- Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh, sản xuất dịch vụ và kế hoạch khác có liên quan (dài hạn, từng năm), đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công ty.
- Quản lý, sử dụng và tạo nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh dịch vụ của công ty có hiệu quả. Đảm bảo đầu tư, mở rộng sản xuất, chế biến kinh doanh dịch vụ, làm tròn nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.
- Tuân thủ các chính sách, chế độ quản lý tài chính, quản lý xuất nhập khầu và các quy định về giao dịch đối ngoại.
-Thực hiện các cam kết trong hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp đồng kinh tế, hợp đồng liên doanh hợp tác đầu tư đã ký kết.
-Thực hiện tốt chính sách cán bộ, chế độ quản lý tài sản, lao động tiền lương, sử dụng phân công lao động hợp lý, đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ công nhân viên của công ty để không ngừng nâng cao trình độ văn hoá, nghiệp vụ chuyên môn.
14 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 949 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nội dung của thuế xuất nhập khẩu - Trình bày một doanh nghiệp mà sinh viên biết phải đóng thuế xuất nhập khẩu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Kinh tế thị trường đòi hỏi sự gắn bó mật thiết gữa sản xuất và tiêu thụ, chính vì vậy thị trường là vấn đề vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp, đặc biệt trong giai đoạn mà các doanh nghiệp cùng ngành cạnh tranh ngày càng gay gắt đòi hỏi mỗi doanh nghiệp muốn đứng vững và phát triển được thì một mặt phải củng cố thị trường đã có, mặt khác phải tìm kiếm và phát triển thị trường mới. Trong những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam đã nỗ lực cố gắng hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, thông qua chính sách kinh tế mở cửa nhằm đẩy mạnh hơn nữa tốc độ tăng trởng kinh tế, góp phần làm giảm tỉ lệ lạm phát, nâng cao đời sống nhân dân. Trong một vài năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta đã đạt được ở mức khá cao so với khu vực và thế giới. Đạt được kết quả đó, có một phần đóng góp của các tổ chức đơn vị kinh doanh thương mại quốc tế (kinh doanh xuất nhập khẩu) góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam hoà nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Ngày nay khi xu thế quốc tế hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra nhanh chóng, thì việc các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu là điều tất yếu. Hoạt động xuất nhập khẩu giúp chúng ta trao đổi lợi thế so sánh của nước mình với các nước trên thế giới, tiếp nhận những khoa học kỹ thuật mới trên thế giới, mặt khác việc các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu cũng góp phần vào việc tăng nguồn thu ngân sách nhà nước thông qua thuế xuất nhập khẩu. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này nên em chọn đề tài “Nội dung của thuế xuất nhập khẩu. Trình bày một doanh nghiệp mà sinh viên biết phải đóng thuế xuất nhập khẩu”
Nội dung của thuế xuất nhập khẩu
Khái niệm
Thuế xuất nhập khẩu (còn gọi là thuế quan): là loại thuế gian thu đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu của một nước.
Nội dung
Chính sách thuế quan có thể nhằm vào mục đích tài chính hay mục đích bảo họ sản xuất trong nước. Tương ứng, thuế quan gồm có:
- Thuế quan tài chính – là loại thuế có mục tiêu trực tiếp nhằm tăng thu nhập cho ngân sách quốc gia.
-Thuế quan bảo hộ – là thuế nhằm mục đích bảo hộ nền sản xuất trong nước thông qua việc đánh thuế để giảm bớt sức cạnh tranh của hàng hoá nhập khẩu.
Thường các nước duy trì thuế quan bảo hộ ở mức hợp lý, dao động trong khoảng 20-65% và thời gian bảo hộ từ 2 –5 năm, nhưng với điều kiện các ngành được bảo hộ phải bảo đảm rằng giá cả của họ tiến dần tới mức quốc tế.
Thuế xuất khẩu và nhập khẩu đều tác động tới giá cả hàng hoá có liên quan. Nhưng thuế xuất khẩu lại khác thuế nhập khẩu ở chỗ: một là, nó áp dụng cho hàng xuất khẩu chứ không phải hàng nhập khẩu. Hai là nó làm giá cả quốc tế của hàng hoá bị đánh thuế vượt giá cả trong nước, dẫn đến bất lợi cho khả năng sản xuất. Mức thuế xuất khẩu cao và duy trì lâu sẽ có lợi cho đối thủ cạnh tranh, vì vậy, các nước phát triển hầu như không có đánh thuế xuất khẩu. Riêng ở Việt Nam, thuế xuất khẩu chỉ áp dụng đối với một số mựat hàng nhằm bổ sung nguồn thu ngân sách và nhằm hạn chế xuất khẩu những thứ không khuyến khích.
Luật thế xuất nhập khẩu mới của Việt Nam (thay chó Luật thuế xuất nhập khẩu cũ) bao gồm 3 loại thuế suất gồm:
Thuế suất thông thường áp dụng cho các nước không có MFN đối với Việt Nam;
Thuế suất ưu đãi áp dụng với các nước có MFN cho Việt Nam
Thuế suất đặc biệt ưu đãi cho các nước mà Việt Nam tham gia khối thương mại.
Ngoài ra, gần đây Nhà nước còn ban hành 3 mức thuế bổ sung để tự vệ, gồm:
Thuế chống bán phá giá
Thuế chống trợ giá - là những loại thuế áp dụng đối với một công ty, một quốc gia bán hàng vào Việt Nam gây ảnh hưởng đến ngành sản xuất tương tự của Việt Nam
Thuế đối kháng – là loại thuế chống phân biệt đối xử trong thương mại, các nước sử dụng chính sách phân biệt với Việt Nam thì Việt Nam cũng sẽ áp dụng lại.
Để khuyến khích xuất khẩu, Bộ Tài chính cùng các Bộ liên quan đã xác định thuế xuất khẩu cho hầu hết các mặt hàng đều có thuế suất là 0%.
II. Công ty Centrimex – chi nhánh hà nội
1. Quá trình thành lập và phát triển của Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội
Ngày 04/1/1988, để giải quyết chính sách đối với các bộ công nhân viên dôi dư qua sặp xếp lại bộ máy và lao động của cơ quan Bộ, Bộ vật tư ra quyết định 03/VT-QĐ thành lập xí nghiệp dịch vụ trực thuộc văn phòng Bộ vật tư. Xí nghiệp dịch vụ được hoạt động theo phương thức thanh toán, được mở tài khoản chuyên thu chuyên chi. Khi thành lập xí nghiệp dịch vụ này chủ yếu kinh doanh các loại vật tư theo kế hoạch của Bộ vật tư giao.
Do nhu cầu kinh doanh và sự phát triển của doanh nghiệp ngày 24/03/1988 Bộ vật tư ra quyết định 073/VT-CB sửa đổi bổ sung quyết định 03/VT-QĐ chuyển xí nghiệp thành đơn vị hạch toán kinh tế độc lập.
Nhờ có sự cố gắng nỗ lực để củng cố và phát triển, qua một năm hoạt động theo cơ chế thị trường, xí nghiệp không những củng cố được quá trình phát triển, vị trí tồn tại, xí nghiệp đã vượt ra khỏi lĩnh vực dịch vụ đã tổ chức sản xuất hàng trong nước và xuất khẩu, mở rộng địa bàn khắp cả nước và ra cả nước ngoạ. Vì vậy ngày 10/1/1990, Bộ vật tư ra quyết định số 10/VT-QĐ đổi tên xí nghiệp dịch vụ thành xí nghiệp dịch vụ và sản xuất vật tư.
Từ chỗ mới thành lập chỉ được cấp 4,2 triệu đồng tiền vốn, sau 2 năm hoạt động xí nghiệp đã nâng tổng số vốn lên tới 535 triệu đồng và doanh số 1,33 tỉ. Với quy mô phát triển như vậy và khả năng phát triển ngày càng cao, ngày 16/3/1990 Bộ trưởng Bộ vật tư ra quyết định số 72/VT-QĐ chuyển xí nghiệp trực thuộc văn phòng Bộ thành xí nghiệp trực thuộc Bộ vật tư.
Qua 3 năm hoạt động, quy mô xí nghiệp không ngừng mở rộng và phát triển, văn phòng xí nghiệp phải mở rộng phạm vi và quy mô mới đáp ứng được nhu cầu quản lý các đơn vị trục thuộc.
Trước tình hình đó, ngày 22/4/1991, Bộ trưởng Bộ thương nghiệp ra quyết định số 412/TN/TCCB chuyển đổi xí nghiệp thành công ty kinh doanh và sản xuất vật tư hàng hoá, trực thuộc Bộ Thương nghiệp ( nay là Bộ Thương Mại), tên giao dịch quốc tế là Material Trading Company (MATECO), đặt trụ sở chính tại 399 Minh Khai.
Trong điều kiện thương nghiệp nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý cuả Nhà Nước, thương nghiệp Quốc doanh phần lớn rơi vào lúng túng bị động, nhằm giúp cho công ty có thể chủ động giải quyết được mọi vấn đề, ngày 17/6/1998 Bộ Thương Mại ra quyết định 233/CT-QĐ cho phép Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội được áp dụng hình thức khoán trong kinh doanh.
Hiện nay, công ty có 6 phòng kinh doanh xuất nhập khẩu trực thuộc và 4 đơn vị trực thuộc cùng một chi nhánh ở thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể là:
-Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu I.
-Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu II.
-Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu III.
-Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu IV.
-Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu V.
-Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu VI.
-Trạm dịch vụ sản xuất vật tư và nhà khách 12 - Quán Chính - Gia Lâm.
-Trạm dịch vụ sản xuất vật tư và nhà khách 399 – Minh Khai.
-Cửa hàng kinh doanh kim khí số 1 – Gia Lâm.
-Cửa hàng kinh doanh săm lộp 399 – Minh Khai.
-Chi nhánh TP Hồ Chí Minh 16 – Nguyến Huệ – Quận 1.
Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội có chức năng là thông qua hoạt động kinh doanh sản xuất, dịch vụ và xuất nhập khẩu để tạo thêm quỹ vật tư, nguyên liệu, hàng hoá góp phần đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh dịch vụ tăng nguồn thu nhập cho đất nước.
Theo quyết định của Bộ Thương Mại, Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội có phạm vi hoạt động và nhiệm vụ như sau:
* Phạm vi hoạt động của công ty.
-Tổ chức sản xuất kinh doanh, dịch vụ các loại vật tư hàng hoá trên thị trường.
-Thực hiện đại lý bán buôn, bán lẻ và giới thiệu các loại vật tư hàng hoá cho các tổ chức kinh tế trong và ngoài nghành.
-Sản xuất, gia công vật tư hàng hoá, vật liệu xây dựng, bao bì các loại để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường.
-Xuất khẩu các mặt hàng do công ty sản xuất hoặc do công ty liên doanh, liên kết đầu tư, góp vốn tạo ra.
-Nhập khẩu các loại vật tư, nguyên liệu, hàng hoá để phục vụ sản xuất và tiêu dùng trong nước.
-Tổ chức các dịch vụ, chuyển giao, ửng dụng công nghệ khoa học kỹ thuật giữ thuê hàng hoá và cho gửi xe, bảo dưỡng xe, nhà khách và phục vụ ăn uống.
* Nhiệm vụ của công ty.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh, sản xuất dịch vụ và kế hoạch khác có liên quan (dài hạn, từng năm), đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công ty.
- Quản lý, sử dụng và tạo nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh dịch vụ của công ty có hiệu quả. Đảm bảo đầu tư, mở rộng sản xuất, chế biến kinh doanh dịch vụ, làm tròn nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.
- Tuân thủ các chính sách, chế độ quản lý tài chính, quản lý xuất nhập khầu và các quy định về giao dịch đối ngoại.
-Thực hiện các cam kết trong hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp đồng kinh tế, hợp đồng liên doanh hợp tác đầu tư đã ký kết.
-Thực hiện tốt chính sách cán bộ, chế độ quản lý tài sản, lao động tiền lương, sử dụng phân công lao động hợp lý, đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ công nhân viên của công ty để không ngừng nâng cao trình độ văn hoá, nghiệp vụ chuyên môn.
-Làm tốt công tác bảo hộ an toàn lao động, trật tự xã hội, bảo vệ môi trường, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc phòng.
2. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà nội
Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội là một công ty có quy mô khá lớn. Đây là một doanh nghiệp vừa thực hiện chức năng thương mại, vừa thực hiện chức năng sản xuất, do đó cơ cấu vốn của nó có những nét đặc thù riêng và hiệu quả hoạt động của công ty chịu sụ tác động của cả hai mảng này, trong đố chủ yếu là hoạt động thương mại. Tổng số vốn của công ty hiện nay là 6 tỉ đồng VN, vốn lưu động chiếm tỉ trọng rất lớn 33,4% trong tổng số vốn. Số vốn này được dùng chủ yếu cho hoạt động kinh doanh mà chủ yếu là kinh doanh xuất nhập khẩu. Lợi nhuận thu được từ hoạt động này chiếm từ 60 –65% trong tổng số lợi nhuận thu được của công ty từ các nguồn.
Kể từ khi được đổi thành công ty kinh doanh và sản xuất vật tư hàng hoá, các nghành nghề kinh doanh, mặt hàng chủ yếu của công ty là: ngoại thương, cung ứng vật tư, dịch vụ, các loại vật tư và vật tư bổ sung, đồ mộc, thiết bị bổ sung, khách sạn. Cho đến nay thì nghành nghề kinh doanh và mặt hàng kinh doanh của công ty hầu như không có gì thay đổi, phát triển khá tốt và đem lại hiệu quả cao.
Trong hoạt động xuất nhập khẩu trực tiệp và xuất nhập uỷ thác, phổ biến là hình thức xuất nhập khẩu trục tiếp, hình thức này có thể giúp cho công ty chủ động được trong mọi vấn đề. Tính riêng về hoạt động nhập khẩu thì nhập khẩu trực tiếp mang lại 65% lợi nhuận cho công ty.
Mặt hàng kinh doanh phần nào đã quyết định đến thị trường của công ty. Đối với hoạt động nhập khẩu, thị trường nhập khẩu của công ty chủ yếu là các nước thuộc khu vực Châu á . Đó là những nước có nền kinh tế phát triển mạnh, có thể đem lại cho nền kinh tế nước ta những thuận lợi nhất định thông qua việc nhập khẩu hàng hoá của họ.
3. Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội
Trong những năm đầu thành lập, công ty đã gặp một số khó khăn, đặc biệt là vấn đề thiếu vốn trong hoàn cảnh nền kinh tế đất nước mới chuyển sang kinh tế thị trương. Không chỉ riêng công ty mà phần lớn các doanh nghiệp nhà nước đều rơi vào tình trạng này. Tuy nhiên nhờ vào sự phấn đấu nỗ lực của bản thân, luôn luôn tìm cách chuyển hướng kinh doanh, công ty đã đạt được những thành công nhất định. Cùng với sụ giúp đỡ của nhà nước cũng như Bộ Thương Mại mà giá trị tổng doanh thu trên các mặt sản xuất kinh doanh của công ty (kể cả kinh doanh nội địa và kinh doanh xuất nhập khẩu) có sự tăng đáng kể.
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội
Đơn vị : VNĐ.
TT
Năm
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
1
Doanh thu
80.248.760.630
107.703.347.032
124.548.276.301
185.970.458.135
2
Giá vốn
75.434.215.728
99.215.316.402
112.960.635.210
168.470.318.210
3
Thuế
927.215.316
1.796.673.205
3.035.655.440
8.421.665.391
4
Chi phí
3.828.763.264
6.665.345.110
8.445.673.366
8.937.166.732
5
Lãi
14.566.322
26.003.315
106.312.285
141.317.902
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh (1996-1999).
3.1- Các mặt hàng nhập khẩu.
Công ty kinh doanh và sản xuất vật tư hàng hoá MATECO là doanh nghiệp nhà nước, trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước công ty phải luôn cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Một mặt coi trọng hoạt động kinh doanh, một mặt công ty luôn lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo trong kinh doanh, công ty không vì lợi ích trước mắt mà tự nhập khẩu hàng hoá, danh mục hàng hoá nhập khẩu của công ty đều đã được sự đồng ý của Bộ Thương Mại và là những mặt hàng cần thiết, bổ sung nhu cầu tiêu dùng trong nước khi sản xuất trong nước chưa đáp ứng đủ. Các mặt hàng đó là
Săm lốp ô tô : Săm lốp ô tô là loại mặt hàng kinh doanh nhập khẩu chủ yếu của công ty, Hiện nay, trong nước cũng có một số công ty sản xuất săm lốp ô tô như cao su sao vàng.. song nhu cầu sửa chữa, lắp ráp ô tô là tương đối lớn, sản phẩm trong nước sản xuất ra chất lượng tuy có đạt yêu cầu song vẫn chưa đáp ứng đủ. Vì vậy nhập khẩu mặt hàng này của công ty là rất cần thiết.
Phương tiện vận tải : Song song với sự phát triển mạnh mẽ của cơ sở hạ tầng thì sự gia tăng các phương tiện vận tải ngày càng lớn mạnh. Đặc biệt là các loại xe vận tải hạng nặng rất cần thiết cho nhu cầu vận chuyển hàng hoá ngày càng nhiều trong các tổ chức kinh tế cũng như trong nhân dân. Trong hoàn cảnh hệ thống giao thông công cộng chưa phát triển công ty cùng các đơn vị khác được giao nhiệm vụ nhập khẩu phương tiện vận tải để đáp ứng nhu cầu trong nước.
Hàng tiêu dùng : Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, do nhu cầu và đời sống của nhân dân được nâng cao, nhu cầu tiêu dùng cũng gia tăng bắt nguồn từ đó. Trình độ khoa học ngày càng phát triển thì nhu cầu của người tiêu dùng không dừng lại ở số lượng chất lưọng hàng hoá mà ở cả bao bì, mẫu mã, chủng loại. Nhận thức được tầm quan trọng của việc nhập khẩu hàng tiêu dùng trong những năm qua, Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội đã góp phần vào việc đa dạng hoá nhằm bổ sung thêm về mặt hàng tiêu dùng ở thị trường trong nước. Các mặt hàng công ty nhập như : Bếp ga, quạt điện, rượu, mì chính, cà phê.
Ngoài ra, công ty còn nhập các loại ắc quy, vật liệu xây dựng như: Gạch lát nền, sắt thép xây dựng, sơn, kính xây dựng, vật liệu điện như : que hàn điện, dây dẫn, công tắc điện.
Đối với các mặt hàng này, công ty nhập về chủ yếu đáp ứng cho các đơn vị kinh doanh thương mại, các đại lý tiêu thụ cũng như cửa hàng bán lẻ.
Bên cạnh đó, công ty còn nhập một số máy móc thiết bị như : máy bào, máy cưa, máy ép nhựa, máy phôtô.
3.2- Kim nghạch nhập khẩu các mặt hàng trong những năm qua
Là đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp, Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội đã ý thức được trách nhiệm và nhiệm vụ to lớn đó cùng với mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận. Trong những năm qua, ban lãnh đạo công ty cùng với sự nỗ lục của tập thể, các phòng kinh doanh đã có những cố gắng nhất định luôn đảm bảo kim nghạch nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng giá trị sản phẩm của công ty. Điều đó thể hiện qua bảng sau:
Kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng
Đơn vị : 1000USD
Năm
Mặt hàng
1996
1997
1998
1999
Săm lốp ôtô
2815
3200
4000
4500
Ăc quy
312.2
600
650
720
Phương tiện vận tải
216
309
325
435
Vật liệu điện
135
145
200
424
Hàng tiêu dùng
126
432
150
180
Máy móc thiết bị
312.82
400
450
500
Vật liệu xây dựng
219.98
514
225
241
Tổng cộng
4137
5500
6000
7000
Nguồn : Thống kê kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng (1996-1999).
4. Thị trường nhập khẩu của công ty
Trong hoạt động nhập khẩu, việc tìm kiếm để mở rộng thị trường là một vấn đề quan trọng đảm bảo cho hoạt động nhập khẩu hàng hoá được diễn ra liên tục và đạt hiệu quả cao. Nhận thức được vai trò to lớn này Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội đã cố gắng tìm kiếm mở rộng thị trường với mục đích đạt hiệu quả cao về mặt kinh tế, chủ động nguồn hàng trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên trong sự cố gắng đó thì cho tới nay Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội mới quan hệ với 7 nước, trong đó đều là những nước thuộc khu vực Châu á.
Kim ngạch nhập khẩu theo thị trường (1996-1999).
Đơn vị :1000USD.
TT
Năm
Tên
thị trường
1996
1997
1998
1999
Giá trị
Tỷ trọng %
Giá trị
Tỷ trọng %
Giá trị
Tỷ trọng %
Giá trị
Tỷ trọng %
1
Hàn Quốc
1572
38
880
16
900
15
1120
16
2
Singapore
165
4
302.5
5.5
30
6
434
6.2
3
Trung Quốc
608
14.7
2821.5
51.3
3090
51.5
3549
50.7
4
Ân Độ
591.6
14.3
973.5
17.7
1080
18
1295
18.5
5
Hồng Kông
537.8
13
401.5
7.3
420
7
455
6.5
6
Nga
579
14
104.5
1.9
90.0
1.5
70
1
7
Đài Loan
83.6
2
52.5
0.9
60
1
77
1.1
Tổng cộng
4137
100
5500
100
6000
100
7000
100
Nguồn : Thống kê kim ngạch nhập khẩu theo thị trường.
5. Hình thức nhập khẩu của Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội
Trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty có hai loại hình thức sau: Nhập khẩu (tự doanh) trực tiếp và nhập khẩu uỷ thác.
Kết quả nhập khẩu theo hình thức (1996-1999)
Đơn vị :1000USD.
Năm
Hình thức
nhập khẩu
1996
1997
1998
1999
Giá trị (USD)
Tỷ trọng %
Giá trị (USD)
Tỷ trọng %
Giá trị (USD)
Tỷ trọng %
Giá trị (USD)
Tỷ trọng %
Nhập khẩu trực tiếp
2689
65
3190
58
3180
53
3640
52
Nhập khẩu uỷ thác
1448
35
2310
42
2820
47
3360
48
Tổng giá trị KNNK
4137
100
5500
100
6000
100
7000
100
Kết luận
Như vậy thuế nhập khẩu có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Ngược lại các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu làm ăn có hiệu quả thì cũng góp phần làm tăng ngân sách nhà nước thông qua việc nộp ngân sách trong đó có thuế xuất nhập khẩu. Công ty Centrimex – chi nhánh Hà nội là một ví dụ điển hình.Tuy nhiên thuế xuất nhập khẩu có tác động hai mặt. Nếu thu thuế cao sẽ ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng bảo hộ nền sản xuất trong nước, còn nếu thu thuế thấp sẽ tạo điều kiện kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng sẽ làm ảnh hưởng đến sản xuất trong nước. Vì vậy chính sách thuế cần điều chỉnh hợp lý để các doanh nghiệp đều có thể kinh doanh thuận lợi
Tài liệu tHam khảo
Luật thuế
Giáo trình Chính sách kinh tế xã hội
Tạp chí Tài chính số 2
Tạp chí Tài chính số 3
Tạp chí Tài chính số 5
Tạp chí Tài chính số 6
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7104.doc