Đề tài Phân tích các yếu tố tác động đến di cư

Di cư là một vấn đề lớn trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, có tầm quan trọng quốc gia cũng như liên quan mật thiết đến các địa phương, nơi đi cũng như nơi đến và nó liên quan đến nhiều lĩnh vực từ kinh tế đến văn hoá, xã hội. Thông qua phân tích thực trạng, nguyên nhân, tác động của di cư ta thấy: Đại bộ phận những người tới các đô thị tìm và làm việc là những người trẻ khỏe, trình độ văn hóa ở cấp 2, 3 là chủ yếu; thường là những người trong độ tuổi lao động. Nguyên nhân chủ yếu khiến họ di cư là do điều kiện kinh tế khó khăn, thiếu hụt các cơ hội có việc làm và thu nhập quá thấp ở vùng nông thôn. Lực lượng lao động di chuyển này đều thể hiện tính hai mặt tích cực và tiêu cực đối với nông thôn và đô thị trên góc độ lao động việc làm và các vấn đề xã hội khác. Di chuyển lao động từ nông thôn-thành thị là một hiện tượng có quy luật tự nhiên nên không thể ngăn chặn nó được mà chỉ có thể điều tiết dòng di cư này. Để điều tiết dòng di cư này cần có những chính sách tổng hợp, hợp lý nhằm phát triển một cách đồng đều giữa nông thôn và đô thị. Để hiểu rõ hơn tình hình di cư thì cần phải xem xét các yếu tố tác động đến quyết định di cư, bằng việc sử dụng mô hình kinh tế lượng ta có thể xem xét các yếu tố nào tác động đến di cư và biến nào không ảnh hưởng. Đánh giá di cư bằng thực nghiệm dễ gặp khó khăn, các biến thường đo lường không chính xác như biến thu nhập, chênh lệch thu nhập giữa các vùng, do vậy mô hình vẫn chưa thể hiện được chính xác so với thực tế. Khi đã có số liệu đầy đủ và quan sát tình trạng di cư trong thời gian tới, ta có thể đánh giá đầy đủ hơn về tình trạng di cư và xây dựng được mô hình phù hợp. Trong quá trình thực tập, mặc dù có nhiều khó khăn như hạn chế về kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tiễn, bên cạnh đó do hạn chế, sai sót về mặt số liệu thu thập được nhưng do dược sự giúp đỡ tận tình của thầy và cán bộ hướng dẫn thực tập em đã hoàn thành xong báo cáo thực tập tốt nghiệp. Với mô hình em đưa ra và các kết quả thu được từ đề tài sẽ không tránh khỏi được những hạn chế thiếu sót nhất định. Vì vậy em kính mong nhận được sự góp ý từ các thầy cô giáo.

doc57 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 7342 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích các yếu tố tác động đến di cư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động trong nền kinh tế thị trường. Ở mức độ nhất định, di dân nông thôn-thành thị góp phần thúc đẩy sự phát triển đa dạng của các khu vực và ngành nghề kinh tế, có ý nghĩa làm tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa của đất nước và vùng lãnh thổ. Ở thành phố, xét trên góc độ việc làm, lực lượng lao động di chuyển tự do vào thành phố làm việc, họ cũng có những nhu cầu “ bình dân”, những nhu cầu cho ăn, sinh hoạt. Từ khi chuyển đổi cơ chế đến nay dòng người di chuyển tự do vào thành phố có nhiều loại, trong đó loại tìm việc làm theo thời vụ. Ngoài ra còn có dòng người tự do di chuyển về đoàn tụ gia đình, con cái, anh em…Như vậy việc di chuyển những người này về khía cạnh xã hội có ý nghĩa thực tiễn vào việc đảm bảo và cải thiện nhu cầu tình cảm gia đình, họ hàng và quan hệ cộng đồng trong dân cư. Đoàn tụ gia đình là điều kiện làm ổn định và tăng sức phát triển kinh tế hộ gia đình. + Mặt tiêu cực: làm quá tải sức sử dụng các công trình hạ tầng cơ sở, kỹ thuật, nhà ở, ảnh hưởng tới môi trường và làm giảm mỹ quan đô thị. Lao động di chuyển tự do theo mùa vụ vào thành phố tìm việc làm và làm việc có thời gian di chuyển và lưu trú không cố định, nên khi di chuyển hầu hết lao động không khai báo tạm trú với chính quyền gây khó khăn cho việc quản lý nhân sự. Làm nảy sinh một số vấn đề xã hội phức tạp như: trật tự an ninh, xung đột xã hội người di dân và người địa phương gây nên một số hiện tượng cờ bạc, nghiện hút, mại dâm. Khi dòng di dân tự do nông thôn-thành thị với quy mô lớn sẽ làm tăng sức ép việc tăng thêm số người thất nghiệp ở các thành phố lớn. 1.1.6. Nguyên nhân, động cơ của di cư Đổi mới kinh tế và tác động của nó đến di cư Yếu tố bao trùm nhất cho nguyên nhân và mọi cuộc di chuyển dân cư ở nông thôn ra thành thị ở nước ta hiện nay là lý do kinh tế (thiếu việc làm, thu nhập quá thấp ở nơi đi). Việc đổi mới cơ chế quản lý, mở rộng quyền tự do làm việc cách sống đã tạo ra sự tiền đề cơ bản cho sự di chuyển. Các chính sách phát triển, đô thị hóa và công nghiệp hóa ở các đô thị lớn tạo ra những cơ hội mở rộng việc làm có thu nhập cao hơn đã thúc đảy và làm tăng các dòng nhập cư vào đô thị, đặc biệt các đô thị lớn. Cơ chế thị trường đã tác động, thúc đẩy sự phát truển kinh tế ở nông thôn. Tuy nhiên mức tăng trưởng kinh tế ở khu vực này chưa cao, khả năng thu hút lao động thấp. Theo tổng cục Thống kê thì chỉ số phát triển giá trị tổng sản lượng nông nghiệp (năm trước = 0) thì năm 1991 là 102,9; 1992: 108,1 ; 1993: 103,9. Nông nghiệp đã tạo ra lực đẩy lao động rời khởi nông thôn ra đô thị tìm việc. Với sự tăng trưởng kinh tế công nghiệp cao ở khu vực đô thị, đã tạo nhiều việc làm mới. Đô thị có một sức hút hấp dẫn đối với lao động từ nông thôn tới. Sự chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị cũng là, một yếu tố quan trọng tác động đến hiện tượng di dân, lao động nông thôn vào đô thị tìm việc dưới nhiều hình thức khác nhau. Việc giao lưu đi lại trong phạm vi cả nước, giữa thành thị - nông thôn được dễ dàng, nhanh chóng. Do đó thông tin về việc làm đến với người lao động cần việc ở nông thôn càng nhanh, nhạy hơn. Ảnh hưởng của các yếu tố “ lực đẩy ” ở đầu đi (nông thôn) Hiện tượng lao động từ nông thôn ta các đô thị tìm việc là do nhiều yếu tố tự nhiên, kinh tế và xã hội tác động . Nó là kết quả tác động của “ lực đẩy ” từ các vùng nông thôn nghèo như: dư thừa lao động. thiếu đất canh tác. Đời sống thấp kém, cùng các tác động của “ lực hút “ từ khu đô thị có các điều kiện hoạt động kinh tế và sinh hoạt hấp dẫn hơn, có cơ hội tìm kiếm việc làm và thu nhập cao hơn ở nông thôn. Dưới đây phân tích những nhân tố chính tạo nên các “ lực đẩy ” và “lực hút” này. Với tổng số 23,68 triệu lao động nông nghiệp cả nước (1992) nếu tính theo quỹ thời gian thì còn tương đương khoảng 7 triệu lao động chưa được sử dụng, đó là chưa kể số lao động chưa có việc làm trong nông thôn ước tính khoảng từ 1,2 – 1,5 triệu người. Quỹ đất đai ngày càng giảm, kể cả số lượng và chất lượng, chương trình sử dụng đất đai có hiệu quả lâu bền gặp phải khó khăn là khả năng đầu tư, đặc biệt là những vùng điều kiện tự nhiên khắc nhiệt và đời sống dân cư còn nghèo đói. Do thiếu việc làm và việc làm kém hiệu quả ở những vùng này, nên lao động phải di chuyển để tìm việc làm và làm việc. Đời sống của những hộ nông dân những năm gần đây có khá lên, song còn một bộ phận dân cư không ít nằm trong diện đói nghèo. Những hộ nghèo, thậm chí cả những hộ có mức sống trung bình, đều thiếu việc làm. Ở những hộ nghèo, hàng năm vình quân 1 lao động mới sử dụng hết 88 ngày công, trong đó làm việc cho gia đình 58 công, đi làm thuê 30 công. Tình trạng thiếu việc làm là phổ biến ở nông thôn. Ngoài ra, việc làm ở nông thôn lại có thu nhập không cao, chưa tìm được cơ sơ phát triển kinh tế hiệu quả. Mặt khác, do tồn tài của một số chính sách của nhà nước, đặc biệt là chính sách giá cả, giá nông sản thấp hơn giá hàng công nghiệp, dịch vụ. Cùng với việc tìm phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở tại địa phương, họ phải di chuyển để tìm việc làm và làm việc ở nơi khác – đó là các thành phố - để tăng thêm thu nhập. Các yếu tố thuộc về “lực hút” ở đầu đến (đô thị) Sự tăng trưởng kinh tế cao, cùng với sự phát triển kinh tế của khu vực tư nhân ( nhất là lĩnh vực xây dựng nhà ở) hiện nay đòi hỏi nhiều lao động giản đơn, nặng nhọc, cần nhiều người phục vụ và người buôn bán nhỏ, nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày ở đô thị. Đây cũng là một trong những sức hút về “cung” – “cầu” lao động ở thành phố tới dòng người lao động ngoại tỉnh đổ về các thành phố lớn ngày càng nhiều. Điều kiện kiếm tiền ở thành phố cao hoen nhiều so với ở nông thôn hiện nay là một lực hút quan trọng để người nông dân tới đô thị tìm và làm việc. 1.2 Các lý thuyết di cư 1.2.1. Lý thuyết của EG. Ravenstein Lý thuyết EG. Ravenstein ra đời trong những năm 80 của thế kỷ 19. Lý thuyết này đóng vai trò cho việc phát triển lý thuyết di dân, điều này được phản ảnh trong tác phẩm “Luật di dân” (Lă ò Migration). Ravenstein nghiên cứu các cuộc di chuyển dân cư ở nước Anh và ông nhận thấy sự di dân có mối liên quan đến quy mô dân số, mật độ và khoảng cách di chuyển. Qua đó Ravenstein đã đi đến xây dựng những lý thuyết mang tính chất tổng quát hoá, trong đó rất nhiều quan điểm vẫn có ý nghĩa cho đến tận ngày nay có thể kể như: - Phần lớn các cuộc di chuyển chỉ diễn ra trên một khoảng cách ngắn; - Giới nữ chiếm ưu thế trong số lượng người di chuyển trong khoảng cách ngắn; - Đối với mỗi dòng di dân đều có di dân ngược; - Sự di dân chuyển từ vùng sâu, xa xôi vào thành phố thường phần lớn diễn ra theo các giai đoạn; - Động cơ chính yếu của di dân là động cơ kinh tế. - Những lý thuyết di dân mang tính chất tổng quát hoá của Ravenstein được rút ra từ các quy luật dân số do ông trình bầy như sau: Bảy quy luật động thái dân số của E.G.Ravenstein: 1. Chúng ta đã hoàn toàn chứng minh được rằng các tập đoàn di dân lớn chỉ tiến hành di chuyển trong khoảng cách ngắn và hậu quả là sự thay đổi mang tính chất toàn bộ hay sự thay thế dân số đã tạo ra các dòng di dân theo hướng đến các trung tâm thương mại và khu công nghiệp nơi có thể thu hút người di dân. 2. Kết quả của dòng di chuyển này, mặc dù diễn ra trên phạm vi cả nước bị giới hạn bởi các quá trình thu hút vẫn diễn ra theo cơ chế sau: dân cư của một nước sẽ nhanh chóng chuyển đến các vùng lân cận, các thị trấn, thị xã có tốc độ tăng trưởng nhanh, cố đô ở đó, khoảng cách dân số ở các vùng nông thôn sẽ được bù đắp lại nhờ những người di cư từ các vùng hẻo lánh hơn cho đến khi lực hút từ các thành phố có tốc độ tăng trưởng nhanh dần dần tác động đến những ngõ hẻo lánh nhất. Số người di dân được kê khai ở một trung tâm thu hút nào đó sẽ tăng chậm lại với khoảng cách tỷ lệ với dân số gốc ở nơi họ đã ra đi. 3. Quá trình nới giãn (phân hoá) là quá trình ngược lại của quá trình thu hút và thể hiện những đặc trưng tương tự. 4. Mỗi dòng di dân lớn thường tạo ra một dòng di dân ngược để bù đắp lại. 5. Người di dân thực hiện những cuộc di chuyển với khoảng cách xa với sở thích đến một trong những trung tâm công nghiệp và thương mại lớn. 6. Những người gốc ở thành phố, thị xã thường ít di chuyển hơn so với những người ở các vùng nông thôn của đất nước. 7. Nữ giới thường dễ di dân hơn so với nam giới. Dựa trên lý thuyết này về sau, một số tác giả khác đã nghiên cứu phát triển thêm. Zipt (1946) với lý thuyết lực hấp dẫn, giả định sự tồn tại mối quan hệ ngược giữa số người di chuyển và khoảng cách người di chuyển. Stonffre (1940) cho rằng khoảng cách cơ học không có ý nghĩa quan trọng. Người di cư lựa chọn nơi định cư ở nơi nào đó là do các yếu tố kinh tế - xã hội, hoặc các cơ hội mà người di cư có thể tiếp cận được, đấy là cơ sở hình thành nên sự quyết định của người di dân. Todaro(1971) cho rằng nơi nào có điều kiện kinh tế tốt hơn sẽ khiến di dân chuyển về nơi đó mạnh mẽ… 1.2.2. Lý thuyết của Everett.S.Lee Lý thuyết của Everett S.Lee (1966) hình thành trên cơ sở tóm tắt các quy luật của Ravenstein, hệ thống hoá các vấn đề liên quan đến sự di dân và biểu thị chúng dưới dạng mô hình. Lee chia các nhân tố ảnh hưởng đến sự di dân thành những nhóm như: + Nhóm nhân tố gắn liền với nơi xuất phát, nơi gốc của di dân; + Nhóm nhân tố gắn liền với nơi đến của di dân; + Những trở ngại, trở lực xuất hiện giữa hai nơi xuất phát và nơi đến mà người di dân phải vượt qua, gọi là những trở ngại trung gian; + Những nhân tố mang tính cách cá nhân, tính cách riêng của di dân. Đồng thời, khái niệm chi phí trả về mặt tinh thần như sự cắt rời mối quan hệ gia đình, bàn bè, láng giềng, các yếu tố mang tính cá nhân, riêng tư, (tình trạng tuổi tác, tình trạng sức khoẻ bản thân, tình trạng gia đình số con có thể mang theo hoặc phải gửi lại cho người thân…) cũng được đặt ra trong tính toán. Thực tế cho thấy con người di chuyển vì nhiều lý do. Có thể đó là do hôn nhân hay ly dị, học tập hoặc tốt nghiệp, thay đổi việc làm hay về nghỉ hưu, hoặc có thể là do những trở ngại, những phiền toái về pháp luật, về phong tục sống… Mọi lý do nêu trên có thẻ diễn ra ở vùng gốc nơi đang sinh sống khiến người ta phải chuyển cư. Hoặc nơi đến trở thành hấp dẫn hơn so với cuộc sống của mọi người, điều đó thu hút người dân chuyển cư đến. Hoặc sự di cư xảy ra là do cả hai nơi gốc và nơi đến cùng gây ảnh hưởng. Điều tất nhiên là hầu như không có ai sẽ hoàn toàn thống nhất với nhau về tất cả những điều mình muốn và không mong muốn trong quá trình di cư. Trong nghiên cứu của mình Lee cũng cho rằng điều kiện khí hậu tốt là yếu tố hấp dẫn đối với các cuộc di dân trên thế giới nói chung. Mô hình về di dân của Lee được trình bày qua hình 1.1. 0 + - - - + - - 00 - + 0 + - + - 0 - - - 0 + - - 0 - - + 0 0 - + - 0 + - - + 0 + - - 0 0 + - 0 - + - Những trở ngại NƠI XUẤT PHÁT trung gian NƠI ĐẾN Hình 1.1. Mô hình về di dân của Everett S. Lee Mô hình về di dân của Lee bao gồm hai vòng tròn lớn tượng trưng cho hai nơi xuất phát và nơi đến, trong mỗi vòng tròn này có một số ký hiệu có ý nghĩa khác nhau: * Kí hiệu + : tượng trưng cho những yếu tố thuận lợi đối với sự di dân * Kí hiệu - : tượng trưng cho những yếu tố bất lợi đối với sự di dân. * Kí hiệu 0 : tượng trưng cho những yếu tố mang tính chất không lợi và cũng không hại đối với sự di dân. Ngoài ra, cũng theo mô hình Lee, người di dân tiềm năng cũng cần phải tính toán các yếu tố bất lợi như trình bày trong mô hình để từ đó có thể chọn lựa nơi đến cho mình, hoặc có thể so sánh giữa các nơi đến khác nhau, hoặc có thể đi đến quyết định sau cùng là có nên di chuyển hay ở lại nơi gốc. Ngoài ra, cũng theo mô hình Lee, người di dân tiềm năng cũng cần phải tính toán đến những yếu tố trở ngại trung gian có thể xuất hiện. Chúng có thể là: - Chi phí trong quá trình vận chuyển giữa nơi gốc – nơi đến: tất nhiên là khoảng cách di chuyển càng xa thì chi phí vận chuyển càng lớn. - Chi phí phải trả về mặt tinh thần: như sự cắt rời những mối quan hệ gia đình, quan hệ bạn bè, láng giềng… Mặt khắc, những người di chuyển dạng tiềm năng cũng cần phải tính toán đến cả yếu tố mang tính chất cá nhân, riêng tư như: tình trạng tuổi tác, tình trạng sức khoẻ bản thân, tình trạng gia đình, số con có thể mang theo hoặc phải gửi lại cho người thân… Nói tóm lại, một người khi muốn di chuyển cần phải xem xét, tính toán đến nhiều mặt một cách tỉ mỉ chứ không thể ra đi một cách tuỳ hứng, hoặc nghe theo lời rủ rê của bạn bè, của người láng giềng. CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG DI CƯ NÔNG THÔN - THÀNH THỊ NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 2.1. Tình hình di cư chung cả nước 2.1.1. Di cư lao động giữa các vùng trong cả nước Thực tế của quá trình di cư ở Việt Nam đã diễn ra từ rất lâu. Trong những thập kỷ trước, số lượng người di cư lớn nhất là trong những đợt di cư có tổ chức của nhà nước đi làm “kinh tế mới”. Thời gian gần đây, đặc biệt là 10 năm trở lại đây, số người di cư tự do tăng lên do tác động của các quan hệ kinh tế hơn là theo các kế hoạch của nhà nước. Các vùng có tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh là các vùng thu hút số lượng người nhập cư lớn, ngoài ra cũng có một số lượng người di cư từ các vùng nông thôn tới các vùng nông thôn khác, chẳng hạn người di cư từ các tỉnh phía Bắc vào Tây nguyên. Số lượng lao động di cư đi và đến của các vùng trong nước được thể hiện trong bảng 2.1. Bảng 2.1. Số lao động di cư đi và đến theo vùng trong cả nước Nơi cư trú vào 1/7/2004 Tổng số lao động đang làm việc Số người làm việc tại vùng cư trú Số người di cư đi Số người di cư đến Tỷ lệ di cư đi (%) Tỷ lệ di cư đến (%) Tổng số 42329025 41941784 387241 387241 ĐBSH 9562557 9475979 86578 30615 0,91 0,32 Đông Bắc 5050527 5027385 23142 43623 0,46 0,86 Tây Bắc 1363750 1363472 278 6817 0,02 0,5 Bắc Trung bộ 5139119 5083529 55590 3725 1,08 0,07 Nam Trung bộ 3493282 3375155 118127 6756 3,38 0,19 Tây Nguyên 2376336 2373232 3104 26230 0,13 1,1 Đông Nam bộ 6280582 6271785 8797 261122 0,14 4,16 ĐBSCL 9062872 8971247 91625 8353 1,01 0,09 Ghi chú: Tính theo số người từ đủ 15 tuổi trở lên. Nguồn: Báo cáo kết quả điều tra lao động - việc làm 1-7-2004 Tỷ lệ lao động di cư khỏi vùng Duyên hải nam trung bộ trên tổng số người đang làm việc của vùng là 3,38% lớn nhất so với các vùng khác trong cả nước, trong khi tỷ lệ này ở ĐBSH, Bắc trung bộ và ĐBSCL là tương đương nhau với khoảng trên dưới 1%. Số lượng lao động di cư khỏi vùng Duyên hải miền Trung tới hơn 118 ngàn người do đây vẫn còn là vùng có các điều kiện tự nhiên khó khăn, phát triển kinh tế còn thấp và do vậy không thu hút được nhiều lao động của địa phương. Xét về địa phương tiếp nhận lao động di cư, tỷ lệ lao động di cư đến vùng Đông Nam bộ là lớn nhất chiếm tới 4,16% lực lượng lao động hoạt động kinh tế của cả vùng, tiếp đó là Tây nguyên (1,1%) và vùng Đông bắc (0,86%). Trước đây, nhà nước có các chương trình di chuyển dân cư và lao động tới Tây nguyên theo kế hoạch. Hiện nay, các chương trình này không còn thực sự tiếp tục nhưng nông dân vẫn di chuyển vào vùng Tây nguyên làm ăn do đây vẫn còn là vùng có thể khai phá, phát triển sản xuất nhiều hơn so với một số vùng đã canh tác lâu đời ở các tỉnh phía bắc hoặc các tỉnh đồng bằng. Xem xét cơ cấu của tổng số lao động di cư của cả nước theo vùng (0) cho thấy trong tổng số lao động di cư đi của cả nước, vùng Duyên hải miền Trung chiếm lớn nhất với 31%, tiếp đến là ĐBSCL 24% và ĐBSH với 22%. Theo cơ cấu lao động di cư đến, Đông Nam bộ nổi rõ là vùng thu hút nhân lực nhiều nhất và chiếm phần áp đảo số lao động di cư với 67% tổng số lao động di cư đến của cả nước. Vùng Đông bắc và ĐBSH là những vùng tiếp theo tiếp nhận nhiều lao động từ các vùng khác đến với 11% và 8% tương ứng của tổng số lao động di cư đến của cả nước. Đồ thị 2.1. Cơ cấu lao động di cư đi và đến của cả nước phân theo vùng Nguồn: Điều tra lao động việc làm năm 2004 2.1.2 Di cư lao động từ nông thôn ra thành thị Quá trình di cư nông thôn – thành thị diễn ra mạnh mẽ trong khoảng 10 năm trở lại đây. Tốc độ phát triển kinh tế, tốc độ CNH và đô thị hóa ngày càng cao một mặt biến một số vùng nông thôn trở thành thành thị, mặt khác khu vực đô thị ngày càng mở rộng cũng tạo ra khả năng số người di chuyển đến các đô thị ngày càng lớn hơn và với tốc độ nhanh hơn. Tỷ lệ di cư từ nông thôn tới các đô thị (theo nơi đến) được trình bày trong Đồ thị 2.2. Đồ thị 2.2. Di cư tính theo địa bàn của nơi đi Nguồn: Điều tra di cư năm 2004 Đồ thị trên cho thấy nông thôn là nơi xuất phát của đại đa số người di cư. Tính trên bình diện cả nước, số lao động di cư xuất phát từ nông thôn chiếm tới 73%. Ở hai thành phố lớn, tỷ lệ dân nông thôn di cư đến là khá cao. Tỷ lệ dân nông thôn di cư đến vùng Đông bắc khoảng 80%, tương đương với TPHCM. Rất ngạc nhiên là trong tổng số dân di cư, nữ giới chiếm tỉ lệ cao hơn với 57%. Điều này đúng cho hầu hết các vùng trong cả nước, riêng vùng Tây bắc có số nam lao động di cư đi cao hơn với 59%. Bắc trung bộ là nơi có tỷ lệ nữ lao động di cư đi cao nhất với 63%. Tỷ lệ lao động nữ di cư đi của các một số vùng trong cả nước được thể hiện trong Đồ thị 2.3. Đồ thị 2.3. Tỷ lệ lao động di cư theo giới tính Nguồn: Tính toán và minh họa từ số liệu điều tra di cư năm 2004 2.1.3. Lao động nông thôn di cư đến vùng trọng điểm Cơ cấu lao động di cư từ nông thôn đến một số vùng trọng điểm qua số liệu của cuộc điều tra di cư năm 2004 được thể hiện trong 0 . Yếu tố địa lý có tác động lớn đến cơ cấu này, tuy nhiên không hoàn toàn đúng đối với tất cả các vùng. Phần lớn số lượng lao động nông thôn di cư đến Hà nội và vùng Đông bắc xuất phát từ vùng Đồng bằng sông Hồng (77% của tổng người di cư), trong khi ở TPHCM 31,46% số người di cư đến là từ ĐBSCL. Cơ cấu lao động nông thôn di cư đến vùng Đông Nam bộ mang những nét đặc trưng riêng, cao nhất là từ Bắc trung bộ với 27,44%, ĐBSH, di cư nội vùng Đông Nam bộ và từ ĐBSCL đều có một tỷ lệ tương đương nhau khoảng 19%. Việc ĐBSH chiếm tới 19% số người di cư tới ĐNB ngang với từ ĐBSCL cho thấy yếu tố địa lý không còn là một lực cản cho việc di cư mà yếu tố việc làm là một lực kéo lớn. Một lý do khác có thể là lực “đẩy” từ bản thân vùng Đồng bằng sông Hồng với “đất chật, người đông” hơn rất nhiều so với các vùng khác. Di cư đến Tây nguyên lại khá đặc thù với gần 50% là di cư nội vùng và từ miền núi phía Bắc. ĐBSH cũng đóng góp một tỷ lệ không nhỏ trong số người di cư đến Tây nguyên. Phân tích trên cho thấy, dường như luồng di cư chủ yếu theo chiều từ Bắc vào Nam mà ít thấy chiều ngược lại. Với tốc độ phát triển kinh tế và lợi thế tự nhiên ở các tỉnh miền nam, có thể kết luận rằng cơ hội việc làm chứ không phải là khoảng cách địa lý là lực hút lớn nhất tác động tới việc di cư. Bảng 2.2. Cơ cấu lao động nông thôn di cư theo vùng và nơi điều tra Hà nội TPHCM Đông Nam Bộ Đông Bắc Tây Nguyên Cả nước ĐBSH 77.13 18.48 19.09 76.83 19.89 40.08 Đông bắc 12.77 4.37 8.2 15.98 20.86 12.83 Tây bắc 0.35 0.25 0.28 0.73 2.67 0.97 Bắc Trung bộ 8.33 23.97 27.44 5.98 13.9 15.99 Nam trung bộ 0 9.36 2.97 0.12 6.2 4.05 Tây nguyên 1.06 2 3.39 0 25.35 7.39 Đông Nam Bộ 0.35 10.11 19.94 0.12 8.98 8.07 ĐBSCL 0 31.46 18.67 0.24 2.14 10.61 Tổng cộng 100 100 100 100 100 100 Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra di cư năm 2004 Phân bố về tỷ lệ lao động di cư theo độ tuổi được trình bày trong 0. Khoảng tuổi chiếm tỷ lệ lớn nhất là từ 20-30 chiếm trên dưới 50% số lao động di cư ở hầu hết tất cả các vùng trong nước. Nếu tính số lao động di cư dưới 30 tuổi xuất phát từ nông thôn tính trên địa bàn cả nước thì tỷ lệ này lên đến gần 70%. Trong số lao động nông thôn di cư đi từ Bắc trung bộ có tới trên 25% ở độ tuổi dưới 20. Tỷ lệ này đối với ĐBSH, Đông bắc và Đông Nam bộ cũng từ 15-17%. Như vậy, lao động trẻ dễ có xu hướng di cư hơn do có khả năng thích ứng nhanh ở nơi đến, đồng thời cũng có ít hơn yếu tố “níu kéo” ở quê nhà so với các lao động lớn tuổi hơn. Bảng 2.3. Cơ cấu lao động di cư theo độ tuổi Di cư đi/độ tuổi <20 20-30 30-40 >40 Tổng số ĐBSH 17.21 49 19.3 15 100 Đông bắc 17.2 48 21.7 13 100 Tây bắc 10.61 36 18.2 35 100 Bắc Trung bộ 25.97 54 14.2 6 100 Nam trung bộ 14.22 55 19.3 12 100 Tây nguyên 12.28 40 31.3 17 100 Đông Nam Bộ 15.36 53 21.3 10 100 Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra di cư năm 2004 (Bộ LĐ-TBXH) Phân bố theo độ tuổi của lao động nông thôn di cư theo nơi đến cũng có nét tương tự như từ giác độ theo nơi đi. Tuy nhiên sự khác biệt giữa các vùng lao động di cư đến cũng khá rõ nét (0 và Error! Reference source not found.). Lao động nông thôn di cư đến Hà nội và Tây Nguyên có độ tuổi trung bình cao hơn so với các vùng như TPHCM, Đông Nam bộ và Đông bắc. Có tới 20-24% số lao động di cư đến TPHCM, Đông Nam bộ và Đông bắc ở độ tuổi dưới 20, trong khi tỷ lệ lao động trên 40 tuổi di cư đến Hà nội và Tây nguyên cũng tới mức 19-20%. Cơ cấu tuổi di cư này cũng phản ánh một phần cơ hội việc làm và cơ cấu việc làm khác nhau ở các vùng trên. Ở Tây nguyên, lao động di cư đến có lẽ chủ yếu tham gia sản xuất nông nghiệp (do lợi thế về nông nghiệp) do đó không đòi hỏi về vấn đề tuổi tác; trong khi đó, ở các vùng phát triển các khu công nghiệp có nhu cầu cao hơn về lao động trẻ Bảng 2.4. Cơ cấu lao động di cư theo độ tuổi theo nơi điều tra Vùng <20 20-30 30-40 >40 Tổng số Hà Nội 12.93 50 17.7 19 100 TPHCM 19.5 56 17.4 7 100 ĐNB 21.58 53 17.8 7 100 Đông Bắc 24.55 49 17.4 9 100 Tây nguyên 9.2 41 30 20 100 Cả nước 17.54 50 20.1 13 100 Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra di cư năm 2004 (Bộ LĐ-TBXH) Cơ cấu lao động di cư theo độ tuổi còn có thể xem xét ở một góc độ khác là theo giới. Đồ thị 3 minh họa cơ cấu lao động di cư theo giới ở từng khoảng tuổi. Có thể thấy rằng tỷ lệ lao động nữ đều cao hơn lao động nam ở tất cả các khoảng tuổi. Tuy nhiên, khi độ tuổi càng cao, khoảng cách này càng thu hẹp dần. Trong khi ở độ tuổi dưới 20, có tới 66% lao động di cư là nữ, trong khi đó ở độ tuổi trên 40, tỷ lệ giữa nam và nữ gần như cân bằng. Điều này cần được lưu ý trong hoạch định chính sách để giảm mất cân đối về giới ở các vùng di cư, nhất là các khu công nghiệp có nhiều ngành nghề thu hút lao động nữ. Nếu không có các chính sách thích hợp, các vấn đề xã hội khó giải quyết sẽ phát sinh kèm theo hiện tượng này. Đồ thị 2.5. Cơ cấu lao động di cư theo giới và tuổi Nguồn: Tính toán và minh họa từ số liệu điều tra di cư năm 2004 (Bộ LĐ-TBXH) Xét về trình độ văn hoá, lao động di cư từ ĐBSH và vùng Đông bắc có trình độ cao nhất với 35,53% số lao động di cư từ vùng này có trình độ trung học phổ thông và 5,48% có trình độ cao đẳng hoặc đại học (0). Lao động di cư từ Tây nguyên và ĐBSCL có trình độ văn hoá thấp nhất với đa số người di cư có trình độ từ trung học cơ sở trở xuống. Tây nguyên có 36,7% số lao động di cư đi các vùng khác có trình độ văn hoá từ tiểu học trở xuống và con số này đối với ĐBSCL là gần 30%. Một mặt những con số này phù hợp với trình độ văn hoá nói chung của các vùng cụ thể, mặt khác điều này cũng sẽ dẫn đến hệ quả là các lao động nông thôn di cư từ các vùng văn hoá thấp sẽ có xác suất làm các công việc giản đơn hơn lao động di cư đi từ các vùng có trình độ văn hoá cao hơn một cách tương đối. Bảng 2.5. Cơ cấu lao động di cư theo trình độ văn hoá Vùng/trình độ VH Tiểu học trở xuống Trung học cơ sở Trung học phổ thông Cao đẳng - Đại học Tổng số ĐBSH 4.69 54.3 35.53 5.48 100 Đông bắc 24.03 47.25 25.87 2.85 100 Tây bắc 37.84 32.43 27.03 2.7 100 B.Trung bộ 9.48 51.47 37.91 1.14 100 N.trung bộ 13.55 59.35 25.81 1.29 100 Tây nguyên 36.75 45.23 15.55 2.47 100 Đ.Nam Bộ 22.65 45.95 28.8 2.59 100 ĐBSCL 28.82 51.23 18.97 0.99 100 Cả nước 15 51.27 30.42 3.32 100 Nguồn: Điều tra di cư năm 2004 - Phản ánh trình độ văn hoá của lao động di cư từ nông thôn đến một số vùng trong nước. Tây nguyên là vùng tiếp nhận người lao động di cư có trình độ văn hoá thấp nhất. Ở đây có tới trên 36% số lao động di cư đến có trình độ từ tiểu học trở xuống và nếu tính tỷ lệ của đối tượng lao động này có trình độ từ trung học cơ sở (cấp II) trở xuống chiếm đại đa số với khoảng 88%. TPHCM và Đông Nam bộ cũng là những địa phương có tỷ lệ lao động di cư đến có trình độ văn hoá thấp tương đối so với các vùng khác nhưng chủ yếu là những lao động có trình độ trung học cơ sở (tỷ lệ này ở TPHCM và Đông Nam bộ lần lượt là 56% và 52%). Lao động di cư từ nông thôn đến Hà nội có trình độ văn hoá cao nhất. Có tới 45% số lao động di cư đến Hà nội có trình độ trung học phổ thông và 13% số lao động đến Hà nội có trình độ cao đẳng và đại học. Đồ thị 2.6. Cơ cấu lao động di cư nông thôn theo trình độ văn hoá Nguồn: Điều tra di cư năm 2004 Lý do hay động lực thúc đẩy lao động di cư từ nông thôn đến các đô thị và các vùng cũng khá khác nhau. Lý do chính để lao động nông thôn tới Hà nội và TPHCM là để tìm kiếm việc làm. Tỷ lệ số lao động này theo nơi đến của Hà nội và TPHCM lần lượt là 47% và 59%. Trong khi đó lý do chính để lao động di cư đến Đông Nam bộ và Tây nguyên là do ở các địa phương này có điều kiện sống, điều kiện SX-KD tốt hơn. Tỷ lệ số lao động đến Đông Nam bộ và Tây nguyên với lý do này lần lượt là 48% và 50%. Trong khi đó tỷ lệ này ở Hà nội và TPHCM là 20% và 27% (là loại lý do đứng thứ hai). Tìm kiếm việc làm cũng là loại lý do đứng thứ hai tại vùng Đông Nam bộ. Đồ thị 2.7. Lý do lao động nông thôn di cư theo vùng Nguồn: Điều tra di cư năm 2004 2.2. Thực trạng di cư lao động từ nông thôn tới thành phố Hà Nội. Hà nội là thành phố lớn thứ hai trong cả nước, với vị trí là trung tâm chính trị văn hoá, nơi tập trung về khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước; do vậy chịu tác động lớn của di dân vào đô thị. Hà nội cũng như các thành phố khác, khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, quá trình chuyển dịch dân cư từ nông thôn vào thành phố càng thể hiện rõ với tốc độ ngày càng cao. Dân số tăng nhanh có nguyên nhân từ quá trình chuyển cư vào đô thị ở Hà Nội tập trung chủ yếu vào một số nguyên nhân chủ yếu như: Tìm kiếm việc làm, học tập, phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị mới… Dân số Hà Nội thời điểm 31/12/2005 trên 3,23 triệu người, tốc độ tăng ở mức cao. Giai đoạn 1996-2000 tăng dân số bình quân: 3,4%/năm (tăng cơ học 2,1%/năm), giai đoạn 2001-2005 với tốc độ tăng bình quân: 3,0%/năm (tăng cơ học 1,8%/năm), bên cạnh đó dân số lao động thời vụ và đối tượng di cư đến Hà Nội tìm kiếm việc làm chiếm số lượng lớn, từ 116 nghìn đến 120 nghìn người (theo số liệu Cục Thống Kê và Sở Lao động, Thương binh và xã hội), số lượng học sinh, sinh viên hàng năm về Hà Nội học tập cũng chiếm khoảng 116-118 nghìn người. Dân số tăng nhanh, cơ sở hạ tầng chậm được cải thiện đã tạo sức ép lớn cho thủ đô trên các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt là chất lượng cuộc sống, chất lượng dân số, chất lượng lao động và tác động không nhỏ đến sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH,HĐH) của thủ đô. Dân số di cư vào Hà Nội với số lượng lớn và chất lượng chủ yếu là lao động phổ thông, trong số dân cư di chuyển tự do đến Hà Nội hàng năm với dân số trong độ tuổi lao động khoảng 106 nghìn người và dự báo từ nay đến năm 2010 khoảng 120 – 130 nghìn người/năm. Kết quả phân tích sau được lấy từ nguồn: Điều tra di cư năm 2004. - Địa bàn xuất cư: Theo lý thuyết về luật di cư của Ravenstein và một số mô hình học thuyết giải thích về sự di dân, khoản cách có mối liên hệ đặc biệt với tình trạng di cư. Thông thường khoảng cách càng gần, số lượng người di chuyển giữa hai nơi càng lớn. Theo kết quả điều tra di cư năm 2004 số lượng người di cư đến Hà Nội đông nhất thuộc các tỉnh lân cận như Hà Tây, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên… - Nhóm nghề: Bảng sau mô tả nghề nghiệp của người di cư tự vào làm việc tại Hà Nội. Bảng 2.6. Phân bố phần trăm loại hoạt động Loại hoạt động Tỷ lệ Đang làm việc 85.4 Nội trợ 5.9 Đi học 6.7 Mất khả năng lao động 0.2 Không làm việc, có nhu cầu việc làm 1.4 Không làm việc, không có nhu cầu 0.4 Tổng số 100.0 Đại đa số người di cư vào Hà Nội đều có việc làm chiếm tỷ lệ 85.5%; công việc chủ yếu là công chức, nhân viên văn phòng, nội trợ…Số người đi học chỉ chiếm 6,7%, chưa có công việc chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ (2%). - Cơ cấu tuổi và giới tính: Theo kết quả của cuộc điều tra di cư năm 2004 cho thấy tỷ lệ nam nữ di cư đến Hà Nội sấp xỉ nhau; tuy nhiên số nữ giới nhiều hơn nam do nhu cầu dịch vụ ngày càng tăng như giúp việc gia đình, bán hàng rong… Về cơ cấu tuổi: Sự phân bố tuổi xuất cư tương đối đồng đều. Do đặc điểm và mục đích xuất cư nên số người trong độ tuổi lao động chiểm tỷ lệ lớn > 70%, những người còn lại là nhân khẩu kèm theo của các hộ gia đình. Thường những người trẻ có tỷ lệ xuất cư nhiều hơn, những người cao tuổi thường có ràng buộc về gia đình nên xuất cư ít hơn. Lứa tuổi xuất cư mạnh mẽ nhất là từ 20-34 sau đó có xu hướng giảm dần. Bảng 2.7. Nhóm tuổi Nhóm tuổi tỷ lệ 15-19 66.7 20-24 62.6 25-29 87.1 30-34 86.7 35-39 74.3 40-44 59.3 45-49 75.0 50-54 118.2 55-59 36.4 - Tình trạng hôn nhân: Tỷ trọng những người di cư đến Hà Nội chưa kết hôn lần nào cao chiếm 41,4% điều này cho thấy những người di cư trẻ hơn và có xu hướng kết hôn muộn hơn. - Tình trạng nhà ở của đối tượng di cư: Bảng 2.8. Tình trạng nhà ở Loại nhà đang ở tỷ lệ % Nhà kiên cố 52.0 Nhà bán kiên cố 31.0 Nhà khung gỗ lâu bền, mái lá 4.4 Nhà đơn sơ 12.5 Không xác định 0.0 Đại đa số người dân nhập cư tại Hà Nội đều đi thuê nhà, chưa có nhà ở cố định.Tình trạng nhà ở của người dân di cư rất thấp,số người có nhà ở kiên có chiếm 52%, nhà bán kiên cố là 31%, nhà đơn sơ chiếm 12,5%. - Trình độ học vấn: Qua khảo sát cho thấy trình độ học vấn của dân di cư được cho ở bảng sau: Bảng 2.9. Phân bố phần trăm trình độ học vấn cao nhất Nam Tỷ lệ% Nữ Tỷ lệ% Từ lớp 1 đến lớp 9 23.4 Từ lớp 1 đến lớp 9 35.7 Từ lớp 10 đến lớp 12 48.9 Từ lớp 10 đến lớp 12 43.3 Cao đẳng 5.0 Cao đẳng 3.3 Đại học trở lên 22.7 Đại học trở lên 17.6 Không biết đọc, biết viết 0.0 Không biết đọc, biết viết 0.0 Không xác định 0.0 Không xác định 0.2 Tổng số 100.0 Tổng số 100.0 Qua bảng trên ta thấy, Ở Hà Nội tỷ lệ người di cư có trình độ học vấn từ lớp 10 đến lớp 12 cao hơn những người di cư có trình độ học vấn từ lớp 1 đến lớp 9 (46% so với 31%). Hà Nội cũng là khu vực mà tỷ trọng người di cư có trình độ học vấn cao đẳng và đại học trở lên cao nhất (tương ứng 4% và 20% ). Sở dĩ có tình hình đó một phần có khá nhiều học sinh đến Hà Nội học nhưng không tỷ trở về quê hương mà ở lại Hà Nội làm việc. - Lý do di chuyển: kết quả khảo sát nguyên nhân di chuyển vào thành phố Hà Nội cho ở bảng sau: Bảng 2.10. Phân bố phần trăm lý do di chuyển chính Lý do di chuyển chính Tỷ lệ phần trăm Nam Nữ Tổng số Kinh tế 57.3 52.1 54.3 Học tập 7.2 4.7 5.7 Gia đình 14.1 26.7 21.4 Lý do khác 21.5 16.6 18.6 Tổng số 100.0 100.0 100.0 Số người 419 580 999 Ta thấy lý do kinh tế vẫn là lý do chính cho các cuộc di cư vào Hà Nội. Cả nam và nữ, lý do kinh tế chiếm tỷ lệ cao nhất (nam:57,3%, nữ: 52,1%) còn các lý do khác như đi học, gần người thân, kết hôn…chiếm tỷ lệ nhỏ. Trong lý do kinh tế thì thiếu việc làm là lý do chính, tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn do cơ giới hóa, mức sinh tăng cùng với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật được sử dụng trong sản xuất nông nghiệp đã dẫn đến các luồng di cư từ nông thôn ra đô thị kiếm việc làm. - Tình trạng việc làm, thu nhập: Ra đi vì lý do kinh tế là chính cho nên việc làm và thu nhập luôn là mối quan tâm lớn nhất của phần đông những người di cư. Đại đa số dân di cư cho rằng khi ra thành phố, cuộc sống của họ khá hơn, mức thu nhập cao hơn khi ở nông thôn. Kết quả điều tra cho ở bảng sau: Bảng 2.11. Tình trạng thu nhập, việc làm Việc làm Nam Nữ Thu nhập Nam Nữ Tốt hơn 75.9 71.4 Cao hơn 74.5 71.6 Như cũ 14.3 16.0 Như cũ 15.0 16.0 Xấu hơn 1.4 3.0 Thấp hơn 2.1 3.9 Không thích hợp 5.5 7.6 Không thích hợp 5.5 6.4 Không biết 2.9 2.1 Tổng số 100.0 100.0 Tổng số 100.0 100.0 Số lượng 419 580 Số lượng 419 580 Theo kết quả có ở bảng trên, có 90% số người có việc làm ổn định hoặc tương đối ổn định, chỉ có tỷ lệ nhỏ số người trong nhóm có nhu cầu tìm việc, mức thu nhập cao hơn và cuộc sống tốt hơn. 2.3. Thực trạng di cư lao động vào thành phố Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh là thành phố trẻ ta đời cách đây 300 năm, thành phố Hồ Chí Minh sớm hội tụ những điểm để nhanh chóng trở thành một trung tâm lơn của cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh đang giữ vai tró là một trung tâm đa chức năng quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Là mộảmtung tâm công nghiệp lớn nhất của cả nước, là một trong hai trung tâm văn hoá-khoa học- kỹ thuật-giáo dục lớn nhất nước,là một trong những trung tâm thương mại-dịch vụ-giao dịch đối ngoại quan trọng, là một trong các đầu mối giao thông-thông tin, liên lạc quan trọng. Theo số liệu thống kê mức GDP/người của thành phố Hồ Chí Minh hiện nay cao nhất nước, gấp khoảng 3 lần mức GDP trung bình chung của cả nước. Với những đặc điểm và vai trò nổi bật trong hệ thống nền kinh tế quốc dân, thành phố Hồ Chí Minh trở thành là một “cực hút” trọng yếu những dòng người từ các địa phương khác. Trong suốt quá trình 300 năm phát triển của mình, giai đoạn thuận lợi nhất trong phát triển của thành phố-cũng là giai đoạn thu hút luồng di dân tự do đến thành phố ca nhất. - Địa bàn xuất cư: Theo kết quả điều tra dân số giữa kỳ năm 2004 (1/10/2004) ở thành phố Hồ Chí Minh cho thấy người nhập cư đến thành phố Hồ Chí Minh từ mọi vùng đất nước. Điều đáng chú ý là các tỉnh phía Bắc cũng đóng góp một tỷ lệ không nhỏ vào dòng người nhập cư vào thành phố.Nếu thời kỳ 1984-1989, cả 3 vùng Trung Du Miền núi, Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ chiếm 19,3% ; thời kỳ 1994-1999 đã tăng lên 27,4% thì đến năm 2004 đã tăng lên đến 38,5%. Trong đó Đồng bằng sông Hồng là 17,8% chiếm tỷ lệ cao nhất. - Địa bàn sinh sống: Người nhập cư đến thành phố sống hầu hết ở các quận, huyện, tập trung đông nhất ở quận 8, Tân Bình, Bình Thạnh…Nhìn chung, các quận huyện có điều kiện cư trú dễ dàng, tiện làm việc…là những nơi thu hút di dân tự do cao. - Độ tuổi và giới tính: Đa số người nhập cư là trẻ tuổi và ngày càng trẻ. Đa số người nhập cư trong độ tuổi lao động, có tác động thay đổi cơ cấu dân số theo hướng trẻ hoá, đem lại những lợi ích về tiềm năng lao động và nguồn nhân lực cho thành phố. Bảng 2.12. Tỷ lệ giới tính chia theo nhóm tuổi Nhóm tuổi tỷ lệ 15-19 39.0 20-24 72.7 25-29 78.0 30-34 81.9 35-39 103.3 40-44 48.0 45-49 83.3 50-54 200.0 55-59 100.0 Tổng số 72.0 Nếu thời gian trước nam giới di cư nhiều hơn nữ giới thì gần đây nữ giới đi nhiều hơn nam và đặc biệt nữ ở độ tuổi trẻ và điều rất đáng lưu ý là nữ trẻ từ các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long. - Trình độ học vấn và chuyên môn: Nhìn chung trình độ học vấn, chuyên môn có sự suy giảm nhất định. Có thể hiểu rằng trước kia người nhập cư được chọn lọc hơn để đủ tiêu chuẩn để nhập hộ khẩu, còn bây giờ di chuyển tự do hơn, số người nhiều hơn và ít chọn lọc hơn. Trong thời kỳ bao cấp, đặc biệt một bộ phận dân nhập cư là cán bộ được điều động có trình độ học vấn và tay nghề cao góp phần hình thành nguồn nhân lực có chất lượng cao cho thành phố. Bảng 2.13. Phân bố phần trăm trình độ học vấn cao nhất Trình độ học vấn cao nhất đã đạt được tỷ lệ phần trăm nam nữ tổng số Từ lớp 1 đến lớp 9 54.4 69.9 63.4 Từ lớp 10 đến lớp 12 40.8 28.0 33.4 Cao đẳng 1.0 0.5 0.7 Đại học trở lên 2.9 1.4 2.0 Không biết đọc, biết viết 0.5 0.2 0.3 Không xác định 0.5 0.0 0.2 Tổng số 100.0 100.0 100.0 Số người 419 582 1001 Nguồn: Điều tra di cư Việt Nam năm 2004 Theo kết quả điều tra đã cho ở bảng trên ta thấy, trình độ học vấn của dân di cư vào thành phố Hồ Chí Minh chủ yếu có trình độ văn hoá cấp 2, 3 chiếm tỷ trọng trên 50%. Trong đó trình độ văn hoá của nữ giới thấp hơn nam (trình độ cấp 3 nam: 40.8%, nữ: 28%). Còn tỷ lệ học đại học và cao đẳng chiếm tỷ lệ rất nhỏ khoảng 2%. - Về loại hình đang làm: Làm việc trong khu vực cá thể chiếm tỷ lệ cao, một phần nhỏ số người di cư làm trong đơn vị quốc doanh, Nhà nước. Nói chung, di dân có thể tìm được việc làm ở đô thị một cách nhanh chóng nhưng tính chất công việc chủ yếu là tạm thời, bấp bênh, không thật sự ổn định. Tỷ lệ di dân nữ tìm được việc làm thường thấp hơn so với nam giới; ngoài ra, số lao động nữ làm công việc nội trợ chiếm một tỷ lệ đáng kể. - Nguyên nhân di cư đến thành phố: các nguyên nhân đoàn tụ, tìm việc làm là nguyên nhân chủ yếu. Ta có bảng kết quả điều tra: Bảng 2.14. Phân bố phần trăm lý do di chuyển chính Lý do di chuyển chính Tỷ lệ phần trăm Nam Nữ Tổng số Kinh tế 77.3 81.4 79.7 Học tập 8.4 2.7 5.1 Gia đình 8.6 11.0 10.0 Lý do khác 5.7 4.8 5.2 Tổng số 100.0 100.0 100.0 Số người 419 582 1001 Theo kết quả điều tra cho ở bảng trên ta thấy lý do kinh tế (tìm việc làm) chiếm tỷ lệ cao nhất 79,7% (nam: 77.3%, nữ: 81,4%). Các nguyên nhân khác chiếm tỷ lệ nhỏ. - Tình trạng cư trú: Chủ yếu là đi thuê chiếm 81,6% và 17,5% hộ có nhà riêng. Diện tích cư trú rất thấp và không đảm bảo; nhiều nơi phải sống trong những bãi rác, nhiều nơi không đảm bảo về mặt vệ sinh, an toàn. - Thu nhập và đời sống của người lao động: Qua cuộc khảo sát cho thấy, cũng giống như ở Hà Nội số người di cư vào thành phố có mức thu nhập cao hơn ở quê cũ và mức sống cũng tốt hơn. So sánh mức thu nhập được trình bầy ở bảng sau: Bảng 2.15. Phân bố phần trăm so sánh mức thu nhập trước và sau khi di chuyển So sánh mức thu nhập Tỷ lệ phần trăm Nam Nữ Tổng số Cao hơn nhiều 17.7 15.6 16.5 Cao hơn 71.1 68.5 69.6 Vẫn như vậy 9.6 14.2 12.2 Kém hơn 1.6 1.8 1.7 Kém hơn nhiều 0.0 0.0 0.0 KXĐ 0.0 0.0 0.0 Tổng số 100.0 100.0 100.0 Số lượng 384 508 892 CHƯƠNG 3. PHÂN TÍCH MỐT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DI CƯ 3.1. Giới thiệu bộ số liệu Số liệu dùng cho phân tích phần này là Bộ số liệu điều tra mức sống dân cư năm 2004. Trong điều tra năm 2004 số mẫu được giảm đi một nửa, tuy nhiên vẫn đảm bảo đủ cho đại diện theo tỉnh và theo vùng. Về cơ bản, bảng hỏi của năm 2001 và 2004 là giống nhau. Số lượng mẫu được lặp lại giữa hai cuộc điều tra là khoảng 21 ngàn hộ gia đình. Phiếu hỏi cho hai cuộc điều tra sau nhìn chung được rút gọn đi nhiều, tuy nhiên vẫn đảm bảo độ chi tiết khi phân tích về lao động và việc làm của hộ. Phiếu hỏi xã/phường với trên 2500 xã, phường bao hàm rất nhiều nội dung khác nhau về cơ sở hạ tầng của xã, các chương trình, dự án hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội, các chỉ tiêu kinh tế xã hội cơ bản của xã/phường. 3.2. Xây dựng mô hình: Với bộ số liệu điều tra mức sống dân cư năm 2004, mô hình đề nghị là mô hình sau: DC = F(T, CVL, TSN, GT,HN) DC: là biến phụ thuộc nó thể hiện thành viên trong hộ có di cư hay không. Để xác định được cá nhân có di cư hay không ta sử dụng biến “tháng ở hộ” có sẵn trong bộ số liệu. Ta giả thiết rằng nếu thành viên trong hộ không ở trong hộ lớn hơn một tháng thì được coi là di cư; có nghĩa là tháng ở hộ của thành viên lớn hơn 11 thì không được coi là di cư (biến dicu = 0), ngược lại nhỏ hơn 11 thì được coi là di cư (biến dicu = 1). Các biến độc lập: - T: tuổi của thành viên trong hộ -CVL: thể hiện tình trạng việc làm của thành viên trong hộ. Nếu thành viên trong hộ có việc làm thì biến “covieclam” = 1 ngược lại biến “covieclam” = 2. - TSN: là tổng số thành viên trong hộ. - HN: thể hiện tình trạng hôn nhân của thành viên trong hộ Do biến phụ thuộc là biến định tính, nhận hai giá trị có thể có là 0 và 1 nên ta sử dụng mô hình logit để ước lượng mô hình. Do vậy em đề xuất mô hình sau: Pi = Pi(DC=1/X2 = Xi) Trong đó DC = 1 là biến dicu Xi là các biến độc lập: t, hn, cvl, gt, tsn P là xác suất xảy ra di cư, P thuộc khoảng (0,1) 3.3. Ước lượng mô hình Với sự trợ giúp của phần mềm EVIEWS ta có kết quả ước lượng như sau: Sử dụng phương pháp logit ta có kết quả sau: Bảng 3.1: Kết quả ước lượng mô hình Dependent Variable: DC Method: ML - Binary Logit (Quadratic hill climbing) Date: 04/22/08 Time: 21:26 Sample: 1 9035 Included observations: 9031 Excluded observations: 4 Convergence achieved after 7 iterations Covariance matrix computed using second derivatives Variable Coefficient Std. Error z-Statistic Prob. CVL 0.064197 0.131394 0.488587 0.6251 GT -0.177958 0.125143 -1.422031 0.1550 HN -0.630494 0.158895 -3.967991 0.0001 T -0.000212 0.003158 -0.067026 0.9466 TSN -0.030813 0.037251 -0.827177 0.4081 C -1.841494 0.461198 -3.992852 0.0001 Mean dependent var 0.029454 S.D. dependent var 0.169085 S.E. of regression 0.168988 Akaike info criterion 0.264671 Sum squared resid 257.7278 Schwarz criterion 0.269394 Log likelihood -1189.122 Hannan-Quinn criter. 0.266278 Restr. log likelihood -1199.673 Avg. log likelihood -0.131671 LR statistic (5 df) 21.10226 McFadden R-squared 0.008795 Probability(LR stat) 0.000775 Obs with Dep=0 8765 Total obs 9031 Obs with Dep=1 266 Nhìn vào bảng 3.1 ta thấy kết quả ước lượng theo mô hình lý thuyết không được như mong đợi : Trong năm 2004 các biến đưa vào mô hình chỉ có biến HN mới có ảnh hưởng đến tình trạng di cư, còn các biến còn lại để không có ý nghĩa vì giá trị Prob > 0.05. Trong mô hình Logit chúng ta không nghiên cứu ảnh hưởng trực tiếp của các biến độc lập Xi đối với DC mà xem xét ảnh hưởng của Xi đến xác suất để Y nhận giá trị bằng 1 hay kì vọng của DC tại giá tại giá trị trung bình của các biến phụ thuộc. Ảnh hưởng của Xi đến Pi được tính như sau: Ta có bảng giá trị trung bình của các biến phụ thuộc và bảng mức thay đổi của xác suất khi một biến độc lập tăng một đơn vị, các biến khác giữ nguyên Bảng 3.2. Bảng giá trị trung bình của biến độc lập CVL GT HN T TSN Mean 1.328535 1.503156 2.180268 28.99900 4.392758 Median 1.000000 2.000000 2.000000 24.00000 4.000000 Maximum 2.000000 2.000000 5.000000 95.00000 20.00000 Minimum 1.000000 1.000000 1.000000 0.000000 1.000000 Std. Dev. 0.469707 0.500018 0.516239 19.78236 1.726604 Skewness 0.730134 -0.012623 2.359897 0.707686 0.786120 Kurtosis 1.533096 1.000159 11.26399 2.767946 5.439506 Jarque-Bera 1612.106 1505.167 34080.74 774.0795 3169.552 Probability 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 Sum 11998.00 13575.00 19690.00 261890.0 39671.00 Sum Sq. Dev. 1992.237 2257.660 2406.524 3533815. 26919.89 Observations 9031 9031 9031 9031 9031 Bảng 3.3. Bảng mức thay đổi xác suất Ảnh hưởng của thay đổi biến độc lập Tên biến Giá trị trung bình * P(1-p) Hệ số chặn -1.841494 -1.841494 CVL 1.328535 0.064197 0.085288 0.001657 GT 1.503156 -0.177958 -0.00524 -0.004593378 HN 2.180268 -0.630494 -0.94773 -0.016274015 T 28.99900 -0.000212 -0.00046 -5.47206E-06 TSN 4.392758 -0.030813 -0.89355 -0.000795332 ∑ -3.603186 p 0.02651461 p(1-p) 0.025812 Ta có thể giải thích mức xác suất thay đổi, chẳng hạn, với tổng số người trong hộ bình quân là 4 người, nếu tổng số người trong hộ tăng thêm một người thì mức xác suất tham gia di cư giảm đi 0.00079. Ta thấy hầu hết các biến đều có quan hệ ngược với tình trạng di cư, khi các biến độc lập tăng lên một đơn vị thì xác suất tham gia di cư đều giảm. Tuy nhiên cách tính trên chỉ mang tính ước tính vì trung bình các biến không tương ứng với bất kỳ giá trị nào. 3.3.2. Cải tiến mô hình. Ta thấy mô hình trên không phù hợp vì nhiều biến độc lập không có ý nghĩa, vì vậy ta phải xem xét cải tiến mô hình. Tư tưởng cải tiến mô hình bằng cách đưa thêm các biến ngoài mô hình hoặc bỏ bớt một số biến không có ý nghĩa đối với mô hình. Ta có thể bỏ biến CVL và biến T, hai biến này hầu như trên thực tế ít có ảnh hưởng hơn các biến còn lại . Sau cải tiến là có kết quả sau: Dependent Variable: DC Method: ML - Binary Logit (Quadratic hill climbing) Date: 04/23/08 Time: 03:23 Sample: 1 9035 Included observations: 9031 Excluded observations: 4 Convergence achieved after 7 iterations Covariance matrix computed using second derivatives Variable Coefficient Std. Error z-Statistic Prob. GT -0.178309 0.125022 -1.426220 0.1538 HN -0.630209 0.158888 -3.966380 0.0001 TSN -0.031007 0.037242 -0.832586 0.4051 C -1.761161 0.415692 -4.236697 0.0000 Mean dependent var 0.029454 S.D. dependent var 0.169085 S.E. of regression 0.168972 Akaike info criterion 0.264255 Sum squared resid 257.7347 Schwarz criterion 0.267403 Log likelihood -1189.243 Hannan-Quinn criter. 0.265326 Restr. log likelihood -1199.673 Avg. log likelihood -0.131685 LR statistic (3 df) 20.85976 McFadden R-squared 0.008694 Probability(LR stat) 0.000113 Obs with Dep=0 8765 Total obs 9031 Obs with Dep=1 266 Sau khi cải tiến mô hình các kết quả ước lượng đều không như ta mong muốn, các biến độc lập đều không có ý nghĩa do prob > 0.05. Chỉ có biến HN (hôn nhân) là có ý nghĩa thống kê với Prob < 0.05. Điều này có nghĩa là tại thời điểm khảo sát hôn nhân là yếu tố chủ yếu tác động đến di cư. Tuy nhiên, mô hình trên không 3.4. Một số kiến nghị về giải pháp. * Chính sách phát triển bền vững và đồng đều giữa các vùng đô thị và nông thôn. Sự cân bằng phát triển giữa nông thôn và đô thị là đình hướng và mục tiêu phát triển của một quốc gia. Sự di chuyển hợp lý giữa dân cư đô thị và nông thôn phụ thuộc vào chiến lược và chương trình đô thị hoá, công nghiệp hoá và phát triến nông thôn. - Phát triển hợp lý các đô thị loại trung bình - Phát triển mạnh các loại đô thị nhỏ, thị trấn thị tứ. -Nhà nước nên tập trung đầu tư cho hệ thống giao thông liên vùng, liên tỉnh được tốt, đồng thời khuyến khích phát triển khắp nơi cùng hệ thống bảo hiểm tốt, như thế đô thị sẽ không còn là nơi hấp dẫn mạnh mẽ người di cư tìm việc làm và mưu cầu cuộc sống tốt hơn. * Những giải pháp cụ thể đối với người lao động tự do nông thôn – đô thị. - Đối với những người lao động tự do nông thôn ra thành phố tìm việc làm theo thời vụ thì nên quản lý theo các điểm sau: + Đăng ký, quản lý theo chế độ tạm trú và lập phiếu đăng ký lao động. + Tổ chức hệ thống văn phòng dịch vụ giới thiệu việc làm cung ứng lao động, thông tin thị trường theo đơn vị quản lý hành chính ở các thành phố nhằm hạn chế và từng bước giải toả các tụ điểm của thị trường lao động tự phát. + Phối hợp quản lý các đối tượng hành nghề tự do với chính sách quản lý nhân khẩu, nhà ở, vệ sinh đô thị, trật tự công cộng theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tự do hành nghề theo pháp luật. + Có biện pháp quản lý hành chính chặt chẽ đối với số người thuộc đối tượng xã hội phức tạp. Khi cần thiết phải xử lý theo pháp luật và buộc họ phải trở lại địa phương. - Những biện pháp ở nông thôn. + Các địa phương có người di dân tự do cần tham gia và giải quyết vấn đề này. Tỉnh cần chỉ đạo huyện, xã nắm chắc phân loại người có kinh tế khá và nghèo, thiếu đói. Cần điều kiện giải quyết vốn vay ngắn hạn và trung hạn cho các hộ gia đình có sức và thù lao lao động nhưng còn thiếu đói do không có vốn. + Giúp giống, vốn, kĩ thuật để họ phát triển sản xuất. + Các cấp chính quyền phải quản lý chặt chẽ về nhân khẩu, hộ khẩu ở địa phương. Phải có kế hoạch tổ chức sắp xếp sản xuất, tạo công ăn việc làm cho bà con nông dân. Đối với những xã thuần nông, nghiên cứu thay đổi giống, chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, tăng thêm vụ ở những nơi có thể được. + Xây dựng các tổ chức kinh tế xoá đói, giảm nghèo, tổ chức sản xuất tiêu thụ sản phẩm cung cấp cây trồng vật nuôi. KẾT LUẬN Di cư là một vấn đề lớn trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, có tầm quan trọng quốc gia cũng như liên quan mật thiết đến các địa phương, nơi đi cũng như nơi đến và nó liên quan đến nhiều lĩnh vực từ kinh tế đến văn hoá, xã hội. Thông qua phân tích thực trạng, nguyên nhân, tác động của di cư ta thấy: Đại bộ phận những người tới các đô thị tìm và làm việc là những người trẻ khỏe, trình độ văn hóa ở cấp 2, 3 là chủ yếu; thường là những người trong độ tuổi lao động. Nguyên nhân chủ yếu khiến họ di cư là do điều kiện kinh tế khó khăn, thiếu hụt các cơ hội có việc làm và thu nhập quá thấp ở vùng nông thôn. Lực lượng lao động di chuyển này đều thể hiện tính hai mặt tích cực và tiêu cực đối với nông thôn và đô thị trên góc độ lao động việc làm và các vấn đề xã hội khác. Di chuyển lao động từ nông thôn-thành thị là một hiện tượng có quy luật tự nhiên nên không thể ngăn chặn nó được mà chỉ có thể điều tiết dòng di cư này. Để điều tiết dòng di cư này cần có những chính sách tổng hợp, hợp lý nhằm phát triển một cách đồng đều giữa nông thôn và đô thị. Để hiểu rõ hơn tình hình di cư thì cần phải xem xét các yếu tố tác động đến quyết định di cư, bằng việc sử dụng mô hình kinh tế lượng ta có thể xem xét các yếu tố nào tác động đến di cư và biến nào không ảnh hưởng. Đánh giá di cư bằng thực nghiệm dễ gặp khó khăn, các biến thường đo lường không chính xác như biến thu nhập, chênh lệch thu nhập giữa các vùng, do vậy mô hình vẫn chưa thể hiện được chính xác so với thực tế. Khi đã có số liệu đầy đủ và quan sát tình trạng di cư trong thời gian tới, ta có thể đánh giá đầy đủ hơn về tình trạng di cư và xây dựng được mô hình phù hợp. Trong quá trình thực tập, mặc dù có nhiều khó khăn như hạn chế về kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tiễn, bên cạnh đó do hạn chế, sai sót về mặt số liệu thu thập được nhưng do dược sự giúp đỡ tận tình của thầy và cán bộ hướng dẫn thực tập em đã hoàn thành xong báo cáo thực tập tốt nghiệp. Với mô hình em đưa ra và các kết quả thu được từ đề tài sẽ không tránh khỏi được những hạn chế thiếu sót nhất định. Vì vậy em kính mong nhận được sự góp ý từ các thầy cô giáo. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tổng cục Thống kê (2004), Điều tra di cư năm 2004: Những kết quả chủ yếu, Nxb Thống kê, năm 2004. 2. Chương trình nghiên cứu VN-HL, Kết quả nghiên cứu các đề án VNPR tóm tăt báo cáo khoa học - tập 2, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 3. Vũ Quế Hương, Di dân tự do đến đô thị Hà Nội và ảnh hưởng kinh tế-xã hội của nó, Luận án tiến sĩ địa lý, Hà Nội, năm 2000. 4. Tạp chí Dân số và Phát triển, số 3, năm 2006 (trang 14 – 15). 5. Tạp chí Dân số và Phát triển, số 6, năm 2006 (trang 12 – 15).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12867.doc
Tài liệu liên quan