Chúng ta đang sống trong một thế giới đã thay đổi và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Nếu như trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp trước đây, chúng ta chỉ biết tới giá trị hữu hình và hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình trong doanh nghiệp thì hiện nay, hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong doanh nghiệp đang cùng tồn tại trong một mối quan hệ mới. Nếu không nhận thức được đầy đủ về mối quan hệ này, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn, bỡ ngỡ trong việc hội nhập vào thị trường thế giới. Trong một thế giới đã và đang thay đổi từng ngày từng giờ, thách thức đặt ra đối với chúng ta có thể rất lớn, nhưng với tiềm năng trí tuệ và khiếu thẩm mĩ hơn người, dân tộc ta cũng đang có những cơ hội chưa từng thấy để thành đạt trong nền kinh tế mới, sớm sánh vai cùng các cường quốc năm châu như chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã từng mong đợi.
45 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1383 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong doanh nghiêp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được đối tác, và gửi các văn bản thông qua máy fax.
Một số doanh nghiệp trong ngành nông nghiệp thì lại chú trọng vào các cây trồng, vật nuôi… Tài sản hữu hình này chính là vấn đề quan tâm của các doanh nghiệp, vì đây là tài sản mà họ tạo ra sau quá trình nghiên cứu, sản xuất để cho ra được sản phẩm cung cấp cho thị trường. Đó là một số tài sản hữu hình khác trong một số ngành riêng biệt mà họ sản xuất ra. Hiện nay, Việt Nam là một nước nông nghiệp, nhưng việc bảo hộ giống cây trồng vẫn là vẫn đề rất mới đối với Việt Nam. Cũng giống như các doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm gốm, sứ, bát, lọ hoa, tranh ảnh… đó là các sản phẩm hữu hình mà các doanh nghiệp tạo ra. Việc đầu tư để tạo ra được những sản phẩm ấy được các doanh nghiệp chú trọng đầu tư.
2.2. Đầu tư vào tài sản vô hình trong doanh nghiệp.
Nếu như trước đây khi định giá DN chúng ta chỉ quan tâm đến giá trị tài sản hữu hình, chưa quan tâm đến giá trị tài sản vô hình thì những năm gần đây việc xác định giá trị DN đã được quan tâm đến tài sản vô hình thông qua việc tính toán lợi thế DN. Tuy nhiên vấn đề này cũng mới dừng lại theo công thức cứng đó là xác định theo tỷ suất lợi nhuận và lãi suất trái phiếu chính phủ. Gần đây tại Thông tư số 146/2007/TT – BTC ngày 6/12/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định số 109/2007/ NĐ- CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ về việc chuyển Cty 100% vốn nhà nước sang Cty cổ phần đã bổ sung thêm việc xác định các lợi thế DN trên cơ sở lợi thế về vị trí địa lý và giá trị thương hiệu. Đây là một bước tiến lớn về xác định giá trị tài sản vô hình nói chung và tài sản trí tuệ của DN nói riêng.
2.2.1. Thương hiệu.
Thương hiệu đóng một vai trò hết sức quan trọng không chỉ đối với hàng hóa của doanh nghiệp, sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp và đối với cả nền kinh tế Việt Nam trong thời đại canh tranh không biên giới như hiện nay. Thương hiệu là một tài sản quý cuả Doanh nghiệp. Thương hiệu được hiểu là một loại tài sản ở dạng phi vật chất Vì vậy khi Doanh nghiệp muốn làm chủ thị trường thì cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải làm chủ Thương hiệu của mình.. Thương hiệu thường gắn liền với quyền sở hữu của doanh nghiệp và doanh nghiệp muốn phát triển thì cần phải mở rộng thị phần, đưa được thương hiệu của mình đến được với người sử dụng một cách rộng rãi.
Đánh giá tình hình
Các năm gần đây Thương hiệu đã được các doanh nghiệp đề cao, đã được đầu tư hơn trước. Chứng kiến sự thay đổi một cách mạnh mẽ về thương hiệu của các doanh nghiệp hiện nay ví dụ các thương hiệu lớn như Mobifone, Vinaphone, Vinamilk, Vietcombank… Với xu hướng mở rộng lĩnh vực kinh doanh. Các doanh nghiệp đã thực sự nhận thức được tầm quan trọng của một chiến lược thương hiệu doanh nghiệp. Chiến lược thương hiệu này giúp cho các doanh nghiệp có một định hướng đúng đắn trong việc mở rộng thương hiệu của mình ra các ngành nghề mà trước đây không phải thế mạnh của mình. Sự mở rộng thương hiệu thường phải được nghiên cứu kỹ lưỡng và đặt trong một chiến lược dài hạn. Các doanh nghiệp việt nam trong những năm gần đây cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của một chiến lược thương hiệu chuyên nghiệp va dài hạn và đã cùng hợp tác để triển khai xây dựng chiến lược trong những năm qua.
Hiện nay, khi Việt Nam đã gia nhập WTO, thương hiệu của các doanh nghiệp Việt nam phải cạnh tranh với các thương hiệu mạnh cua nước ngoài.Đó là một cuộc chiến không cân sức mà các thương hiệu Việt đang nằm ở thế yếu. Bởi lẽ các doanh nghiệp của ta thua hẳn các doanh nghiệp nước ngoài về tài chính, về bề dày, về đội ngũ, về tính chuyên nghiệp và kinh nghiệm.Trong điều kiện ta yếu hơn các thương hiệu mạnh, Việt Nam cần biết tận dụng nguồn lực để tạo sự khác biệt, để tăng tính cạnh tranh. Doanh nghiệp nhỏ muốn thách thức với các thương hiệu lơna, trước hết phải tạo vị trí trong lòng khách hàng. Ví dụ như hang Ford đợc biết đến với sự an toàn, BMW là sự thoải mái…
Theo thông kê năm 2001 thì vấn đề thương hiệu vẫn chưa được đầu tư một cách tương xứng. có tới 74% các doanh nghiệp đầu tư dưới 6% cho thương hiệu, 20% số doanh nghiệp không hề đầu tư cho việc xây dựng thương hiệu. Đây là một sự yếu kém, thua thiệt của các doanh nghiệp Việt Nam. Phải đến khi các thương hiệu có tên tuổi của Việt Nam đứng trước nguy cơ bị mất nhãn hiệu, đã bị đăng ký tại một số nước thì các doanh nghiệp Việt hình như mới bừng tỉnh. Petro, Trung Nguyên bị lấy mất nhãn hiệu ở Mỹ, Bititês bị xâm phạm ở Trung Quốc…
Theo Cục sở hữu trí tuệ, hiện nay mới có khoảng 1000 thương hiệu Việt Nam đăng ký bảo hộ ở nước ngoài so với hàng trăn ngàn thương hiệu được sinh ra ở Việt Nam. Quả là quá ít để tạo hành lang an toàn cho chính doanh nghiệp và cho cả nền kinh tế quốc gia. Đó là tình hình hiện nay mà các thương hiệu Việt phải đối mặt. Nhưng chúng ta vẫn tin vào thế mạnh của các doanh nghiệp Việt, có thể cạnh tranh được với các thương hiêu nước ngoài.Đó là niềm tin để doanh nghiêp Việt có được sự tự tin dám đối đầu với các thương hiệu mạnh.
Đầu tư xây dựng, bảo hộ thương hiệu:
Thương hiệu được các doanh nghiệp Việt Nam biết đến từ khá lâu, nhưng trên thực tế việc đầu tư xây dựng và bảo hộ thương hiêu mới được đề cập. Vì vậy đã có các cuộc hội thảo, những buổi trao đổi, tuyên truyền được tổ chức nhằm định hướng cho các doanh nghiệp cần xây dựng và bảo vệ thương hiệu của mình. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam đã gia nhập WTO thì việc đầu tư xây dựng Thương hiệu của các doanh nghiệp cần được đặc biệt chú trọng, trong quá trình xây dựng Doanh nghiệp muốn phát triển Thương hiệu thì các doanh nghiệp phải đảm bảo sự gần gũi giữa thương hiệu và khách hàng.
Hiện nay công nghệ truyền thông đang phát triển mạnh mẽ giúp cho các doanh nghiệp có thể đưa thương hiệu của mình trở nên gần gũi với người tiêu dùng hơn. Các kênh truyền thông không chính thống như Blog, mạng internet… đã giúp đưa thương hiệu đến tay người tiêu dùng một cách nhanh chóng, thay đổi phương thức truyền thông truyền thống. Người tiêu dùng hiện nay có ít thời gian để xem tivi hơn, cũng như có quá nhiều kênh để lựa chọn với sự phát triển của hệ thống truyền hình hiện nay. Đồng thời, họ cũng dành nhiều thời gian bên ngoài hơn với các hoạt động giải trí và làm việc ngoài trời nên việc tiếp cận người tiêu dùng ngày càng trở nên khó khăn hơn.
Các doanh nghiệp muốn thành công thì phải đổi mới trong phương thức truyền thông đưa thương hiệu của doanh nghiệp đến với người tiêu dùng, tìm cách đưa thương hiêu của Doanh nghiệp lên một vị trí cao và trong hoạt động quản lý thương hiệu cũng phải sử dụng đội ngũ nhân viên hết sức chuyên nghiệp, có chuyên môn kỹ thuật.
Với mục tiêu xây dựng, phát triển, quảng bá thương hiệu và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh tại Việt Nam thì Bộ thương mại đã phối hợp cùng Tổ chức “Triển lãm Thương hiệu Việt Nam” trên Internet được triển khai từ tháng 4 năm 2003. Trong những năm qua, Ban tổ chức các cuộc triển lãm đã tổ chức các cuộc trưng bày “Triển lãm Thương hiệu Việt Nam” tại các hội chợ quy mô trên cả nước như Hà Nội, Đà nẵng, Cần Thơ… Những thương hiệu mạnh được quảng bá hàng tuần trên chuyên trang “Thương hiệu Việt Nam” của thời báo kinh tế.Việt Nam. Đây là một cách cũng khá phổ biến hiện nay. Ngoài ra, các doanh nghiệp con thành lập các website riêng cho doanh nghiêp minh đồng thời để quảng bá Thương hiệu.
Bảo hộ thương hiệu
Khi thương hiệu đã trở thành tài sản của doanh nghiệp, thì một yêu cầu mới đặt ra là làm thế nào để bảo vệ thương hiệu của mình trước nạn xâm phạm thương hiệu đang xảy ra ngày càng nhiều trên thị trường. Nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam có thêm thông tin và kinh nghiệm về xây dựng thương hiệu, bảo về thương hiệu và chống hàng giả, cục xúc tiến Thương mại phối hợp với Hiệp hội chống hàng giả và bảo vệ thương hiêu (VATAP) và cục quản lý thị trường tổ chức Hội thảo “Bảo vệ thương hiệu và chống hàng giả”
Ở Việt Nam, để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và quyền lợi chính đáng của nhà sản xuất, Nhà nước đã ban hành Luật nhãn hiệu hàng hóa. Luật nhãn hiệu hàng hóa ngăn chặn không cho phép bên thứ 3 sử dụng hàng hóa trùng sản phẩm cùng loại với nhãn hiệu được đăng ký, mà còn ngăn chặn cả việc sử dụng nhãn hiệu hàng hóa tương tựcho các sản phẩm tương tự, nếu việc sử dụng này gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hóa. Nhãn hiệu hàng hóa của các doanh nghiệp cũng được Nhà nước bảo hô bằng luật chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp.
Các điều luật liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa và chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp được quy định tại Chương 2 phần 6 - Bộ luật dân sự. Chính phủ đã ban hành các Nghị định 63/CP quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp trong bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp. Nhà nước còn ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác để xử lý những hành vi vi phạm.
Ở nước ngoài, theo ông Nguyễn Thành Long, Luật sư của Pham Asociates, cho biết đăng ký thương hiệu hay nhãn hiệu ở nước ngoài tương đối thuận lợi cho doanh nghiệp và thương hiệu hay nhãn hiệu được bảo hộ chặt chẽ trong thời gian dài, 10 năm. Có ba cách doanh nghiệp đăng ký bảo hộ: đăng ký trực tiếp, theo nhóm quốc gia, cộng đồng hoặc theo công ước quốc tế Madrid. Việt Nam là thành viên của công ước quốc tế Madrid, công ước về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và theo nguyên tắc, quyền bảo hộ được áp dụng cho 54 nứơc tthành viên mà không cần phải đăng ký ở tất cả các quốc gia tham gia công ước.
2.2.2. Đầu tư vào khoa học công nghệ trong các doanh nghiệp.
Thông tin từ Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết: phần lớn các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới 2-3 thế hệ. 80%-90% công nghệ nước ta sử dụng là công nghệ ngoại nhập. Có 76% máy móc, công nghệ nhập thuộc thế hê 1960-1970, 75% số thiết bị đã khấu hao hết, 50% là đồ tân trang.
Tính chung cho các doanh nghiệp, mức độ hiện đại của thiết bị chỉ chiếm 10%, mức trung bình 38%, lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 52%. Đặc biệt ở khu vực sản xuất nhỏ, thiết bị ở mức lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 70%. Trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư cho đổi mới công nghệ ở mức thấp, tính ra chi phí chỉ khoảng 0.2%-0.3% doanh thu. Con số này ở Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc là 10%.
Phần lớn công nghệ của ta tụt hậu ngay từ lúc mua sắm dây chuyền thiết bị, do thiếu thông tin nên không biết công nghệ nào là tiên tiến. Chẳng hạn như là tổng tiêu hao năng lượng để sản xuất một tấn NH3 của nhà máy phân đạm Bắc Giang lên tới 61,94 GJ(đơn vị tính tổng tiêu hao năng lượng), trong khi đó một nhà máy khác của công ty hoá chất sử dụng than chỉ tốn từ 42,79 đến 43,86 GJ. Chi phí điện của nhà máy xi măng Bỉm Sơn lên tới 6,16USD/tấn, Hoàng Thạch la 3.87USD/tấn, trong khi một doang nghiệp có vốn đẩu tư nước ngoài tại Việt Nam chỉ tốn 3,4USD/tấn, còn ở Thái Lan chi phí nay chỉ là 2.49USD/tấn. Năng suất lao động của công ty dệt Phước Long chỉ đạt 10390m vải/lao động/năm, trong khi một doanh nghiệp với dây chuyền sản xuất mới và hiêu quả nhất nước ta đạt 36230m vải/lao động/năm thì vẫn thua xa mức bình quân ở Australia là 48000m vải/lao động/năm.
Việc đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp ở viêt nam do thiếu nguồn vốn đầu tư nên còn rất chậm, thụ động. Ý thức về tầm quan trọng của công nghệ, thiết bị đối với sự sống còn của doanh nghiệp chưa cao, mặc dù nước ta đã gia nhập vào WTO. Hơn nữa, khi các doanh nghiệp nhập được công nghệ tiên tiên của thế giới thi đa số các doanh nghiệp lại không làm chủ được công nghệ, 69% doanh nghiệp phụ thuộc vào nguyên vật liệu, 52% phụ thuộc vào thiết bị, công nghệ nhập khẩu và 19% doanh nghiệp lệ thuôc vào bí quyết công nghệ.
Đội ngũ lao động trong doanh nghiệp nhận thức về đổi mới công nghệ còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự tiến bộ công nghệ: đội ngũ để khai thác và nâng cao hiệu quả công nghệ còn yếu kém. Bên cạnh đó trình độ nhà quản lý cũng còn nhiều hạn chế ảnh hưởng không tốt đến đổi mới công nghệ ví dụ như: việc nhập khẩu nhầm công nghệ. Nhiều doanh nghiệp có mức đầu tư cho đổi mới công nghệ vẫn gần như dậm chân tại chỗ vì việc vay ngân hàng không dễ, mặt khác vay ngân hàng phải trả sớm trước khi công nghệ phát huy tác dụng.
Tỉ lệ nhập khẩu công nghệ thiết bị ở Việt Nam mỗi năm chỉ đạt rất thấp (dưới 10%) tổng kim ngạch nhập khẩu. Nhưng ở các nước đang phát triển khác con số này lên tới 40%/ 1năm. Nguyên nhân dẫn tới điều này đó là ở Việt nam chưa có quỹ đầu tư mạo hiểm để giúp doanh nghiệp yên tâm khi quyết định đầu tư.
2.2.3. Đầu tư vào nguồn nhân lực.
Doanh nghiệp muốn phát triển bền vững không chỉ phải giải quyết tốt vấn đề nguồn vốn, công nghệ, dây chuyền sản xuất mà còn phải huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao, tinh thông nghiệp vụ. Một nguồn nhân lực mang chất lượng quốc tế để bảo đảm sự tăng trưởng cho doanh nghiệp đang là vấn đề bức xúc trong tiến trình hội nhập.
Nước ta có nguồn lao động dồi dào, chiếm trên 54% dân số cả nước, với 46,6% triệu lao động. Tuy nhiên có đến gần 80% người lao động trong độ tuổi 20-24 khi tham gia thị trường lao động chưa được đào tạo nghề hoặc được đào tạo thì còn hạn chế về kỹ năng nghề nghiệp. Vấn đề chất lượng nguồn nhân lực đang là bài toán khó cho các doanh nghiệp Việt Nam. Mỗi năm nước ta có khoảng 1,2 triệu lao động bước vào tuổi lao động, trong đó có 200.000 sinh viên ra trường. Sinh viên nước ta thường được đào tạo 80%-90% lý thuyết, 10%-20% thực hành, một tỷ lệ hoàn toàn trái ngược so với các nước. Hầu hết sinh viên ra trường đều thiếu từ kỹ năng làm việc nhóm, tiếp cận quy trình chất lượng và nhất là trình độ tiếng nước ngoài. Theo bà Nguyễn Kim Ngân_ Bộ trưởng bộ LĐTB-XH_: “Trong bối cảnh hội nhập hiện nay Việt Nam đang phải đối mặ với những thách thức to lớn về nguồn nhân lực: chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế cả về thể lực lẫn trí lực, lao động qua đào tạo mới chỉ đạt 31.5% và còn mang thói quen tập quan sản xuất nhỏ, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp… chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của doanh nghiệp cũng như phát triển của kinh tế xã hội”.
Theo các chuyên gia hiện còn thiếu sự gắn kết, đi đến cùng, giữa hai hệ thống giáo dục và dạy nghề, đào tạo không phù hợp với yêu cầu của các doanh nghiệp. Số lao động có trình độ quản lý cao,chuyên gia công nghệ, kỹ thuật khan hiếm đẩy các doanh nghiệp thuộc những lĩnh vực điện tử, cơ khí, ngân hàng, tài chính, du lịch… vào tình trạng thiếu hụt lao động. Việc thiếu hụt nguồn cung về lao động trình độ cao còn gây tác động không tốt đến khả năng mở rộng sản xuất hoặc định hướng hoạt động lâu dài của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Kết quả điều tra các công ty Nhật Bản cho thấy, một số nhà đầu tư tỏ ra lo ngại vì tìm chuyên gia, kỹ thuật viên càng khó, ảnh hưởng đến việc hoạch định và thực hiện kế hoạch sản xuất. Còn các đơn vị thuộc lĩnh vực chứng khoán thì đang ra sức hút nguồn lực của nhau bởi cung ít hơn cầu. Theo thống kê năm 2007 chỉ số cầu nhân lực tăng 67% so với năm 2006, chỉ số cung nhân lực chỉ đạt 22% so với 2006. Trong đó, bán hàng là nghề có nhu cầu nhân lực tăng cao nhất với 1.600 người; nhu cầu trong lĩnh vực kế toán tài chính, ngân hàng tăng 383%, công nghệ thông tin tăng 375%. Đặc biệt trong lĩnh vực tổ chức tài chính, đầu tư chứng khoán, mặc dù nguồn cung nhân lực tăng 245% nhưng chỉ đáp ứng được 57% các vị trí công việc. Và trong đó, theo khảo sát của ngân hàng thế giới, 50% các công ty may mặc hoá chất đánh giá lao động nước ta không đáp ứng được nhu cầu của họ về chất lượng.
2.2.4. Đầu tư vào thương mại điện tử trong doanh nghiệp.
Thương mại điện tử được xem là một công cụ cực kỳ hữu ích giúp cho doanh nghiệp trong nước thu hẹp khoảng cách với các doanh nghiệp trên thế giới. Các doanh nghiệp có thể thực hiện những công đoạn giao dịch thương mại như tìm kiếm đối tác một cách dễ dàng hơn thông qua các công cụ tìm kiếm trên Internet như “google.com hoặc yahoo.com”. thỏa thuận hợp đồng trao đổi hàng hóa dịch vụ thông qua các công cụ hữu hiệu như là website, e-mail, các công cụ để hội đàm như ICQ, MS messenger, AIM. Hay thanh toán bằng công cụ điện tử như các thẻ tín dụng Visa Debit, Master Card …
Các doanh nghiệp Việt Nam nếu muốn thành công trong việc áp dụng thương mại điện tử thì khi tham gia vào thương mại điện tử phải luôn luôn đổi mới: đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức kinh doanh, đổi mới tư duy, đổi mới cung cách quản lý… Nếu chậm trong việc đổi mới này thì sẽ nhanh chóng bị lạc hậu công nghệ và nhanh chóng bị đào thải trong thị trường này.
Thực trạng về thương mại điện tử hiện nay ở Việt Nam đã bước sang một giai đoạn mới trên tất cả các khía cạnh, giao dich của doanh nghiệp với người tiêu dùng đã được nâng cao đáng kể. Thông qua thương mại điện tử đã giúp các doanh nghiệp đưa thương hiệu đến gần hơn với người tiêu dùng.
Trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam đã gia nhập WTO, các doanh nghiẹp phải đối mặt với sự cạnh tranh ko chỉ với các doanh nghiệp trong nước mà còn cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp nước ngoài. Ngày càng nhiều doanh nghiệp Việt nhận thấy thương mại điện tử cực kì cần thiết, là một phương thức giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Từ đó có thể thấy được sự phát triển của thương mại điện tử trong doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế thương mại chung của cả đất nước.
3. Đánh giá hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình va tài sản vô hình trong các doanh nghiệp Việt Nam.
Xét trên tổng thể ta thấy răng hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong doanh nghiệp có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nếu doanh nghiệp xác định được một cơ cấu đầu tư hợp lý, hướng đầu tư đúng đắn thì 2 bộ phận đầu tư này sẽ có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với từng ngành, từng lĩnh vực, vai trò của từng hoạt động đầu tư đối với các hoạt động đầu tư khác cũng như tác động của đầu tư đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp là rất khác nhau. Điều đó đặt ra nhiều khó khăn đối với các doanh nghiệp trong việc xác định một cơ cấu đầu tư hợp lý. Interband đã thực hiện một nghiên cứu và đưa ra được mức độ của giá trị tài sản vô hình và giá trị nhãn hiệu đối với từng hàng hoá và dịch vụ khác nhau. Lĩnh vực mà tài sản vô hình cũng như hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình đóng vai trò rất lớn đến giá trị công ty là các sản phẩm cao cấp, thức ăn và nước uống, ô tô… Với những loại sản phẩm này thì yếu tố tiên quyết để giúp doanh nghiệp thành công là phải xây dựng được một thương hiệu mạnh. Ngược lại một số sản phẩm như các loại mặt hàng thiết yếu thì doanh nghiệp nên đầu tư vào máy móc thiết bị và kênh phân phối để có sản phẩm giá thành thấp và được phân phối rộng.
Đơn vị: %
Sản phẩm và dịch vụ
Giá trị hữu hình
Giá trị nhãn hiệu
Giá trị vô hình khác
Mặt hàng thiết yếu
Sản phẩm công nghiệp
Sản phẩm dược
Dịch vụ bán lẻ
Công nghệ thông tin
Xe ô tô
Dịch vụ về tài chính
Thức ăn và nước uống
Hàng cao cấp
70
70
40
70
30
50
20
40
25
0
5
10
15
20
30
30
55
70
30
25
50
15
50
20
50
5
5
(Nguồn: trang 16 - Các phương pháp xác định giá trị tài sản vô hình - Nhà xuất bản khoa học kĩ thuật Hà Nội 2005. Tác giả Đoàn Văn Trường)
Nhìn chung, các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ của Việt Nam hay cả các doanh nghiệp nhà nước mới cổ phần hóa ít quan tâm đến thị trường cụ thể: sản xuất chủ yếu dựa trên năng lực hiên có, mặc dù suy nghĩ muốn tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt để thỏa mãn được khách hàng nhưng chưa nhanh nhạy nắm bắt được nhu cầu khách hàng. Vì thế, trong nhiều năm qua doanh nghiệp chỉ chú trọng đầu tư vào tài sản hữu hình mà chưa chú trọng đầu tư vào tài sản vô hình như: thương hiệu, uy tín doanh nghiệp, nguồn nhân lực… là một trong những loại tài sản có đóng góp lớn vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy rằng đầu tư vào tài sản hữu hình là nền tảng cho doanh nghiệp khi đầu tư vào tài sản vô hình, tuy nhiên nguồn lực là có hạn nên doanh nghiệp phải cân đối cơ cấu đầu tư sao cho hợp lý để phát huy hết được lợi thế có được, nhất là đối với Việt Nam hiện nay đang trên đà hội nhâp với thị trường thế giới.
Đa số các doanh nghiệp Việt Nam có năng lực tài chính còn hạn chế dẫn đến việc đầu tư vào tài sản hữu hình và đầu tư vào tài sản vô hình không cân đối. Những doanh nghiệp chú trọng đầu tư vào tài sản hữu hình, có chất lượng hàng hóa tôt, mẫu mã đa dạng thì lại không canh tranh được trên thị trường do việc quảng cáo và không đưa được sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Con những doanh nghiệp tập trung đầu tư vào tài sản vô hình, quảng cáo tốt, đưa được sản phẩm đến tay ngươi tiêu dùng thì lại có chất lượng hàng hóa thấp, mẫu mã kém đa dạng làm mất lòng tin đối với người tiêu dùng. Do vậy người tiêu dùng Việt Nam có xu hướng dùng đồ ngoại nhiều hơn đồ nội nếu có thể đáp ứng tài chính mặc dù chất lượng sản phẩm là như nhau.
Ngoài ra vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp chưa nhận ra được tầm quan trọng của tài sản vô hình như thương hiệu, uy tín chỉ biết cái lợi trước mắt làm mất đi lòng tin của khách hàng làm cho doanh nghiệp không thể phát triển vững chắc. Việc đầu tư mạnh vào tài sản hữu hình như máy móc, thiết bị mà lãng quên đầu tư vào nhãn hiệu, uy tín cũng là một vấn đề đối với doanh nghiệp Nam. Trong những năm qua, một số doanh nghiệp Việt Nam hầu như chỉ chú trọng đầu tư vào tài sản hữu hình, là phần rất lớn tài sản trong doanh nghiệp hiện nay. Ta biết rằng, đầu tư vào tài sản hữu hình là cơ sở nền tảng cho doanh nghiệp đầu tư vào tài sản vô hình. Tuy nhiên, nguồn lực là có hạn và doanh nghiệp phai cân đối cơ cấu đầu tư sao cho hợp lý nhất để mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho doanh nghiệp và doanh nghiệp có thể tồn tại trong thị trường cạnh tranh với nền kinh tế đang hội nhập với thế giới sâu sắc nhất là kể từ khi Việt Nam tham gia vào tổ chức quốc tế WTO.
Đầu tư đúng đắn vào tài sản vô hình sẽ tác động làm gia tăng tài sản hữu hình. Nhưng ngược lại nếu đầu tư không hợp lý sẽ lãng phí nguồn nhân lực, ảnh hưởng tiêu cực đối với hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình. Khi các doanh nghiệp đầu tư thành công, xây dựng thành công thương hiệu cho doanh nghiệp mình. Trong Việt Nam ta có những thương hiệu lớn như: KinhDo, Vinamilk, Vinacafe, Viêttiên… Khi có cho mình một thương hiệu nổi tiếng doanh nghiệp sẽ tiếp tục quay trở lại đầu tư vào tài sản hữu hình vì nó tạo điều kiện tiếp tục mở rộng quy mô, tiếp tục có vốn để mua sắm trang thiết bị máy móc, nhà xưởng, văn phòng. Ví dụ như một doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ hay biết quan tâm đào tạo nguồn nhân lực sẽ tạo ra năng suất lao động cao hơn, tạo điều kiện tăng sức cạnh tranh trên thị trường, giup doanh nghiệp ngày cang phát triển, thu lợi nhuận ngày càng nhiều.
Doanh nghiệp cũng có thể cho thuê thương hiệu ví dụ như công ty bánh Kinh đô vào năm 2005 đã quyết định nhượng quyền kinh doanh mô hình Bakery. Hay công ty bấnh Kinh Đô đã mua lại thương hiệu kem Wall’s của công ty Unilever Việt Nam vào năm 2003. Doanh nghiệp sẽ thu về một khoản lợi nhuận rất lớn và giảm thiểu được giảm thiểu những rủi ro trong kinh doanh. Vai trò của đầu tư vào tài sản vô hình rất lớn trong thời đại hiện nay. Tài sản vô hình chính là tài sản trí tuệ. Tuy nhiên việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam chưa cao, đang còn có nhiều khiếm khuyết như tạo ra rất nhiều kẽ hở, không rõ ràng và chưa định hướng được cho các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh. Những khiếm khuyết này tạo ra thách thức lớn cho doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào WTO.
Chương III:
Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong doanh nghiệp Việt Nam
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, một nền kinh tế cạnh tranh khốc liệt đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngưng đổi mới đề không bị tụt hậu và đem lại hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Vì thế để có thể tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải không ngừng đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ cho phù hợp với nhu cầu thị trường. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cũng đã chú trọng đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình để có thể đáp ứng được nhu cầu thị trường. Việt Nam có nền kinh tế thị trường còn non trẻ, chưa đầy 30 năm tồn tại và phát triển nên các doanh nghiệp của việt nam còn thiếu kinh nghiệm trong việc đầu tư vào phát triển doanh nghiệp. Các doanh nghiệp còn có nhiều sai lầm gây ra thiếu hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vồn đầu tư vào doanh nghiệp. Sau đây là một số giải pháp trợ giúp nhằm nâng cao hiệu quả của nguồn vốn đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong doanh nghiệp.
1. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào tài sản hữu hình trong doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp hiện nay thì tài sản hữu hình thường chiếm một giá trị lớn trong toàn bộ tài sản của doanh nghiệp, là cơ sở, tiền đề cho mọi hoạt động của doanh nghiệp nên đóng vai trò hết sức to lớn trong doanh nghiệp. Vì vậy để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì các nhà quản lý phải chú trọng đầu tư vào tài sản hữu hình. Ở Việt Nam hiện nay việc đầu tư vào tài sản hữu hình trong các doanh nghiệp đã được chú trọng và đem lại hiệu quả tốt trong việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng bên cạnh đó cũng có những thiếu sót và sai lầm gây ra việc làm giảm hiệu quả của nguồn vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Sau đây là một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nguồn vốn đầu tư vào các loại tài sản hữu hình trong doanh nghiệp.
1.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào máy móc thiết bị.
Máy móc thiết bị công nghệ là một công cụ quyết đinh hiệu quả qúa trình sản xuất kinh doanh doanh nghiệp, ngày nay dưới sự phát triển của khoa học công nghệ như vũ bão thì không có một doanh nghiệp nào muốn giữ ưu thế so với đối thủ cạnh tranh mà không đầu tư vào máy móc thiết bị công nghệ bởi các máy móc thiết bị công nghệ nó không những giúp cho doanh nghiệp thắng thế trên thị trường mà nó còn làm thay đổi bản chất của quá trình cạnh tranh. Do có chi phí sản xuất thấp tiết kiệm được nguyên liệu hạ giá thành sản phẩm, do vậy để giúp đỡ các doanh nghiệp tham gia vào đầu tư, lựa chọn máy móc thiết bị, nhà nước cần có một số những giải pháp sau:
- Nhà nước và địa phương cần có những chính sách cụ thể và thiết thực để hỗ trợ mặt bằng sản xuất ổn định lâu dài cho các doanh nghiệp. Các cơ quan chức năng của nhà nước cần có những hành động rõ ràng trong việc cung cấp thông tin, cơ chế chính sách về thị trường giá cả máy móc thiết bị công nghệ, kĩ thuật cho các doanh nghiệp.
- Nhà nước tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn để đầu tư vào máy móc thiết bị thông qua cơ chế tín dụng thủ tục hành chính gọn nhẹ.
- Cơ chế pháp luật ổn định, đồng bộ về việc nhập khẩu những máy móc thiết bị của những nước tiên tiến sao cho có hiệu quả để tránh là "bãi rác" của thế giới.
Mặt khác các nhà doanh nghiệp muốn phát triển sản xuất, ngoài hậu thuẫn của luật pháp còn phải dựa vào khoa học, kĩ thuật, hoặc tự mình đã là nhà khoa học hoặc phải dựa vào nhà khoa học để mua được những công nghệ và thiết bị hiện đại - chìa khóa của việc ngày càng làm ra nhiều của cải, vật chất hơn, và có nhiều lựa chọn hơn. Do vậy, về phía mình doanh nghiệp cần có những giải pháp sau:
- Trước hết doanh nghiệp phải huy động được nguồn vốn để có khả năng đầu tư vào các máy móc thiết bị tiên tiến phù hợp với trình độ quản lý của mình, tránh nhập những máy móc lạc hậu quá, hiện đại quá mà doanh nghiệp không có khả năng vận hành nó. Điều đó sẽ gây ra lãng phí trong việc sử dụng vốn đầu tư.
- khi tiếp nhận máy móc thiết bị doanh nghiệp cần phải có đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghê để có thể tiếp cận và vận hành một cách hiệu qủa đem lại lợi ích kinh tế xã hội cho doanh nghiệp cũng như cho xã hội.
- Việc đầu tư vào máy móc thiết bị cần phải có số lượng vốn lớn không thể một lúc mà huy động tất cả do vậy doanh nghiệp cần phải có kế hoạch khấu hao tài sản hàng năm tạo lập ngân sách, tái tạo đầu tư mới.
1.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào cơ sở hạ tầng và phương tiện vận tải.
Cơ sở hạ tầng và phương tiện vận tải có tác động rất lớn đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Nó là một trong những yếu tố để doanh nghiệp có khả năng tiếp cận thị trường một cách tốt hơn. Một cơ sở hạ tầng hiện đại, phương tiện giao thông phù hợp sẽ làm giảm chi phí cho việc đầu tư mới, doanh nghiệp sẽ vận hành và khai thác hoạt động của mình một cách tốt nhất. Về phía nhà nước cần có các giải pháp sau:
- Cần tập trung áp dụng cơ chế, giải pháp mạnh trong quản lý dự án, quản lý công trình đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) bằng cách phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức (cụ thể là chủ đầu tư, chủ dự án, tư vấn, thiết kế, nhà thầu, giám định…) trong từng khâu.
- Nâng cao chất lượng, tầm nhìn dài hạn, tính đồng bộ, tính liên kết, tính pháp lý trong công tác quy hoạch, kế hoạch đầu tư XDCB. Chính phủ nên sớm ban hành Nghị định hoặc chỉ đạo soạn thảo Pháp lệnh về Quy hoạch đầu tư XDCB; tăng cường phân cấp, phân quyền, phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng, gắn quyền hạn với trách nhiệm trong công tác quy hoạch giữa các bộ, ngành, địa phương.
- Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát và giám sát. Trước hết, phải có các biện pháp giám sát và kiểm soát nội bộ kết hợp với các biện pháp kiểm tra, thanh tra từ bên ngoài; tiếp đến, cần hình thành, duy trì và nâng cao tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ bằng chính quy trình đầu tư, quy trình quản lý vốn, quản lý đầu tư…
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật; đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư. Trước mắt, tập trung triển khai một cách có hiệu quả các Luật: Đầu tư, Đấu thầu, Doanh nghiệp, Chứng khoán, Kinh doanh bất động sản… Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cơ chế phân bổ vốn đầu tư, vốn cho các chương trình mục tiêu quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc đầu tư, tiêu chí, tiêu chuẩn, định mức theo hướng công khai, minh bạch.
- Tiếp tục cải cách hành chính trong đầu tư xây dựng; trong đó, tập trung vào cải cách thủ tục hành chính, thủ tục đầu tư, thủ tục xem xét và phê duyệt dự án, phân bổ và bố trí vốn, thủ tục giải ngân và thanh toán…
- Nghiên cứu áp dụng hình thức tín dụng đầu tư tương tự như dự án BOT đối với một số loại dự án công trình đầu tư công thuộc lĩnh vực xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội, công trình công cộng. Theo hình thức này, chủ đầu tư phải lập dự án, thậm chí phải đấu thầu để người có thẩm quyền đầu tư quyết định; chủ đầu tư là người đứng ra vay vốn đầu tư, nên thực sự là người chủ và chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng đồng vốn đầu tư và theo quy định của pháp luật, theo hợp đồng kinh tế.
- Cần coi đất đai là nguồn vốn quan trọng trong cơ cấu đầu tư của Nhà nước. Để sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn vốn này và đảm bảo sự phát triển bền vững, Nhà nước cần coi trọng vai trò của công cụ quy hoạch trong quản lý đất đai, đầu tư cho công tác lập quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất; đồng thời, nâng cao chất lượng của việc lập, thẩm định và xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Cần hoàn thiện cơ chế sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt quan tâm hoàn thiện cơ chế giao đất để thực hiện các dự án. Đây là cách thức chuyển quỹ đất đai thành vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng theo phương thức: Nhà nước ứng vốn để xây dựng công trình hạ tầng, sau đó giao đất có thu tiền sử dụng đất thông qua đấu giá. Phương thức này sẽ phát huy tối đa nguồn lực đất đai và giá trị tăng lên của đất do quy hoạch và hạ tầng đều tập trung vào ngân sách nhà nước.
Về phía doanh nghiệp:
- Doanh nghiệp cần có chính sách huy động vốn một cách khả thi trước khi tiến hành đầu tư vào cơ sơ hạ tầng.
- Doanh nghiệp cần xác định rõ ràng địa điểm tiến hành đầu tư vào cơ sở hạ tầng sao cho có khả năng tiếp cận thị trường nguồn nguyên vật liệu, nhân công, cũng như việc lưu hành các phương tiện giao thông đạt hiểu quả một cách tối ưu. Đồng thời phải có sự phối hợp một cách chặt chẽ với chính quyền địa phương để thuận lợi trong việc giải phóng mặt bằng, chuẩn bị cho công tác thi công.
- Doanh nghiệp phải có khấu hao hàng năm để tạo nguồn đầu tư mới. Với những doanh nghiệp có vốn vùa và nhỏ thị phải tận dụng thị trường cho thuê tài chính để có vốn cho các hoạt động cần thiết khác.
2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào tài sản vô hình trong doanh nghiệp.
Hiện nay trên nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau có một số lĩnh vực mà trong doanh nghiệp tỉ trọng tài sản vô hình cao hơn tỉ trọng tài sản hữu hình. Vai trò của tài sản vô hình đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp ngày càng được nâng cao. Vì vây việc đầu tư vào tài sản vô hình là cần thiết và rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Nhưng việc đầu tư vào tài sản vô hình đòi hỏi phải hợp lý và phù hợp với tài sản hữu hình. Trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay việc đầu tư vào tài sản vô hình còn có nhiêu sai lầm và gây ra hậu quả không tốt đối với doanh nghiệp, làm thất thoát nguồn vồn và không sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Đòi hỏi các doanh nghiệp phải có các biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời.
2.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào nhãn hiệu hàng hóa.
* Đứng trên góc độ vĩ mô(nhà nước).
Nhãn hiệu hàng hóa là tất cả các dấu hiệu (tên logo, kiểu dáng, màu săc,…) gắn liền với sản phẩm đề có thể phân biệt các sản phẩm khác nhau, mỗi nhãn hiệu mang một giá trị khác nhau. Ngày nay nhãn hiệu hàng hóa là một tài sản quan trọng của doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất khẩu hàng hóa, là công cụ hữu hiệu trong hội nhập kinh tế quốc tế. Từ những thực trạng vào việc đầu tư vào nhãn hiệu hàng hóa của nước ta những năm qua cũng như điểm yếu của các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường trong nước và quốc tế đã cho thấy nhà nước cần có những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khi đầu tư vào nhãn hiệu. Cụ thể như cần có chiến lược cũng như biện pháp cụ thể đề các doanh nghiệp hiểu rõ tầm quan trọng của việc đang ký thương hiệu. Phổ biên các vấn đề chung về sỡ hữu công nghiệp cho doanh nghiệp như cách thức thủ tục đề đăng kí bảo hộ…
Hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo, huấn luyện cung câp thông tin, tư vấn cho doanh nghiệp về xây dựng, bảo vệ và quảng bá thương hiệu. Hỗ trợ đăng kí, quản lý và bảo vệ thương hiệu trên thị trường trong và ngoài nước. Bổ sung và hoàn thiện hê thống về sỡ hữu công nghiệp nói chung và thương hiệu nói riêng, cần xử lý nghiêm minh những trường hợp vi pham việc sử dụng thương hiệu, ăn cắp nhãn mác hàng hóa.
* Đứng trên góc độ vi mô(doanh nghiệp).
Doanh nghiệp cần có nhận thưc đúng đắn và đầy đủ về thương hiệu, xem thương hiệu là tài sản quản lý của doanh nghiệp, cần phải bảo vệ và phát triển nó. Phải coi việc phát triển thương hiệu là việc sống còn của doanh nghiệp, là hoạt động mang tính chiến lược trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Quảng bá thương hiệu không đơn thuần chỉ là quảng cáo, dù quảng cáo là một bộ phận không thể thiếu được trong quá trình phát triển thương hiệu. Cái gốc của thương hiệu là uy tín của sản phẩm và dịch vụ, sự bền vững của chất lượng. Những thương hiệu lớn trên thế giới như Heineken, Coca-Cola, Shell, Ford... đều đặt chất lượng lên hàng đầu. Thậm chí, những thương hiệu dù đã có được uy tín lâu dài cũng sẽ tự đánh mất mình nếu để chất lượng sản phẩm giảm sút. Vì vậy, một chiếc xe máy Honda từ đời 67 đến Honda @ luôn là những bước tiến thể hiện cố gắng tự làm mới liên tục của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cần phải tiếp cận vấn đề thương hiệu với một chiến lược tổng thể. Đó là việc phải nhận thức đúng và đầy đủ về thương hiệu trong toàn bộ doanh nghiệp; xây dựng thương hiệu trên cơ sở nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng; đăng ký bảo hộ nhãn hiệu sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước; phát triển hệ thống kênh phân phối; quản lý thương hiệu để đảm bảo uy tín và hình ảnh của thương hiệu không ngừng được nâng cao.
Doanh nghiệp cần phải định vị nhãn hiệu một cách rõ nét trong nhận thức của người tiêu dùng để phát huy tối đa nội lực, tập trung vào các mục tiêu chính, triển khai các kế hoạch hỗ trợ và tạo dựng hình ảnh trong tâm trí khách hàng. Ví dụ, công ty nước giải khát Tribeco đã có một chiến lược chuyển đổi thích hợp khi thị trường đồ uống có ga bị hai “người khổng lồ” Coca-Cola và Pepsi-Cola tấn công. Khi vị thế của công ty ở thị trường này thu hẹp dần, Tribeco đã có chiến lược chuyển hướng sang nhóm sản phẩm đồ uống không ga như sữa đậu nành rất thành công. Hay những ví dụ khác: kem đánh răng Aquar Fresh hướng đến 3 mục tiêu là “chống sâu răng, hơi thở thơm tho và hàm răng trắng hơn”; kem đánh răng P/S trà xanh sẽ có màu xanh đặc trưng gợi nhớ những lợi ích từ trà...
Nên lưu ý rằng việc xây dựng thương hiệu chỉ đạt hiệu quả tối đa, khi đi kèm theo nó là nhiều biện pháp hỗ trợ khác. Ví dụ thương hiệu bột giặt Omo không chỉ thành công nhờ quảng cáo dày đặc trên truyền hình, mà còn nhờ các chương trình khuyến mãi, triển lãm, tài trợ học sinh nghèo hiếu học và đặc biệt là việc xây dựng Quỹ khuyến học... nên có ảnh hưởng tích cực đến thái độ của người mua.
Khi xây dựng thương hiệu, công ty cần lồng vào đó một triết lý vừa phản ánh được tiêu chí của doanh nghiệp vừa mang đậm tính nhân văn để tạo niềm tin với khách hàng về giá trị thương hiệu. Chúng ta đã nghe “Nâng niu bàn chân Việt” khi nhắc đến các sản phẩm Biti’s, hay “Hãy nói theo cách của bạn” là nói về thương hiệu Viettel.
Cuối cùng, doanh nghiệp cần tạo ra mối liên kết thương hiệu bền vững trong tâm thức người tiêu dùng chứ không để rơi vào tình trạng “chết yểu” thông qua các chiến dịch quảng cáo dài hạn cũng như các hoạt động tiếp thị sáng tạo và mới lạ.
Như vậy có thể nói thương hiệu là một thứ tài sản vô hình nhưng lại chứa đựng một sức mạnh hữu hình, khi nó quyết định sự lựa chọn của khách hàng đối với sản phẩm, dịch vụ của bạn, thậm chí nó còn tác động đến sự thành- bại của hoạt động kinh doanh. Vì lý do đó, một hướng đi cho thương hiệu luôn là thách thức đối với doanh nghiệp. Một Pepsi-Cola của Mỹ cũng có thể sa chân lỡ bước chỉ vì sai lầm trong chiến lược phát triển, còn Nokia của đất nước Phần Lan lạnh giá biết đâu lại lớn mạnh nhanh chóng nếu chọn đúng.
2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào hoạt động khoa học công nghệ.
Thời gian qua thiết bị công nghệ cũng như việc tư vấn, quản lý công nghệ dã góp phần hình thành thị trường khoa học và công nghệ, việc thương mại hoá các sản phẩm khoa học và công nghệ đã thúc đẩy việc đưa nhanh các kết quả nghiên cứu vào sản xuất, nhưng để hoạt động tư vấn công nghệ và quản lý chất lượng thì cần phải có chứng chỉ hành nghề tư vấn, phải có quy chế rằng buộc các nhà tư vấn công nghệ và quản lý để họ có trách nhiệm đối với hoạt động tư vấn và không ngừng nâng cao trình độ. Do vậy, về mặt vĩ mô Nhà nước cần có những giải pháp sau:
- Nhà nước cần khuyến khích việc hình thành các công ty đầu tư triển vọng dể hỗ trợp các nhà khoa học nhanh chóng triển khai kết quả nghiên cứu tạo ra các sản phẩm có tính thương mại cao, nhất là đa dạng hoá các loại chợ thiết bị như chợ chuyên ngành hàng năm ở các tỉnh thành phố, chợ trên mạng và trung tâm giao dịch khoa học công nghệ.
- Nhà nước cũng cần tạo ra môi trường pháp lý chặt chẽ để thị trường khoa học và công nghệ vận hành một cách trôi chảy. Bên cạnh cơ chế hợp lý, cần có hành lang pháp lý bảo vệ quyền lợi chính đáng cho nhà khoa học. Trí tuệ của các nhà khoa học là giá trị vô hình, nó chiếm phần rất lớn trong tài sản hữu hình.
- Đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển công nghệ nhất là phát triển đội ngũ kế cận các nhà khoa học đầu ngành bằng cách cho họ được học tập nghiên cứu thực tập ở các trường đại học có uy tín ở các nước tiên tiến, đồng thời phải đào tạo phát triển đội ngũ công nhân kĩ thuật lành nghề, đội ngũ thợ giỏi để tạo nên một cơ cấu phù hợp cho quá trình sáng tạo và triển khai công nghệ mới.
2.3. Giải pháp về mặt nguồn nhân lực.
Về nhà nước phải có các chính sách gắn kết giữa GD và dạy nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về mặt thể lực lẫn trí lực. Phải có các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng của hệ thống giáo dục và đào tạo trên toàn quốc. Có các chính sách, định hướng phát triển nền kinh tế để phân phối nguồn lao động một cách phú hợp. Việc tuyển dụng lao động còn có nhiều vấn đề yêu cầu đặt ra nhà nước phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về vấn đề tuyển dụng và sử dụng người lao động.
Các doanh nghiệp phải chú trọng việc đầu tư vào nguồn nhân lực có hiệu quả hơn, phải liên kết với các trường đại học có một nguồn cung cấp nhân lực trình độ cao. Ngoài ra còn phải tự mình đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp cần phải sử dụng các phương pháp chọn lưa, tuyển dụng lao động hợp lý để có thể sử dụng được những người có năng lực, loại bỏ những người không có năng lực. Ngoài ra còn có chế độ khen thưởng đối với những người lao động giỏi, tạo ra môi trường lao động tốt, đảm bảo sức khỏe cho người lao động để họ có động lực làm việc tốt hơn. Đây là một trong những vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện chưa tôt.
2.4. Giải pháp về mặt sỡ hữu trí tuệ.
* Về mặt vĩ mô.
Giáo dục phổ biến pháp luật, một trong những nguyên nhân dẫn đến xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đó là sự nhận thức hạn chế không đầy đủ về pháp luật sở hữu công nghiệp. Do vậy, việc phân chia đối tượng và tiến hành các hình thức giáo dục tuyên truyền thích hợp cho từng đối tượng cũng là một hoạt động trọng tâm của quá trình thực thi, bao gồm các đối tượng sau: Doanh nghiệp tiểu thương buôn bán, người tiêu dùng, cơ quan thực thi.
Tăng cường tư vấn sở hữu trí tuệ. Dịch vụ tư vấn sở hữu trí tuệ là nghề chuyên môn đặc biệt phải có một số kĩ năng cần thiết mà một luật sư hay nhà tư vấn thông thường khác không có, đó là sự kết hợp giữa kĩ năng kĩ thuật, nghiệp vụ và kiến thức pháp luật cũng như khả năng sử dụng nhuần nhuyễn hai kĩ năng này với nhau. Sự thành thạo này sẽ làm tăng cơ hội cạnh tranh cho khách hàng của nghề tư vấn sở hữu trí tuệ khi có nhu cầu khai thác và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Thúc đẩy hoạt động sáng tạo của các viện nghiên cứu và trường đại học, bởi vì đây là nơi tập trung nguồn lực sáng tạo. Do vậy xây dựng hoạt động sở hữu trí tuệ tại cơ quan nghiên cứu, giảng dạy là nhằm hỗ trợ việc hình thành các giải pháp kĩ thuật có khả năng bảo hộ sáng chế. Các sáng chế có giá trị sẽ tạo động lực phát triển kinh tế xã hội một cách nhanh nhất, tiết kiệm nhất. Một trong những nội dung của sở hữu trí tuệ tại cơ quan giảng dạy và nghiên cứu là xây dựng cơ chế chuyển giao kết quả sáng tạo, có như vậy mới tạo cho đội ngũ các nhà khoa học những người lao động trí óc sự chuyên tâm sáng tạo những sản phẩm có giá trị, đồng thời khẳng định được địa vị xã hội của họ trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá, tránh được những lãng phí tốn kém khi nghiên cứu trùng lắp hay những sản phẩm khoa học rởm.
Tăng cường hoạt động của các hiệp hội nghề nghiệp, là những tổ chức phi chính phủ có thể quy tụ các doanh nghiệp, cá nhân có chung hoạt động kinh doanh nghề nghiệp như: hội công thương, liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật vào mục đích hợp tác, liên kết thực hiện các công việc vừa có lợi cho từng thành viên vừa đem lại lợi ích chung cho ngành nghề. Nội dung hoạt động hỗ trợ phát triển sở hữu trí tuệ trong doanh nghiệp là xây dựng hệ thống thông tin sở hữu trí tuệ theo ngành nghề sẽ giúp cho các doanh nghiệp có được các thông tin cập nhật để xây dựng chiến lược phát triển của mình với chi phí thấp. Đó là việc hình thành thị trường khai thác lành mạnh, hợp tác chống vi phạm như: Hướng dẫn phân biệt hàng thật hàng giả, hàng kém phẩm chất, cam kết không sử dụng trái phép quyền sở hữu công nghệ, chủ động tích ngăn ngừa và tiến hành các biện pháp xử lý các hành vi xâm phạm một cách có hiệu quả.
Tăng cường sự điều tiết của Nhà nước. Do các sản phẩm trí tuệ có tác dụng phát triển mạnh đối với nền kinh tế quốc gia, có tầm quan trọng đối với uy tín quốc gia nên nhà nước cần có các biện pháp để khuyến khích các nhà khoa học tạo ra các sản phẩm trí tuệ mới thông qua một số biện pháp sau đây. Đổi mới cơ chế quản lý đề tài nghiên cứu khoa học. Hiện nay các cơ quan nghiên cứu và các viện khoa học là nhưũng nơi được cấp kinh phí khoa học và có cán bộ nghiên cứu nhiều nhất. Tuy vậy một số viện hay cơ quan nghiên cứu chưa gắn liền việc nghiên cứu với sản xuất với đời sống thực tế và không sáng tạo ra được những công trình sát với đời sống nhân dân. Giải pháp táo bạo nhất và có hiệu quả cao là thay các cán bộ công nhân viên bằng các cộng tác viên trả thù lao theo sản phẩm. Một số cơ quan nghiên cứu và viện thay vì sử dụng nhân viên của mình làm các công trình nghiên cứu đã tổ chức đấu thầu đề tài nghiên cứu, người muốn tham gia cuộc đấu thầu ngoài tư cách là nhà khoa học có uy tín phải gửi bản đề cương chi tiết, phương thức này sẽ chọn được nhà thầu ưu tú nhất và được coi là hữu hiệu hơn việc các cơ quan nghiên cứu khoa học tự làm công tác khoa học bằng nhân viên công chức trong biên chế của cơ quan. Gắn liền nghiên cứu khoa học với sản xuất. Nhũng kết quả thu được từ hoạt động này phải được thử nghiệm nhanh chóng nhằm đưa lại lợi ịch cho nền kinh tế nói chung. Phương án này sẽ đảm bảo được tính khả thi và công ích của đề tài nghiên cứu làm ra những sản phẩm trí tuệ bán được trên thị trường vừa đảm bảo thu nhập cho các nhà khoa học góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. Tổ chức các giải thưởng, các cuộc thi đua tăng gia sản xuất, phát huy sáng kiến. Đây là giải pháp có tính khả thi cao đã được một ssố ngành thực hiện mang lại kết quả tốt như: hội nhà báo hàng năm tổ chức tuyển chọn những bài báo viết hay nhất, hội kiến trúc sư trao giải thưởng cho công trình đẹp nhất…
* Về mặt vi mô.
Những năm gần đây các doanh nghiệp Việt Nam đã dần nhận thức được vai trò quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ, do vậy để giữ vững và nâng cao uy thế về quyền sở hữu trí tuệ các doanh nghiệp cần phải quan tâm đến:
Xác lập cơ sở pháp lý vững chắc cho quyền sở hữu trí tuệ tức là doanh nghiệp phải đăng kí bảo hộ các đối tượng sở hữu trí tuệ, đây là một trong những biện pháp quan trọng nhằm xác lập quyền sở hữu trí tuệ cho doanh nghiệp, ngăn ngừa mọi hành vi chiếm đoạt đánh cắp, là cơ sở pháp lý vững chắc chống lại các hành vi xâm phạm. Tuy nhiên nếu chỉ quan tâm đến việc xác lập cơ sở pháp lý mà chưa chú ý đến chiến lược đầu tư cơ bản thể hiện sự chuyên nghiệp và quản lý có hệ thống đối với quyền sở hữu trí tuệ của mình doanh nghiệp sẽ khó thành công trong cuộc cạnh tranh trên tiến trình hội nhập.
Các biện pháp thường xuyên và lâu dài mà doanh nghiệp cần thực hiện là việc tra cứu thường xuyên theo chu kì các dữ liệu từ cục sở hữu trí tuệ nhằm xác định các diễn biến và tình trạng pháp lý về sở hữu trí tuệ của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực để duy trì của mình trên thị trường.
3. Giải pháp phối hợp hiệu quả hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình.
* Đứng trên góc độ Vĩ mô(nhà nước).
Nhà nước phải có các dự án hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư mới thiết bị công nghệ, cải tiến quản lý, tăng năng suất lao động, giảm giá thành để nâng cao khả năng cạnh tranh trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi vì muốn có năng suất cao thì phải có máy móc thiết bị công nghệ tiên tiến hiện đại và đi đôi với nó là trình độ quản lý ngang tầm, có như vậy doanh nghiệp mới có khả năng xâm nhập và tiếp cận thị trường ưu thế hơn đối thủ cạnh tranh.
Nhà nước cần đầu tư cho các trường đại học để nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, tạo điều kiện cho các học sinh, sinh viên ưu tú ra nước ngoài học tập để tiếp thu các kiến thức về kĩ thuật và công nghệ hiện đại đồng thời cũng phải có chính sách thu hút nhân tài trở về nước. Nhà nước cần đầu tư vào cơ sở hạ tầng mềm, tạo môi trường pháp lý thông thoáng và môi trường chính trị ổn định để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư.
Các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế như: bộ kế hoạch và đầu tư, bộ thương mại… cần thúc đẩy việc thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại, gắn hoạt động của các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài, gắn thị trường Việt Nam với thị trường thế giới. Nhà nước cần tăng cường các hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật, đặc biệt pháp luật về sở hữu trí tuệ và luật pháp kinh tế.
* Các giải pháp Vi mô(doanh nghiệp).
Doanh nghiệp cần phải xác định sản phẩm của mình đang sản xuất phục vụ thị trường khách hàng mục tiêu nào, từ đó xác định giá cả, chiến lược và các biện pháp xúc tiến hỗn hợp cho phù hợp. Ngoài ra doanh nghiệp cần căn cứ vào đặc điểm, chủng loại, chu kì sống của sản phẩm để lựa chọn công nghệ và máy móc thiết bị cho phù hợp, đảm bảo tính đồng bộ trong cơ cấu đầu tư.
Doanh nghiệp cần phải phối hợp nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ, gắn nghiên cứu với ứng dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp cần chủ động trong hoạt động đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, thực hiện chương trình hợp tác và chuyển giao công nghệ với các doanh nghiệp nước ngoài, thực hiện mô hình liên kết đào tạo với các trường đại học.
Hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp là một hoạt động mang tính đồng bộ, do vậy cần phải có sự phân cấp rõ ràng chức năng nhiệm vụ của các bộ phận để đạt được hiệu quả tối đa. Đầu tư trong doanh nghiệp là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với sự thành bại của doanh nghiệp, đồng thời có ảnh hưởng lớn tới xã hội , do đó nhà nước và các doanh nghiệp cần phối hợp để các doanh nghiệp có thể xác định cơ cấu đầu tư phù hợp.
Kết Luận
Chúng ta đang sống trong một thế giới đã thay đổi và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Nếu như trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp trước đây, chúng ta chỉ biết tới giá trị hữu hình và hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình trong doanh nghiệp thì hiện nay, hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong doanh nghiệp đang cùng tồn tại trong một mối quan hệ mới. Nếu không nhận thức được đầy đủ về mối quan hệ này, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn, bỡ ngỡ trong việc hội nhập vào thị trường thế giới. Trong một thế giới đã và đang thay đổi từng ngày từng giờ, thách thức đặt ra đối với chúng ta có thể rất lớn, nhưng với tiềm năng trí tuệ và khiếu thẩm mĩ hơn người, dân tộc ta cũng đang có những cơ hội chưa từng thấy để thành đạt trong nền kinh tế mới, sớm sánh vai cùng các cường quốc năm châu như chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã từng mong đợi.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37323.doc