Những ưu điểm nổi bật có thể làm cho đạo Phật trên lý thuyết trở thành một giá trị tinh thần siêu việt. Nhưng trên thực tế đạo Phật, đặc biệt Phật giáo Việt Nam đâu đó vẫn còn tồn tại một số hạn chế đó là : Đạo Phật còn mang nặng hình ảnh một tôn giáo khó hiểu, phức tạp, một phần vì quá đa dạng, quá nhiều tông phái, đôi khi mâu thuẫn lẫn nhau. Người mới đến với đạo Phật như lạc vào một mê cung, một khu rừng rậm, giữa những đạo Phật Nguyên Thủy, Thiền, Tây Tạng, Tịnh Độ, Duy Thức, Thiên Thai, Nhật Liên, v.v., không biết nên đi về hướng nào. Người ta còn có thể tự hỏi rằng có nhiều đạo Phật, hay là có những đạo Phật tuy mang tên là đạo Phật nhưng không phải là đạo Phật. Đạo Phật bị coi là đạo Phật chủ trương khổ hạnh, xa lánh cuộc đời, hơi khó áp dụng rộng rãi trong đời sống hiện đại sôi động, đặc biệt là đối với giới trẻ vì thật khó để diệt dục trong khi cuộc đời đầy rẫy những lôi cuốn, những thú vui cần tận hưởng, làm thế nào để định tâm trong khi cuộc sống quay cuồng, tất bật, hàng ngày phải vật lộn với xã hội?
33 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 902 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích, đánh giá tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng yêu nhau phải xa nhau), oán tăng hội (oán ghét nhau nhưng phải sống gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn nhưng không được), ngũ thụ uẩn (năm yếu tố uẩn tụ lại nung nấu làm khổ sở).
Tập đế hay nhân đế.
Phật giáo cho rằng cuộc sống đau khổ là có nguyên nhân. Để cắt nghĩa nỗi khổ của nhân loại, Phật giáo đưa ra thuyết “thập nhị nhân duyên” đó là 12 nguyên nhân và kết quả nối theo nhau cuối cùng dẫn đến các đau khổ của con người: 1. vô minh; 2.hành; 3. thức; 4 .danh sắc; 5.lục nhập; 6. xúc; 7. thụ; 8. ái; 9. thủ; 10. hữu; 11 .sinh; 12 .lão-tử. Trong đó vô minh là nguyên nhân đầu tiên.
Diệt đế,
Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ có thể tiêu diệt để đạt tới trạng thái Niết bàn.
Đạo đế
Đạo đế chỉ ra con đường tiêu diệt cái khổ. Đó là con đường “tu đạo”, hoàn thiện đạo đức cá nhân gồm 8 nguyên tắc (bát chính đạo) đó là: 1 chính kiến (hiểu biết đúng tứ đế); 2 chính tư (suy nghĩ đúng đắn); 3 chính ngữ (lời nói đúng đắn); 4 chính nghiệp (giữ nghiệp không tác động xấu); 5 chính mệnh (giữ ngăn dục vọng); 6 chính tinh tiến (rèn luyên tu lập không mệt mỏi); 7 chính niệm (có niềm tin bền vững vào giải thoát); 8 chính định (tập trung tư tưởng cao độ).
Tám nguyên tắc trên có thể thâu tóm vào (tam học) tức là 3 điều cần học tập và rèn luyện là giới – định – tuệ. Giới là giữ cho thân, tâm thanh tịnh trong sạch. Định là thu tâm, nhiếp tâm để cho sức mạnh của tâm không bị ngoại cảnh làm xáo động. Tuệ là trí tuệ. Phật giáo coi trọng khai mở trí tuệ để thực hiện giải thoát.
Tóm lại, bốn sự thật mà đức Phật đã từng kinh qua chứng đắc và đem nó ra để dạy lại các đệ tử nên thực hành như chính Ngài nếu muốn thoát khỏi khổ đau.
Sự thật thứ nhất là khổ đau, đó là kết quả bản chất của chính sự sống mà chúng sinh hữu tình đang gánh chịu, nỗi khổ đau này, những buồn vui của nó chính trong cuộc sống của mỗi chúng sinh về tâm và vật, chúng luôn luôn mang bộ mặt bất toàn giả tạm và không làm vừa lòng mỗi chúng ta, do vô thường và huyễn hóa. Về sự thật này, thì chúng ta phải hiểu và biết nó như một sự kiện như thật, một cách chính xác và đầy đủ .
Sự thật thứ hai là Nguồn gốc tập khởi của khổ đau, tức chỉ cho nguyên nhân mọi thứ dục vọng, mọi khát khao của ái, và tương ứng với tất cả những đam mê xấu xa bất tịnh khác liên quan với vô minh, đưa chúng ta đến kết quả đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi ba cõi. Ở đây, chúng ta không những chỉ hiểu sự kiện này một cách như thật chính nó thôi, mà chúng ta còn phải nỗ lực từ bỏ, loại bỏ nó, bằng cách diệt trừ và nhổ nó tận gốc rễ để nó không còn là nguyên nhân trực tiếp đưa chúng ta đến hậu quả khổ đau, trong hiện tại và tương lai nữa.
Sự thật thứ ba là sự Chấm dứt khổ đau, đạt Niết-bàn, chân lý tuyệt đối, hay là thực tại tối hậu, là kết quả sau khi chúng sinh thực hiện con đường trung đạo. Ở đây, việc thực hành của chúng ta là phải thực chứng nó , bằng vào những nỗ lực cả thân và tâm trong việc thực hiện thanh tịnh hóa ba nghiệp.
Sự thật thứ tư là Con đường đưa đến thực chứng Niết-bàn. Ở đây, chúng ta nói đến vấn đề con đường đưa đến thực chứng, tức là nói đến con đường thực hành qua Bát chính đạo, không chỉ hiểu biết về con đường, dù có thấu triệt bao nhiêu đi chăng nữa thì cũng không ích lợi gì. Trong trường hợp này, việc của chúng ta là phải đi theo con đường ấy và tuân giữ nó về hai mặt thân và tâm, làm cho ba nghiệp thanh tịnh. Có như vậy, chúng ta mới đạt được mọi sự an lạc ngay trong cuộc sống này, mà không cần tìm đâu xa ngoài thế gian này.
Chương 3: Những đặc điểm nổi bật của Phật giáo
Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy, chúng ta chỉ có cặp mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên, một là tất cả, chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất cả đặc điểm của Phật giáo.
1. Thứ nhất, đặc điểm của Phật giáo là “In như sự thật”:
Lý thuyết, phương pháp, kết quả đều hợp lý, đều như thật. Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm trung thực ấy. Đạo Phật chỉ thấy và chỉ nói những sự thật mà sự vật có, không thêm không bớt. Đạo Phật, do đó, cấm đoán những tín ngưỡng và hành động không phát sinh từ sự hiểu biết như thật, và không công nhận những kết quả của tín ngưỡng mê mờ, hành động manh động là hợp lý. Cho nên đạo Phật cũng gọi là Đạo Như Thật.
2. Thứ hai, đạo Phật giáo rất “tôn trọng sự sống”.
Không sát sinh, ăn chay, là những điều tượng trưng cụ thể cho đặc điểm ấy. Đạo Phật xem sự sống trên tất cả. Hết thảy cái gì gọi là có giá trị là phải bảo vệ sự sống ấy. Giết sự sống để nuôi sự sống là mê muội mà vì tham sống nên hại sự sống cũng là vô minh. Cho nên tôn trọng sự sống không những bằng cách giúp nhau để sống còn, mà còn có khi phải hy sinh sự sống để bảo vệ sự sống, nghĩa là có khi tiêu cực như ăn chay để cứu muôn loài, có khi tích cực như 'thay khổ cho chúng sinh' để cứu vạn loại. Đạo Phật đặc biệt chú trọng và nêu cao chủ nghĩa lợi tha, nhưng chữ lợi ấy là phải hướng về mục đích tôn trọng sự sống.
3. Thứ ba, đạo Phật chỉ thừa nhận sự “tương quan sinh tồn”.
Đạo Phật dạy cho người ta thấy ở đời phải tự lập chứ không phải biệt lập. Phật tử không thấy, không tạo nên một đối phương. Vũ trụ là một lò tương quan; không có gì là trung tâm, không có gì là phụ thuộc, hay ngược lại. Bởi thế cho nên phân ly là tự tạo một ung nhọt, mà chiến đấu (theo nghĩa hẹp) chỉ là tương đối. Chiến đấu phải là một hành động vì bảo vệ sự sinh tồn mà bất đắc dĩ phải áp dụng trong trường hợp bất đắc dĩ. Nếu biến sự bất đắc dĩ ấy thành sự tuyệt đối cần thiết trong mọi trường hợp, thì chiến đấu sẽ trở thành chiến tranh.
4. Thứ tư, đạo Phật xác nhận “con người là trung tâm của xã hội”.
Đạo Phật không hoàn toàn duy tâm, cũng không hoàn toàn duy vật, mà tất cả đều do con người phát sinh và đều phát sinh vì con người. Kết luận này thực tế ở đâu cũng rõ rệt cả. Trên thế giới loài người này không có gì tự nhiên sinh ra hay từ hư không rơi xuống, mà đều do năng lực hoạt động của con người tạo thành. Năng lực hoạt động của con người tạo tác chi phối tất cả. Tất cả khổ hay vui, tiến hóa hay thoái hóa, là đều do con người dã man hay văn minh. Người là chúa tể của xã hội loài người, xã hội loài người không thể có chúa trời thứ hai.
5. Thứ năm, đạo Phật chú trọng “đối trị tâm bệnh con người trước hết”.
Lý do rất dễ hiểu. Con người là trung tâm điểm của xã hội loài người, xã hội ấy tiến hóa hay thoái hóa là hoàn toàn do hoạt động con người chi phối; mà hoạt động con người lại do tâm trí con người chủ đạo, vậy xã hội phản ánh trung thành của tâm trí con người. Cho nên muốn cải tạo xã hội, căn bản là phải cải tạo con người, cải tạo tâm bệnh của con người. Tâm bệnh con người nếu còn độc tài, tham lam, thì xã hội loài người là địa ngục, tâm bệnh con người được đối trị rồi thì hoạt động con người rất sáng suốt mà xã hội con người, kết quả của hoạt động ấy, cũng rất cực lạc.
6. Thứ sáu, mục đích đạo Phật là “đào luyện con người thành bi, trí, dũng”.
Bi là tôn trọng quyền sống của người khác. Trí là hành động sáng suốt lợi lạc. Dũng là quyết tâm quả cảm hành động. Dũng không có bi và trí thì sẽ thành tàn ác và manh động. Trí không có bi và dũng thì sẽ trở thành gian xảo và mộng tưởng. Bi không có trí và dũng sẽ thành tình cảm và nhút nhát. Bi là tư cách tiến hóa, trí là trí thức tiến hóa, dũng năng lực tiến hóa. Con người như thế là con người mới, căn bản của xã hội mới.
7. Thứ bảy, tư tưởng của đạo Phật là “kiến thiết một xã hội mới” mà căn bản là con người mới.
Cho nên tranh đấu cho xã hội mới ấy, trở lại vấn đề, là phải chiến thắng chính mình trước hết. Con người tự chiến thắng con người, nghĩa là cái 'nhân cũ' (bóc lột, đàn áp, độc tài, xâm lược) không còn nữa, thì kết quả được cái 'quả mới' là là một xã hội mới. Trong xã hội ấy quyền sống tuyệt đối bình đẳng như sự sống: Bình đẳng trong nhiệm vụ, bình đẳng trong hưởng thụ.
8.Thứ tám, đạo Phật là “tiến lên vô thượng giác”.
Đào luyện một con người mới, kiến thiết một xã hội mới rồi, không phải mục đích của đạo Phật cứu cánh ở đó. Cao xa, đạo Phật còn hướng dẫn con người lên chóp đỉnh của sự tiến hóa là địa vị vô thượng giác, địa vị vô minh toàn diệt, trí tuệ toàn giác, địa vị Phật đà.
9. Thứ chín, đạo Phật là đạo Phật dạy phải “tự lực giải thoát”.
Đấy là một tinh thần tuyệt đối cần thiết. Đức Phật chỉ là một đạo sư dẫn đạo con đường sáng cho chúng ta. Còn chúng ta phải tự thắp đuốc trí tuệ của mình mà soi đường, phải tự động cặp chân năng lực của mình mà đi. Con người mới là phải tự rèn luyện; xã hội mới là phải tự kiến thiết; vô thượng giác là phải tự tu chứng. Tự lực giải thoát là con đường duy nhất của mười phương các đức Phật Bồ-Tát. An lạc không phải cầu xin, trí giác không do cầu hồ. Một điều nữa, nước trong bản chất là nước đục, hoa sen không mọc trên cát vàng, cho nên người trong đạo Phật phải tự lực giải thoát ngay trong cảnh giới đau khổ mê muội. Lánh ngoài thế gian đau khổ để tìm giác ngộ, thì kinh dạy, đó là đi tìm sừng con thỏ. Phật tử không có đứng vào hàng ngũ thông minh mà phải hướng về lớp người ngu dốt dìu dắt họ. Hoa Sen muôn thuở người ta chỉ tìm thấy trong ao bùn, tuệ giác vô thượng chỉ có bởi chúng sinh.
10. Thứ mười, đạo Phật là “hiện chứng thể nghiệm”.
Đức Phật chỉ hướng dẫn chúng ta, chứ chân lý không phải là thứ đem quay phim cho người thấy được. Đức Phật là đạo sư, nhưng trí giác không phải là thứ ai dạy khôn cho ai. Cho nên đối với chân lý tối cao, ta phải tự lực thể nghiệm. Sự tự lực thể nghiệm ấy, không những áp dụng với tinh thần tự lực giải thoát mà thôi, mà còn đặc biệt chú ý đến sự hiện chứng. Thế nào gọi là sự hiện chứng? Ví dụ con đường đi đến Mai thôn có mười đoạn. Người đi không ham, không thể ham nhảy vọt đến Mai thôn mà không qua mười đoạn đường, mà phải đi từng bước, bước từng đoạn, được một đoạn là đến Mai thôn một đoạn. Con đường vô thượng giác cũng vậy, nương theo lời Phật chỉ dẫn, ta phải bước từng bước, hiện chứng đến đâu thể nghiệm chân lý đến đó, cho đến khi toàn giác. Đức Phật tạo cho ta cái thang, nhưng không kéo giàn hoa xuống hay đẩy thẳng ta lên được. Ta phải tự lực mà trèo từng nấc thang lên giàn hoa thiên lý. Trèo được nấc nào là tự thể nghiệm chân lý nấc ấy. Đối với chân lý chưa hiện chứng, chúng ta chỉ nói học, không nói biết. Tinh thần tu chứng đạo Phật là thế.
Do tất cả đặc điểm trên đây, chúng ta thấy đạo Phật không phải chỉ là một tôn giáo. 'Đạo Phật là tất cả', đó là một đặc điểm vừa cuối cùng vừa trước hết của đạo Phật. Cho nên Phật tử không thực hành đạo Phật bằng cách để hoạt động của mình một phần chính vào sự lễ bái cầu nguyện. Phật tử thực hành đạo Phật là áp dụng vào đời sống, áp dụng vào tất cả mọi hoạt động. Căn bản của đạo Phật là như thật, tinh thần đạo ấy là bi, trí, dũng. Sống trong căn bản và tinh thần ấy, Phật tử tự nhiên không thể phủ nhận sự tàn sát, sự manh động và sự nô lệ. Cho nên họ phải tự lực hành động để thượng thượng tăng tiến. Và hành động ấy không có lãnh vực trong không gian, không có giới hạn trên thời gian, không có phạm vi trong tổ chức, không có khu phân trong trường hợp. Ở đâu và lúc nào, với ai và cảnh nào, Phật tử cũng áp dụng căn bản và tinh thần bi, trí, dũng của đạo Phật vào để tác động và chi phối, hầu tạo thành một thế giới tịnh độ. Cho nên đạo Phật bao trùm tất cả. Nói ngược lại, tất cả có tinh thần đạo Phật mới tốt đẹp.
Chương 4: Những ảnh hưởng của Phật giáo
Từ khi du nhập Việt Nam đến nay, Phật giáo đã tồn tại và gắn liền với lịch sử dân tộc, nó ngấm sâu vào tư duy và trở thành một bộ phận văn hoá, nếp sống của người Việt.
I. Ảnh hưởng của Đạo Phật đến đời sống văn hoá-xã hội:
1.Về mặt tư tưởng triết học và đạo lý
a. Về tư tưởng
Tư tưởng hay đạo lý căn bản của Phật Giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ Diệu Ðế và Bát chính Ðạo. Ba đạo lý này là nền tảng cho tất cả các tông phái phật giáo, Nguyên Thủy cũng như Ðại Thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt.
Ðạo lý Duyên Khởi là một cái nhìn khoa học và khách quan về thế giới hiện tại. Duyên khởi nghĩa là sự nương tựa lẫn nhau mà sinh tồn và tồn tại. Không những các sự kiện thuộc thế giới con người như thành, bại, thịnh, suy mà tất cả những hiện tượng về thế giới tự nhiên như cỏ, cây, hoa, lá cũng điều vâng theo luật duyên khởi mà sinh thành, tồn tại và tiêu hoại.
Có 4 loại duyên cần được phân biệt: thứ nhất là Nhân Duyên. Có thể gọi là điều kiện gần gũi nhất, như hạt lúa là nhân duyên của cây lúa. Thứ hai là Tăng Thượng Duyên tức là những điều kiện có tư liệu cho nhân duyên ví như phân bón và nước là tăng thượng duyên cho hạt lúa. Thứ ba là Sở Duyên Duyên tức là những điều kiện làm đối tượng nhận thức, thứ tư là Ðẳng Vô Gián Duyên tức là sự liên tục không gián đoạn, cần thiết cho sự phát sinh trưởng thành và tồn tại.
Luật nhân quả cần được quan sát và áp dụng theo nguyên tắc duyên sinh mới có thể gọi là luật nhân quả của Ðạo Phật, theo đạo lý duyên sinh, một nhân đơn độc không bao giờ có khả năng sinh ra quả, và một nhân bao giờ cũng đóng vai trò quả, cho một nhân khác.
Về giáo lý nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo của Ðạo Phật đã trở thành nếp sống tín ngưỡng hết sức sáng tỏ đối với người Việt Nam có hiểu biết, có suy nghĩ. Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, dù tối thiểu thì đó cũng là kết quả tự nhiên âm thầm của lý nghiệp báo. Có thể nói mọi người dân Việt điều ảnh hưởng ít nhiều qua giáo lý này. Vì thế, lý nghiệp báo luân hồi đã in dấu đậm nét trong văn chương bình dân, trong văn học chữ nôm, chữ hán, từ xưa cho đến nay để dẫn dắt từng thế hệ con người biết soi sáng tâm trí mình vào lý nhân quả nghiệp báo mà hành động sao cho tốt đẹp đem lại hòa bình an vui cho con người. Thậm chí trẻ con mười tuổi cũng tự nhiên biết câu: "ác giả ác báo". Mặt khác họ hiểu rằng nghiệp nhân không phải là định nghiệp mà có thể làm thay đổi, do đó họ tự biết sửa chữa, tu tập cải ác tùng thiện. Sống ở đời, đột nhiên những tai họa, biến cố xảy ra cho họ, thì họ nghĩ rằng kiếp trước mình vụng đường tu nên mới gặp khổ nạn này.
b. Về đạo lý
Ðạo lý ảnh hưởng nhất là giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn của người Việt. Ðiều này ta thấy rõ qua con người và tư tưởng của Nguyễn Trãi (1380-1442), một nhà văn, nhà chính trị, nhà tư tưởng Việt Nam kiệt xuất, ông đã khéo vận dụng đạo lý Từ Bi và biến nó thành đường lối chính trị nhân bản đem lại thành công và rất nổi tiếng trong lịch sử nước Việt. Ông nói điều đó trong Bình Ngô Ðại Cáo rằng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Bằng cách:
Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Ðem chí nhân để thay cường bạo
Cho nên khi đại thắng quân xâm lược, đối với tù binh nhà Minh, chúng ta không những không giết hại mà còn cấp cho thuyền bè, lương thực để họ về nước.Tinh thần thương người như thể thương thân đã biến thành ca dao tục ngữ phổ biến trong nhân dân Việt Nam như "lá lành đùm lá rách", hay
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Ðó là những câu ca dao, tục ngữ mà bất cứ người Việt Nam nào cũng điều thấm nhuần và thuộc lòng, nói lên lòng nhân ái vị tha của dân tộc Việt Nam. Ngoài đạo lý Từ Bi, người Việt còn chịu ảnh hưởng sâu sắc một đạo lý khác của đạo phật là đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân chúng sinh. Ðạo lý này được xây dựng theo một trình tự phù hợp với bước phát triển của tâm lý về tình cảm của dân tộc Việt. Tình thương ở mọi người bắt đầu từ thân đến xa, từ tình thương cha mẹ, họ hàng lan dần đến tình thương trong các mối quan hệ xã hội với thầy bạn, đồng bào quê hương đất nước và mở rộng đến quê hương cao cả đối với cuộc sống của nhân loại trên vũ trụ này. Ðặc biệt trong đạo lý tứ ân, ta thấy ân cha mẹ là nổi bật và ảnh hưởng rất sâu đậm trong tình cảm và đạo lý của người Việt. Vì đạo phật rất chú trọng đến hiếu hạnh, và được Ðức Phật đã thuyết giảng đề tài này trong nhiều kinh khác nhau như Kinh Báo Phụ Mẫu Ân, kinh Thai Cốt, kinh Hiếu Tử, kinh Ðại Tập, kinh Nhẫn Nhục, kinh Vu Lan... nhắc đến công lao dưỡng dục của cha mẹ, Phật dạy: "muôn việc ở thế gian, không gì hơn công ơn nuôi dưỡng lớn lao của cha mẹ" (Kinh Thai Cốt), hay kinh Nhẫn Nhục dạy: "cùng tốt điều thiện không gì hơn hiếu, cùng tốt điều ác không gì hơn bất hiếu". Bởi Phật Giáo đặc biệt chú trọng chữ hiếu như thế nên thích hợp với nếp sống đạo lý truyền thống của dân tộc Việt.
Đạo lý hiếu ân trong ý nghĩa mở rộng có cùng một đối tượng thực hiện là nhắm vào người thân, cha mẹ, đất nước, nhân dân , chúng sinh, vũ trụ, đó là môi trường sống của chúng sinh gồm cả mặt tâm linh nữa. Ðạo lý Tứ Ân còn có chung cái động cơ thúc đẩy là Từ ,Bi, Hỷ, Xả khiến cho ta sống hài hòa với xã hội, với thiên nhiên để tiến đến hạnh phúc chân thực và miên trường.
2. Về đời sống văn hoá-Xã hội:
a. Phật Giáo dung hòa với các tôn giáo khác ở Việt Nam
Sự phối hợp và kết tinh của Ðạo Phật với đạo Nho và đạo Lão, được các nhà vua thời Lý công khai hóa và hợp pháp hóa. Nhờ đặc tính dung hòa này mà Phật Giáo Việt Nam đã trở thành tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Việt. Nó chẳng phải Phật giáo Ấn Ðộ hay Trung Hoa, Tiểu Thừa hay Ðại Thừa, mà là tất cả những khuynh hướng tâm linh của người dân Việt.
Với tinh thần khai phóng, Phật Giáo Việt Nam đã kết tinh lấy Chân, Thiện, Mỹ làm cứu cánh để thực hiện. Nho giáo thực hiện cứu cánh ấy bằng con đường Thiện, tức là hành vi đạo đức để tới chỗ nhất quán với Mỹ và Chân. Ðạo giáo thực hiện cứu cánh ấy bằng con đường Mỹ, tức là tâm lý nghệ thuật để tới chỗ nhất quán với Thiện và Chân. Phật giáo thực hiện cứu cánh ấy bằng con đường trí tuệ giác ngộ để đạt tới chỗ nhất quán Chân, Thiện, Mỹ.
Ðó là thực tại Tam Vi Nhất của tinh thần tam Giáo Việt Nam, với hình ảnh Đức Phật Thích Ca ở giữa, Lão Tử bên trái và Khổng Tử bên phải đã in sâu vào tâm thức của người dân Việt.
b. Sự dung hòa giữa các tông phái trong Phật Giáo
Nét đặc trưng rất riêng biệt của Phật Giáo Việt Nam so với các quốc gia Phật Giáo láng giềng là sự dung hòa giữa các tông phái Phật Giáo. Ở Thái Lan, Srilanka, Lào, Campuchia chỉ có Phật Giáo Nam Tông, ở Tây Tạng,Trung Hoa, Nhật Bản, Mông Cổ thuần túy chỉ có Phật Giáo Bắc Tông. Nhưng ở Việt Nam thì lại dung hòa cả Nam Tông và Bắc Tông, vì tinh thần khế lý khế cơ của Phật Giáo, cộng với tinh thần khai phóng, Phật Giáo Việt Nam mới có được kết quả như vậy.
c. Với đời sống người Việt Nam
Trong buổi đầu của Phật Giáo ở Việt Nam mang dáng dấp của Phật Giáo Tiểu Thừa và Mật Giáo, vì vậy đã dễ dàng gắn với phù chú, cầu xin phước lộc hơn là tôi luyện trí tuệ và thiền định. Ðạo Phật đã có mặt ảnh hưởng khắp mọi giai tầng trong ở xã hội Việt Nam, cả trong giới bình dân và trong giới trí thức. Với tính đời trội hơn tính đạo, trong quần chúng đa số là phụ nữ đến với Phật Giáo, đó là hạng người đau khổ nhất trong xã hội cũ. Chùa làng đã từng một thời đóng vai trò trung tâm văn hóa tinh thần của cộng đồng làng xã Việt Nam, chùa không những là nơi giảng đạo cầu kinh, thờ cúng Phật mà còn là nơi hội họp. di dưỡng tinh thần, tham quan vãn cảnh. Kiến trúc của chùa Việt Nam thường hòa hợp với cảnh trí thiên nhiên, tạo thành một kiến trúc hài hòa với ngoại cảnh, phù hợp với dinh dưỡng tinh thần của tuổi già.Nhờ có sự hiện diện của Phật Giáo ở Việt Nam,mà có các di tích và danh lam thắng cảnh như chùa Hương nhộn nhịp trong ngày trẩy hội đầu xuân,chùa Tây Phương, chùa Yên Tử mây mù, chùa Keo bề thế, chùa Thiên Mụ soi mình trên dòng sông Hương, và có những chuyện dân gian đầy tính nhân bản như truyện Từ Thức, truyện Tấm Cám, truyện Quan Âm Thị Kính.... có những lễ hội tưng bừng như hội Lim, hội Chùa Hương.... và trong tâm tư truyền thống cũng vẳng tư tưởng bố thí vị tha, lòng hướng thiện và niềm tin vững chắc vào một tương lai sáng sủa, vẳng tinh thần lạc quan yêu đời của người dân Việt.
d. Với ngôn ngữ, ca dao và dân ca
Trong đời sống thường nhật cũng như trong văn học Việt Nam ta thấy có nhiều từ ngữ chịu ảnh hưởng ít nhiều của Phật Giáo được nhiều người dùng đến kể cả những người ít học. Chẳng hạn như khi ta thấy ai bị hoạn nạn, đau khổ tỏ lòng thương xót, người ta bảo "tội nghiệp quá". Hai chữ tội nghiệp là từ ngữ chuyên môn của Phật Giáo. Theo Ðạo Phật tội nghiệp là tội của nghiệp, do nghiệp tạo ra từ trước, dẫn tới tai nạn hay sự cố hiện nay, theo giáo lý nhà Phật thì không có một hiện tượng hay sự cố tai nạn nào xảy ra là ngẫu nhiên hay tình cờ, mà chỉ là kết quả tập thành của nhiều nguyên nhân tạo ra từ trước. Những nguyên đó (theo đạo Phật gọi đó là nhân duyên) khi chín mùi, thì đem lại kết quả. Mọi người điều nói tội nghiệp nhưng không phải nhiều người biết được đó là một từ ngữ nói lên một chủ thuyết rất căn bản của Phật :"thuyết nhân quả báo ứng" thuyết này cũng đi sâu vào nhận thức dân gian với những cách như "ở hiền gặp lành, gieo gió gặp bão"
Ca dao, dân ca là một thể loại văn vần truyền khẩu, dễ hiểu trong dân gian phổ biến dưới dạng thơ lục bát bao gồm nhiều đề tài khác nhau, tư tưởng đạo lý của Phật giáo cũng thường được ông cha ta đề cập đến trong ca dao dân ca dưới đề tài này hay khía cạnh khác để nhắc nhở, khuyên rằng dạy bảo, với mục đích xây dựng một cuộc sống an vui phù hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam.
e. Với quan niệm về hiếu hạnh:
Là người Việt Nam không thể không hiếu kính cha mẹ, niềm tri ơn và báo ơn ấy đã trở thành bản tính tự nhiên, ăn sâu vào tâm khảm của người dân Việt. Tinh hoa và tinh thần cao đẹp này không phải tự nhiên mà có, mà chính là nhờ ảnh hưởng của cả một nền giáo dục, một tổ chức văn hóa từ ngàn xưa để lại, tương xứng với tư tưởng và phong tục của dân tộc Việt.
Trong tất cả những ảnh hưởng, lớn nhất và sâu rộng nhất cũng vẫn là sự ảnh hưởng của đạo phật, một tôn giáo, một nền giáo dục đã có mặt với dân tộc từ buổi đầu của công nguyên, mà đạo phật là đạo hiếu, lời dạy của phật về việc nhớ ơn và báo ơn cha mẹ là những cảm giác suy tư in đậm trong lòng của người Việt, và đã thể hiện qua ca dao dân ca:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Thực ra, hiếu tâm tức thị phật tâm, hiếu hạnh vô phi phật hạnh, làm tròn bổn phận cùa người con đối với cha mẹ chính là một trong những pháp tu của nhà phật:
Tu đâu mà bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu
f) Ảnh hưởng quan niệm nhân quả
Người Việt Nam thường nhắn nhủ nhau chớ có vì danh lợi phù hoa, làm ác hại người để rồi chuốc lấy đau khổ. Hãy ăn ở cho lương thiện rồi thế nào cũng gặp điều tốt lành, may mắn và hạnh phúc:
Ai ơi hãy ở cho lành
Kiếp này chẳng gặp đề dành kiếp sau.
Các bậc cha mẹ lại càng tu nhân tích đức cho con cháu về sau được nhờ:
Cây xanh thì lá cũng xanh
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
hay: “Người trồng cây bách người chơi
Ta trồng cây đức để đời mai sau.”
Và: "ở hiền thì lại gặp lành
ở ác gặp dữ tan tành ra tro”
g) Với các tác phẩm văn học và các loại hình nghệ thuật: hát bội, hát chèo...
Tác phẩm chữ nôm nổi tiếng trong thế kỷ thứ mười tám là Cung Oán Ngâm Khúc của nhà thơ Việt Nam Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), viết bằng thơ nôm. Nội dung tác phẩm chịu nhiều ảnh hưởng của phật giáo, nhất là triết lý ba pháp ấn Vô Thường, Khổ, Vô Ngã. Khi diễn tả thân phận con người vốn khổ đau và mang tính vô thường, ông viết:
Gót danh lợi bùn pha sắc xám
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu
Nghĩ thân phù thế mà đau
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.
Thi hào Nguyễn Du (2765-1820) có tác phẩm bất hủ là Truyện Kiều, một truyện thơ chịu nhiều ảnh hưởng của Phật Giáo, trong đó nổi bật nhất là thuyết về Khổ Ðế, một phần quan trọng của giáo lý Tứ Diệu Ðế. Tiếp đến là tinh thần về hiếu đạo và thuyết về nhân quả và nghiệp báo, vì chính Nguyễn Du cũng tự nhận mình là một Phật tử, từng đọc Kinh Kim Cang Bát Nhã đến cả ngàn lần.
Ðã mang lấy nghiệp vào thân
Thì đừng trách lẫn trời gần trời xa
Hay là:
Sư rằng phúc họa đạo trời
Cội nguồn cũng bởi lòng người mà ra
Có trời mà cũng có ta
Tu là cội phúc, tình là dây oan
Tính triết lý "nhân quả báo ứng" của Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong các bài ca tuồng, vở diễn phù hợp với đạo lý phương đông và nếp sống truyền thống của dân tộc.Trong vở chèo "Quan Âm Thị Kính", "Trương Viên", "Lưu Bình Dương Lễ", "Kim Nhan", "Chu Mãi Thần"... đều mang tính thưởng thiện phạt ác. Thế kỷ thứ 19 là thời đại hoàng kim của nghệ thuật hát bội. Các vở "San Hậu"; "Tam Nữ Ðồ Vương"; "Diễn Võ Ðình", "Nghiêu Sò Ốc Hến"... là những vở chứa đựng toàn vẹn triết lý "nhân quả báo ứng" và hướng thiện một cách cao đẹp.Ngoài ra còn có các vở chịu ảnh hưởng ít nhiều tư tưởng Phật giáo như các vở "Phạm Công Cúc Hoa", "Tấm Cám", "Kim Vân Kiều"... do sự ảnh hưởng tinh thần từ bi hỷ xả của Phật giáo nên luôn luôn có tuồng cải lương ở phần kết thúc đều có hậu.
h) Với phong tục, tập quán người Việt
Phong tục tập quán người Việt nam chịu ảnh hưởng Phật giáo khá nhiều. Đó là:
-Tập tục ăn chay, thờ phật, phóng sinh và bố thí
Ăn chay hay ăn lạt xuất phát từ quan niệm từ bi của phật giáo. Vì khi đã trở về với phật pháp, mỗi người Phật tử phải thọ giới và trì giới, trong đó giới căn bản là không sát sinh hại vật, mà trái lại phải thương yêu mọi loài. Trong hành động lời nói và ý nghĩa, người Phật tử phải thể hiện lòng từ bi. Ðiều không thể có được khi con người còn ăn thịt, còn uống máu chúng sinh. Ðể đạt được mục đích đó, người phật tử phải dùng đến phương pháp ăn chay. Ăn chay và thờ phật là việc đi đôi với nhau của người Việt Nam. Không những phật tử, người mộ đạo thờ phật mà nhiều người không phải là phật tử cũng dùng tượng phật hay tranh ảnh có yếu tố phật giáo để chiêm ngưỡng và trang trí cho cảnh nhà thêm đẹp và trang nghiêm.
Xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo phật tục lệ bố thí và phóng sinh đã ăn sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng. Ðến ngày rằm và mùng một, người Việt thường hay mua chim, cá,...để đem về chùa chú nguyện rồi đi phóng sinh.
Người Việt cũng thích làm phúc bố thí và sẵn sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó, hoạn nạn, vào các ngày lễ hội lớn họ tập trung về chùa.
Trong xã hội hiện nay, mọi người tham gia vào những đợt cứu trợ, tương tế cho các đồng bào gặp thiên tai, hoạn nạn, hoàn cảng sống gặp khó khăn đúng với truyền thống đạo lý của dân tộc lá lành đùm lá rách.
-Tập tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa.
Theo tập tục cúng rằm, mùng một là việc cúng sóc vọng, tức là ngày mặt trời mặt trăng thông suốt nhau, cho nên thần thánh, tổ tiên có thể liên lạc, thông thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt tới sự cảm ứng với các cõi giới khác và sự cảm thông sẽ được thiết lập là ngày trong sạch để các vị tăng kiểm điểm hành vi của mình, gọi là ngày Bố tát và ngày sám hối, người tín đồ về chùa để tham dự lễ sám hối, cầu nguyện bỏ ác làm lành và sửa đổi thân tâm. Quan niệm ngày sóc vọng là những ngày trưởng tịnh, sám hối, ăn chay là xuất phát từ ảnh hưởng của Phật giáo Ðại thừa. Ngoài việc đi chùa sám hối, ở nhà vào ngày rằm và mùng một, nhân dân còn sắm đèn, nhang, hương hoa để dâng cúng Tam Bảo và tổ tiên Ông Bà, thể hiện lòng tôn kính, thương nhớ những người quá cố và cụ thể hóa hành vi tu tâm dưỡng tánh của họ. Bên cạnh đó người Việt Nam còn có tập tục khác là đi viếng chùa, lễ Phật vào những ngày hội lớn như ngày rằm tháng giêng, rằm tháng tư (Phật Ðản) và rằm tháng bảy (lễ Vu lan). Ðây là một tập tục, một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống người Việt. Trước cánh cửa thiền môn, những khuôn mặt trang nghiêm, vẻ đẹp thanh thoát của hoa huệ, hoa cúc chen lẫn với hương trầm quyện tỏa tạo nên bầu không khí ấm cúng, linh thiêng, thể hiện tấm lòng thành kính của họ đối với Ðức Phật và các bậc Thánh Hiền. Những hình ảnh đó đã góp phần tạo nên bản sắc và nét đẹp văn hóa của dân tộc Việt. Trong dòng người tấp nập, đông đảo đó không phải ai cũng đến đây vì lý do tín ngưỡng thuần túy. Một số đông người chỉ đơn giản muốn đi xem lễ hội hoặc thích chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chùa chiền nhưng khi đã hội nhập vào bầu không khí trang nghiêm họ cũng thấy mình trở nên đỉnh đạc và trầm tỉnh hơn, đây là cơ hội giúp họ quay về với Ðạo Phật.
-Nghi thức ma chay, cưới hỏi, tập tục đốt vàng mã
Trong gia đình (theo Ðạo Phật) có người qua đời, thân quyến đến chùa thỉnh chư tăng về nhà để giúp đỡ phần tang lễ. Ở những gia đình không theo Ðạo Phật nhưng do người quá cố hoặc gia chủ mến chuộng Ðạo Phật nên họ thỉnh chư tăng, ni đến tụng kinh cầu siêu cho hương linh và tổ chức tang lễ giống như những tín đồ theo Ðạo Phật. Trước khi tiến tới hôn nhân, nhiều đôi bạn trẻ theo tín ngưỡng Phật giáo, thường đến chùa khấn nguyện với chư Phật phù hộ cho mối lương duyên của họ được thuận buồm xuôi gió.
Xuất phát từ quan điểm nhân quả luân hồi của Phật giáo, nếu đời này ai ăn ở hiền lành, tu tâm dưỡng tính thì đời sau sẽ tái sinh trở lại làm người hạnh phúc, sung sướng giàu sang hoặc vãng sinh về thế giới cực lạc. Còn nếu kiếp này ăn ở tệ bạc, làm nhiều điều ác, sau khi chết sẽ bị đọa xuống địa ngục cõi âm ti chịu nhiều đau khổ. Người nhiều tội lỗi hay không có ai thờ cúng, cầu siêu thì ở nơi địa ngục bị oan ức, đói lạnh, không thể siêu thoát được hoặc đầu thai được. Cho nên những người thân ở nơi dương thế phải thờ cúng, tụng kinh cầu siêu để người thân của mình dưới cõi âm ti bớt đi phần tội lỗi hoặc được ấm no mà thoát kiếp. Sau khi cúng giỗ, ngày vọng người chết sẽ nhận được những vật dụng, tiền bạc đã cúng và đốt đó. Trong các đồ mã và giấy tiền vàng bạc để cúng thường có hình ảnh (Phật Di Lặc hay Bồ Tát Quan Âm) hoặc chữ nghĩa (chú vãng sanh, chữ triện) có yếu tố của Phật giáo với ý đồ mong sự cứu độ của Chư Phật đối với người đã khuất.
-Tập tục coi ngày giờ, tập tục cúng sao hạn, tập tục xin xăm, bói quẻ.
Mỗi khi sắp làm một việc gì quan trọng như xây dựng nhà cửa, đám chết, đám cưới, xuất hành đầu năm... người ta thường về chùa để nhờ các thầy coi giúp giùm ngày nào tốt thì làm ngày nào xấu thì tránh. Vào dịp đầu năm mới người dân thường cúng dâng sao giải hạn và xin xăm bói quẻ cầu may tại các chùa, đình, miếu..
II. Phật giáo đối với lịch sử đất nước
Ngay khi được truyền vào, từ thế kỷ đầu, Ðạo Phật đã nhanh chóng thích nghi với lối sống của người dân Việt và trong quá trình hình thành và phát triển của đất nước. Ðạo Phật đã thấm vào nền văn minh Việt Nam, đã lan tỏa khắp hang cùng ngỏ hẻm trên lãnh thổ Việt Nam và đã có một chỗ đứng nhất định từ cung đình cho đến làng xã Việt Nam. Ðạo lý của Phật giáo Việt Nam cũng đã ảnh hưởng và ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của người dân Việt và đã trở thành những giá trị tinh thần vô giá. Trong suốt chiều dài lịch sử mười tám thế kỷ qua, Ðạo Phật đã chứng minh sự hiện hữu của mình trong hầu hết các lãnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... và có những đóng góp, những ảnh hưởng tích cực vào các mặt nói trên.
Dưới thời Ðinh, Lê, Lý, Trần, các vị cao tăng có học thức, có giới hạnh điều được mời tham gia triều chính hoặc làm cố vấn trong những việc quan trọng của quốc gia. Có nhiều lý do khiến các thiền sư Việt Nam tham gia vào chính sự:
Thứ nhất, họ là những người có học, có ý thức về quốc gia, sống gần gũi nên thấu hiểu được nổi đau khổ của một dân tộc bị nhiều cuộc đô hộ của ngoại bang. Thứ hai, các thiền sư không có ý tranh ngôi vị ngoài đời nên được các vua tin tưởng và thứ ba, các thiền sư không cố chấp vào thuyết trung quân (chỉ biết giúp vua mà thôi) như các nho gia nên họ có thể cộng tác với bất cứ vị vua nào đem lại hạnh phúc cho dân chúng. Thời vua Ðinh Tiên Hoàng đã phong cho thiền sư Ngô Chân Lưu làm Tăng Thống. Thời Tiền Lê có ngài Vạn Hạnh, ngài Ðỗ Pháp Thuận, ngài Khuông Việt cũng tham gia triều chính. Trong đó đặc biệt thiền sư Vạn Hạnh đã có công xây dựng triều đại nhà Lý, đưa Lý Công Uẩn lên làm vua, chấm dứt chế độ tàn bạo của Lê Long Ðỉnh, ông vua Ngọa Triều còn có biệt danh kẻ róc mía trên đầu sư.Thời nhà Trần có các thiền sư Ða Bảo, thiền sư Viên Thông.. điều được các vua tin dùng trong bàn bạc quốc sự như những cố vấn triều đình. Thế kỷ 20, phật tử Việt Nam rất hăng hái tham gia các hoạt động xã hội như cuộc vận động đòi ân xá cho Phan Bội Châu. Thời Diệm, Thiệu (1959-1975) các tăng sĩ và cư sĩ miền Nam tham gia tích cực cho phong trào đấu tranh đòi hòa bình và độc lâp cho dân tộc.
Hiện nay, các nhà sư Việt Nam có tham gia và đóng góp nhiều cho Quốc hội Việt Nam.
III. Phật giáo đối với cá nhân con ngừời:
Cõi " Niết Bàn" chính là những niềm tin, những đức tin, những mơ ước của con người sống trên trần thế. Nhiều người tuy coi mình là theo chủ nghĩa vô thần nhưng vẫn mơ ước về một"'công xã lý tưởng" và đây cũng có thể coi như một 'Thiên Đường"; ở thiên đường ấy mọi người sống . trong hòa bình, tự do, bình đẳng, thịnh vượng, tràn đầy hạnh phúc. Một cuộc sống ở một trình độ cao: "Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu". Đó là những niềm tin, những ước mơ. Pascal, nhà triết học Pháp thế kỷ thứ XVII cho rằng: Con người muốn hiểu thế giới không chỉ dựa vào những nhận thức duy lý mà còn phải dựa vào những luận thức duy cảm. Ông nói: "Con người sống không có niềm tin, không có đức tin sẽ trở thành một quái vật"
Nếu ta nắm vững nguyên lý nhân quả nghiệp báo, thì chúng ta có thể chuyển nghiệp ngay trong hiện kiếp. Cái đích của việc chuyển nghiệp, tái tạo cá nhân là bắt đầu thay đổi hành nghiệp thiện và ác từ ba nghiệp Thân, Khẩu và Ý của chính mỗi cá nhân. Từ những hành nghiệp thiện, giảm bớt điều ác, dần dần ta sẽ chuyển hóa và tạo cho ta có một cuộc sống yên vui cho hiện tại và mai sau. Đại đa số người Việt Nam khi về già đều tin và theo một số những điều hay lẽ đúng trong giáo lý đạo Phật. Chính những điều sâu sắc đó của đạo Phật đã giúp họ châm trước những điểm còn chưa chặt chẽ, những điều chưa thực đúng khi nghiệm vào bản thân.
Lối sống mà Đức Phật đã dạy rất đơn giản, đối với người tại gia, chỉ áp dụng năm nguyên tắc sống: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu, đây là một bảng nguyên tắc thật sự rất đơn giản. Bố thí là cho người khác một cách rộng rãi. Rất quan trọng cho một Phật tử thực hành bố thí này như một hạnh đầu tiên phải làm để đi vào con đường chân chính, vì cho người khác là một hành động hy sinh. Có khả năng cho ra một cái gì là sửa soạn tâm trí trọn vẹn để từ bỏ vật sở hữu của mình, cái mình yêu quý, cái mình đã buộc dính vào. Do đó, ta đối mặt với một trong những nguyên nhân lớn nhất là dục vọng và tham lam. Thật là hấp dẫn khi ta thấy lối sống này được hướng dẫn theo cách thức mà khi áp dụng từng bước một, ta sẽ loại bỏ được một số nhược điểm và cá tính con người vốn đã tạo ra sự căng thẳng và nhàm chán quấy nhiễu chúng ta hàng ngày. Thái độ rộng lượng, bao dung với người khác là liều thuốc chống dục vọng, tham lam, keo kiệt và ích kỷ.
Trì giới là giữ một số luật tắc đạo đức và luân lý. Đức Phật biết rõ là người ta không thể đặt những điều lệ hay kỷ luật cho mọi người theo cùng một phương cách. Vì vậy chỉ có một số luật tắc cho người tại gia. Có thêm một ít điều khác cho những người muốn sống ở tự viện trở thành người xuất gia, những người tự nguyện đi theo con đường nghiêm khắc của luật tắc và thanh tịnh hóa. Vì thế trì giới là một sự thực hành dần dần để mỗi người chọn theo khả năng hiện tại của bản thân.
Khác với các hệ triết học khác, Phật giáo còn một kho kinh nghiệm phong phú về phương thức, kỹ thuật sử dụng những động tác thân xác đơn giản, hô hấp, đi, đứng, ngồi, nằm... để thể hiện triết lý của mình trong thân xác, trong cuộc sống hàng ngày, trong mỗi người như Thiền định. Thiền định hay luyện tập tâm trí, có nghĩa nguyên thủy là phát triển, sự phát triển thêm trí tuệ. Đức Phật cho rằng mọi sự đều phát nguồn từ tâm trí của con người, và Ngài là một trong những người đầu tiên phát biểu về điều này. Hiến chương của Liên Hiệp Quốc mở đầu với câu "Vì chiến tranh bắt đầu từ trong tâm trí của con người, cũng từ trong tâm trí con người mà sự bảo vệ hòa bình được thiết lập". Câu này phản ánh đúng theo tinh thần lời dạy đầu tiên của Phật trong kinh Pháp Cú: " Tam dẫn đầu cá pháp, tâm làm chủ, tâm tạo tác". Một tâm trí có thể được kiểm soát bởi ý chí, một tâm trì không chạy theo ngoại cảnh để đưa đến sự căng thẳng và nhàm chán, ngược lại luôn được tỉnh thức, luôn tự phát triển, luôn tự khám phá, một tâm trí như thế là kho báu lớn nhất của con người.
Khi kinh tế ở giai đoạn khấm khá thì người ta có nhiều điều kiện để chú trọng tâm linh.Mỗi người có một cái đạo của mình. Những người chọn đạo Phật thì tìm đến cửa chùa như tìm đến niềm an vui cho tâm hồn của mình. Đạo Phật luôn tư duy trên lợi ích của người khác (điều này đúng với đạo đức kinh doanh).
IV. Phật giáo đối với Doanh nghiệp:
Nếu có nhiều người hiểu và làm theo Phật dạy thì sẽ giúp cho họ chiêm nghiệm đời mình, giúp họ cùng doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tạo lợi nhuận mà không gây ô nhiễm môi trường, không làm hàng giả, tham nhũng... có hại cho xã hội. Họ làm giàu chính đáng, đem lại công ăn việc làm cho nhiều người, tạo ra cơ sở vật chất cho xã hội. Việc làm giàu chính đáng là giúp cho đất nước phát triển và điều này không những vô ngã mà nó còn có ích cho đất nước, cho mọi nguời. Họ xác định việc cạnh tranh là lành mạnh, không phải là sự triệt tiêu lẫn nhau mà để cùng nhau phát triển. Hiểu được những tư tưởng từ lời dạy của Đức Phật sẽ giúp các doanh nghiệp và các nhà quản lý giữ được chữ”Tâm” và tạo được chữ”Tín” trong thương trường khắc nghiệt ngày nay.
Chương 5: Những ưu điểm và hạn chế của Đạo Phật
I. ƯU ĐIỂM
1. Đạo Phật là trường phái triết học vô thần, có nhiều yếu tố duy vật biện chứng, thừa nhận có sự vận động tuyệt đối của các sự vật hiện tượng(vô thường, vô ngã):
Nhiều tôn giáo lớn trên thế giới ngoại trừ Phật giáo cho rằng vị đứng đầu tối cao nhất của tôn giáo luôn luôn là Thượng đế với tất cả quyền năng siêu nhiên. Thượng đế này có quyền hạn tối cao, biết được quá khứ và tương lai và điều khiển tất cả nhân loại trong vũ trụ này. Nhân loại trong vũ trụ này đều thờ phụng vị Thượng đế đó. Chỉ có những ai tin tưởng vào vị Thượng đế này mới có thể được cứu rỗi và đạt được hạnh phúc trường cửu. Đạo Phật dạy rằng mỗi con người trong vũ trụ này là vị chủ nhân của chính mình, kiểm soát số mệnh của mình và không có một con người nào hay một đấng Thượng đế quyền năng siêu nhiên kiểm soát anh ta. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chứng đắc quả vị giác ngộ, những thành tựu và những kết quả nhờ vào những nỗ lực tu tập lớn lao và trí tuệ của chính Ngài.
2. Theo Phật giáo, Đức Phật cũng là một con người chứ không phải là Thượng đế hay bậc siêu nhiên nào. Đạo phật không phân biệt đẳng cấp, chủ trương bình đẳng xã hội và Đạo Phật khuyến khích tinh thần tự cố gắng vươn lên.
Mọi người trên thế gian đều có thể trở thành một vị Phật, một bậc sáng suốt giác ngộ, không phân biệt dân tộc, nam nữ, xuất xứ, đẳng cấp, trẻ già, thời đại, đã có gia đình hay chưa, nếu người đó biết phát tâm tìm hiểu và tu tập theo đúng Chính Pháp, theo đúng bản đồ tu học. Do đó có rất nhiều các vị Phật, từ quá khứ, đến tương lai, chứ không phải chỉ có một vị Phật duy nhất làm giáo chủ là Đức Phật Thích Ca. Phật giáo dạy rằng sự may mắn hay bất hạnh, thành công hay thất bại là do những hành động(nghiệp) cá nhân người ấy quyết định, tuỳ theo nghiệp thiện hay ác và những nỗ lực của chính bản thân vị ấy. Đức Phật có thể chỉ cho vị ấy con đường song chính bản thân vị ấy phải đi trên con đường ấy. Trong Phật giáo, không có một chúng sinh nào cao thượng hơn giống như Thượng đế cao hơn tất cả những con người khác. Đức Phật là một con người và chính con người này có thể trở thành một vị Phật.
Đạo Phật khuyến khích tinh thần tự cố gắng, Phật quả nhờ vào sự tu tập mới có thể đạt được chứ không phải tự nhiên sinh ra. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng như tất cả chúng ta, là con người bình thường. Nhờ vào trí tuệ và sự tu tập của Ngài, Ngài giác ngộ và thành Phật. Mỗi con người có thể dẫm bước chân theo gót của Ngài để thực hành những lời dạy của Ngài và giác ngộ. Những người giác ngộ rồi lại dẫn dắt những thế hệ sau giác ngộ. Như vậy không chỉ có duy nhất một bậc thầy. Mỗi người đều có thể thành thầy và có thể có nhiều vị thầy ở khắp mọi nơi. Tương tự như vậy, Phật không chỉ liên hệ đến một mình đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Có thể chư Phật hiện hữu ở khắp mọi nới, ở thế giới này, ở thế giới khác và ở vũ trụ khác.
3. Trong một thế giới đa dạng về văn hóa, nhiều trường phái tôn giáo với nhiều trào lưu nguồn gốc khác nhau. Phật giáo không những không chống lại những tôn giáo khác mà luôn luôn tồn tại trong tinh thần hài hoà, tôn trọng với những tôn giáo khác.
Phật giáo dạy rằng trong tất cả những tôn giáo trên thế giới, chỉ có một sự khác biệt duy nhất trong sự đa dạng của hệ thống giáo lý, còn điểm khác biệt về cái tốt và cái xấu, cái đúng và cái sai dường như rất ít. Mỗi tôn giáo có thể tồn tại trên thế gian này hơn 1000 năm ắt hẳn mang lại những lợi ích cho nhân loại, phải được thừa nhận và thực hành theo trong một thời gian lâu dài. Nếu không thì những tôn giáo này ắt sẽ bị trí tuệ nhân loại thanh lọc và loại bỏ dần.
Trong hơn 2500 năm lịch sử Phật giáo. Không có một sự kiện nào trong lịch sử nơi mà sự truyền bá hoặc thuyết giảng giáo lý Phật đà đã tạo ra những sự xung đột với những tôn giáo khác để lại kết quả những cuộc chiến đẫm máu. Phật giáo đích thực là một tôn giáo khoan dung nhất, hiểu biết nhất và hoà bình nhất. Người Phật tử được giáo dục: “Không nên chỉ tôn trọng tôn giáo của chính mình và phỉ báng tôn giáo của những người khác mà các vị phải tôn trọng tôn giáo của những người khác. Bằng thái độ như vậy ngoài việc giúp cho tôn giáo của chính mình phát triển mà các vị còn hoàn thành trách nhiệm của mình đối với những tôn giáo khác. Nếu ngược lại, trong khi làm hại đến tôn giáo của những người khác, các vị cũng đang làm hại đến tôn giáo của chính mình”. Thái độ khoan dung và thành thật này là một trong những đặc tính quý giá nhất của Phật giáo.
4. Đạo Phật có tính nhân đạo cao bởi vì nó khuyên con người suy nghĩ và làm điều thiện, tránh xa điều ác, thương yêu cứu giúp mọi người. Triết lý của đạo Phật có ý nghĩa giáo dục rất lớn vì nó khuyên con người khinh ghét những ham muốn dục vọng vật chất tầm thường.
”Không làm điều ác, Làm mọi việc lành, Thanh tịnh tâm ý, Ấy là lời chư Phật”
5. Phật giáo tương xứng với khoa học, không có một sự xung đột nào xảy ra giữa Phật giáo và khoa học và mục đích chung của Phật giáo và khoa học là theo đuổi “chân lý” và “sự kiện”. Nhiều điểm trong giáo lý của đức Phật thật tương xứng với những phát minh của khoa học hiện đại:
Đức Phật dạy: “Không gian không có điểm kết thúc và có vô số hằng hà sa số thế giới”. Điều này có nghĩa là vũ trụ không có sự hạn chế và có vô số ngôi sao và hành tinh.Chỉ sau khi nhà thiên văn Galileo bắt đầu quan sát những vì sao bằng một kính thiên văn con người mới có sự hiểu biết cao hơn về vũ trụ. Con người bắt đầu hiểu và chấp nhận rằng trái đất không phải là trọng tâm của vũ trụ. Trái đất chỉ là một hành tinh nhỏ trong hệ thái dương này và vũ trụ có vô số hệ thái dương. Đức Phật cũng nói về vô số sự sống trong vũ trụ này và ở những thế giới khác. Ngài chỉ trong một ly nước và nói rằng có 84 nghìn mạng sống ở trong nước (84.000 tượng trưng cho một số lượng lớn).Ngày nay các khoa học gia không thể từ chối khả năng của sự hiện hữu sự sống trong những vì sao và những hành tinh khác..Hơn 2500 trước đây, không có kính thiên văn, đức Phật đã cho chúng ta biết về vô số vũ trụ và vô số vì sao không thể tính được trên bầu trời, và khẳng định sự hiện hữu sự sống trong các hành tinh khác. Ngài thực sự là có một trí tuệ tuyệt vời làm người ta kinh ngạc, một con người trí đã giác ngộ để mô tả chân lý về những bí mật vô cùng to lớn của vũ trụ.
Một trong những nguyên lý của Phật giáo cho rằng không có gì đứng yên, không thay đổi, vật chất có thể bị huỷ diệt và có thể được tạo ra.Nguyên lý này mâu thuẫn với những lý thuyết khoa học mãi cho đến khi thuyết nguyên tử của nhà vật lý học Albert Einstein E=MC2 chứng minh rằng vật chất có thể được chuyển đổi thành năng lượng (vật chất biến mất) và vật chất cũng có thể được tạo ra từ năng lượng (sự tạo ra vật chất).Đức Phật có lần nói rằng thời gian để Ngài thuyết giảng xong một bài pháp trên thế gian này, thì hàng nghìn năm trôi qua ở một thế giới khác. Câu chuyện dường như không thể tin được này dường như không còn là quá vô lý nữa sau khi nhà vật lý học Einstein phát minh ra Thuyết tương đối.
Khoa học mà không có luân lý đạo đức báo hiệu sự huỷ diệt. Khoa học kết hợp với tôn giáo như Phật giáo có thể cứu sống được thế giới và kiến tạo một thế giới hạnh phúc cho nhân loại trú ngụ. Quan trọng hơn, Phật giáo còn tiến xa hơn những giới hạn của khoa học.
6. Phật giáo là tôn giáo dân chủ và tự do
Trong một số tôn giáo khác, những giáo lý do bậc sáng lập nói ra là những ‘mệnh lệnh’ không thể bị từ chối và ‘chân lý phúc âm’ không thể bị hoài nghi. Bất cứ ai hoài nghi hay không tuân theo phúc âm thì sẽ bị Thượng đế “trừng phạt”. Có một số mẩu chuyện nói về “thánh kinh” trong một số tôn giáo khác cho rằng con người bị Chúa trừng phạt nghiêm khắc bởi vì họ không tuân theo những mệnh lệnh của Chúa.Trong kinh điển Phật giáo, đức Phật không bao giờ bày tỏ thái độ giận giữ. Đức Phật cũng không đưa ra những hình phạt. Trong một khoảng thời gian 45 năm thuyết giảng, Ngài luôn luôn biểu hiện thái độ tử tế, điềm đạm, thanh tịnh và vắng lặng đối với cả người tốt lẫn người xấu. Đức Phật không bao giờ ép buộc đệ tử Ngài phải chấp nhận giáo lý của Ngài. Ngài thường xuyên khích lệ họ hãy bày tỏ sự hoài nghi và chất vấn. Đức Phật giáo huấn các chư đệ tử: “Ta không bao giờ nghĩ các vị là học trò hoặc là đệ tử của ta. Ta chỉ là một trong số các vị, thường xuyên thân cận với các vị. Ta không bao giờ ép buộc ai phải lắng nghe ta nói và Ta không muốn ai phải tuân theo mệnh lệnh Ta”. Thật là một điều tuyệt vời và cảm kích làm sao!
Người ta không thể ép buộc phải chấp nhận niềm tin chân chính. Họ không thể được thuyết phục để chấp nhận những gì mà họ không hiểu hoặc là những gì họ không thích. Đó là một hành vi mang tính chính trị chứ không phải mang tính tôn giáo. Niềm tin chân chính sẽ chỉ có ảnh hưởng và phát triển dưới môi trường dân chủ và hoàn toàn tự do. Sau những tư duy thận trọng và sự phân biệt được lặp đi lặp lại thì tinh thần và giá trị của niềm tin chân chính sẽ thực sự chói sáng.Trong Phật giáo, tinh thần cho phép và khích lệ người tín đồ tự do hoài nghi, chất vấn hoặc là thậm chí khám phá những lời dạy của bậc thầy sáng lập tôn giáo của họ, chắc chắn sẽ là một tinh thần độc nhất vô nhị trong số tất cả những tôn giáo trên thế giới. Trong số tất cả những tôn giáo lớn trên thế giới, chỉ có bậc sáng lập Phật giáo cho phép người ta hoài nghi, thảo luận, chất vấn và khám phá. Phật giáo mời gọi mọi người đến để nghiên cứu Phật giáo với tinh thần nghiên cứu tìm tòi, có tính cách độc lập tự chủ và với trí tuệ, để chứng kiến và cho phép họ chấp nhận những gì chỉ là sự thật, phù hợp với lý trí, logic và chân lý. Phật giáo khích lệ người tìm kiếm chân lý hãy bác bỏ những gì gọi là tin đồn, niềm tin mù quáng, thần thông và quyền thuật. Những nguyên lý của Phật giáo mời gọi sự chỉ trích và kiểm nghiệm. Do vậy, Phật giáo là một nhân tố hấp dẫn nhất và thu hút nhất đối với đầu óc của những con người trong thời đại tân tiến.
II. NHƯỢC ĐIỂM
1. Phật giáo vẫn là trường phái duy tâm chủ quan trong quan niệm về xã hội bởi vì cho rằng nguyên nhân cơ bản của mọi nỗi khổ là do vô minh do đó Phật giáo cho rằng sự sáng suốt, giác ngộ của con người là yếu tố quyết định sự giải thoát con người khỏi cái khổ. Đạo Phật tuyệt đối hoá sự vận động mà chưa nhận thấy được sự đứng yên tương đối của các sự vật hiện tượng. Phật giáo chủ trương giải thoát con người bằng phép tu thân, tích đức tiêu cực, vẫn còn xa lánh cuộc đời mà không mang phong trào cách mạng xã hội, phủ nhận sự biến đổi cải tạo xã hội bằng thực tiễn cách mạng. Nhận thức duy tâm, nhận thức chỉ thực hiện bằng sự tu luyện, thiền định. Không thừa nhận vai trò của nhận thức cảm tính và tư duy cũng như vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức.
2. Phật giáo cho rằng cuộc đời là giả, là ảo, mọi ham muốn đời thường đều là tội lỗi. Tuy nhiên, cõi Niết bàn - cái mà Phật cho là thực tại thì hóa ra chỉ là điều tưởng tượng thuần túy, không có gì làm bằng chứng. Do đó xét trên một khía cạnh nào đó Phật giáo bị coi là xa vời, thiếu thực tế.
3. Những ưu điểm nổi bật có thể làm cho đạo Phật trên lý thuyết trở thành một giá trị tinh thần siêu việt. Nhưng trên thực tế đạo Phật, đặc biệt Phật giáo Việt Nam đâu đó vẫn còn tồn tại một số hạn chế đó là : Đạo Phật còn mang nặng hình ảnh một tôn giáo khó hiểu, phức tạp, một phần vì quá đa dạng, quá nhiều tông phái, đôi khi mâu thuẫn lẫn nhau. Người mới đến với đạo Phật như lạc vào một mê cung, một khu rừng rậm, giữa những đạo Phật Nguyên Thủy, Thiền, Tây Tạng, Tịnh Độ, Duy Thức, Thiên Thai, Nhật Liên, v.v..., không biết nên đi về hướng nào. Người ta còn có thể tự hỏi rằng có nhiều đạo Phật, hay là có những đạo Phật tuy mang tên là đạo Phật nhưng không phải là đạo Phật. Đạo Phật bị coi là đạo Phật chủ trương khổ hạnh, xa lánh cuộc đời, hơi khó áp dụng rộng rãi trong đời sống hiện đại sôi động, đặc biệt là đối với giới trẻ vì thật khó để diệt dục trong khi cuộc đời đầy rẫy những lôi cuốn, những thú vui cần tận hưởng, làm thế nào để định tâm trong khi cuộc sống quay cuồng, tất bật, hàng ngày phải vật lộn với xã hội? Ở Việt Nam có nhiều người theo Phật giáo truyền thống nhưng có bao nhiêu người thực sự hiểu và sống đúng đắn đạo Phật? Gần đây số người đi lễ chùa càng này càng đông, đặc biệt vào những ngày rằm và ngày lễ. Nhưng một số người lên chùa là để cúng vái, để cầu xin cho chính bản thân và gia đình mình (tức là vẫn còn chấp ngã), chứ không phải là để tìm một con đường tự giác. Thậm chí ở đâu đó vẫn còn có sinh hoạt mê tín, dị đoan, chữa bệnh bằng bùa phép, xuất hiện ngay tại hay bên cạnh các chùa chiền. Phần đông đạo Phật vẫn chưa hấp dẫn được giới trẻ nên những người đi chùa thường là những người lớn tuổi vì người đời cứ quan niệm “trẻ vui nhà, già vui chùa”. Họ cứ nghĩ chùa chiền là giành cho người già, vì thế mà người đời cứ đợi đến tuổi xế chiều mới nghĩ đến việc đến chùa tu tập, làm phước để an hưởng quãng đời còn lại. Người lớn tuổi đến chùa tu tập là một điều vô cùng tốt nhưng không lẽ đạo Phật là đạo chỉ dành cho người già thôi hay sao?
Đó là những câu hỏi được đặt ra trước khoảng cách sâu rộng giữa đạo Phật lý thuyết và đạo Phật thực tế, giữa đạo Phật của nhà tu hành và đạo Phật thế tục, giữa đạo Phật trí thức và đạo Phật dân gian.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9000.doc