PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ca dao, tục ngữ là sản phẩm văn hoá tinh thần của người lao động xưa. Nó phản ánh toàn bộ đời sống, tâm tư, tình cảm và sinh hoạt của nhân dân lao động và có giá trị lớn về nhiều mặt.
Công tác sưu tầm ca dao, tục ngữ nói riêng và công tác sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian nói chung rất quan trọng. Công việc này đã được thực hiện ít nhất là từ thế kỉ XIX, với các tác phẩm như: An Nam phong thổ thoại của Trần Tất Văn (hiệu Thiên Bản cư sĩ ), Đại Nam quốc túy của Ngô giáp Đậu( hiệu Tam Thanh) và tiếp tục được phát huy, sưu tầm thêm trong thế kỉ XX, với một số tác phẩm như: tục ngữ Việt Nam của Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri; tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc; ca dao ngạn ngữ Hà Nội v v Trong những năm gần đây, việc tiếp cận các sưu tầm ca dao tục ngữ chủ yếu dựa trên 2 công trình lớn của nhóm Nguyễn Xuân Kính Kho tàng ca dao người Việt và Kho tàng tục ngữ người Việt. Tìm hiểu các sưu tầm ca dao tục ngữ, chúng ta thường đề cập đến vấn đề nguồn tư liệu, trong đó, một nguồn tư liệu khá quan trọng là tư liệu các sách vở chữ Hán Nôm có ghi chép các câu ca dao tục ngữ được sưu tầm. Chúng tôi nhận thấy việc tìm hiểu nhóm tư liệu này là bổ ích đối với người bước đầu làm nghiên cứu văn học dân gian nên mạnh dạn dành báo cáo này cho việc triển khai một khảo sát với nhóm tư liệu này.
Trở ngại lớn nhất, đầu tiên và suốt quá trình tiếp cận những tư liệu như thế đối với người thực hiện báo cáo là vấn đề ngôn ngữ: Trong khi những nhóm tư liệu này được ghi chép bằng chữ Hán và chữ Nôm và có niên đại cách ngày nay khoảng gần một thế kỷ, thì vốn hiểu biết chữ nghĩa Hán Nôm của người thực hiện báo cáo chỉ dừng ở một số học trình ít ỏi trong chương trình cử nhân Văn chương dành cho môn học này. Mặc dù vậy, với mong muốn được hiểu biết một mảng tư liệu có vị trí quan trọng trong những nguồn tư liệu cơ thiết sưu tầm ca dao tục ngữ người Việt, chúng tôi vẫn cố gắng triển khai phân tích khảo sát, dù ở bước còn rất sơ khai
5.Kết cấu của báo cáo
Với những yêu cầu đã trình bày ở trên để tương ứng với cách giải quyết nó, báo cáo của chúng tôi bao gồm phần mở đầu, kết luận, và 2 chương chính
Chương 1: Danh sách sách vở Hán Nôm được ghi chú có sưu tầm ca dao tục ngữ theo nội dung đề yếu trong Di sản Hán Nôm Việt Nam – Thư mục đề yếu
1. 1. Từ việc ghi chép ca dao, tục ngữ trong các sách vở Hán Nôm
1.2. đến các sách vở Hán Nôm có ghi chép ca dao tục ngữ trong bộ Di sản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề yếu
1.3. Giới thiệu danh sách các sách Hán Nôm được ghi chú có ghi chép ca dao, tục ngữ theo nội dung đề yếu trong Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu
Chương 2: Một số phân tích về nội dung đề yếu cho các sách vở Hán Nôm có ghi chép ca dao, tục ngữ
2 1. Nhận xét thông tin tác giả, niên đại và thông tin loại chữ viết sử dụng trong các sách vở Hán Nôm có ghi chép ca dao tục ngữ
2 2.Về kết cấu một số sách được ghi chú có ghi chép ca dao tục ngữ theo thông tin nội dung đề yếu
2 3. Liên hệ với cách biên soạn ca dao tục ngữ trong Kho tàng ca dao người Việt và Kho tàng tục ngữ người Việt.
45 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2086 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nội dung đề yếu các sách Hán Nôm được ghi chú có ghi chép ca dao tục ngữ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ca dao tục ngữ người Việt, chúng tôi vẫn cố gắng triển khai phân tích khảo sát, dù ở bước còn rất sơ khai.
Đối với kho sách Hán Nôm hiện còn lưu giữ được đến ngày nay, nơi tập trung cơ bản hơn cả là Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm ( 183, Đặng Tiến Đông – Hà Nội), với hầu hết các sách vở Hán Nôm được sưu tầm đã thư mục hóa thành một danh mục in trong Di sản Hán Nôm Việt Nam – thư mục đề yếu do Viện nghiên cứu Hán Nôm và Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp thực hiện. Việc sử dụng các sách Hán Nôm có sưu tầm ca dao, tục ngữ cho việc tim hiểu nghiên cứu ca dao, tục ngữ vốn đã được làm từ sớm, chính như trường hợp hai bộ sưu tầm Kho tàng ca dao người Việt và Kho tang tục ngữ người Việt đã sử dụng một số sách Hán Nôm để biên soạn, và trong số sách Hán Nôm đó có một bộ phận hiện được lưu giữ tại kho sách Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm và có tên trong danh mục Thư mục đề yếu nói trên. Trong báo cáo này, chúng tôi sẽ đi vào khảo sát nội dung đề yếu của các sách Hán Nôm được ghi chú có sưu tầm ca dao tục ngữ theo thư mục đề yếu này. Có ít nhất hai mục đích rõ ràng: Thứ nhất, bằng công việc này, chúng tôi sẽ thiết lập một cái nhìn đại lược với trữ lượng sách vở có sưu tầm ca dao tục ngữ trong kho sách Hán Nôm hiện lưu giữ tại Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm. Thứ hai, chúng ta có thể có cái nhìn rộng hơn về các phông sách Hán Nôm có liên hệ với tư cách là nguồn tư liệu cho tìm hiểu ca dao tục ngữ người Việt. Một mặt, đây là dịp để người thực hiện báo cáo có thêm những hiểu biết đối với sách vở Hán Nôm từng được nhắc nhở nhiều đến như các bộ sưu tầm ca dao tục ngữ hồi cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX; mặt khác, đây cũng lã cách để chúng ta khảo sát những phông sách có liên quan đến nguồn tư liệu ca dao tục ngữ, vì rằng ca dao tục ngữ có khi xuất hiện như những ghi chép trong các địa phương chí hoặc các ghi chép mang tính sưu tầm tổng hợp…
2.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là phần nội dung đề yếu của các sách vở Hán Nôm được ghi chú có sưu tầm ca dao, tục ngữ theo thông tin cung cấp bởi Di sản Hán Nôm Việt Nam – Thư mục đề yếu. Chúng tôi dựa vào ba tập sách của bộ Thư mục này để cố gắng thiết lập một danh sách những sách vở Hán Nôm có sưu tầm ca dao tục ngữ, từ đó triển khai một số nhận xét phân tích về nhóm tư liệu này.
3.Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Như được biết, trong rất nhiều công trình nghiên cứu về thơ ca trữ tình dân gian nói chung và về ca dao tục ngữ nói riêng, các học giả ít nhiều vẫn quan tâm đến mảng tư liệu là sách vở Hán Nôm có sưu tầm ca dao tục ngữ.
Trong kho tàng ca dao người Việt của nhóm Nguyễn Xuân Kính, các sách Hán Nôm được sử dụng làm nguồn tư liệu cho mục đích sưu tầm những lời ca dao, tục ngữ. Nhắc đến vai trò của các sách Hán Nôm, những nhà biên soạn viết: “ Sách Hán Nôm ra đời sớm giúp ích cho việc tìm hiểu lịch sử thơ ca dân gian và tìm hiểu quan niệm của các nhà Nho đối với dân ca, ca dao: Những lời thuộc loại nào thì được ghi chép nhiều, những lời nào thì ít được chú ý? Cũng qua sách Hán Nôm, người nghiên cứu sẽ chứng kiến quá trình thay đổi ở một lời ca dao cụ thể: Vốn ở trong sách Hán Nôm như thế nào và khi có mặt ở sách quốc ngữ thì được thêm, bớt, sửa đổi ra sao?”.
Có thể thấy, các nhà soạn giả đã ý thức một cách nghiêm túc yếu tố ngôn ngữ (Hán Nôm hay Quốc ngữ) được sử dụng ở các sách sưu tầm ca dao, tục ngữ thời kỳ sớm.
Bảng chỉ dẫn tìm tư liệu theo chủ đề thuộc bộ Thư mục đề yếu khi đua ra đề mục Ngữ văn chỉ phân chia thành các nhóm sách Văn xuôi hay Thơ ca hoặc Văn học dân tộc thiểu số. Điều này nghĩa là, Thư mục đề yếu không dành riêng một sự phân loại cho nhóm sách sưu tầm hoặc có liên hệ đến sưu tầm ca dao tục ngữ.
Khác với Thư mục đề yếu, trong một bộ sách mang tính công cụ tra cứu sớm hơn đối với kho sách Hán Nôm là Tìm hiểu kho sách Hán Nôm – nguồn tư liệu văn học, sử học Việt Nam của học giả Trần Văn Giáp, người soạn bộ sách này dành một tiểu mục ‘ Văn hoá dân gian” thuộc phân nhóm sách “ Văn học nghệ thuật”. Theo sự mô tả và phân tích của Trần Văn Giáp, thuộc về số sách Văn hoá dân gian có những dạng sưu tầm ca dao tục ngữ như Thanh Hoá quan phong, Nam quốc phương ngôn tục ngữ bị lục, Nam phong giải trào.
Như vậy, từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu đã quan tâm đến các sách Hán Nôm có sưu tầm ca dao tục ngữ. Trong báo cáo này, từ góc tiếp cận hẹp là khảo sát nội dung đề yếu của các sách Hán Nôm được ghi chú có sưu tầm ca dao tục ngữ theo Thư mục đề yếu, chúng tôi sẽ cố gắng phân tích các thông tin từ các phần nội dung đề yếu này, một mặt đối sánh chúng với tình hình chúng thường được khai thác sử dụng trong nghiên cứu ca dao tục ngữ, đồng thời phân tích và bình luận về tình trạng các sách này được nội dung đề yếu trong Thư mục đề yếu nêu là có ca dao tục ngữ.
4.Phương pháp nghiên cứu:
Trong đề tài này, chúng tôi đã vận dụng nhiều phương pháp liên ngành, trong đó nổi bật là phương pháp phân tích tổng hợp, phân tích định lượng và một số thao tác nghiên cứu cụ thể khác.
Thực hiện thống kê định lượng, chúng tôi chọn lọc ra những sách có nội dung đề yếu mô tả là có sưu tầm ca dao, tục ngữ trong Di sản Hán Nôm thư mục đề yếu. Căn cứ vào nội dung kết hợp với một số dấu hiệu hình thức. Với kết quả thống kê thu được, chúng tôi tiến hành phân loại. Ở đây chúng tôi dựa vào các yếu tố: (có chữ Hán hay không?; có xác định tác giả và thông tin niên đại không?; sách toàn sưu tàm ca dao tục ngữ hay ca dao, tục ngữ chỉ là một phần của sách?).
Trên cơ sở những dữ liệu đã có, chúng tôi phân tích danh sách và rút ra những nhận định bước đầu về công tác sưu tầm ca dao, tục ngữ và tìm hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa, qui mô, hướng tiếp cận của các học giả sử dụng chữ Hán Nôm xưa trong ứng xử đối với cái ngày nay chúng ta gọi là ca dao, tục ngữ.
5.Kết cấu của báo cáo
Với những yêu cầu đã trình bày ở trên để tương ứng với cách giải quyết nó, báo cáo của chúng tôi bao gồm phần mở đầu, kết luận, và 2 chương chính
Chương 1: Danh sách sách vở Hán Nôm được ghi chú có sưu tầm ca dao tục ngữ theo nội dung đề yếu trong Di sản Hán Nôm Việt Nam – Thư mục đề yếu
1. 1. Từ việc ghi chép ca dao, tục ngữ trong các sách vở Hán Nôm…
1.2. … đến các sách vở Hán Nôm có ghi chép ca dao tục ngữ trong bộ Di sản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề yếu
1.3. Giới thiệu danh sách các sách Hán Nôm được ghi chú có ghi chép ca dao, tục ngữ theo nội dung đề yếu trong Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu
Chương 2: Một số phân tích về nội dung đề yếu cho các sách vở Hán Nôm có ghi chép ca dao, tục ngữ
2 1. Nhận xét thông tin tác giả, niên đại và thông tin loại chữ viết sử dụng trong các sách vở Hán Nôm có ghi chép ca dao tục ngữ
2 2.Về kết cấu một số sách được ghi chú có ghi chép ca dao tục ngữ theo thông tin nội dung đề yếu
2 3. Liên hệ với cách biên soạn ca dao tục ngữ trong Kho tàng ca dao người Việt và Kho tàng tục ngữ người Việt.
CHƯƠNG 1
DANH SÁCH SÁCH VỞ HÁN NÔM ĐƯỢC GHI CHÚ CÓ GHI CHÉP CA DAO, TỤC NGỮ THEO NỘI DUNG ĐỀ YẾU TRONG DI SẢN HÁN NÔM VIỆT NAM – THƯ MỤC ĐỀ YẾU
1. 1. Từ việc ghi chép ca dao, tục ngữ trong các sách vở Hán Nôm…
Sưu tầm văn học dân gian không phải là một việc mới. Cách đây trên 3000 năm, văn học dân gian đã được sưu tập: 305 bài trong Kinh thi là do các nhạc sư Trung Quốc sưu tập, san định và truyền lại. Những thiên sử thi Iliat và Ôđixê của Hômerơ cổ đại Hy Lạp cũng là những tác phẩm dân gian truyền lại từ ngót 3000 năm nay (Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam- Vũ Ngọc Phan).
Ở nước ta, những công trình sưu tập văn học dân gian sớm nhất là truyện dân gian, từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII. Về tục ngữ, ca dao ,dân ca thì công việc sưu tập, biên soạn mới chỉ bắt đầu từ ngót hai trăm năm trở lại đây, vào nửa cuối thế kỷ XVIII, Trần Danh Án( hiệu Liễu Am) đã sưu tập và biên soạn Nam phong giải trào và Nam phong nữ ngạn thi của Trần Tiên sinh. Các soạn giả trên đây đã ghi chép tục ngữ, ca dao bằng chữ Nôm, rồi dịch ra chữ Hán và chú thích, có ý đem ca dao Việt Nam sánh với thơ “ Quốc phong” trong Kinh thi của Trung Quốc.( Vũ Ngọc Phan- Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam).
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, tinh thần dân tộc đã được thể hiện ở những sáng tác dân gian (vè yêu nước) và ở những công trình sưu tập, biên soạn những vốn văn học truyền thống, những sách chữ Nôm sưu tầm ca dao tục ngữ như: An nam phong thổ thoại của Trần Tất Văn (hiệu Thiên Bản cư sĩ), Đại Nam quốc túy của Ngô Giáp Đậu ( hiệu Tam Thanh), Nam quốc phương ngôn tục ngữ bị lục (vô danh)…
Sang đầu thế kỷ XX, chúng ta mới có những sách sưu tập tục ngữ ca dao bằng chữ quốc ngữ: Nam ngạn trích cẩm của Phạm Quang Sán (hiệu Ngạc Đình); Gương phong tục của Đoàn Duy Bình (đăng trong Đông Dương tạp chí); Tục ngữ phong dao của Nguyễn Can Mộng…
Đây là lần đầu tiên các nhà trí thức Việt Nam nhận rõ được giá trị văn học của tục ngữ, ca dao. Nguyễn Can Mộng đã viết: “Văn vần nước ta phôi thai từ ngạn ngữ, rồi đến phong dao thì thành điệu, thành chương, có thể ngâm nga được. Văn lục bát hay song thất sau này đều từ đấy cả (Bài tựa Ngạn ngữ phong dao 15-2-1936). Nhận định của Nguyễn Can Mộng rất xác đáng. Vốn văn học dân gian truyền thống của ta rất quý, những sách Hán Nôm của ta ghi chép tục ngữ, ca dao có làm người đọc thấy được giá trị của những vốn quý đó không? Sách Hán Nôm ra đời sớm giúp ích cho việc tìm hiểu thơ ca dân gian và tìm hiểu quan niệm của các nhà nho đối với ca dao, tục ngữ: Những lời thuộc loại nào thì được ghi chép nhiều, những lời nào thì ít được chú ý ? Cũng qua sách Hán Nôm, người nghiên cứu sẽ chứng kiến quá trình thay đổi ở những lời ca dao cụ thể: Vốn ở trong sách Hán Nôm như thế nào và khi có mặt ở sách Quốc ngữ thì được thêm bớt, sửa đổi ra sao?
Tại hội nghị cán bộ văn hóa ngày 30-10-1958, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Quần chúng là những người sáng tạo. Nhưng quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa…Những câu tục ngữ, những câu vè, ca dao rất hay là những sáng tác của quần chúng. Những sáng tác ấy là những hòn ngọc quý.”
Như lời Bác Hồ kính yêu đã dạy, những sáng tác của quần chúng nhân dân rất giàu đẹp. Riêng thơ ca dân gian thì phong phú vô cùng. Mở đầu cho mùa văn học dân gian nở rộ về ca dao dân ca là tập tục ngữ dân ca Việt Nam. Tiếp theo đó, hàng loạt những công trình sưu tập, nghiên cứu nối tiếp nhau ra đời : Hát ví Nghệ Tĩnh, Dân ca Nam Bộ, Dân ca quan họ Bắc Ninh, ca dao sưu tầm ở Thanh Hóa, dân ca Mường, dân ca Mèo, tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, văn học dân gian Việt Nam, ca dao sưu tầm….
Ngày nay, vốn văn hóa văn nghệ cổ truyền, trong đó có văn học dân gian được đặc biệt quý trọng và bảo vệ.
1.2. …Đến các sách Hán Nôm có ghi chép ca dao, tục ngữ trong bộ Di sản Hán Nôm Việt Nam- Thư mục đề yếu:
1.2.1. Những ghi chú cho việc xác định thông tin “ có ghi chép ca dao tục ngữ” của các sách vở Hán Nôm theo nội dung đề yếu trong Di sản Hán Nôm Việt Nam – Thư mục đề yếu
Bộ thư mục đề yếu các sách Hán Nôm do Viện nghiên cứu Hán Nôm và Học viện Viễn đông Bác cổ thực hiện là bộ sách công cụ có giá trị, được đánh giá là đáng tin cậy nhất, tổng hợp nhất về sách thư mục hiện nay. Ngay từ lúc mới ra đời bộ sách đã được các nhà nghiên cứu, các nhà phê bình và bạn đọc đánh giá cao về giá trị của bộ sách.
Khác với Tìm hiểu kho sách Hán Nôm của Trần văn Giáp đi sâu vào phân tích một cách tương đối tỉ mỉ về từng bộ sách cụ thể thì Di sản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề yếu lại được xây dựng theo nguyên tắc khác – các văn bản Hán Nôm được sắp xếp theo trật tự chữ cái – có thể xem đây là một bộ từ điển các văn bản Hán Nôm bao gồm 5038 đơn vị văn bản Hán Nôm. Một đơn vị văn bản cụ thể được giới thiệu theo trình tự như sau:
- Tên sách (bằng chữ Việt và Hán)
- Tên tác giả và tình hình công bố sách
- Số liệu ( số bản, số trang, khổ sách, bài tựa…)
- Ký hiệu ( phân loại, xếp giá)
- Giới thiệu nội dung
- Phụ chú : giới thiệu những điều cần biết mà chính văn chưa mô tả.
Trong đó bộ sách tổng hợp tất cả các sách vở, văn bia, khế ước…Hán Nôm từ 5038 cuốn sách Hán Nôm từ trước đến nay. Đồng thời nhóm tác giả của bộ sách đã thống kê từng phần, từng mảng chủ đề để giúp người đọc dễ dàng tra cứu. Bộ sách dày 2926 trang gồm 3 tập với tính tổng hợp cao.
Khi tìm hiểu và phân tích nội dung đề yếu trong bộ thư mục này, chúng tôi dựa vào một số thông tin đặc trưng để lựa chọn ra một danh sách tối thiểu có thể có của các sách vở Hán Nôm được thư mục đề yếu xác định là có ghi chép ca dao tục ngữ. Các thông tin đặc trưng như:
- Tên sách và những liên hệ tên sách với việc ghi chép sưu tầm ca dao tục ngữ: Đó là trường hợp các sách có tên như Ca trù các điệu, Đào Nương ca trù xướng loại, Lí hạng ca dao, Nam quốc phương ngôn tục ngữ bị lục, Nhân sự thường đàm ngạn ngữ tập, Tục ngạn lược biên, Nam giao cổ kim lí hạng ca dao chú giải … Các nhà Nho xưa thường muốn so sánh thơ ca dân gian nước ta với thập ngũ quốc phong trong Kinh Thi của Trung Quốc. Và những tên sách như Nam Phong giải trào, Nam Phong nữ ngạn thi, Quốc Phong ngẫu vịnh, Quốc Phong thi diễn ca, Quốc Phong thi tập hợp thái, Việt Nam phong sử… đều bao hàm ý nghĩa so sánh ấy.
- Các từ, cụm từ trong phần nội dung đề yếu có liên hệ với việc ghi chép sưu tầm ca dao, tục ngữ: Những sách có những cụm từ như “ca dao”, “dân ca”, “tục ngữ”, “ngạn ngữ”, “phương ngôn”, “phỏng thi Kinh Quốc phong”, cũng được gọi là sách có sưu tầm ca dao tục ngữ.
Với cách tìm hiểu từ tiếp cận nội dung đề yếu như thế, chúng tôi hiểu rằng sự tồn tại của những trường hợp như sau là hoàn toàn có thể xảy ra và đòi hỏi có những khảo sát sâu hơn ở các bước tiếp theo. Đó là các trường hợp như: Sách được mô tả là có sưu tầm ca dao tục ngữ nhưng lại không có sưu tầm ca dao tục ngữ thật, hoặc có trường hợp sách có sưu tầm ca dao tục ngữ nhưng lại không được mô tả trong thư mục đề yếu.
PGS.Trần Nghĩa khi thống kê số sách trong kho sách của Viện nghiên cứu Hán Nôm đã nhận xét: “Nội dung sách và nhan đề không phải bao giờ cũng đi đôi với nhau. Khi thì có sự không khớp về tính chất. Thí dụ Quốc triều thi văn tạp kí VHv403. “Quốc triều” đây chỉ triều Nguyễn Gia Long, vậy mà bên trong lại có cả thơ văn đời Trần, đời Lê trước đó. Khi thì có sự không khớp về thể loại. Thí dụ Song thất lục bát Quốc âm ca VNv226. Tuy gọi là “song thất lục bát” nhưng bên trong lại có cả một bài phú; hoặc tuy gọi là “Quốc âm” nhưng bên trong lại có cả tác phẩm chữ Hán, chứ không phải chỉ có tác phẩm toàn Nôm [ 21;22].”
Hiện tượng này là phổ biến và nó cũng do nhiều nguyên nhân dẫn tới. Có thể do các cụ ta ngày xưa làm sách không cốt lưu danh, chỉ cốt lưu lại làm của riêng truyền cho con cháu, hoặc để khỏi quên; hoặc là của riêng nên tự ý sửa đổi, thêm thắt, rồi binh lửa chiến tranh loạn lạc khiến sách bị mất mát, hư hỏng … có vô số nguyên nhân gây nên.
Vì vậy, danh sách các sách Hán Nôm có sưu tầm ca dao, tục ngữ mà chúng tôi thống kê được tất nhiên tồn tại tính tương đối của nó.
1.2.2. Danh sách các sách Hán Nôm được ghi chú có ghi chép ca dao, tục ngữ:
TT
Tên sách chữ Quốc ngữ
Thông tin tác giả / niên đại
Chữ viết (thuần Nôm hay lẫn Hán)
Số TT trong Thư mục đề yếu
Ghi chú
1
An Nam phong thổ thoại
Thiên bản cư sĩ Trần Tất Văn lươc biên
Thuần Nôm
19
các câu phương ngôn,tục ngữ,ca dao phần nhiều sưu tầm từ các vùng Hà Đông, Kiến An…có chú thích bằng chữ Nôm
2
Bắc Ninh tỏa kí
ko thông tin
Thuần Nôm
191
có truyền thuyết, thơ, ca dao, câu đối, …
3
Bằng trình thản bộ
ko thông tin
Thuần Nôm
214
29 bài thơ vịnh cảnh đẹp trên đường, trong đó có một bài thơ của Lí Thường Kiệt lúc đi đánh nhà Tống và một số câu ca dao viết bằng chữ Nôm.
4
Ca trù các điệu 2. thơ, phú, ca dao Nôm
ko thông tin
Thuần Nôm
307
phần 2.thơ,phú,ca dao nôm:lấy chồng cho đáng tấm chông…
5
Chấp trung quốc âm chân kinh
Đàn Chính Tâm, Hải Dương in năm Khải Định Kỉ Mùi 1919
Lẫn Hán
412
có trích dẫn nhiều câu ca dao, tục ngữ nói về cách sống, cách đối nhân xử thế
6
Cưu đài thi tập
Nguyễn Húc,tự Di Tân, hiệu Cúc Trang soạn và viết tựa năm Thuận Thiên Kỉ Dậu 1429
Lẫn Hán
635
150 bài thơ của Nguyễn Húc gồm các loại: ca dao điệu, ngũ ngôn cổ, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ngũ ngôn tuyệt….
7
Di tình thi tập
CN Vũ Công Thành soạn năm Khải Định Canh Thân 1916.Vũ Ngọc Đỉnh hiệu đính
Lẫn Hán
707
hơn 180 bài thơ Nôm nói về tình vợ chồng. Đầu đề thơ đều là những câu ca dao tục ngữ liên quan đến chuyện vợ chồng, như "vắng chồng thương kẻ nằm không".v.v..
8
Đại Nam quốc túy
Tam thanh Hiếu liêm Ngô Giáp Đậu biên tập năm Duy Tân 2(1908)
Thuần Nôm
871
1800câu phương ngôn,tục ngữ,xếp thành 46bài(mục)…ngoài ra còn có khoảng 600 câu ca dao.
9
Đào Nương ca trù xướng loại
Cống Đình Nguyễn Thị Tí chép năm Thành Thái 13(1901)
Lẫn Hán
936
các điệu hát ả đào và cách điểm trống chầu.
10
Khẩu sử kí
Châu Thụ Tử(Nguyễn Hữu Qúy) biên tập. Trịnh Tuấn Thắng sao chép
có lẫn ít chữ Hán
1669
các câu ca dao,tục ngữ,phương ngôn..được sưu tập và xếp thành từng mục như:lời người vợ văn sĩ,lời người vợ lính…
11
Lí hạng ca dao
Đặng Duy Ổn chép theo bản chính(?) năm 1964
Thuần Nôm
1934
tập ca dao gồm (256 thiên)phản ánh những nét về sinh hoạt, ý nghĩ, nguyện vọng của dân chúng trong các lĩnh vực chính trị,đạo đức,luân lý..
12
Lưu Bình tiểu thuyết.2. phỏng thi kinh quốc phong
ko thông tin
Lẫn Hán
2106
2.phỏng thi kinh quốc phong (16 trang cuối)những câu phương ngôn,ca dao,tục ngữ có nội dung răn dạy con trai con gáivề cách làm việc,cách sống,cách cư xử trong gia đình, ngoài xã hội
13
Nam nhã dân chí khảo
Nguyễn Trác, tự Bá Ôn soạn năm Duy Tân Nhâm Tí 1912. Trần Hữu Giảng đề từ
Lẫn Hán
2250
các câu ngạn ngữ, phương ngôn Việt Nam được xếp thành từng chương và dịch ra thơ chữ Hán, theo kiểu các bài "quốc phong" trong thi kinh. Có chú thích về thể loại.
14
Nam phong giải trào
Trần Liễu Am và Ngô Hạo biên tập. Trần Doãn Giác đề bạt
Lẫn Hán
2252
bản dịch từ chữ Nôm ra chữ Hán các câu ca dao tục ngữ Việt Nam
15
Nam phong nữ ngạn thi
HG Trần Tiên Sinh soạn
Lẫn Hán
2254
Các câu ca dao,tục ngữ nói về đời sống cảnh ngộ của người phụ nữ VN do TRẦN DANH ÁN dịch từ Nôm ra Hán,theo thể thơ QUỐC PHONG trong KINH THI
16
Nam quốc phương ngôn tục ngữ bị lục
Quán Văn Đường, Hà Nội in năm Duy Tân giáp Dần 1914
Thuần Nôm
2265
ca dao ,tục ngữ viẹt nam nói về trời đất,thánh thần, núi sông, cây cỏ..xếp thành 27 mục
17
Nhân sự thường đàm ngạn ngữ tập
Lương Thúc Kì tập giải
Lẫn Hán
2518
những câu phương ngôn ,tục ngữ Việt Nam được ghi lại bằng chữ Nôm và giải nghĩa bằng chữ Hán,xếp theo môn loại.
18
Quốc phong ngẫu vịnh 1. bản dịch ra thơ Hán
ko thông tin
Lẫn Hán
2849
1.bản dịch ra thơ Hán theo kiểu thơ quốc phong trong kinh thi các câu ca dao Việt Nam
19
Quốc phong thi diễn ca
Tiên phong Mộng Liên Đình Hi Lương phủ soạn.Đỗ Giám Hồ, Mai Trinh Thúc, Nguyễn tuần phủ bình phẩm
Lẫn Hán
2850
bản dịch từ chữ Nôm ra chữ Hán các câu ca dao sưu tập được từ các vùng…
20
Quốc phong thi tập hợp thái
Tiên phong Mộng Liên Đình Hi Lương phủ soạn.Đỗ Giám Hồ, Mai Trinh Thúc, Nguyễn tuần phủ bình phẩm
Lẫn Hán
2851
như trên
21
Thái Bình địa dư kí
ko thông tin
Thuần Nôm
3292
…ca dao lưu hành ở địa phương, được ghi lại bằng chữ Nôm
22
Thanh Hóa quan phong
Vương Duy Trinh, soạn năm Thành Thái 15(1903)
Lẫn Hán
3331
các bài dân ca phản ánh phong tục, tập quán của nhân dân Thanh Hóa
23
Tỉnh Mê phú
in năm Thành Thái Ất Tị(1905)
Thuần Nôm
3770
văn giáng bút của Vân Hương thánh mẫu( Liễu Hạnh) khuyên ăn ở phải đạo. Có sử dụng nhiều ca dao, tục ngữ như " cha chung không ai khóc"….
24
Tục ngạn lược biên
ko thông tin
Lẫn Hán
4019
377câu tục ngữ, ngạn ngữ Việt Nam
25
Tự loại diễn nghĩa
ko thông tin
Lẫn Hán
4123
Dùng chữ Nôm để giải nghĩa chữ Hán thuộc 32 chuyên mục: thiên văn, địa lý, nhân sự, tục ngữ, ca dao, thảo mộc, côn trùng, v
26
Vân Trì Dương đại nhân tiên sinh đối liên tịch thi văn
ko thông tin
Lẫn Hán
4246
ca dao.
27
Vị thành giai cú tập biên 4. Nam giao cổ kim lí hạng ca dao chú giải
Trần Cao Xương, tự Tử Thịnh soạn
Lẫn Hán
4263
4. Nam giao cổ kim lí hạng ca dao chú giải: chú giải bằng chữ Hán một số câu ca dao, tục ngữ, câu đối thường dùng trong dân gian việt Nam.
28
Việt Nam phong sử
Nguyễn Văn Mại( tự Tiểu Cao) biên soạn năm 1914
Lẫn Hán
4296
100 câu(chương)ca dao Việt Nam có từ triều Nguyễn trở về trước.được xếp theo các thể phú, tỉ, hứng.mỗi câu ngoài phần Nôm,còn có những chú thích hoặc trưng dẫn lịch sử bằng chữ Hán.
Giới thiệu danh sách các sách Hán Nôm được ghi chú có ghi chép ca dao, tục ngữ theo nội dung đề yếu trong Di sản Hán Nôm Việt Nam – Thư mục đề yếu
Chúng tôi dành một phần nội dung của chương một để giới thiệu toàn bộ nội dung đề yếu của 28 đơn vị văn bản, theo trình tự giới thiệu các nội dung một đơn vị văn bản như đã trình bày ở mục 1.2.1.( Danh sách xếp theo số thứ tự của Thư mục đề yếu).
19. AN NAM PHONG THỔ THOẠI/ 安南風土話
Thiên bản cư sĩ Trần Tất Văn/ 天本居士陳必聞
lược biên
1 bản viết 39 tr, 28 x 16.
AB. 483.
MF. 1676.
Paris. EFEO. MF. II/1/6.
Các câu phương ngôn, tục ngữ, ca dao phần nhiều sưu tầm từ các vùng Hà Đông, Kiến An, Hưng Yên, Nghệ An, Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn... nói về kinh tế, lịch sử, di tích, sản vật, nhân sự... Có chú thích bằng chữ Nôm.
191. BẮC NINH TỎA KÍ / 北寧瑣記1 bản viết, 48 tr., 30 x 17, có chữ Nôm. A. 87. Một số bài văn bia như: Lí bát đế điện thạch bi văn (văn bia ở điện thờ 8 vua đời Lí) của Phùng Khắc Khoan; Sĩ vương lăng thạch bi (bia ở lăng Sĩ Nhiếp)... Bài kí về đền Cao Vương, về Triệu Vũ Đế... ở t. Bắc Ninh. Có truyền thuyết, thơ, ca dao, câu đối (trong đó có thơ vịnh Mị Châu).
214. BẰNG TRÌNH THẢN BỘ / 鵬程坦步1 bản viết, 267 tr., 29x19, có chữ Nôm. A. 802. PARIS. EEO. MII141. Tên các trạm, các cung đường, thời gian đi, nơi hiểm trở... của các tuyến đường bộ:- Từ Thăng Long (Hà Nội) vào kinh đô Huế. - Từ Thăng Long đi các trấn Miền Bắc, tới Nam Quan; từ Thăng Long đi Cao Miên, từ Cao Miên trở về Thăng Long. - 29 bài thơ vịnh cảnh đẹp trên đường, trong đó có 1 bài thơ của Lí Thường Kiệt lúc đi đánh nhà Tống và một số câu ca dao viết bằng chữ Nôm.
307. CA TRÙ CÁC ĐIỆU / 歌籌各調1 bản viết, 70 tr., 28 x 16. VNv. 268. 1. Một số bài ca trù của Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Thắng, Trương Quốc Dụng... 2. Thơ, phú, ca dao Nôm: Lấy chồng cho đáng tấm chồng của Lê Quí Đôn; Chính khí ca diễn âm; thơ Nôm của Nguyễn Khuyến; Nam phong giải trào; thơ vịnh Kiều v. v... (*) Xem thêm Các điệu ca trù và một vài bài ca trù cổ, VNv. 100.
412. CHẤP TRUNG QUỐC ÂM CHÂN KINH / 執中國音真經Đàn Chính Tâm, Hải Dương in năm Khải Định Kỉ Mùi (1919). 1 bản in, 196 tr., 27 x 16, 1 tựa, có chữ Hán. AB. 504. Văn giáng bút của Quan Thánh Đế Quân, Vân Hương Thánh Mẫu, Ngũ Lĩnh Đại Tiên... bằng thơ, ca, từ, dụ, ngâm, thoại, huấn, phú... khuyên bỏ điều ác, làm điều thiện, yêu thương nhau... Có trích dẫn nhiều câu ca dao, tục ngữ nói về cách sống, cách đối nhân xử thế.
635. CƯU ĐÀI THI TẬP / 鳩苔詩集Nguyễn Húc/ 阮旭 , tự Di Tân/ 寅賓 hiệu Cúc Trang / 菊庄 soạn và viết tựa năm Thuận Thiên Kỉ Dậu (1429). 1 bản viết, 76 tr., 30 x 17. A. 2132. MF. 3169. 150 bài thơ của Nguyễn Húc, gồm các loại: ca dao điệu, ngũ ngôn cổ, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ngũ ngôn tuyệt, thất ngôn tuyệt, từ, khúc.
707. DI TÌNH THI TẬP / 怡情詩集CN Vũ Công Thành / 武公成 soạn năm Khải Định Canh Thân (1916). Vũ Ngọc Đỉnh hiệu đính. 1 bản viết, 108 tr., 22x15, 2 tựa, 1 mục lục, có chữ Hán, có chữ Quốc ngữ. VHv. 243. Hơn 180 bài thơ Nôm nói về tình chồng vợ. Đầu đề thơ thường là những câu ca dao tục ngữ liên quan tới chuyện vợ chồng, như "Lấy chồng cho đáng tấm chồng ", "Vắng chồng thương kẻ nằm không" v. v.
871. ĐẠI NAM QUỐC TÚY / 大南國粹 Tam Thanh Hiếu liêm Ngô Giáp Đậu / 三青孝廉吳甲豆 biên tập năm Duy Tân 2 (1908). 1 bản viết, 236 tr, 32 x 22. AB. 178, MF. 1118. Paris. EFEO. MF. I/1/98. 1800 câu phương ngôn, tục ngữ, xếp thành 46 bài (mục). như Bài thứ nhất, nói về việc trời với người ở đời v. v. Ngoài ra còn có khoảng 600 câu ca dao.
936. ĐÀO NƯƠNG CA TRÙ XƯỚNG LOẠI / 陶娘歌籌唱類Cống Đình Nguyễn Thị Tí / 貢廷阮氏子 chép năm Thành Thái 13 (1901). 1 bản viết, 70 tr, 29 x 16, 1 mục lục, có chữ Hán. VNv. 129. Các điệu hát ả đào và cách điểm trống chầu. Bài Thu dạ lữ hoài ngâm (Hán); khúc Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn (cả phần Hán lẫn phần diễn Nôm).
1669. KHẨU SỬ KÍ //口史記Châu Thụ Tử //珠樹子 (Nguyễn Hữu Quý) biên tập. Trịnh Tuấn Thắng //鄭俊勝 sao chép.1 bản viết, 47 tr, 26 x 18.AB. 417.Các câu ca dao, tục ngữ, phương ngôn... được sưu tập và xếp thành từng mục như: Lời người vợ văn sĩ; Lời người vợ lính, Công, Nông, Thương v.v... 3 bài hát nói.
1934. LÍ (LÝ) HẠNG CA DAO //里 巷 歌 謠 Đặng Duy Ổn // 鄧 惟 穩 chép theo bản chính năm 1964.1 bản viết, 112 tr., 27.5 x 16.5.VNV.303.Tập ca dao (gồm 256 thiên) phản ánh những nét về sinh hoạt, ý nghĩ, nguyện vọng của dân chúng trong các lĩnh vực chính trị, đạo đức, luân lí...
2106. LƯU BÌNH TIỂU THUYẾT //劉 平 小 說 1 bản viết, 37 tr., 29 x 16.AB.479.1. Lưu Bình tiểu thuyết (21 tr đầu); vở chèo Lưu Bình Dương Lễ. Xem Lưu Bình diễn ca AB.66.2. Phỏng Thi Kinh quốc phong //倣 詩 經 國 風 (16 tr cuối): Những câu phương ngôn, ca dao, tục ngữ có nội dung răn dạy con trai, con gái về cách làm việc, cách sống, cách cư xử trong gia đình, ngoài xã hội...
2250. NAM NHÃ DÂN CHÍ KHẢO //南 雅 民 志 考 =NAM NHÃ DÂN CHÍ KHẢO TẬP //南 雅 民 志 考 集 Nguyễn Trác //阮 焯 , tự Bá Ôn //伯 溫 soạn năm Duy Tân Nhâm Tí (1912). Trần Hữu Giảng //陳 友 講 đề từ.2 bản viết, 1 đề từ, có chữ Nôm.A.3175: 165 TR., 22 X 14,5, SÁCH NÁT.VHV.2699: NAM NHÃ DÂN CHÍ KHẢO TẬP VŨ CHỨC CHÉP LẠI NĂM 1964, THEO BẢN A.3175, 248 TR., 27,5 X 16,5.MF.1409 A.3185.Các câu ngạn ngữ, phương ngôn Việt Nam được xếp thành từng chương và dịch ra thơ chữ Hán, theo kiểu các bài "Quốc phong" trong Kinh Thi. Có chú thích về thể loại.
2252. NAM PHONG GIẢI TRÀO //南 風 解 嘲 Trần Liễu Am //陳 了 庵 và Ngô Hạo //吳 浩 biên tập. Trần Doãn Giác //陳 尹 覺 đề bạt.1 bản in, 3 bản viết, 1 tựa, 1 bạt, có chữ Hán.AB.348: 66TR., 20X14, IN.AB.232: 34TR., 28,5X16, VIẾT.PARIS. SA.PD.2351: 26TR., VIẾT.PARIS. SA.MS.B.16: 104TR., VIẾT.PARIS.EFEO.MF.II/4/502, 3 1200 III 126.Bản dịch từ chữ Nôm ra chữ Hán các câu ca dao, tục ngữ Việt Nam.AB.348 có bài Chinh phu tự tình, nói về nỗi nhớ vợ nhớ con của người chồng đi chinh chiến phương xa.
2254. NAM PHONG NỮ NGẠN THI //南 風 女 諺 詩 HG Trần Tiên Sinh //陳 先 生 soạn.1 bản viết, 66 tr., 14,5 x 14, có chữ Hán.AB. 343.Các câu ca dao, tục ngữ nói về đời sống và cảnh ngộ... của người phụ nữ Việt Nam, do Trần Danh án dịch từ Nôm ra Hán, theo thể thơ "Quốc phong" trong Kinh Thi. Một số bài ca Nôm như Ngắm trăng, Nhớ chồng, Nhớ ơn cha mẹ...
2265. NAM QUỐC PHƯƠNG NGÔN TỤC NGỮ BỊ LỤC //南 國 方 言 俗 語 備 錄 Quán Văn Đường, Hà Nội in năm Duy Tân Giáp Dần (1914).1 BẢN IN, 90 TR., 27 X 15.5, CÓ CHỮ QUỐC NGỮ.AB. 619.MF. 170.Ca dao, tục ngữ Việt Nam nói về trời đất, thánh thần, núi sông, cây cỏ,cách ăn ở v.v. được xếp thành 27 mục. Một số câu đố có kèm lời giải.
2518. NHÂN SỰ THƯỜNG ĐÀM NGẠN NGỮ TẬP //人 事 常 談 諺 語 集 Lương Thúc Kì //梁 叔 琦 tập giải.1 bản viết, (2T: Thượng và Hạ), 98tr., 29x17, 1 tựa, có chữ Hán.VNV.70.Những câu phương ngôn, tục ngữ Việt Nam được ghi lại bằng chữ Nôm và giải nghĩa bằng chữ Hán, xếp theo môn loại.
2849. QUỐC PHONG NGẪU VỊNH //國 風 偶 詠 1 bản,164 tr.,21,5x14,5;có chữ nôm.VHV.2248.1. Bản dịch ra thơ Hán,theo kiểu thơ quốc phong trong Kinh thi, các câu ca dao Việt Nam.2. Ca trù thơ Thiên thai, kinh nghĩa, phú văn tế. Bài chàng rể tế mẹ vợ của bà huyện Thanh Quan, bài hát vịnh cô đào Liên của Nguyễn Khuyến.
2850.QUỐC PHONG THI DIỄN CA //國 風 詩 演 歌 [QUỐC PHONG THI TẠP CHÍ //國 風 詩 雜 誌 ]Tiên phong Mộng Liên Đình Hi Lương Phủ //仙 峰 夢 蓮 亭 希 亮 甫 soạn. Đỗ Giám Hồ //杜 鑑 湖 , Mai Trinh Thúc //枚 貞 叔 , Nguyễn Tuần Phủ // 阮 循 甫 bình phẩm.1 bản viết,50 tr.,20x15,5.có chữ Hán.AB.335.Bản dịch ra thơ Hán,theo kiểu thơ Quốc phong trong Kinh Thi,những câu ca dao sưu tập được từ các vùng Thừa Thiên,Sơn Tây,Quảng Oai,Vĩnh Tường,Lạng Sơn,Tuyên Quang v.v.(*) Xem thêm Quốc phong thi tập hợp thái VN.148
2851.QUỐC PHONG THI TẬP HỢP THÁI //國 風 詩 集 合 採 Tiên Phong Mộng Liên Đình Hi Lượng Phủ //仙 峰 夢 蓮 亭 希 亮 甫 soạn .Đỗ Giám Hồ // 杜 鑑 湖 , Mai Trinh Thúc //枚 貞 叔 , Nguyễn Tuần Phủ //阮 循 甫 bình phẩm.Quán Văn Đường in năm Duy Tân Canh Tuất (1910)1 bản in ,2 bản viết , có chữ Nôm , chữ quốc ngữ NVV.148:88TR.,27.5X15.5, IN.AB.182:94 TR. 31.5X21.5, VIẾT.VHV.2410:38 TR., 27.5X15.5, VIẾTMF.16869VNV.148PARIS.EFEO.MF.II/4/1677AB.182Bản dịch ra thơ chữ Hán, theo kiểu thơ Quốc phong trong Kinh thi, những câu ca giao sưu tập được từ các vùng Thừa Thiên , Sơn Tây ,Quảng Oai,Vĩnh Tường , Lạng Sơn, Tuyên Quang ...* Xem thêm Quốc phong thi diễn ca AB.335.
3292. THÁI BÌNH ĐỊA DƯ KÍ太平地歟記
1 bản viết, 78 tr., 27 x 13, có chữ Nôm.A.500.MF. 361.Paris. EFEO. MF. II/6/899.Địa lí và lịch sử của 3 phủ, 12 huyện thuộc t. Thái Bình: sông ngòi, đê điều, cầu cống, sự tích, đền chùa, chợ búa, bến sông, v.v. Ca dao lưu hành ở địa phương, được ghi lại bằng chữ Nôm.
3331. THANH HÓA QUAN PHONG清化觀風
Vương Duy Trinh 王 維 楨 soạn năm Thành Thái 15 (1903).2 bản in, 2 bản viết, 1 dẫn, 1 mục lục.VHv. 1370: in năm Thành Thái 16 (1904), 140 tr., 32 x 15.Paris. MG. Fv. 57167: Chùa Mật Đa, Hạc Thành in, 248 tr.Paris. BN. 53 vietnamien: 12 tr., viết.AB. 159: chép năm Thành Thái 16 (1904), 110 tr., 32 x 22.Paris. EFEO. MF. II/6/1917 (AB. 159).Các bài dân ca phản ánh phong tục, tập quán của nhân dân Thanh Hóa: mừng đám cưới, mừng năm mới, mừng được mùa, nói về công việc nhà nông, thời tiết, vợ chồng khuyên nhau làm điều tốt, hát giao duyên…Có một số bài hát của dân tộc miền núi tỉnh Thanh Hóa ghi bằng chữ dân tộc, được phiên âm bằng chữ Hán và chữ Nôm.(*) Xem thêm phần Thanh Hóa quan phong trong Thanh Hóa kỉ thăng VHv. 1372/a, từ tr. 32.
3770. TỈNH MÊ PHÚ醒迷賦
In năm Thành Thái ất Tị (1905). Ván khắc để tại đền Ngọc Sơn, Hà Nội.1 bản viết, 14 tr., 31 x 21.AB.644.MF.1682.Văn giáng bút của Vân Hương Thánh Mẫu (Liễu Hạnh) khuyên ãn ở phải đạo. Có sử dụng nhiều ca dao, tục ngữ, như “cha chung không ai khóc”, “mẹ hát con khen hay”, “lấy chồng cho đáng tấm chồng” v.v.
4019. TỤC NGẠN LƯỢC BIÊN俗諺略編
1 bản viết, 28 tr., 27.5 x 15.5.A.604.
377 câu tục ngữ, ngạn ngữ Việt Nam.
4123. TỰ LOẠI DIỄN NGHĨA
1 bản viết, 77 tr., 30 x 15, có chữ Hán.AB. 593.Dùng chữ Nôm để giải nghĩa chữ Hán thuộc 32 chuyên mục: Thiên văn, Địa lí, Nhân sự, Tục ngữ, Ca dao, Thảo mộc, Côn trùng v.v.
4246. VÂN TRÌ DƯƠNG ĐẠI NHÂN TIÊN SINH ĐỐI LIÊN TỊNH THI VĂN 雲池楊大人先生對聯並詩文
1 bản viết, 124 tr., 28 x 16, có chữ Nôm.A.3007.Thơ văn và câu đối của Dương Khuê: câu đối mừng thọ, mừng thi đỗ, mừng thãng chức… (Hán). Một số bài hát mưỡu, hát nói (Nôm).Ca dao. Tác phẩm Nguyễn Khuyến gửi Dương Khuê. Thơ Nguyễn Thiện Kế. Câu đối của Phan Bội Châu.
4263. VỊ THÀNH GIAI CÚ TẬP BIÊN渭城佳句集編
1 bản viết, 410 tr., 29 x 20, có chữ Hán.AB.194.MF.1656.1.Vị thành giai cú tập biên (56 tr.): 78 bài phần lớn là thơ Nôm, soạn theo thể 7 – 7/6 – 8 hoặc thất ngôn tứ tuyệt, do Trần Cao Xương soạn.(*) Tác giả Thiên Nam Hương Sơn Quan Âm Phật chân kinh tân dịch là Kiều Oánh Mậu. Xem Hương Sơn Quan Thế Âm chân kinh tân dịch AB.271.
4296. VIỆT NAM PHONG SỬ越南封史
1 bản viết, 206 tr., 30 x 10, 1 mục lục, 5 bài thơ đề, 1 tựa, 2 bạt, có chữ Hán.AB.320.100 câu (chương) ca dao Việt Nam có từ triều Nguyễn trở về trước, được xếp theo các thể phú, tỉ, hứng. Mỗi câu ngoài phần Nôm, còn có những chú thích hoặc trưng dẫn lịch sử bằng chữ Hán.
Trên đây, chúng tôi đã trình bày một cách khái lược tình hình sách Hán Nôm có sưu tầm ca dao, tục ngữ trong bộ “Di sản Hán Nôm thư mục đề yếu” Qua đó, chúng ta có thể hình dung đươc diện mạo của vấn đề và thấy được vai trò của sách Hán Nôm sưu tầm ca dao, tục ngữ đối với nền văn học nước nhà.
Chương 2
MỘT SỐ PHÂN TÍCH VỀ NỘI DUNG ĐỀ YẾU CHO CÁC SÁCH VỞ HÁN NÔM CÓ GHI CHÉP CA DAO TỤC NGỮ
2.1. Nhận xét thông tin tác giả, niên đại và thông tin loại chữ viết sử dụng trong các sách vở Hán Nôm có ghi chép ca dao tục ngữ
Trước hết, về thông tin tác giả, niên đại, số sách Hán Nôm mà chúng tôi khảo sát là 28 đơn vị sách. Trong số đó, chúng ta có thể thấy có 16 sách đã xác định đươc tác giả và 15 sách đã xác định được năm biên soạn. Bên cạnh đó, cũng như tình hình chung của các dạng văn bản Hán Nôm khác, khá nhiều sách vở chưa được giám định hoặc không có khả năng để giám định thông tin niên đại hoặc tác giả.
Về tình hình loại chữ viết được sử dụng trong nhóm các sách Hán Nôm này, trong 28 sách đưa vào diện thống kê, khảo sát, chúng tôi thấy chỉ có 8 sách là hoàn toàn Nôm, còn lại đều lẫn Hán. Điều này ít nhiều chứng tỏ chữ Hán có vai trò rất quan trọng trong sự biên chép ca dao, tục ngữ trên các tài liệu liên quan đến ca dao tục ngữ phi quốc ngữ.
Nếu như việc sử dụng chữ Hán, chữ Nôm đã dẫn tới sự hình thành các kho sách Hán Nôm, thì đến lượt nó, các kho sách Hán Nôm lại tạo điều kiện cho những công trình thư mục Hán Nôm quan trọng được biết tới cho đến ngày nay.
Do am hiểu văn tự và văn hóa Hán các nhà nho là những người tiên phong trong việc truyền bá chữ Hán và những tư tưởng Hán. Bộ phận nho sĩ này có vai trò quan trọng trong việc kết hợp văn học dân gian và văn học chính thống, họ là người trực tiếp đưa những tư tưởng của những nhà văn hóa lớn trên thế giới đặc biệt là những tư tưởng của nền Hán học vào nước ta.
2.2. Về kết cấu một số sách được ghi chú có ghi chép ca dao tục ngữ theo thông tin nội dung đề yếu
Trong phạm vi báo cáo khoa học này, chúng tôi sẽ nêu kết cấu của một số sách đáng chú ý. Trong đó, có các sách mà toàn quyển là một tập hợp sưu tầm ca dao, tục ngữ.
2.2.1. Việt Nam phong sử:
Việt Nam phong sử gồm 100 chương ca dao Việt Nam, có từ triều Nguyễn trở về trước, do Nguyễn Văn Mại (tự Tiểu Cao) biên soạn năm 1914. Trong mỗi chương có một lời ca dao làm tiêu đề viết bằng chữ Nôm, còn phần giải ngĩa, bàn bạc viết bằng chữ Hán, được xếp theo các thể phú, tỉ, hứng.
Trong lời tựa cuốn Việt Nam phong sử Nguyễn Văn Mại có viết: “ Lúc làm chức bố chánh sứ ở Thanh Hóa, nhân dân thuần hậu, việc chính khá đơn giản, tôi thường cùng các vị học rộng ở trị sở và những văn nhân trong hạt lo chọn lựa thu nhặt rộng rãi những thơ phong dao, chọn những câu nào có thể làm gương về sự khuyến khích điều thiện và giới trừng điều ác, được một trăm thiên, lấy thơ phong dao làm chánh văn, lấy Việt sử, dã sử ngoại truyện tiểu thuyết làm chú thích”.
Như vậy, trong tác phẩm Việt Nam phong sử của Nguyễn Văn Mại gồm hai phần chính, đó là phần ca dao và phần quốc sử. “ Lấy thơ phong dao làm gương trong mà soi tinh thần quốc sử, lại lấy quốc sử làm căn cội mà tháp vào những hoa nhụy của thơ phong dao thì những âm hưởng tự nhiên rít lên để không cẩu hợp với nhân hoàn, đó là điều tự tin của Mại tôi vậy”. Huống chi “lúc tân học mới phát khởi không đọc sử nước Nam thì bị chê là quên tổ tiên nòi giống, không thuộc thơ phong dao lịch sử thì cũng không khỏi bị cười là kẻ quay mặt vào tường chẳng thấy biết gì”. Dưới đây là một vài ví dụ:
“ Thương chồng nên phải gắng công,
Nào ai xương sắt da đồng chi đây?
Thơ phong sử này thuộc phú.
Trưng Nữ Vương tên Trắc, họ Trưng, con gái của lạc tướng ở huyện Mê Linh đất Phong Châu (nay là Yên Lãng ), là vợ của Thi Sách ở huyện Chu Diên.
Lúc ấy Thái thú Tô Định thi hành chính sách tham bạo.Nữ Vương hận Tô Định giết chồng Bà, bèn cùng em là Trưng Nhị cử binh đánh Phong Châu, hãm châu trị, dẹp yên được hơn 60 thành ở Lĩnh Nam, tự lập làm vua, đóng đô ở Mê Linh,
Nhà Hán phong chức cho Mã Viện làm Phục Ba Tướng quân cho đem binh sang đánh Nữ Vương. Mã Viện men theo ven biển mà tiến, đến hồ Lãng Bạc ( nay ở huyện Vĩnh Thuận, nhà Lê đổi gọi là Tay Hồ, Chúa Trịnh đổi gọi là Đoài Hồ) thì gặp quân của Nữ Vương,
Nữ Vương thấy thế giặc quá to, tự liệu quân mình ô hợp không thể chống nổi, bèn lui quân giữ Cẩm Khê. Quân sĩ thấy Nữ Vương là đàn bà con gái không thể thắng địch, bèn chạy tán loạn. Nữ Vương chống cự thế cô rồi bại trận mà chết.
Mã Viện dựng cột đồng làm ranh giới cùng cực của nhà Hán. Nước Việt ta lại thuộc nhà Hán .
Về sau người trong vùng ấy cảm mộ Nữ Vương dựng đền ở Hát Giang mà thờ phụng hai Bà.
Câu phong dao này khen ngợi Trưng Nữ Vương. Chồng chỉ Thi Sách. Nữ Vương vì thù chồng mà khởi binh, đuổi Tô Định, dẹp yên vùng Lĩnh Biểu, tuy là đàn bà con gái yếu đuối, không dám lấy việc luyện sách và rèn kim tự khoe mình, nhưng hai Ba là bậc anh hùng trong giới nữ lưu, cùng với Lệ Hải Bà Vương (Bà Triệu) chồng cự quân giặc Bắc uy danh cùng hiển hách ngàn thu”.
Hay câu phong dao sau đây:
“Gió đưa cây cải về trời,
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay”.
Thơ phong sử này thuộc tỷ.
Cải, rau cải có thể làm dưa, tháng mùa đông bắt đầu gieo hột mà trồng. Trời, Thiên triều, triều nhà Thanh bên Tàu. Nước ta trải qua các đời đều chịu triều đình Trung Quốc phong cho, cho nên gọi nước Trung quốc là thiên triều, Răm, thứ rau có vị cay, mọc ở chỗ đất thấp.
Theo sử ký, Nguyễn Thị Kim, người ở làng Tỳ Bà, huyện Lương Tài là cung phi của vua Lê Mẫn Đế.
Lúc ấy quân Tây Sơn chiếm cứ thành Thăng Long, vua Lê Chiêu Thống và Hoang Thái hậu với cung phi chạy lên Cao Bằng nếm mọi nỗi đắng cay.
Đến khi vua Chiêu Thống sai người sang cầu cứu với nhà Thanh thì trước hết bí mật khiến người hộ tống Thái hậu và Nguyên tử (con trai trưởng của vua) đi sang Tàu.
Còn cung phi Nguyến Thị Kim đi theo không kịp, phải buồn hận trở về âm thầm ẩn tránh trong dân gian lo việc làm rượng nuôi tằm và dệt vải để sống bằng sức lực của mình.
Ngày xưa sống với phấn sáp cung trang, ngày nay nàng trở thành người đàn bà quê với áo vải thoa gai, vua thì chạy đi, nước thì tan mất, nỗi đắng cay không xiết được, cho nên làm thơ phong dao để tự ví mình.
Cải là thứ rau có vị đắng ví với Thái hậu. Rau răm cũng có vị đắng ví với cung phi.
Nói Thái hậu đi xa sang Thiên triều chưa biết cam khổ ra sao. Một mình Cung phi ở lại trong đất giặc chiếm đóng phải chịu những nỗi cay đắng ấy.Đấy cũng là lời than thở.
Về sau vua Chiêu Thống ở Yên Kinh bị bệnh mà chết.
Sau khi lấy đước nước và định quốc đô, triều Nguyễn ta xin nhà Thanh đưa linh cữu vua Lê Chiêu Thống về nước.
Cung phi Nguyễn Thị Kim đến trước linh cữu lạy khóc rồi uống thuốc độc mà chết.
Thương thay! Trung thần liệt nữ từ xưa đều thế.
Nay người ta đọc đến chương nay thấy được lời trung nghĩa rõ ràng, tuy lão luyện về văn mặc nói cũng không thấu đạt được”.
Một ví dụ khác:
“ Đời vua Vĩnh Tộ lên ngôi
Cơm gạo đầy nồi, trẻ chẳng ăn cho.
Thơ phong sử này thuộc phú.
Vĩnh Tộ là niên hiệu vua Lê Thần Tông( 1620- 1628). Trong khoảng niên hiệu Lê Cảnh Hưng( 1740-1786) và Lê Chiêu Thống (1787- 1788) có nhiều năm mất mùa đói khó, nhân dân lưu ly tứ tán, cha con không thể nuôi nhau, anh em không thể dựa nhau, cho nên họ nhớ lại những ngày tháng trúng mùa trong niên hiệu Lê Vĩnh Tộ mà than thở kiếp sống của họ không gặp thời.
Đây cũng là lời quan chức than thở không được vua hậu đãi bằng nhà cao cửa rộng với bữa cơm đầy đủ dồi dào, như ở thiên Quyền dư thuộc phần Tần phong trong Thi Kinh đấy chăng?”
Tuy nhiên, tác giả là một viên quan dưới triều Nguyễn theo khuynh hướng “tân học”, lại sáng tác ở thời kỳ văn hóa phương Tây xâm nhập vào nước ta hồi đầu thế kỷ XX nên mang quan điểm “chính thống” của phong kiến Nguyễn coi những sự “không chính thống” đều là ngụy (ngụy Mạc, ngụy Hồ). Điều này đã được giáo trình văn học dân gian Việt Nam giải thích : “phần lớn các nhà nho sưu tập tục ngữ ca dao là nhằm nêu rõ “phong tục hậu hay bạc”, nhằm “dương Phong chấn Nhã”, nhằm đem lại điều “khuyên răn cho đời”. Và muốn thế thì họ phải gò ca dao vào khuôn khổ của tư tưởng đạo Nho. Đó là nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế thường thấy trong các công trình biên soạn của họ. đối với các câu ca dao bình thường mà họ có thể đưa vào các vựng tập thì có khi họ giải thích sai lạc. Còn những tác phẩm trái ngược với đạo lý phong kiến một cách rõ rệt, nhất là những bài vè có tính chiến đấu chống phong kiến mạnh mẽ, thì thường bị bỏ qua, rất ít được ghi chép lại”. Câu phong dao dưới đây là một ví dụ:
“Thương chồng nên phải gắng công
Nào ai xương sắt, da đồng chi đây?
Nào ai xương sắt, da đồng chi đây?
Hai câu trên đây chỉ là lời người phụ nữ nói về sự vất vả, sự cố gắng của mình, để giúp chồng, nuôi con, nhưng Nguyễn Văn Mại, tác giả Việt Nam phong sử lại gán ghép vào một sự kiện lịch sử. Ông viết: “ Trưng Vương là đàn bà, vì chồng báo thù, đánh đuổi Tô Định, thực là gan vàng dạ sắt”. Nhận định như vậy không những sai mà còn hạ thấp cuộc khởi nghĩa của Bà Trưng. Bà trả thù nhà, nhưng còn đền nợ nước nữa.( theo Vũ Ngọc Phan- Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam).
2.2.2. Nam Phong giải trào:
Nam Phong giải trào là công trình sưu tầm ca dao sớm nhất, sách dịch từ chữ Nôm ra chữ Hán các câu ca dao, tục ngữ Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả cuốn sách đã chú giải ca dao theo ý mình, bắt chước cung cách của các nhà nho Trung Quốc chú giải ca dao trong Kinh Thi. Câu ca dao :
“Thiên vạn tư niên, vật giá bỉ La, ngôn xú kì tương, ngôn hắc kì già.”( chữ Hán)
Ngàn vạn chớ lấy kẻ La
Cái tương thời thối cái cà thời thâm. (chữ Nôm)
Câu ca dao trên vốn phản ánh sự chê trách của nông dân, của thợ cấy đối với bọn điền chủ keo kiệt ở làng La, đã được tác giả đem gán ghép với một nội dung chính trị rất xa lạ với nội dung ấy. Trước hết câu ca dao đã được dịch ra chữ hán theo phong cách Kinh Thi, được đặt tên là Chương Thiên Vạn, theo cách lấy hai chữ đầu bài để đặt tên bài thơ như trong kinh Thi. Cách chú giải cũng rập theo khuôn mẫu chú giải Kinh Thi như sau: “Thể phú vậy. Nói về việc đàn bà đi làm thuê, răn bảo nhau rằng đi cấy không nổi. Mà làng có tên La thì không phải chỉ một, đây chưa rõ là làng La nào. Chương này mở đầu sách Giải trào, mượn việc răn nhau chớ đi cấy để nói việc đi làm quan”.
Đem gán ghép nội dung chính trị xã hội vào ý nghĩa của ca dao theo kiểu này vốn là một truyền thống bắt đầu từ nhà Nho Trung Quốc đời Hán. Nếu như bài Quan thư trong Kinh Thi vốn không có ngụ ý ca ngợi đạo đức của vợ vua Văn Vương nhà Chu như Hán nho đã giải thích, thì câu ca dao này cũng vốn chẳng có ngụ ý chỉ việc kẻ vong thần nhà Lê răn nhau chớ ra làm quan cho tân triều (tức nhà Tây Sơn, và sau đó là nhà Nguyễn) như Trần Danh Án, Ngô Đình Thái giải thích. Cách giải thích ca dao như vậy thực tế là gò ép ý nghĩa của ca dao theo mục đính của nhà nho. Mục đích ấy có khi là đề cao đạo đức phong kiến như phần lớn tác giả các công trình sưu tập đã làm, có khi là gửi gắm tâm sự riêng của nhà biên soạn. Và trong những trường hợp ấy, tất nhiên là việc giải thích ca dao có tính chất xuyên tạc. Nhưng ngay cả những khi nhằm một mục đích tốt đi nữa, cách giải thích ca dao cũng thường là khiên cưỡng, do quan niệm chung thiếu chính xác về thơ ca dân gian.
2.3. Liên hệ với cách biên soạn ca dao tục ngữ trong Kho tàng ca dao người Việt và Kho tàng tục ngữ người Việt :
Các sách Hán Nôm có sưu tầm ca dao, tục ngữ chủ yếu do các nhà nho sưu tầm và ghi chép lại. Nguyễn Văn Ngọc đã đánh giá những sách Hán Nôm đó như sau: “Những sách này làm, hoặc không theo trật tự nào, hoặc đối nhau hai câu một…Những câu chép trong sách thường không có chú thích, phê bình. Tựu trung một đôi quyển cũng gọi là có cắt nghĩa qua từng câu, hoặc kê cứu lai lịch của cả các câu mà chép cho câu nào cũng có can thiệp đến lịch sử nước nhà. Nhưng đáng tiếc rằng hiện có nhiều quyển mới chỉ là sách viết, bỏ quên trong một thư viện nhà nào, chứ chưa từng đem ra công bố, ấn hành...”
Nói chung những sách này sắp xếp, phân loại chủ đề ca dao, tục ngữ chưa khoa học, rất khó cho việc tra cứu. Soạn giả Quốc phong thi tập hợp thái chia phong dao theo địa phương như Thừa Thiên, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Sơn Tây, v.v…Soạn giả Thanh Hóa quan phong chia ca dao Thanh Hóa theo từng huyện hoặc châu như Đông Sơn, Thạch Thành, Quảng Xương, Ngọc Cần, Nga Sơn, v.v…Soạn giả Nam quốc phương ngôn tục ngữ bị lục thì chia theo phẩm loại như trời đất, thần phật, các bậc người, cách ăn ở, tả đạo, loại sâu bọ, thảo mộc, sơn hải, v.v…Soạn giả Tục ngạn tập biên thì chia theo số chữ như : loại câu 4 chữ, loại câu 6 chữ, loại câu 7 chữ, hoặc câu 8 chữ, v.v…Soạn giả Việt Nam phong sử thì lại cố gắn các câu ca dao với từng thời đại, từng sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử.
Trong các cách phân loại này thì cách phân loại theo địa phương giúp ích nhiều hơn cả cho việc nghiên cứu văn học dân gian, còn cách phân loại theo thời kì lịch sử nếu làm tốt thì cũng rất bổ ích, nhưng tiếc rằng công việc của các nhà nho xưa thường chưa đủ căn cứ vững chắc.
Chỉ khi Kho tàng ca dao người Việt và Kho tàng tục ngữ người Việt ra đời người đọc mới có cái nhìn toàn diện về ca dao, tục ngữ. Với việc phân loại ca dao, tục ngữ thành những nội dung rất khao học như:
Sắp xếp theo trật tự chữ cái của tiếng đầu
Bảng tra cứu theo chủ đề
Bảng tra cứu tên đất
Bảng tra cứu tên người
Thư mục về ca dao, tục ngữ và một vài nội dung khác….
Với những nội dung trên, Kho tàng ca dao người Việt và Kho tàng tục ngữ người Việt trước hết có thể phục vụ bạn đọc rộng rãi trong việc thưởng thức, tìm hiểu thơ ca dân gian; nhưng sách này chủ yếu là sách công cụ, nhằm cung cấp tư liệu cho các nhà nghiên cứu. Chẳng hạn, ở hệ thống sắp xếp ca dao theo trật tự chữ cái, qua các tên sách sưu tầm, người đọc sẽ thấy tính chất phổ biến (số lần xuất hiện) của từng lời; qua việc trình bày bản chính và bản khác, người đọc sẽ thấy rõ tính chất dị bản của ca dao; qua việc xác định thời điểm của sách sưu tầm người đọc sẽ biết từng lời ca dao cụ thể đã được ghi lại sớm nhất từ năm nào, v.v…
Công trình sưu tập ca dao sớm nhất mà chúng ta được thấy là sách Nam Phong giải trào, xét cho kĩ cũng không phải là nhằm mục đích giữ lại trên giấy trắng mực đen những sáng tác dân gian vốn lưu hành ở cửa miệng. Nói về nguyên nhân xuất hiện Nam Phong giải trào, bài tựa của Trần Doãn Giác có đoạn như sau: “Ôi! Tập sách này lúc đầu há phải không có nguyên nhân mà thành được ru! Tiên sinh Liễu Am gặp thời buổi gian nan tăm tối thường mượn cách vui đùa để gửi gắm tấm lòng trung phẫn. Ngô tiên sinh ở vào cảnh hoạn nạn, cũng mượn lời ngâm để khiển muộn vậy”.
Thì ra những soạn giả đầu tiên của Nam Phong giải trào, là Trần Liễu Am, tức Trần Danh Án (? – 1794) cựu thần nhà Lê, không chịu ra phục vụ tân triều (tức nhà Tây Sơn, rồi sau đó là nhà Nguyễn), và Ngô Đình Thái (thế kỷ XIX) khi làm quan với nhà Nguyễn có điều bất mãn đều đã mượn ca dao để gửi gắm tâm sự của mình.
Mặc dù có những thiếu sót gắn liền với những hạn chế của quan điểm phong kiến và của thời đại, nhưng những công trình của các nhà nho xưa đối với chúng ta cũng rất đáng quý. Những thành tựu và kinh nghiệm của họ tạo nên truyền thống tốt đẹp cho việc nghiên cứu văn nghệ dân gian ở nước ta. Và những hạn chế cũng như sai sót của họ cũng là những bài học kinh nghiệm quý báu cho những nghiên cứu sau này.
KẾT LUẬN
Văn học dân gian, trong đó có ca dao tục ngữ, là kho tàng văn học quý giá của đất nước, đã vượt qua mọi thử thách của thời gian, trở thành một thành tố quan trọng trong gia tài văn hoá nước ta. Thông qua nghệ thuật ngôn từ, ca dao tục ngữ đúc kết trí tuệ, tình cảm của nhân dân và phản ánh nhiều mặt của xã hội, trong đó có phong tục tập quán, có các mối quan hệ trong gia đình. Việc đi sâu nghiên cứu tục ngữ, ca dao đã phát hiện ngày càng nhiều những giá trị tiềm ẩn trong đó, giúp cho con người của xã hội đương đại có cơ sở để thực hiện đạo lí uống nước nhớ nguồn, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá dân tộc.
Công tác sưu tầm ca dao, tục ngữ đã phát triển từ rất sớm với cả chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó số sách chữ Hán chiếm một phần lớn (20 cuốn) trong danh sách thống kê của báo cáo này. Tác giả của những sách sưu tầm ca dao, tục ngữ bằng chữ Hán này chủ yếu là các nhà Nho, họ coi chữ Hán là “chuẩn” và dịch ca dao tục ngữ ra chữ Hán là một cách trân trọng và so sánh với Quốc phong trong Kinh Thi của Trung Quốc. Theo quan điểm của họ, khi dịch sang được chữ Hán thì tác phẩm mới có tính chính thống, hay nói cách khác họ muốn quốc thống hoá cái dân gian của ca dao tục ngữ.
Từ quan điểm này, các nhà nho sưu tầm những câu ca dao, tục ngữ theo quan điểm riêng của hệ tư tưởng phong kiến, tuy còn nhiều thiếu sót nhưng những sách sưu tầm ca dao, tục ngữ này đã để lại cho chúng ta những nguồn tư liệu quý giá.
Qua tìm hiểu 28 đầu sách Hán Nôm có sưu tấm ca dao tục ngữ trong Di sản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề yếu, chúng ta thấy được phần nào diện mạo các sách Hán Nôm và vai trò của nó đối với công tác sưu tầm ca dao, tục ngữ nói chung và đối với nền văn hoá dân gian nói riêng. Các sách chữ Hán ra đời sớm giúp ích cho việc tìm hiểu thơ ca dân gian. Cùng với nó, các sách chữ Nôm lại mang đến cho người đọc Việt một tác phẩm gần gũi hơn, dễ hiểu hơn… các sách Hán Nôm sưu tầm ca dao tục ngữ đem đến cho đông đảo người dân một sự hiểu biết không nhỏ về các tri thức khác nhau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trần Thị An, Nguyễn Thị Huế (biên soạn và tuyển chọn), Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam (tập 4): tục ngữ, ca dao, NXB giáo dục Hà Nội, 1999.
Cao Huy Đỉnh, Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, NXB Khoa học xã hội Hà Nội, 1974.
Trần văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm – nguồn tư liệu văn học, sử học Việt Nam (2 tập), Thư viện Quốc gia xuất bản, Hà Nội, tập1 in năm 1970, tập 2 in năm 1990.
Lê Bá Hán-Trần Đình Sử- Nguyễn Khắc Phi… Từ Điển thuật ngữ văn học, NXB ĐHQG Hà Nội, 1999.
Võ Đình Hường, Ca dao của người Việt về lịch sử, NXB ĐHQG Hà Nội, 2001.
Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên,Võ Quang Nhơn, Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục, 2001.
Nguyễn Xuân Kính, Thi pháp ca dao, NXB ĐHQG Hà Nội, 2004.
Nguyễn Xuân Kính chủ biên, Kho tàng tục ngữ người Việt ( 2 tập), NXB Văn hóa thông tin Hà Nội, 2002.
Nguyễn Xuân Kính chủ biên, Kho tàng ca dao người Việt (2 tập), NXB Văn hóa thông tin Hà Nội, 2003.
Nguyễn Văn Mại, dịch giả Tạ Quang Phát, Cổ thư tác dịch Việt Nam phong sử, NXB Lao Động, 2004.
Trần Nghĩa và Francois Gros đồng chủ biên, Di sản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề yếu, tập 3, NXB Khoa học xã hội Hà Nội, 1993.
Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, 1978.
Lê Chí Quế chủ biên, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ, Văn học dân gian Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996.
Lê Chí Quế, Văn hóa dân gian-khảo sát và nghiên cứu, NXB ĐHQG Hà Nội, 2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- báo cáo khoa học.doc