiếm tới 4,48%. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam cũng đang được mở rộng đáng kể sang Châu úc hay Châu Đại Dương - mà đặc biệt là Ôxtrâylia. Năm1991, thị trường này mới chiếm tỷ trọng 0,96% trong tổng kim nghạch xuất khẩu của Việt Nam, nhưng đến năm 1997 đã tăng lên 2,78% (xem bảng 2):
Bảng 2 : Cơ cấu khu vực thị trường xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 1991 - 1997 (tính bằng % của tổng số) (4)
Các khu vực thị trường / Năm
1991
1994
1995
1996
1997
- Châu á
79,94
75,80
72,40
69,6
67,7
+ Đông Bắc á
50,0
49,0
44,0
+ Đông Nam á
21,0
19,0
22,0
+ Nam á và Trung Đông
1,40
1,60
1,70
- Châu Âu
9,79
17,17
17,80
16,80
21,50
+ Tây Bắc Âu
15,0
13,0
19,0
+ SNG và Đông Âu
2,80
3,80
2,5
+ Liên Bang Nga
8,67
1,04
2,36
1,37
- Châu úc
0,96
1,07
1,04
0,82
2,78
- Châu Phi
0,68
0,56
0,70
0,70
0,80
- Châu Mỹ
0,16
2,76
4,33
4,22
4,48
+ Bắc Mỹ
0,16
2,59
3,40
Nguồn do vụ Kế hoạch - Thống kê Bộ thương mại tổng hợp biên soạn Hà Nội Tháng 12/1997.
3,70
3,80
+ Mỹ Latinh
0,17
0,93
0,52
0,68
+ Hoa Kỳ
3,10
3,43
3,21
Tổng cộng
100.00
100.00
100.00
100.00
100.00
Đặc điểm và xu hướng chuyển dịch cơ cấu khu vực thị trường xuất khẩu của Việt Nam từ năm 1991 đến nay cho thấy: một mặt quan hệ buôn bán và phạm vi không gian thị trường xuất khẩu không ngừng mở rộng;mặt khác Việt Nam không chỉ phát triển thị trường gần mà đã vươn nhanh đến các thị trường xa (Tây Bắc Âu, Bắc Mỹ, Châu Đại Dương). Việt Nam đã chuyển dần cơ cấu thị trường từ các nước Châu á - Thái Bình Dương là chủ yếu sang các khu vực thị trường khác phù hợp với xuất khẩu của Việt Nam. Nếu năm 1991, châu Mỹ mới chỉ chiếm tỷ trọng 0,16% trong tổng số kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, thì năm 1994 tăng lên 2,76% và năm 1997 chiếm tới 4,48%. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam cũng đang được mở rộng đáng kể sang châu úc hay Châu Đại Dương - mà đặc biệt là Ôxtrâylia. Năm 1991, thị trường này mới chiếm tỷ trọng 0,96% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, nhưng đến năm 1997 đã tăng lên 2,7%(xem biểu 2).
Chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa kinh tế đối ngoại. Trong đó đáng chú ý là đã củng cố và mở rộng thị trường Liên minh châu Âu (EU), bắt đầu đi vào thị trường Bắc Mỹ, Trung cận Đông và Châu Phi. Mặt khác, Việt Nam không chỉ phát triển và mở rộng thị trường sang các nước đang phát triển mà còn mở rộng thị trường xuất khẩu tới toàn bộ các nước công nghiệp phát triển, các thị trường được coi là khó tính, khó len chân và có mật độ cạnh trạnh cao. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam có sự chuyển dịch ngay trong nhóm các nước công nghiệp phát triển. Năm 1995, thị trường các nước G7, (7 nước công nghiệp phát triển) chiếm tỷ trọng 39,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, riêng Nhật Bản chiếm tỷ tọng 26,8%, các nước còn lại chiếm 13,0%. Đến năm 1997, Nhật Bản chỉ còn chiếm tỷ trọng 19,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, 6 nước G7 còn lại chiếm 14,1%.
Những kết quả trên là rất quan trọng, nó tạo đà cho sự phát triển mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt Nam những năm tiếp theo. Tuy nhiên, cần thấy rằng đối với các cơ quan điều hành vĩ mô, công tác tổ chức các biện pháp xúc tiến thương mại - chủ yếu là khuếch trương xuất khẩu - thời gian qua còn yếu kém, phân tán, chưa có tác động thúc đẩy xuất khẩu, mở rộng thị trường cho hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Bốn là: Khi tham gia hội nhập thì đòi hỏi cần thận trọng trong việc điều chỉnh và gia quyết định các chính sách kinh tế đối ngoại nói chung và chính sách thương mại nói riêng.
Trong quá trình lựa chọn phải có quyết tâm và nhất trí cao trong nội bộ trên nguyên tắc tôn trọng lợi ích toàn cục, lâu dài, thậm chí có thể phải hy sinh một số lợi ích trước mắt, cục bộ của một số ngành địa phương hay doanh nghiệp.
Ví dụ: Khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế, các diễn đàn kinh tế,... đòi hỏi Việt Nam trong chính sách thương mại quốc tế của mình phải có sự điều chỉnh, giảm bảo trợ, bỏ độc quyền sẽ dẫn tới giảm sức cạnh tranh của các sản phẩm trong nước hoặc trong chừng mực nào đó giảm thu ngân sách...
Trong xu thế nền kinh tế thị trường, từng bước hội nhập vào tự do hoá thương mại thế giới, cần khẳng định Việt Nam là một quốc gia không lấy chính sách bảo hộ mậu dịch làm chiến lược phát triển của mình. Tuy nhiên, là thành viên mới có trình độ phát triển thấp hơn các thành viên ASEAN khác, việc dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan theo yêu cầu của AFTA, APEC và tương lai không xa là của WTO, sẽ đặt các ngành sản xuất nội địa trước sức ép ghê gớm của luồng hàng nhập khẩu:
Ví dụ: Nếu thị trường Việt Nam mở cửa ồ ạt cho hàng Trung Quốc vào thì chắc chắn sẽ gây phương hại cho nền công nghiệp trong nước,..
Chính vì vậy, đòi hỏi phải có những biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước hợp lý. ở đây, sự bảo hộ sẽ phải được quan niệm như là sự bảo hộ tích cực trong điều kiện tự do hoá thương mại. Nó khác hoàn toàn với sự bảo hộ mậu dịch trong nền kinh tế hướng nội khép kín.
III.2/ Tác động tới chính sách đầu tư quốc tế của Việt Nam:
Trước ngưỡng cửa của thế kỷ mới, toàn nhân loại đang chứng kiến xu hướng Quốc tế hoá nền kinh tế thế giới ngày một diễn ra sâu sắc và nhanh chóng hơn. Không những thế, chúng ta còn chứng kiến sự vươn lên của nền kinh tế các nước, sự lớn mạnh không ngừng của các tổ chức và các liên kết kinh tế quốc tế. Đặc biệt là sự phát triển của vòng cung Châu á - Thái Bình Dương.
Trong bối cảnh này, chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam nói chung và chính sách thu hút đầu tư nước ngoài nói riêng đã chịu những tác động không nhỏ:
Một là: Hiện nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao chính thức với 156 nước; quan hệ buôn bán với hơn 100 nước, vùng lãnh thổ; có hơn 700 công ty của hơn 50 nước, vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam...
Vị thế của Việt Nam trên thương trường quốc tế đang được củng cố, phát triển và ngày càng có thêm nhiều quốc gia hiểu biết, muốn làm ăn với Việt Nam. Hơn nữa, khu vực Châu á - Thái Bình Dương đang là khu vực phát triển năng động nhất - nơi được coi là trung tâm kinh tế thế giới vào đầu thế kỷ XXI - cũng đã có diễn đàn hợp tác phát triển APEC. Các nước Đông Nam á đang cố gắng mở rộng phạm vi hoạt động và vai trò kinh tế của tổ chức ASEAN. Năm 1996, tại Băng Cốc đã diễn ra cuộc gặp gỡ thượng đỉnh của 15 nước EU với 10 nước Châu á nhằm đẩy mạnh hợp tác á- Âu,...Những điều kiện trên đây đã đưa khu vực Châu á trở thành nơi có sức hấp dẫn lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Theo báo cáo mới nhất của Hội nghị liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD) trong 12 tháng năm 1998 Châu á nhận được 87 tỷ USD vốn FDI...
Với vị trí địa lý thuận lợi, Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam á, khu vực có sức hút mạnh mẽ đầu tư trực tiếp nước ngoài, đang là tiêu điểm hấp dẫn mạnh các nhà đầu tư nước ngoài. Các cường quốc công nghiệp muốn chọn Việt Nam làm đầu cầu để hợp tác và đầu tư với các nước trong khu vực Đông và Đông Nam á. Có thể nói Việt Nam đang được hưởng những lợi thế khách quan đặc biệt to lớn trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Khi Việt Nam nằm trong ý đồ chiến lược của các nhà đầu tư, nhất là các nước đầu tư thì đó là một cơ hội lớn để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thực tế cho thấy từ khi Việt Nam ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 thì lượng vốn đầu tư vào Việt Nam ngày càng gia tăng (Tuy nhiên từ năm 1996 trở lại đây có xu hướng giảm ảnh hưởng chung).
Nhưng để tận dụng được mọi cơ hội thuận lợi như trên đòi hỏi chính sách đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cần có những thay đổi để tạo thêm sức hấp dẫn. Có như vậy thì trong tương lai, Việt Nam mới thực sự là điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Hai là:Việc Việt Nam ra nhập ASEAN, cùng xây dựng AFTA thống nhất vào năm 2006 và là thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) vào ngày 14/11/1998 khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài phải tính toán: Nếu môi trường đầu tư ở Việt Nam chưa hấp dẫn thì có thể đầu tư vào các nước thành viên khác của ASEAN - vốn có môi trường đầu tư tốt hơn- hoặc mở rộng quy mô, năng lực sản xuất tại các cơ sở hiện có của họ ở các nước này sau đó thâm nhập vào thị trường Việt Nam bằng con đường thương mại bởi hàng rào thuế quan của các nước thành viên trong khu vực đã được cắt giảm.
Một yêu cầu đòi hỏi đặt ra đối với Việt Nam phải có những sửa đổi cải cách lại môi trường đầu tư của nước mình để nhằm tạo điều kiện hấp dẫn, thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài khi chọn đầu tư vào Việt Nam bằng cách phát huy những thuận lợi và khắc phục những khó khăn đối với các nhà đầu tư. Chẳng hạn như khi đánh giá môi trường đầu tư của Việt Nam, các nhà đầu tư có nhận xét sau:
- So với các nước trong khu vực, thuế lợi tức và giá nhân công của Việt Nam thấp đồng thời cường độ lao động và kỹ năng lao động của công nhân Việt Nam cũng thấp, giá thuê dịch vụ văn phòng và chi phí đền bù giải toả mặt bằng lớn.
- Còn có quá nhiều lệ phí (Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện có khoảng 200 loại lệ phí đang được thực hiện ở Việt Nam) gây ra cho các nhà đầu tư có cảm tưởng phải đóng quá nhiều thuế.
- Thủ tục triển khai dự án phức tạp, kéo dài, nhất là khâu cấp đất, giải phóng mặt bằng, xét duyệt và sửa chữa thiết kế, thủ tục hải quan,...
- Chính sách hai giá trong dịch vụ khách sạn, cước phí điện thoại, giá điện nước,...đối với người nước ngoài và người Việt Nam khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy bị đối xử không công bằng...
Hơn thế nữa, các nước trong khu vực đều đang tìm cách khắc phục khủng hoảng kinh tế vừa qua cho nên họ rất cần vốn đầu tư, vốn hỗ trợ từ bên ngoài để nhằm khắc phục nền kinh tế của nước mình. Chính vì vậy, những quốc gia này sẽ có những điều chỉnh nhằm tạo cho môi trường đầu tư của nước mình có sức hấp dẫn cao. Hơn nữa, chúng ta đều biết dòng vốn đầu tư nước ngoài rất nhạy cảm với các chính sách cũng như môi trường đầu tư của mọi quốc gia nó sẽ chảy vào khu vực có nhiều lợi nhất.
III.3/ Một số gợi ý trong việc hoạch định chính sách thương mại và
đầu tư quốc tế trong tình hình mới hiện nay.
ở mỗi giai đoạn phát triển, đất nước lại đứng trước một bối cảnh trong nước và quốc tế khác nhau, nhưng có thể nói chưa bao giờ chúng ta có được thời cơ quốc tế thuận lợi như bây giờ. Vấn đề chỉ còn phụ thuộc vào chính chúng ta, phải chớp lấy thời cơ và tranh thủ nguồn lực to lớn bên ngoài để thực hiện những mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội nói chung, phát triển quan hệ thương và đầu tư quốc tế nói riêng.
III.3.1/ Thuận lợi và khó khăn - cơ hội và thách thức:
Những thuận lợi khi Việt Nam tham gia vào xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá:
- Trước hết khi tham gia vào các tổ chức quốc tế hay khu vực sẽ giúp cho Việt Nam nâng cao được vị trí quốc tế và tạo thế đứng chắc hơn trong quan hệ chính trị ( từ đó tạo điều kiện cho phát triển thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế ) do tạo được những mối quan hệ đa dạng, đan xen, phụ thuộc lẫn nhau trên cơ sở đó bảo vệ tốt hơn lợi ích quốc gia trong đó có lợi ích kinh tế.
- Trong thương mại quốc tế, có thể ngăn ngừa được tình trạng cô lập, phân biệt đối sử hay bị chèn ép
Ví dụ: Có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp đa biên để hạn chế sự chèn ép của các nước lớn trong quan hệ song biên.
- Tận dụng được những đối xử ưu đãi dành cho các nước chậm phát triển hoặc đang phát triển hoặc có nền kinh tế đang chuyển đổi về mức độ cam kết mở cửa và thời hạn cam kết thực hiện để vừa xây dựng lộ trình hội nhập cos hiệu quả, vừa bảo hộ hợp lý, có thời hạn và phát triển vững chắc các ngành sản xuất của Việt Nam.
- Tăng sức thu hút đầu tư do chính sách dần dần được điều chỉnh theo các chuẩn mực của các tổ chức kinh tế quốc tế, tạo môi trường đầu tư thông thoáng và bình đẳng, tranh thủ được sự hỗ trợ của các chính phủ và các định chế Tài chính quốc tế, củng cố được lòng tin của giới kinh doanh quốc tế.
Bên cạnh những thuận lợi đó, trong quá trình xây dựng chính sách và lộ trình tham gia xu hướng quốc tế hoá - khu vực hoá, chúng ta đang phải đối mặt với không ít những khó khăn và thách thức:
- Tuy những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ song do trình độ phát triển kinh tế của chúng ta có xuất phát điểm thấp, đặc biệt là sức cạnh tranh của các ngành sản xuất, dịch vụ của các doanh nghiệp còn yếu kém do quen được bảo hộ trong một thời gian quá dài trong khi các đối thủ cạnh tranh quốc tế có đầy đủ các thế mạnh về kỹ thuật, công nghệ, tài chính, quản lý, kinh nghiệm kinh doanh - tiếp thị,...Bên cạnh đó, ta lại bắt đầu tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế sau nhiều nước trong khu vực và thế giới (GATT, WTO: đã hoạt động trên 1/2 thế kỷ; ASEAN trên 30 năm, APEC từ năm 1989), do đó ta đang phải cố gắng hết mình để theo kịp tiến độ chung trong quá trình tự do hoá với quy mô rộng hơn và mức độ sâu hơn.
- Các cơ chế mang tính chất kinh tế thị trường của ta còn trong giai đoạn đang được hình thành, nói cách khác là còn sơ khai, chưa đồng bộ, hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh. Còn nhiều luật lệ (Đặc biệt trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài) và chính sách, biện pháp mở cửa còn thiếu hoặc chưa phù hợp với thông lệ và tập quán quốc tế, còn mang nặng tính bảo hộ, phân biệt đối xử.
-Hiểu biết về xu hướng quốc tế hoá và khu vực hoá còn nhiều hạn chế, công tác chuẩn bị còn coi nhẹ, nhận thức về tầm quan trọng cũng như những yêu cầu, nội dung của quá trình tham gia còn chưa đồng đều giữa các bộ, ngành, cơ quan. Đặc biệt giới kinh doanh hầu như còn đứng ngoài cuộc, chưa sẵn sàng tham gia trong khi đó các tổ chức đều xác định khu vực doanh nghiệp chính là đối tượng, động lực của quá trình tham gia xu hướng quốc tế hoá, khu vực hoá. Đội ngũ làm công tác này còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ, nghiệp vụ, khả năng xây dựng chính sách cũng như trình độ ngoại ngữ, đặc biệt chưa có nhiều kinh nghiệm và kỹ năng đàm phán trong các hoạt động đa phương.
III.3.2/ Một số gợi ý và giải pháp cho Việt Nam trong việc hoạch định
chính sách thương mại và đầu tư quốc tế trong tình hình hiện nay:
Chính sách thương mại và đầu tư quốc tế có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với mọi quốc gia nói chung cũng như Việt Nam nói riêng. Thực tế của thế giươí cho thấy xu hướng tự do hoá thương mại và đầu tư là một xu hướng tất yếu mà mọi quốc gia phải tính tới trong quá trình hoạch định chính sách của mình. Việt Nam cũng đã nhận thức được xu hướng phát triển khách quan đó. Vấn đề là làm thế nào có thể áp dụng có kết quả và thích hợp xu hướng tự do hoá thương mại và đâù tư ở Việt Nam. Đây không phải là một vấn đề đơn giản chính vì vậy đòi hỏi phải có thời gian, tìm hiểu sâu, phân tích kỹ mọi điều kiện khách quan, nguồn lực cụ thể của Việt Nam.
ở đây, tác giả của đề án này chỉ mong muốn sau khi phân tích những điều kiện khách quan và tác động của chúng tới chính sách thương mại quốc tế và chinh sách đầu tư quốc tế xin đưa ra một số gợi ý và giải pháp để tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách thương mại và đầu tư quốc tế của Việt Nam.
a/ Đối với chính sách thương mại quốc tế:
*Hiện nay khu vực Châu á đang chiếm tỷ trọng lớn trong quan hệ mua bán với Việt Nam nhưng hiện tại khu vực này đang rơi vào cuộc khủng hoảng Tài chính - Tiền tệ. Trong điều kiện đó, Việt Nam nên tăng cường đẩy mạnh quan hệ với EU với các lý do sau:
- Khi EU sử dụng đồng tiền Euro (1/1/1999) sẽ tạo cơ hội mang tính chiến lược trong các chính sách về tài chính, dự trữ ngoại tệ, tính toán và thanh toán nợ nước ngoài, về giá cả kinh doanh, Việt Nam sẽ có cơ hội tăng cường quan hệ buôn bán với EU, mở rộng thêm thị trường buôn bán bù vào sự giảm sút của thị trường Châu á do khủng hoảng gây ra. Mặt khác, tăng cường buôn bán với EU sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam trực tiếp nhập khẩu được thiết bị nguồn từ các nền kinh tế tiên tiến ở Châu Âu (không cần thông qua các nước thứ ba) để phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
- Khi EU lưu hành đồng tiền chung Euro sẽ không có sự chênh lệch giá cả giữa các nước EU và nhờ nguyên tắc quốc gia gốc của EU mà hàng nhập khẩu sẽ được tính thuế VAT cố định theo mức của nước bán hàng. Vì thế, các khoản chi phí giao dịch sẽ giảm đi. Cũng chính sự thống nhất về giá cả được tạo lập tại thị trường EU nên việc tính toán các phương án ký kết hợp đồng và công tác khuyến mại được giảm tiện hơn từ đó quá trình thâm nhập thị trường và bán hàng của ta sang EU sẽ thuận lợi hơn.
*Nên mở cửa sớm và nhanh đối với những mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu, chậm hơn đối với những mặt hàng có thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu trong tương lai và chậm nhất đối với mặt hàng có tiềm năng cạnh tranh kém.
*Phải phối hợp nhịp nhàng giữa biện pháp thuế quan và phi thuế quan. Về nguyên tắc vừa giảm thuế quan vừa cắt giảm các biện pháp phi thuế quan song trong một số trường hợp nếu thấy vẫn cần bảo hộ có mức độ trong thời gian nhất định trong khi buộc phải giảm thuế sớm thì có thể duy trì các biện pháp phi thuế quan thích hợp trong thời gian nhất định.
*Đồng thời với các biện pháp trên phải ưu tiên đầu tư tiền vốn, kỹ thuật để tạo và củng cố thế mạnh của các ngành hàng. Có kế hoạch đâù tư ngay từ đầu, không chờ đến khi bỏ bảo hộ mới đầu tư.
*Việc phân chia nhóm ngành hàng, mặt hàng đòi hỏi phải tập trung sức lực và trí tuệ cao của các nhà làm chính sách để phân tích thông tin, đánh giá chính xác lợi thế cạnh tranh tiềm năng, tầm quan trọng trong từng ngành hàng trong thế tĩnh và động. Ngoài ra cần phải thường xuyên tham vấn các doanh nghiệp, các tổ chức, hiệp hội ngành hàng về các chương trình dự kiến để nhận những kiến nghị cần thiết.
*Cần nhanh chóng hình thành cục xúc tiến thương mại và các trung tâm xúc tiến thương mại ở các trung tâm kinh tế lớn và có thể cả ở nước ngoài khi điều kiện cho phép nhằm công tác tổ chức thị trường và xúc tiến thương mại có như vậy mới đắc lực hỗ trợ các doanh nghiệp nhanh chóng vươn ra được thị trường nước ngoài.
b/ Đối với chính sách thu hút đầu tư quốc tế:
Về phía mình, với tư cách là bên nhận đầu tư, Việt Nam phải đủ các điều kiện cần thiết để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục làm tốt các công việc sau đây:
*Giữa vững sự ổn định Chính trị - Xã hội, xây dựng bộ máy quản lý Nhà nước trong sạch, vững vàng, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước và đảm bảo lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Đảm bảo trật tự an toàn xã hội, ngăn chặn và sử lý thật nghiêm minh mọi hành vi gây rối, bảo vệ tốt tính mạng và tài sản của các thành viên trong xã hội.
*Giữa vững sự ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc dân, kiềm chế lạm phát và ổn định tiền tệ, giá cả.
*Hoàn thiện môi trường pháp lý, đảm bảo hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài bằng những điều khoản có tính chất ưu đãi về mặt lợi ích kinh tế của họ và đảm bảo an toàn về vốn cho họ. Xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ, đảm bảo thi hành pháp luật nghiêm minh.
*Xây dựng chiến lược hợp tác đầu tư với nước ngoài trên cơ cở của chiến lược phát triển kinh tế quốc dân. Khẩu trương hoàn thiện qui hoạch tổng thể đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó cần có qui hoạch cụ thể về cơ cấu kinh tế (theo ngành và lãnh thổ), qui hoạch các khu công nghiệp, các sản phẩm quan trọng.
*Phát triển kinh tế thị trường và thiết lập hệ thống thị trường đồng bộ tạo điều kiện cho chính thị trường đầu tư hoạt động có hiệu quả. Nhanh chóng hình thành thị trường tài chính, hoàn thiện thị trường lao động,...và phát triển các ngành dịch vụ tài chính ngân hàng, đáp ứng những đòi hỏi bức bách của hoạt động sản xuất kinh doanh.
*Tích cực chủ động tiến hành xúc tiến đầu tư, tạo lập và lựa chọn các đối tác đầu tư nước ngoài, lựa chọn các hình thức thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phù hợp và có hiệu quả, đa dạng và đa phương hoá trong hợp tác đầu tư.Tăng cường quan hệ ngoại giao với các nước theo chủ trương “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước “.
*Chú trọng đào tạo cán bộ quản lý, nhân viên kỹ thuật và tay nghề cho công nhân theo hướng vừa trang bị kiến thức cơ bản vừa đào tạo chuyên sâu.
*Củng cố quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, nâng cao năng lực quản lý của các cấp, các ngành, các địa phương và đơn vị hợp tác đầu tư với nước ngoài. Phân cấp quản lý chặt chẽ, đồng bộ, đảm bảo sự tạp trung thống nhất, khắc phục hiện tượng chia cắt, phân tán. Cải tiến các thủ tục hành chính theo hướng nhanh gọn, hiệu quả, đơn giản hoá các thủ tục tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài.
*Cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới kết cấu hạ tầng. Đây là công việc không dễ thực hiện ngay được trong điều kiện tiềm lực kinh tế của Việt Nam còn nhỏ bé, nhất là nguồn vốn ngân sách Nhà nước còn hạn chế. Vì vậy, một mặt chúng ta cần huy động tối đa khả năng của mình, mặt khác cần tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức và chính phủ các nước. khi chưa đủ điều kiện phát triển đồng bộ hệ thóng cơ sở hạ tầng của nền kinh tế thì nên tập trung xây dựng rứt điểm những công trình then chốt của nền kinh tế.
*Phát triển mạnh nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với sự tham gia của các thành phần kinh tế, trong đó một mặt phải củng cố kinh tế quốc doanh theo hướng hiệu quả, đồng thời phát triển mạnh kinh tế tư nhân dưới nhiều hình thức.
*Dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế cho phù hợp với sự phát triển của phân công lao động quốc tế. Một cơ cấu kinh tế mới chỉ nên tập trung ohát triển mạnh những ngành và lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế.
*Mở cửa về thông tin trong và ngoài nước, nhất là thông tin kinh tế, thị trường, văn hoá, xã hội, khoa học công nghệ dưới mọi hình thức. Thiết lập một thị trường thông tin công bằng đối với mọi thành viên trong xã hội, đảm bảo quyền được thông tin của mọi người dân và các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Kết luận
Quốc tế hoá đời sống kinh tế là một xu hướng khách quan, là sự phát triển tất yếu của nền sản xuất xã hội, trên cơ sở sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Xu hướng này đã tác động tới nền kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới nói chung và tác động tới chính sách kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia nói riêng. Chính vì vậy mà đòi hỏi mỗi một quốc gia - trong đó có Việt Nam phải có chính sách kinh tế đối ngoại thích hợp nhằm đưa đất nước hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Trong quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, thương mại và đầu tư quốc tế có vị trí và vai trò ngày càng quan trọng, nó đã và đang là nhân tố cơ bản cấu thành và quy định xu hướng phát triển quan hệ kinh tế quốc tế. Một mặt thương mại và đầu tư quốc tế hiện là hoạt động cơ bản của quan hệ kinh tế quốc tế, mặt khác nó là nhân tố thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của mỗi quốc gia, vì lý do đó đòi hỏi chúng ta phải có những chính sách thương mại và đầu tư quốc tế phù hợp với xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới trong giai đoạn hiện nay, nhằm tận dụng được mọi lợi thế đưa đất nước sớm hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Việt Nam - Một bộ phận của ASEAN - tổ chức hợp tác có nhiều nền kinh tế năng động nằm trong tổng thể của một trung tâm kinh tế thế giới mới - Châu á - Thái Bình Dương. Cơ hội đến với chúng ta quả là nhiều song thách thức cũng lắm, Việt Nam trong quá trình mở của nền kinh tế, phấn đấu cơ bản thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá vào năm 2020. Tuy không còn xa, song chúng ta phải nhìn vào thế giới và ngẫm lại bản thân để từ đó đề ra chính sách đúng đắn, nhuần nhuyễn sao cho thực sự hoà nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Sinh viên:
Trần Phi Cường
Tài Liệu Tham Khảo
A - Sách
1. Kinh tế học quốc tế - Trường Đại học KTQD (chủ biên GS. PTS Tô Xuân Dân) - Nxb Giáo dục - 1995.
2. Chính sách KTĐN - Trường Đại học KTQD (chủ biên GS. PTS Tô Xuân Dân) - Nxb Thống kê - 1998.
3. Kinh tế Đông á - Nền tảng của sự thành công - Nxb Thế Giới - Hà Nội 1995.
4. ASEAN hôm nay và triển vọng trong thế kỷ XXI (chủ biên PTS Nguyễn Thu Mỹ) - Nxb Chính trị Quốc gia - 1998.
5. Tám xu hướng phát triển của Châu á - Đang làm thay đổi thế giới - John Naibitt - Nxb Chính trị Quốc gia.
6. Thời đại Châu á trỗi dậy - Jimroh wer - Nxb Thống kê.
7. Chính sách thương mại và đầu tư (chủ biên viện sĩ Vô Đại Lược - VKTTG) - 1997.
B - Tài liệu tham khảo
1. Thế giới 1992 và 1993 (số 1 và 2) - TTXVN
2. Các xu thế của thế giới (tháng 7/1994) - TTXVN.
3. Kinh nghiệm kinh tế CA - TBD (Số 6/1992) - TTXVN.
4. TLTK chủ nhất 18/5/1997 - Quan hệ KTĐN xuyên thế kỷ của TQ - TTXVN
C - Tạp chí
1. Lịch sử QHQT 1919 đến nay - Học viện QHQT - Hà Nội 1995.
2. Tài chính số 2 (388) số 10 (396) số 11 (397) - 1997 số 7 năm 1998.
3. Kinh tế 97 - 98 Việt Nam và Thế giới - Thời báo KTVN.
4. Quốc tế số 21 (310) - 1998, số 22 (311) - 1998.
5. Kinh tế Đầu tư số 93 (392), số 98 (397), số 103 (402) - 1998
6. Một số tạp chí khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0159.doc