Ngoài ra còn phải đảm bảo chất lượng nguyên vật liệu: Nguyên vật liệu là yếu tố chính ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm do đó nguyên vật liệu phải đảm bảo chất lượng và đúng tiến độ . Mặt khác nguyên vật liệu chủ yếu là nhập ngoài do đó Công ty phải tính toán chu kỳ mua để đảm bảo thời gian dự trữ nguyên vật liệu tránh hư hỏng .
Các công đoạn của quá trình sản xuất cũng ảnh hưởng tới chất lượng do vậy các cán bộ kỹ thuật phải chú trọng theo dõi kiểm tra nhất là các khâu pha trộn , phối liệu nấu kẹo , nướng bánh .Cuối cùng phải thực hiện tốt công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi tiêu thụ nhằm đảm bảo uy tín với khách hàng .
Tóm lại : Công tác quản lý chất lượng là một biện pháp quan trọng không thể thiếu trong quá trình nâng cao hiệu quả kinh doanh tuy nhiên nếu chỉ dừng ở đây thì chưa đủ mà phải thường xuyên đổi mới công nghệ,
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích hiệu quả kinh doanh ở công ty bánh kẹo Hải Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh doanh của Công ty có hiệu quả cao. Hay nói cách khác là việc sử dụng lao động của Công ty rất có hiệu quả.
- Năm 2001 là 1,08 triệu đồng/ người, giảm 1,22 triệu đồng tức giảm 53,04% so với năm 2000. Sở dĩ như vậy là vì mức tăng lợi nhuận vẫn như năm trước, trong khi đó mức tăng lao động lại tăng cao 16,29% so với năm 2000. Điều này cho thấy việc sử dụng lao động của Công ty chưa được hiệu quả.
Nguyên nhân của sự tăng, giảm này chủ yếu là do tốc độ tăng lợi nhuận không đồng đều giữa các năm.
Mặc dù, mức sinh lời bình quân một lao động còn chưa cao nhưng Công ty Bánh kẹo Hải Châu luôn cố gắng phấn đấu tăng tiền lương cho người lao động. Thu nhập bình quân của người lao động tăng 10ế 11%/tháng thể hiện đời sống của cán bộ công nhân viên ngày càng được nâng cao.
Các chỉ tiêu trên cho thấy, doanh thu trong 3 năm từ 1999-2001 rất lớn, trung bình đạt khoảng 140 tỷ đồng/ năm nhưng mức sinh lời bình quân một lao động vẫn còn thấp, điều này làm ảnh hưởng tới việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty trong những năm vừa qua. Việc doanh thu tăng nhưng mức sinh lợi bình quân một lao động thấp do Công ty có bộ máy lao động còn cồng kềnh, chưa xác định được cơ cấu lao động tối ưu: Một số bộ phận thì thừa lao động, một số khác lại thiếu lao động, việc tuyển người vẫn chưa đáp ứng tốt các yêu cầu đòi hỏi của công việc. Chính việc sử dụng hiệu quả lao động thấp đã dẫn đến hiệu quả kinh doanh của Công ty còn chưa cao trong một số năm gần đây.
b/ Hiệu quả sử dụng tài sản cố định của Công ty
Có vốn mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để đạt được mục đích kinh doanh. Vấn đề đặt ra có ý nghĩa tiếp theo là phải sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động. Sử dụng vốn có hiệu quả trước hết là điều kiện để doanh nghiệp đảm bảo đạt lợi ích cho các nhà đầu tư , của người lao động, của Nhà Nước về mặt thu nhập và đảm bảo sự tồn tại phát triển của bản thân. Mặt khác, nó cũng chính là cơ sở để doanh nghiệp có thể huy động vốn được dễ dàng trên thị trường tài chính để mở rộng sản xuất, phát triển kinh doanh. Sau đây là đánh giá thực trạng sử dụng tài sản cố định của Công ty Bánh kẹo Hải Châu.
Bảng 8: Hiệu quả sử dụng Tài sản cố định (TSCĐ) của Công ty
Chỉ Tiêu
Đơn vị
1999
2000
2001
Giá trị
TH
2000/ 1999
(%)
Giá trị TH
2001/ 2000
(%)
Giá trị Tổng sản lượng
Triệu đ
104873
119519
113,97
137448
115
Doanh thu thuần
Triệu đ
122853
141526
115,2
153647
108,56
Nguyên giá bình
quân tài sản cố định
Triệu đ
29318,3
30315,1
103,4
35150
115,95
Lợi nhuận ròng
Triệu đ
1500
2046
136,4
1084
52,98
Sức sản xuất của tài sản cố định theo giá trị Tổng sản lượng
Đồng
357,7
394,2
110,2
391
99,19
Sức sản xuất của tài sản cố định theo doanh thu thuần
Đồng
419
466,8
111,4
437,1
93,64
Sức sinh lời của tài sản cố định
Đồng
5,1
6,75
132,35
3,08
45,63
Suất hao phí của tài sản cố định theo giá trị tổng sản lượng
Đồng
27,96
25,36
90,70
25,57
100,83
Suất hao phí của tài sản cố định theo doanh thu thuần
Đồng
23,86
21,42
89,77
22,88
106,82
Suất hao phí tài sản cố định theo lãi ròng
Đồng
1955
1482
75,80
3243
219
Nguồn: Phòng kế toán tài vụ
Qua bảng số liệu trên cho ta thấy:
Giá trị tổng sản lượng
+Sức sản xuất của tài sản cố định = x 100
theo giá trị Tổng sản lượng Nguyên giá bq của TSCĐ
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định thì tạo ra được bao nhiêu đồng Giá trị tổng sản lượng. Năm 1999 là 357,7 tức là cứ một đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định thì tạo ra được 357,7 đồng giá trị tổng sản lượng, đến năm 2000 thì con số này là 394,2 đồng tăng so với năm 1999 là 36,5 đồng tương ứng với 10,2%, điều này cho thấy việc sử dụng tài sản cố định của Công ty là có hiệu quả hơn so với năm 1999 nguyên nhân là do tỷ lệ đầu tư tài sản cố định của Công ty thấp hơn so với tỷ lệ tăng Giá trị Tổng sản lượng, như vậy lợi nhuận mang lại cho Công ty cũng được nâng lên, kéo theo là thu nhập của người lao động cũng tăng lên. Năm 2001 chỉ tiêu này lại kém hơn so với năm 2000, chỉ đạt 391 đồng giảm 3,2 đồng tương ứng với 8,1%. Nguyên nhân chính là do Công ty đã đầu t ư vào tài sản cố định nhiều hơn với tỷ lệ tăng so với năm 2000 là 15,95% trong khi đó mức tăng của Giá trị Tổng sản lượng chỉ là 15% do vậy chỉ tiêu này có phần giảm hơn.
Doanh thu
+ Sức sản xuất của tài sản = x 100
cố định theo doanh thu Nguyên giá bq của TSCĐ
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Năm 1999 là 419 tức là cứ một đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định thì tạo ra được 419 đồng doanh thu thuần, đến năm 2000 thì con số này là 466,8 đồng tăng so với năm 1999 là 47,8 đồng tương ứng với 11,4%, điều này đồng nghĩa với việc Công ty đã tận dụng được công suất thiết kế một cách có hiệu quả hơn so với năm 1999, mặc dù Công ty vẫn tiến hành đầu tư trang thiết bị mới. Năm 2001 do Công ty đầu tư vào tài sản cố định nhiều mà lại không sử dụng hết công suất nên chỉ tiêu này giảm, mặc dù doanh thu thuần của Công ty vẫn tăng nhưng ở mức thấp 8,56% trong khi đó tài sản cố định tăng với mức là 15,95% so với năm 2000.
Lợi nhuận
+Sức sinh lời của tài sản cố định = x 100
Nguyên giá bq của TSCĐ
Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng nguyên giá tài sản cố định thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Cụ thể, năm 1999 chỉ tiêu này là 5,1 có nghĩa là Công ty đầu tư 100 đồng nguyên giá tài sản cố định thì thu được 5,1 đồng lợi nhuận. Nhưng sang đến năm 2000 thì nếu Công ty đầu tư 100 đồng nguyên giá tài sản cố định thì thu được 6,75 đồng lợi nhuận tăng 1,65 đồng so với năm 1999 tương ứng với tỷ lệ là 32,35%, đây là năm mà Công ty sử dụng tài sản cố định có hiệu quả nhất. Đến năm 2001 thì con số này giảm xuống rất nhiều chỉ đạt có 3,08 đồng giảm so với năm 2000 là 3,67 đồng tương ứng với tỷ lệ giảm là 54,37 %, đây là vấn đề mà các cán bộ lãnh đạo Công ty cần phải nghiên cứu để sử dụng tài sản cố định một cách có hiêụ quả tránh lãng phí, mặc dù năm 2001 Công ty sử dụng một khối lượng lao động không phải là ít với con số 1035 lao động nguyên nhân chính vẫn là do Công ty sử dụng chưa hết công suất nên ảnh hưởng đến lợi nhuận là lẽ đương nhiên.
+ Suất hao phí tài sản cố định theo Giá trị Tổng sản lượng:
Nguyên giá bq của TSCĐ
Chỉ tiêu này = x 100
Giá trị Tổng sản lượng
Chỉ tiêu này cho thấy để có được 100 đồng Giá trị Tổng sản lượng thì hao phí mất bao nhiêu đồng tài sản cố định.Cụ thể năm 1999 để thu được 100 đồng giá trị Tổng sản lượng Công ty đã phải hao phí mất 27,96 đồng tài sản cố định, đến năm 2000 tỷ lệ này giảm chỉ còn 25,36 đồng điều này cho thấy việc mở rộng thị trường tiêu thụ của Công ty rất có hiệu quả đã làm tăng giá trị tổng sản lượng do vậy mà suất hao phí của tài sản cố định giảm cụ thể là giảm 2,6 đồng ứng với tỷ lệ là 9,3%. Đến năm 2001 thì tỷ lệ này tăng 0,21 đồng tương ứng với tỷ lệ là 0,83% nói chung tỷ lệ này tăng không phải là do giá trị tổng sản lượng không tăng mà là do Công ty đã đầu tư tài sản cố định nhiều hơn so với năm 2000, như vậy là chi phí cho máy móc thiết bị công nghệ trong sản phẩm ngày càng cao phù hợp với xu hướng tự động hoá dây truyền sản xuất.
+ Suất hao phí tài sản cố định theo Doanh thu thuần:
Nguyên giá bq của tài sản cố định
Chỉ tiêu này = x 100
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng doanh thu thì cần phải chi phí bao nhiêu đồng tài sản cố định cụ thể năm 1999 Công ty muốn thu được 100 đồng doanh thu thì phải hao phí mất 23,86 đồng tài sản cố định, năm 2000 là 21,42 đồng giảm 2,42 đồng tức giảm 10,23% so với năm 1999, năm 2001 là 22,88 tăng 1,46 đồng tương đương với 6,82%, suất hao phí này tăng là do tốc độ tăng của tài sản cố định cao hơn tốc độ tăng của doanh thu do đó cần phảimở rộng hoạt động tiêu thụ sản phẩm hơn nữa để sử dụng tối đa công suất của tài sản cố định.
+ Suất hao phí tài sản cố định theo lãi ròng:
Nguyên giá bình quân của tài sản cố định
Chỉ tiêu này = x 100
Lãi ròng
Chỉ tiêu này cho ta biết để có 100 đồng lợi nhuận thì cần phải chi phí bao nhiêu đồng tài sản cố định, cụ thể năm 1999 Công ty muốn thu được 100 đồng lợi nhuận thì phải hao phí 1955 đồng tài sản cố định, đến năm 2000 tỷ lệ này là 1482 đồng, giảm so với năm 1999 là 473 đồng tương ứngvới mức giảm là 24,2% điều này cho thấy không phải Công ty không đầu tư tài sản cố định mà Công ty có đầu tư nhưng mức tăng không bằng mức tăng lơị nhuận cụ thể mức tăng lợi nhuận là 36,4% trong khi đó mức tăng tài sản cố định chỉ đạt 3,4% chứng tỏ Công ty đã sử dụng tối đa công suất của tài sản cố định. Đến năm 2001 thì con số này là 3243 đồng tăng 119% so với năm 2000 điều này cho thấy Công ty đã đầu tư trang thiết bị nhiều song vẫn chưa sử dụng hết công suất do vậy Công ty cần nỗ lực hơn nữa để nâng cao lợi nhuận, tránh lãng phí, việc sử dụng lãng phí tài sản cố định ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của Công ty, mặc dù việc đầu tư cơ sở vật chất là rất hợp lý.
Tóm lại qua phân tích hiệu quả sử dụng tài sản cố định của Công ty ta thấy việc sử dụng tài sản cố định chưa được cao cần phải nỗ lực hơn nữa Song việc đầu tư tài sản cố định như vậy là hợp với quy luật tự động hoá trong sản xuất.
c/ Hiệu quả sử dụng vốn lưu động (VLĐ) của Công ty
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty có thể phản ánh bằng nhiều loại chỉ tiêu nhưng chủ yếu và trước hết là các chỉ tiêu sau:
Giá trị sản xuất (doanh thu )
* Sức sản xuất của VLĐ = x 100
VLĐ bình quân
Lợi nhuận
* Sức sinh lời của VLĐ = x 100
VLĐ bình quân
VLĐ bình quân
* Suất hao phí của VLĐ = x 100
Giá trị sản xuất ( doanh thu, lãi)
Doanh thu
* Số vòng quay của VLĐ =
VLĐ bình quân
* Số VLĐ tiết kiệm hoặc vượt mức so với kỳ gốc = (TSN1- TSN0 ) x C/T
TSN=T x D/C
Trong đó : TNS là Tỷ suất hàng ngày.
D là vốn lưu động bình quân trong kỳ.
C là Doanh thu trong kỳ.
T là số ngày trong kỳ .
(1) là kỳ phân tích còn (0) là kỳ gốc.
Dưới đây là hiệu quả sử dụng Vốn Lưu Động của Công ty:
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
TH
00/99 (%)
TH
01/00 (%)
Doanh thu thuần
Triệu đồng
122853
141526
115,2
153647
108,56
Vốn lưu động bình quân
Triệu đồng
21056,7
26780,2
127,18
40631
151,72
Lợi nhuận ròng
Triệu đồng
1500
2046
136,4
1084
52,98
Sức Sản xuất của Vốn lưu động tính theo doanh thu thuần
Đồng
583,44
528,47
90,58
378,15
71,56
Sức sinh lời của vốn lưu động
Đồng
7,12
7,64
107,3
2,58
33,76
Suất hao phí vốn lưu động tính theo doanh thu thuần
Đồng
17,14
18,92
110,39
26,44
139,77
Suất hao phí vốn lưu động tính theo lợi nhuận ròng
Đồng
1403,78
1308,9
93,24
3748,2
286,36
Số vòng quay vốn lưu động
Lần
5,83
5,28
90,57
3,78
72,03
Thời gian 1 vòng quay
Ngày
61,75
68,18
110,41
95,24
139,69
Số vốn lưu động tiết kiệm tuyệt đối
Triệu đồng
2190
11550
527,4
Bảng 9 :Hiệu quả sử dụng Vốn lưu động của Công ty 1999-2001
Số vốn lưu động tiết kiệm tương đối
Triệu đồng
1980
7600
383,8
Nguồn: Phòng kế toán tài vụ
Qua bảng số liệu trên cho ta thấy tình hình sử dụng vốn lưu động như sau :
+ Sức sản xuất của vốn lưu động tính theo doanh thu thuần: Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn lưu động thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu, cụ thể năm 1999 chỉ tiêu này đạt 583,44 tức là cứ một đồng vốn lưu động thì tạo ra 583,44 đồng doanh thu . Năm 2000 chỉ tiêu này giảm , chỉ đạt 528,47 đồng giảm so với năm 1999 là 54,97 đồng tương ứng với 9,42% nguyên nhân do tỷ lệ tăng vốn lưu động cao hơn tỷ lệ tăng doanh thu, đồng nghĩa với việc Công ty có khả năng thanh toán cao hơn, song việc sử dụng vốn lưu động vẫn chưa có hiệu quả . Đến năm 2001 chỉ tiêu này chỉ đạt 378,15 đồng giảm 150,32 đồng tương ứng với tỷ lệ giảm là 28,44% so với năm 2000 , mặc dù doanh thu năm 2001 vẫn tăng so với năm 2000 nhưng mức tăng doanh thu thấp hơn mức tăng vốn lưu động do vậy hiệu quả kinh doanh phần nào còn hạn chế .
+ Sức sinh lời của vốn lưu động: Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng vốn lưu động thì tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận, năm 1999 là 7,12 đồng lợi nhuận, năm 2000 là 7,64 đồng tăng 0,52 đồng tỷ lệ tương ứng là 7,3% do tỷ lệ tăng lợi nhuận cao hơn so với tỷ lệ tăng vốn lưu động, mặt khác do Công ty đã mở rộng thị trường tiêu thụ và sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn.Đến năm 2001 do Công ty đã đầu tư nhiều vào tài sản lưu động mà vốn chủ yếu là vốn vay nên chi phí làm cho lợi nhuận giảm nên chỉ tiêu này giảm nhiều, giảm 66,24% so với năm 2000, điều này không có nghĩa là Công ty làm ăn thua lỗ, mà vấn đề là Công ty vẫn chưa phát huy được điểm mạnh của mình.
+ Suất hao phí vốn lưu động tính theo doanh thu thuần: chỉ tiêu này cho thấy trong 100 đồng doanh thu thì chi phí bao nhiêu đồng vốn lưu động, năm 1999 là 17,14 đồng, năm 2000 là 18,92 đồng tăng 10,39%, đến năm 2001 con số này là 26,44đồng tăng 39,77% so với năm 2000. Qua đây ta thấy để tạo ra doanh thu thì ngày càng cần đến vốn lưu động nhất là trong thời buổi nền kinh tế thị trường cạnh tranh , nếu doanh nghiệp nào cố nhiều vốn thì sẽ chiếm lĩnh được thị trường.
+Suất hao phí vốn lưu động tính theo lợi nhuận ròng: Chỉ tiêu này cho biết để có được một đồng lợi nhuận thì cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Năm 1999 để có 1 đồng lợi nhuận thì cần 1403,78 đồng vốn lưu động, năm 2000 thì cần 1308,9 giảm so với năm 1999 là 6,76 % chứng tỏ Công ty làm ăn có hiệu quả hơn. Đến năm 2001 con số này là 3748,2 đồng vốn lưu động tăng 2439,3 đồng tức tăng 186,36 % điều này chứng tỏ Công ty bị chiếm dụng vốn hơn nữa cũng do sự cạnh tranh của các đối thủ cùng ngành, do vậy đòi hỏi Công ty phải có lượng vốn lớn, ảnh hưởng lớn tới hiệu quả kinh doanh.
+Số vòng quay của vốn lưu động: Chỉ tiêu này cho biết số vốn lưu động 1 năm quay được mấy vòng, năm 1999 số vòng quay của vốn lưu động là 5,83 vòng, năm 2000 số vòng quay của vốn lưu động là 5,28 vòng giảm so với năm 1999 là 0,55 vòng giảm 9,43% nguyên nhân là do yếu tố khách quan, yếu tố cạnh tranh.Đến năm 2001 do vốn lưu động của Công ty nhiều do vậy vòng quay của vốn chậm hẳn chỉ đạt 3,78 vòng /1 năm giảm 27,97% đòi hỏi các nhà kinh doanh phải nỗ lực hơn nữa để phát huy được nguồn vốn của mình.
+ Thời gian 1 vòng quay: Qua bảng trên ta thấy số ngày /1 vòng quay vốn lưu động ngày càng tăng, hay vòng quay vốn ngày càng chậm, đây là một vấn đề rất quan trọng đòi hỏi Công ty phải xem xét .
+ Số vốn lưu động tiết kiệm tuyệt đối: Do số ngày /1vòng quay ngày càng tăng nên Công ty muốn tăng doanh thu thì phải tăng vốn lưu động. Như vậy vốn lưu động không những không tiết kiệm được mà còn phải đầu tư thêm cụ thể là nếu Công ty muốn đạt được mức doanh thu như năm 1999 thì năm 2000 Công ty phải đầu tư thêm 2190 triệu đồng, còn nếu Công ty muốn đạt mức doanh thu như năm 2000 thì năm 2001 Công ty phải đầu tư thêm 11550 triệu đồng.
+ Số vốn lưu động tiết kiệm tương đối: Cũng tương tự như trên, chứng tỏ việc sử dụng vốn lưu động của Công ty là không hiệu quả, số vòng quay của vốn lưu động giảm nên không tiết kiệm được vốn lưu động, nếu Công ty muốn đạt mức doanh thu như năm trước thì đòi hỏi phải tăng vốn lưu động.
2.3. Đánh giá tổng quát về hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty
Trên cơ sở phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh của Công ty trong những năm qua, kết hợp với việc xem xét kỹ các đặc điểm về kỹ thuật cho thấy Công ty đã đạt được những thành tựu và tồn tại một số hạn chế.
2.3.1. Những thành tựu đạt được
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban giám đốc, sự phối hợp chặt chẽ của các Phòng ban, phân xưởng đã phát hu tính chủ động sáng tạo trong chỉ đạo điều hành, đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh.
Trên cơ sở kết hợp những dự đoán của thị trường và năng lực sản xuất hiện có Công ty đã xây dựng được những kế hoạch sản xuất ngắn hạn, dài hạn và kế hoạch tác nghiệp của Công ty làm cơ sở điều hành sản xuất. Do đó trong các năm 1999-2001 Công ty đều làm ăn có hiệu quả biểu hiện tổng doanh thu lớn hơn tổng chi phí.
Thu nhập bình quân của công nhân viên ngày càng cao. Từ 900.000 đ/người năm 1999 lên tới 1.100.000 đồng/người vào năm 2001 điều cho thấy Công ty đã chú trọng tới đời sống của công nhân viên, hay đồng nghĩa với việc Công ty làm ăn có lãi. Công ty đã chú trọng tới nghiên cứu thị trường, từng bước tiếp cận, tìm bạn hàng trong và ngoài nước, Công ty đã xuất khẩu được một số mặt hàng chủ yếu là sang các nước trong khu vực và Đông âu. Mặt khác Công ty đã làm tốt công tác điều tra, thu thập nắm bắt xử lý kịp thời thông tin về thị trường nên đã lựa chọn được hình thức phân phối phù hợp với đặc điểm của sản phẩm và nhu cầu của người tiêu dùng, giúp cho Công ty mở rộng được thị trường tiêu thụ. Hiện nay Công ty có trên 300 đại lý lớn và các mạng lưới phân phối trong cả nước giúp cho khách hàng dễ dàng tiếp xúc với sản phẩm của Công ty, đặc biệt là khu vực miền Bắc.
Công ty đã không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá sản phẩm tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường, tích cực tìm mọi biện pháp hạ giá thành sản phẩm.
Trong những năm gần đây đặc biệt là năm 2001, Công ty đã tiến hành đầu tư máy móc thiết bị công nghệ hiện đại. Sự đổi mới này phù hợp với các nguồn năng lực của Công ty hiện có và điều này phù hợp với xu hướng tự động hoá trong sản xuất. Nhờ áp dụng chính sách đa dạng hoá sản phẩm, chú trọng đến chất lượng, giá cả, mẫu mã, bao bì mà các sản phẩm của công ty đã đáp ứng được nhu cầu trong nước. Đặc biệt trong năm 1999, Công ty đã được bình chọn vào Topten hàng Việt Nam chất lượng cao.
Trình độ cán bộ công nhân viên ngày càng được nâng cao. Công ty đã tổ chức khoá đào tạo công nghệ, nội quy, kỹ thuật an toàn cho công nhân hợp đồng. Công ty đã tổ chức đào tạo bồi dưỡng tay nghề cho công nhân hợp đồng mới bằng hình thức đào tạo tại chỗ, tổ chức các lớp học vệ sinh thực phẩm, an toàn lao động, các cuộc thi thợ giỏi, nâng cao tay nghề, ý thức trách nhiệm và tạo tinh thần đoàn kết giữa các thanh viên.
Những nỗ lực cố gắng trên đã mang lại hiệu quả sản xuất kinh doanh tốt hơn, doanh thu tăng dần qua các năm .
2.3.2. Những mặt hạn chế
Bên cạnh những thành tựu mà Công ty đã đạt được vẫn còn tồn tại một số hạn chế: Tổng chi phí của công ty còn ở mức cao, do một số năm gần đây vốn của Công ty chủ yêu là đi vay nên chi phí trả lãi vay lớn, ngoài ra hiệu quả sử dụng vốn còn thấp, khả năng sinh lời của vốn còn chưa cao và cũng giống như các doanh nghiệp khác, Công ty Bánh kẹo Hải Châu đang ở trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng mặc dù việc sử dụng vốn chưa cao.
So với một số công ty sản xuất bánh kẹo khác như Công ty bánh kẹo Hải Hà, Công ty Biên Hoà... thì giá bán sản phẩm của công ty vẫn còn cao, gây khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm.
Ngoài ra sản phẩm của Công ty chưa được phong phú mặc dù là một Công ty lớn song Hải Châu vẫn chưa sản xuất được một số mặt hàng mà hiện nay đang thích hợp với thị hiếu người tiêu đặc biệt là lớp trẻ như: BimBim, Bánh mặn, kẹo cao su... Đây là một yếu tố làm giảm lợi thế cạnh tranh của Công ty.
Trang thiết bị máy móc của Công ty mặc dù đã được đổi mới nhưng vẫn chưa đồng bộ, ngoài những dây chuyền được đầu tư mấy năm gần đây còn một số máy móc thiết bị còn quá cũ, lạc hậu về kỹ thuật, sản xuất bán cơ khí, chưa chuẩn bị được những thiết bị phụ trợ, điều này đã ảnh hưởng tới chất lượng của sản phẩm và việc tiết kiệm nguyên vật liệu.
Mặt khác do Công ty sản xuất theo mùa vụ nên vấn đề lao động của Công ty vẫn còn một số hạn chế như việc phải thuê thêm lao động, đôi khi phải tận dụng cả số sinh viên thực tập tham gia sản xuất nhưng ở mức độ đơn giản. do vậy hiệu suất sử dụng lao động chưa cao, mức sinh lời lao động bình quân còn quá thấp, đây là một yếu tố làm giảm hiệu quả kinh doanh kinh doanh của Công ty trong các năm vừa qua.
Những tồn tại trên làm ảnh hưởng tới kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Hiện nay, sản phẩm của công ty mặc dù đã được đa dạng hóa mẫu mã thay đổi nhưng chưa cao.
Nguyên nhân: Hiệu quả kinh doanh của công ty còn thấp, chưa ổn định và chưa khai thác tốt tiềm năng của mình để nâng cao hiệu quả kinh doanh là do một số nguyên nhân chính sau:
Với quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh lớn cả về thị trường và mặt hàng mà Công ty chưa thành lập được phòng Marketing. Hơn nữa, lực lượng cán bộ làm Marketing của Công ty chủ yếu là cán bộ trẻ tuổi vừa tốt nghiệp nên Công ty khó theo sát được thị trường.
Chưa khai thác hết công suất của máy móc . Đặc biệt là tay nghề, trình độ kỹ thuật chưa cao làm cho năng suất lao động giảm ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh. Mặt khác do nguồn vốn của Công ty chủ yếu là vốn vay nên chi phí lớn.
Chương 3: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty Bánh kẹo Hải Châu
3.1. Phương hướng phát triển của công ty đến năm 2005
3.1.1. Phương hướng chung của ngành
Hiện nay, ngành bánh kẹo nước ta đang phát triển nhanh với tốc độ 10-15% mỗi năm. Một số sản phẩm đã được người tiêu dùng trong nước đánh giá cao, không thua kém gì hàng ngoại. Chính những thuận lợi này đã giúp các nhà sản xuất bánh kẹo thêm tin tưởng vào sự phát triển trong tương lai.
Theo dự đoán về thị trường bánh kẹo trong nước đến năm 2005 cho thấy Việt Nam có nhiều thuận lợi trong lĩnh vực phát triển sản xuất ngành bánh kẹo. Cụ thể là:
- Nguồn nguyên liệu phong phú nước ta là một nước nông nghiệp vùng nhiệt đới nên sản lượng hoa quả, các loại củ, bột, đường thuận lợi cho việc sản xuất.
- Đảng và Nhà nước ta có chủ trương đẩy mạnh nội lực; hợp tác và phát triển với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Việt Nam là một trong những thành viên của khối ASEAN do đó rất thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung và ngành bánh kẹo nói riêng.
- Dân số tăng nhanh theo số liệu của Tổng cục thống kê dự đoán đến năm 2005 dân số nước ta sẽ có khoảng 86 triệu người; Mức sinh hoạt sẽ phấn đấu trên 2200 Kcalo/ người, trong đó Protein chiếm 11%, lipit 12%, gluco 77% (theo số liệu Bộ y tế )
Như vậy, theo dự đoán mức tiêu thụ bánh kẹo bình quân 3kg/ người, đến năm 2005 nước ta có nhu cầu sản xuất khoảng 260000 tấn đến 300000 tấn một năm. Dự đoán tổng doanh thu thị trường là 8000 tỷ đồng, tỷ lệ xuất khẩu 10- 20%.
Qua đó chiến lược của ngành bánh kẹo đến năm 2005 được đặt ra là:
- Đảm bảo sản xuất và cung cấp đầy đủ số lượng, chủng loại, chất lượng, giá cả phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng hạn chế tới mức tối đa nhập bánh kẹo ngoại, đồng thời tiến tới xuất khẩu sang thị trường Đông Âu và các nước trong khu vực.
- Đổi mới công nghệ thiết bị, tiến tới cơ giới hoá, tự động hoá, đồng bộ hoá các dây chuyền sản xuất kẹo cứng, kẹo mềm sôcôla, cao su, bánh biscuit.. Hoàn chỉnh các phương tiện vận chuyển(các hệ thống vận chuyển bằng băng chuyền giữa các khâu sản xuất từ thành phẩm đến nhập kho).
- Đảm bảo tự túc phần nguyên vật liệu đường, glucoza, sữa tinh bột, dầu thực vật để sản xuất bánh kẹo. Không nhập khẩu bột mì, sử dụng bột mì xay nghiền trong nước. Tự túc in trong nước một số phụ liệu như giấy nhôm, giấy sáp, băng dán, nhãn túi, hộp sắt...
- Đa dạng hoá sản phẩm: sản xuất các sản phẩm bánh kẹo đường, không đường, có chất béo hoặc không và các sản phẩm nâng cao thể lực.
Tổng số đầu tư phát triển ngành bánh kẹo dự tính từ đây đến năm 2005 là 440 tỷ đồng Việt Nam (tương đương với gần33.846.000 USD)
3.1.2. Phương hướng phát triển của Công ty đến năm 2005
Gần 40 năm tồn tại và phát triển, Công ty Bánh kẹo Hải Châu đã từng bước trưởng thành và mở rộng hơn về qui mô. Mục tiêu của Công ty là đến năm 2005, Công ty Bánh Kẹo Hải Châu thực sự trở thành doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo lớn nhất Việt Nam, Với trang thiết bị hiện đại, công nghệ sản xuất tiên tiến và có đủ khả năng cạnh tranh với bánh kẹo của cả nước và trên thế giới. Đây là mục tiêu to lớn phản ánh quyết tâm của toàn cán bộ công nhân viên toàn Công ty. Để đạt được mục tiêu trên Công ty đã đề ra một số phương hướng sau:
- Hoàn thiện bộ máy quản lý để hoàn thành tốt công tác quản lý kinh doanh . Bộ máy quản lý phải được tổ chức chặt chẽ,khoa học hơn để giúp cho nhà quản trị trong Công ty nắm bắt được tình hình kinh doanh thực tế một cách chính xác, kịp thời phân chia nhiệm vụ và quyền hạn đúng với chức năng của từng bộ phận ,tránh tình trạng một bộ phận phải thực hiện nhiều chức năng như hiện nay.
- Tăng cường đầu tư thiết bị hiện đại, thường xuyên thay đổi mặt hàng, cải tiến mẫu mã , bao bì, nâng cao chất lượng sản phẩm để nâng cao giá trị và hiệu quả sản xuất.
- Nghiên cứu, sử dụng nguyên vật liệu trong nước, thay thế hàng nhập khẩu nhằm hạ giá thành sản phẩm, hạn chế được sự biến động của ngoại tệ.
- ổn định và nâng cao hiệu quả kinh doanh tại thị trường cũ, mở rộng thị trường mới, nhất là thị trường phía Nam và thị trường xuất khẩu, ưu tiên khôi phục lại thị trường Đông Âu từng bước thâm nhập thị trường ASEAN và hướng tới thị trường Châu Mĩ và Bắc Mỹ.
- Nghiên cứu, mở rộng phạm vi khoán cho các đơn vị xí nghiệp thành viên từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sao cho sâu sát, hợp lý và chặt chẽ.
- Nâng cao chất lượng và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm của sản phẩm bánh kẹo do Công ty sản xuất. Phấn đấu đạt qui trình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002.
3.2. Biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty Bánh kẹo Hải Châu
Với những thành công đã có, Công ty Bánh kẹo Hải Châu tự hào đã trở thành một trong các doanh nghiệp Nhà nước đi đầu trong hoạt động sản xuất tự chủ và có hiệu quả trong kinh doanh. Không ai phủ nhận thành tích mà Công ty Bánh kẹo Hải Châu đã đạt được. Nhưng trong nền kinh tế thị trường, khi mà hiện tại chưa bắt đầu, tương lai đang đối đầu và thách thức, nếu tự bằng lòng với những gì mình đạt được rất có thể Công ty sẽ gặp khó khăn trong những năm tiếp theo. Qua thời gian thực tập tại Công Ty và từ kết quả đánh giá về hiệu quả kinh doanh cũng như nêu ra những thuận lợi, điểm yếu và nguyên nhân, em mạnh dạn đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Bánh kẹo Hải Châu trong tương lai.
3.2.1. Đa dạng hoá sản phẩm
Việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm là một biện pháp không thể thiếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, đối với Công ty Bánh kẹo Hải Châu thì việc đa dạng hoá sản phẩm chủ yếu là thực hiện theo chiều hướng tăng chủng loại sản phẩm, nhằm toạ ra sự phù hợp với các nhóm đối tượng tiêu dùng và tạo điều kiện tiêu thụ nhiều hơn nữa cho Công ty. Tăng chủng loại sản phẩm là một giải pháp đạt hiệu quả kinh doanh cao . Việc đa dạng hoá sản phẩm có nghĩa là Công ty vừa thiết kế tạo ra những sản phẩm mới, vừa duy trì những sản phẩm mà từ trước đến nay có tỷ lệ tiêu thụ thấp nhằm đáp ứng nhu cầu , giữ vững thị trường cũ nhưng với quy mô sản xuất hẹp, thường xuyên nghiên cứu các loại bánh kẹo phù hợp với các lứa tuổi, nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm , từ đó tối đa hoá lợi nhuận .
Đối với lứa tuổi nhỏ thì nhu cầu của chúng thường được người lớn thoả mãn vì vậy Công ty phải đưa ra các loại mầu sắc , mẫu mã phù hợp.
Đối với lứa tuổi thanh niên đã có một phần thu nhập và có khả năng tự quyết không phụ thuộc vào người lớn họ là những người có nhu cầu hướng tới những sản phẩm mới đắt tiền, ưa chuộng hình thức , do vậy Công ty cần nắm rõ tâm lý của họ để từ đó đưa ra những sản phẩm mới lạ như các loại bánh cao cấp, các loại kẹo cao su...Đây là đối tượng mà Công ty nên đầu tư và hy vọng sẽ thu được nguồn lợi nhuận lớn, hay đây chính là nhóm khách hành tiềm năng.
Đối với người trung tuổi và những người già đây là nhóm khách hàng ít có nhu cầu, thông thường những nhu cầu ấy được con cái đáp ứng, Công ty nên sản xuất những loại bánh, kẹo có độ mềm, thơm, có độ ngọt vừa phải . Hơn nữa đây là nhóm khách hàng thường khó tính do vậy Công ty cũng phải chú trọng tới mẫu mã hình thức và chất lượng.
Việc tạo ra chủng loại kẹo không chỉ khác nhau về mặt tính chất kẹo mà còn phải tạo ra được những kích cỡ và hình thức bao gói khác nhau. Về bao gói, ngoài túi nhựa, giấy tráng kim loại, túi bạc, cần phải có nhiều hình thức hơn nữa như hộp giấy, khay nhựa, hộp sắt... để vừa dễ vận chuyển, bảo quản vừa tăng tính sang trọng của sản phẩm nhất là phục vụ các dịp lễ tết, làm quà. Về khối lượng từng gói bánh kẹo cững nên có nhiều loại khác nhau: 50g, 75g, 100g ...để khách hàng tuỳ ý lựa chọn phù hợp với túi tiền của họ. Trong từng gói kẹo cũng nên có nhiều loại kẹo khác nhau, để khi ăn người tiêu dùng có thể được thưởng thức nhiều loại khác nhau cùng lúc. Ngoài các loại bánh kẹo ra Công ty còn phải chú trọng tới sản phẩm bột canh đây là sản phẩm truyền thống của Công ty và đã đi vào tiềm thức người tiêu dùng, chiếm lĩnh được thị trường lớn, song không vì thế mà Công ty không tiến hành đa dạng hoá sản phẩm, mà phải luôn thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, để phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng.
Tóm lại nếu chỉ đa dạng hoá sản phẩm không thì chưa đủ mà muốn cạnh tranh tốt thì Công ty còn phải chú trọng tới giá thành sản phẩm, giá thành sản phẩm thấp sẽ tạo ưu thế hơn.
3.2.2. Hạ giá thành sản phẩm
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thật, chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao, thì giá cả sản phẩm cũng luôn luôn được quan tâm vì giá bán là một công cụ cạnh tranh khá hữu hiệu, để tiêu thụ được nhiều hàng và lợi nhuận cao cần kết hợp hạ giá thành và giá bán hợp lý. Vì vậy, Công ty bánh kẹo Hải Châu cần chú ý tới các yếu tố giảm chi phí nhằm hạ giá thành sản phẩm.
Trong giá thành các sản phẩm kẹo, tỷ lệ chi phí nguyên vật liệu chiếm tỉ trọng lớn: Kẹo cứng 73,4%, kẹo mềm 72,1%... Do đó, việc giảm chi phí nguyên vật liệu đóng vai trò quyết định trong công tác hạ giá thành sản phẩm.
Tuy nhiên, với các sản phẩm bánh kẹo của Công ty không thể giảm chi phí nguyên vật liệu bằng cách giảm thành phần nguyên vật liệu, bớt đi nguyên vật liệu dưới mức công thức kỹ thuật hoặc giảm chất lượng nguyên vật liệu để có giá nhập nguyên vật liệu rẻ hơn, như vậy sẽ không đảm bảo chất lượng sản phẩm. Muốn vậy Công ty cần giảm chi phí nguyên vật liệu bằng cách tiết kiệm tối đa lượng tiêu hao, lãng phí nguyên vật liệu, nâng cao chất lượng công tác thu mua nguyên vật liêu , đổi mới công nghệ sản xuất, sản xuất nghuyên vật liêu thay thế rẻ hơn nhưng chất lượng vẫn đảm bảo, giảm chi phí vận chuyển nguyên vật liệu.
Trong quá trình sản xuất bánh kẹo, các tiêu hao lãng phí nguyên vật liêu thường xảy ra như :rơi vãi nguyên vật liệu, không thu hồi nước đường triệt để rửa nồi, khi nấu kẹo còn để trào bồng nhiều ra ngoài. Với định mức tiêu hao nguyên vật liệu được Công ty qui định như sau:
- Kẹo cứng với sản lượng 2tấn/ ca tiêu hao2,5% tức tiêu hao là 50kg(192.000đ).
- Kẹo mềm với sản lượng 2,2tấn/ ca tiêu hao 3% tức tiêu hao là 66kg(168.000đ).
Nếu độ ẩm của nguyên vật liệu đưa vào sản xuất không cao hơn tiêu chuẩn qui định và độ keo được phân tích chính xác thì mức tiêu hao đó còn quá lớn buộc Công ty cần phải quan tâm. Đối với các tổ nấu, hoà đương thì tiêu hao nguyên liệu chủ yếu chiếm ở khâu này (trên 70% lượng tiêu hao). Do đó , tổ nấu cần giảm bớt tình trạng trào, bồng khi hoà, rơi vãi đường.
Đối với quá trình sản xuất các loại bánh người tổ trưởng cần tổ chức thu gom ngay nguyên vật liệu còn thừa sau khi cắt khuôn, đồng thời loại bỏ những chiếc bánh bị vỡ, bị hỏng, khẩn trương giao cho bộ phận đánh trộn bột chế biến để tái chế nhằm đưa vào sản xuất. Việc làm này vừa tiết kiệm được nguyên vật liệu vừa giảm thiểu được sự vận chuyển đến nơi sản xuất.
Đối với các sản phẩm là kẹo các tổ kiểm tra chất lượng cần thu hồi các loại kẹo không đảm bảo chất lượng hoặc trọng lượng để đem tái chế sản xuất lại.
Hơn nữa, để có thể tiết kiệm được nguyên vật liệu, Công ty cần phải tiếp tục kiểm tra chặt chẽ nguyên vật liệu, cân, đo, đong, đếm theo công thức ghi sổ sách và giao cho những người có trách nhiệm quản lý.
Ngoài ra Công ty phải tổ chức công tác thu mua thật tốt cần tìm nguồn thu mua nguyên vật liệu để giảm giá mua mà vẫn đảm bảo chất lượng, mua tận gốc, hạn chế qua khâu trung gian để giảm chi phí, trong quá trình vận chuyển phải bảo quản tốt. Để hạ giá thành mà chỉ tiết kiệm nguyên vật liệu không thì chưa đủ mà còn phải giảm chi phí cố định nó gồm chi phí mua máy móc thiết bị, chi phí quản lý ... Để giảm chi phí Công ty phải tăng nhanh sản lượng nhằm sử dụng hết công suất, tận dụng lực lượng lao động, làm giảm chi phí cố định trên một đơn vị sản phẩm dẫn tới lợi nhuận tăng.
Nếu làm tốt những công tác trên không chỉ giúp cho Công ty tiết kiệm được nguyên vật liệu, hạ giá thành sản phẩm mà còn nâng cao chất lượng sản phẩm, giữ vững uy tín của Công ty trong việc đảm bảo sức khoẻ của người tiêu dùng. Điều này thực sự cần thiết trong việc nâng cao sức cạnh tranh của Công ty Bánh kẹo Hải Châu.
3.2.3.Tiếp tục đổi mới công nghệ
Ngày nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật có ảnh hưởng đến việc tăng năng suất lao động và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Do vậy, Công ty phải nhanh chóng nắm bắt và ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất kinh doanh, vì các sản phẩm có hàm lượng khoa học và công nghệ cao sẽ thắng thế trong các cuộc canh tranh. So với các giải pháp nêu trên thì việc đầu tư theo chiều sâu là mang tính chiến lược lâu dài, có tác động tới vị thế của Công ty trong tương lai.
Do nhu cầu sản xuất phát triển, Công ty đã không ngừng đầu tư máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ nước ngoài, với nguồn vốn vay là chủ yếu nên chưa thể thay thế toàn bộ máy móc cũ, chưa đồng bộ hoá tất cả các dây chuyền sản xuất được. Do đó, Công ty vẫn phải sử dụng máy móc thiết bị cũ, thiếu đồng bộ dẫn đến lãng phí nguyên vật liệu, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
Trước tiên, Công ty cần phải kiểm tra, đánh giá lại máy móc, thiết bị, xác định lại khu vực, bộ phận nào cần phải đầu tư ngay. Do sự hạn chế về vốn nên Công ty phải chú trọng đầu tư vào những dây chuyên sản xuất trọng điểm, tránh tình trạng đầu tư tràn lan, vượt quá khả năng tài chính, vừa không đem lại hiệu quả, vừa gây lãng phí.Từ năm 1994 trở lại đây Công ty Hải Châu đã từng bước hiện đại hoá công nghệ trong sản xuất. Bởi vậy Công ty cần tiếp tục dổi mới và đầu tư thêm. Việc đầu tư mua sắm thiết bị mới tăng chất lượng sản phẩm kẹo là rất cần thiết.
Về lâu dài, Công ty cần đầu tư mới toàn bộ dây chuyền sản xuất kẹo mềm, máy móc thiết bị đầu tư phải thích hợp với trình độ tay nghề của công nhân, với khả năng tài chính của Công ty, có như vậy mới tạo được hiệu quả cao trong sản xuất.
Cùng với việc đổi mới máy móc thiết bị, nhập các dây chuyền hiện đại. Công ty phải thường xuyên tổ chức bảo dưỡng, bảo quản sửa chữa theo định kỳ, đảm bảo thực hiện tốt các mắt xích tu sửa nhằm đáp ứng tiến độ sản xuất, năng xuất lao động và chất lường sản phẩm.
Đổi mới công nghệ cần đi đôi với quá trình tiếp thu công nghệ mới, chuẩn bị đội ngũ cán bộ kỹ thuật và đào tạo công nhân để có khả năng vận hành, khai thác sử dụng có hiệu quả.
Đổi mới công nghệ cần tiến hành đồng thời với tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý nhằm phân công đúng người đúng việc, đúng khả năng, đảm bảo thực hiện nghiêm ngặt qui trình công nghệ. Công nghệ đổi mới được lựa chọn phải nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm.
Cuối cùng, việc đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị, điều quan trọng là phải có vốn. Cũng như nhiều doanh nghiệp Nhà nước khác, Công ty bánh kẹo Hải Châu cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc đầu tư theo chiều sâu. Tuy vậy, đây chỉ là giải pháp mang tính định hướng, cần phải hoạch định thường xuyên trong kế hoạch dài hạn.
3.2.4. Tăng cường công tác quản lý chất lượng
Mặc dù chất lượng sản phẩm của Công ty hiện nay được thị trường chấp nhận song không phải thế là đủ mà Công ty phải thường xuyên nâng cao chất lượng có như vậy thì mới có thể tồn tại được nhất là trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh như bây giờ, do đó Công ty phải tổ chức quản lý kỹ thuật, kiểm tra chất lượng ở tất cả các khâu .
Phải có sự phân cấp quản lý, chức năng rõ ràng không chồng chất, tránh tình trạng như hiện nay : kiểm tra chưa nghiêm khắc, trách nhiệm không rõ ràng ...việc quản lý chất lượng trước hết phải giao cho các phân xưởng rồi từ các phân xưởng giao cho quản đốc phân xưởng , từ quản đốc phân xưởng giao cho tổ trưởng rồi mới đến các thành viên trong tổ.
Ngoài ra còn phải đảm bảo chất lượng nguyên vật liệu: Nguyên vật liệu là yếu tố chính ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm do đó nguyên vật liệu phải đảm bảo chất lượng và đúng tiến độ . Mặt khác nguyên vật liệu chủ yếu là nhập ngoài do đó Công ty phải tính toán chu kỳ mua để đảm bảo thời gian dự trữ nguyên vật liệu tránh hư hỏng .
Các công đoạn của quá trình sản xuất cũng ảnh hưởng tới chất lượng do vậy các cán bộ kỹ thuật phải chú trọng theo dõi kiểm tra nhất là các khâu pha trộn , phối liệu nấu kẹo , nướng bánh ...Cuối cùng phải thực hiện tốt công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi tiêu thụ nhằm đảm bảo uy tín với khách hàng .
Tóm lại : Công tác quản lý chất lượng là một biện pháp quan trọng không thể thiếu trong quá trình nâng cao hiệu quả kinh doanh tuy nhiên nếu chỉ dừng ở đây thì chưa đủ mà phải thường xuyên đổi mới công nghệ, tăng cường nghiên cứu thị trường , nâng cao hiệu quả sử dụng vốn...
3.2.5. Tăng cường công tác quản lý vốn
Vốn là điều kiện tiên quyết cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc huy động và sử dụng có hiệu quả là một trong những nội dung của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.Trong những năm qua công tác quản lý vốn của Công ty còn tồn tại một số đặc điểm sau:
+ Cơ cấu vốn lưu động và vốn cố định còn chưa hợp lý. Tỷ trọng vốn lưu động còn thấp, nhất là tiền mặt, chưa đáp ứng được nhu cầu thanh toán.
+ Sức sinh lời của vốn còn thấp, số vòng quay toàn bộ vốn cũng thấp khoảng 5-6 vòng riêng năm 2001 đạt có 3,78 vòng.
Do đó, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, Công ty cần thực hiện các giải pháp sau:
Bước một: Xác định nhu cầu về vốn kinh doanh.
Trong vốn kinh doanh, nhu cầu về vốn cố định và vố lưu động thường khác nhau. Xác định được nhu cầu thực tế về vốn là việc làm khó nhưng giúp cho Công ty biết rõ được lượng vốn cần từ đó xem xét lượng vốn thiếu cần huy động.
Đối với vốn cố định: Nhu cầu về vốn cố định chủ yếu là để đổi mới máy móc thiết bị, nhập thêm một số đây chuyền sản xuất mơí. Tuy nhiên, nhu cầu của vốn cố định mang tính dài hạn vì cần một lượng vốn lớn, trước mắt Công ty chưa đáp ứag được. Tuy nhiên, mục tiêu đến năm 2005, Công ty cần đổi mơí dây chuyền sản xuất kẹo dừa, đồng bộ hoá các dây chuyền sản xuất kẹo cứng, sản xuất kẹo cốm mềm... Do vậy, lượng vốn cần huy động khoảng hơn 80 tỷ đồng( theo phương hướng hoạt động của Công ty ).
Đối với vốn lưu động: Nhu cầu tối thiểu của vốn lưu động chủ yếu dùng trong các lĩnh vực dự trữ, trong sản xuất thành phẩm và các khâu có liên quan tới tiêu thụ. Do đó, Công ty cần phải lập kế hoạch nhu cầu về vốn lưu động sát với thực tế tránh tình trạng ứ đọng vốn lưu động ảnh hưởng tới tiến độ sản xuất kinh doanh.
Bước hai: Huy động từ các nguồn.
Căn cứ vào lượng vốn còn thiếu, Công ty sẽ huy động vốn từ các nguồn sau:
Vay ngân hàng: đây là nguồn vốn có thể huy động được nhiều nhất. Ngoài ra, vay ngân hàng phải có tổ chức bảo lãnh, có dự án khả thi và mất nhiều thời gian chờ đợi, xét duyệt nhiều lúc không đáp ứng kịp thời về vốn cho thời đIểm sản xuất kinh doanh. Do vậy, trong thời gian tới Công ty nên chuyển sang tìm nguồn vốn bổ sung khác, hạn chế vay ngân hàng. Tuy nhiên, đây vẫn là nguồn cung cấp vốn với số lượng lớn.
Khuyến khích công nhân viên trong Công ty gửi tiết kiệm: đây là hình thức huy động vốn mới đối với Công ty nên nó chưa mang lại hiệu quả cao.
Công ty cần tích cực tuyên truyền quảng cáo, để không chỉ những người trong Công ty mà cả những người ngoài Công ty vẫn có thể tham gia gửi tiết kiệm, đồng thời nên ấn định mức lãi suất 0,6%/tháng (gửi không kì hạn), trong khi đó lãi suất của ngân hàng trả 0,5%,như vậy lãi suất của Công ty cao hơn lãi suất của ngân hàng 0,1% nhằm thu hút nhiều người tham gia. Thực hiện mức lãi suất này so với mức lãi suất của ngân hàng là 0,75% tháng thì Công ty có thể giảm lãi suất phải trả là 0,15%. Thực hiện tốt các biện pháp này sẽ nâng tổng số tiền tiết kiệm của công nhân viên trong Công ty lên, một mặt Công ty có lợi về nguồn vốn, mặt khác cán bọ công nhân viên cũng có thu nhập thêm. Liên kết với các Công ty cung cấp nguyên vật liệu, ký kết các hợp đồng trả chậm và người mua thanh toán trước tiền hàng nhằm chiếm dụng vốn.
Phương hướng huy động vốn hiệu quả nhất và nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty hiện nay đó là: Công ty nên đẩy mạnh tiến độ cổ phần hoá tuy nhiên đánh giá lại tài sản là việc làm hết sức khó khăn. Do vậy, Công ty cần tiến hành càng sớm càng tốt, thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá.
Bước 3: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, Công ty cần đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ làm tăng vòng quay vốn lưu động. Đặc điểm của sản phẩm bánh kẹo là có tỷ suất sinh lời thấp nên việc giảm tối đa lượng thành phẩm tồn kho sẽ làm giảm tình trạng ứ đọng vốn. Mặt khác, trong cơ chế thị trường Công ty không nên dự trữ quá nhiều nguyên vật liệu, vừa tăng chi phí dự trữ vừa làm chậm vòng quay của vốn. Đồng thời hạn chế tới mức tối đa sự lãng phí trong quá trình sản xuất.
3.2.6.Tăng cường nghiên cứu thị trường
Hiện nay, vấn đề quan tâm nhất của Công Ty là tăng sản lượng tiêu thụ và giảm thiểu hàng tồn kho vì bánh kẹo có tỷ số doanh lợi thấp, nhất là bột canh, nếu lượng hàng tồn kho lớn sẽ làm cho Công ty hoạt động không có hiệu quả. Muốn được khối lượng tiêu thụ thì sản phẩm sản xuất ra phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Do vậy Công ty phải có một lực lượng cán bộ nghiên cứu thị trường đủ mạnh mẽ cả về chất lượng và số lượng.
Hiện nay Công ty chưa có phòng Maketing; công việc nghiên cứu thị trường do phòng Kinh doanh đảm nhiệm nên hiệu quả đạt được chưa cao. Số cán bộ nghiên cứu thị trường thì hạn chế mà công ty có trên 300 đại lý đặt tại các tỉnh, thành; Nên một các bộ nghiên cứu thị trường phải đảm trách nhiều đại lý. Điều này dẫn đến các cán bộ phụ trách các thị trường ngoại tỉnh không nắm bắt được nhu cầu tiêu dùng, các chính sách bán hàng của các đối thủ cạnh tranh từ đó gây khó khăn cho Công ty trong việc hoạch định các chính sách phân phối.
Hơn nữa, Công ty không có phòng Marketing nên thu thập thông tin thường rời rạc, khó tổng hợp để nghiên cứu. Việc thành lập phòng Marketing là xuất phát từ yêu cầu của công việc, đòi hỏi Công ty phải có hệ thống thu thập và xử lý thông tin khép kín. Mặt khác từ đại hội Đảng lần thứ XI thì các doanh nghiệp phải tăng sản phẩm xuất khẩu nhằm hội nhập kinh tế bằng biện pháp xúc tiến thương mại, làm tốt trong nước đẩy lùi sản phẩm nhập ngoại do cởi bỏ hàng rào thuế quan.
Từ thực trạng trên, Công ty có thể thành lập phòng Marketing chuyên làm công tác nghiên cứu thị trường, có nghiệp vụ kỹ thuật Marketing để phân tích , đánh giá thị trường sâu sát từ đó đưa các loại sản phẩm và chính sách bán phù hợp.
Lợi ích của Công ty khi thành lập phòng Marketing:
Thứ nhất: Khi có phòng Marketing Công ty nắm được tình hình thị trường sâu sát hơn, giúp cho việc lập kế hoạch sản xuất, kế hoạch huy động vốn sát với yêu cầu thực tế, tránh tình trạng quá dư thừa hoặc thiếu trong việc cung cấp sản phẩm ra thị trường.
Thứ hai: Công ty nắm bắt được nhu cầu của khách hàng, sức mua tăng giảm của từng loại sản phẩm, sức mua theo thời vụ để tìm sản phẩm mới thay thế sản phẩm cũ và lập kế hoạch sản xuất từng mặt hàng cho từng tháng.Ví dụ: một số loại bánh cao cấp thường chỉ tăng khối lượng sản xuất vào các dịp lễ hội, lễ tết.
Thứ ba: giúp Công ty hiểu rõ hơn về các đối thủ cạnh tranh, so sánh các chính sách giá cả, chất lượng sản phẩm và các chính sách hỗ trợ bán hàng của họ với công ty của mình, liệu hiện nay các chính sách giá đang áp dụng có mang lại hiệu quả cho Công ty hơn các đối thủ cạnh tranh khác không. Từ đó tạo điều kiện cho Công ty điều chỉnh mức chiết khấu hiện nay từ 2%-5% tuỳ theo từng mặt hàng cho các đại lý, qui định mức thưởng cho 20 đại lý có doanh số bán cao nhất và hỗ trợ giá cho các thị trường ở xa.
Thứ tư: Giúp cho Công ty chủ động cho sản xuất kinh doanh, có thái độ phù hợp trên từng thị trường , từng đối tượng khách hàng và linh động theo từng thời điểm biến động của môi trường sản xuất kinh doanh.
Thứ năm: giúp cho Công ty giải quyết đầu vào và đầu ra một cánh nhanh chóng, giảm tồn kho và đặc biệt tăng cường kinh doanh những mặt hàng có hiệu quả, tạo điều kiện cho Công ty nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Khó khăn khi thành lập phòng Marketing:
Nếu duy trì số cán bộ nghiên cứu thi trường ở phòng Kinh doanh sang phòng Marketing thì họ vẫn không nắm bắt được nhu cầu của người tiêu dùng. Do đó, đòi hỏi Công ty phải tuyển thêm một số lượng lớn nhân viên Marketing. Vì vậy, hàng tháng Công ty phải trả thêm một khoản lương khá lớn.
- Chi phí cho việc thành lập một phòng mới rất tốn kém như mua sắm bàn ghế điện thoại, máy vi tính, phòng làm việc... Mất khoảng trên 100 triệu đồng.
- Bộ máy quản lý của Công ty cồng kềnh hơn, gây khó khăn cho việc quản lý.
- Chi phí bán hàng tăng lên do tăng chi phí Marketing.
Tuy nhiên, những khó khăn và tăng chi phí này chỉ mang tính trước mắt, xét về chiến lược dài hạn và phấn đấu hoàn thành kế hoạch đến năm 2005 thì việc lập phòng Marketing là một yêu cầu tất yếu. Vì khó khăn nhất hiện nay của Công ty là vấn đề tiêu thụ sản phẩm mà tỉ suất lợi nhuận bánh kẹo thấp, nếu như khâu tiêu thụ là không tốt kéo theo hiệu quả kinh doanh giảm xuống. Vì thế, Công ty cần phải đặc biệt chú trọng tới công tác nghiên cứu thị trường, đẩy mạnh sản lượng tiêu thụ. Xuất phát từ nhu cầu đó việc thành lập phòng Marketing là một đòi hỏi tất yếu.
3.3. Một số kiến nghị
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, để tạo môi trường cạnh tranh thuận lợi đem lại hiệu quả kinh doanh cao cho các doanh nghiệp nói chung và cho Cong ty Bánh kẹo Hải Châu nói riêng, nhà nước cần xem xét và hỗ trợ , có như vậy thì Công ty Bánh kẹo Hải Châu cũng như các công ty khác mới có thể cạnh tranh lành manhj với nhau và thúc đẩy nhau cùng phát triển.Thực tế trong những năm qua, Công ty Bánh kẹo Hải Châu đã tồn tại trong môi trường kinh doanh phức tạp. Ngoài các nhân tố chủ quan ra các nhân tố khách quan đóng một phần không nhỏ tác động đến hiệu qủa kinh doanh của Công ty. Sau đây là những kiến nghị của Công ty Bánh kẹo Hải Châu với nhà nước:
- Nhà nước nên giảm thuế nhập khẩu đối với một số nguyên liệu dùng trong sản xuất: bột mì, hương liệu. Đồng thời giảm thuế xuất nhập khẩu để Công ty có thể tăng sản lượng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- Nhà nước cần có biện pháp hữu hiệu ngăn chặn bánh kẹo nhập khẩu và chống hàng nhập lậu, chống nạn hàng giả, hàng nhái mẫu. Đồng thời cần có ưu đãi về thuế nhập khẩu đối với một số nguyên liệu trong nước chưa sản xuất được trong việc đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh, giảm thuế nhập khẩu đối những trang thiết bị máy móc mà trong nước chưa chế tạo được, nhằm khuyến khích đổi mới công nghệ , tăng năng suất lao động , nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- Nhà nước nên có chính sách ưu đãi và phát triển mạng lưới tư vấn thông tin, đầu tư công nghệ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp , tránh rủi ro khi nhập công nghệ mới .Hơn nữa nhà nước phải hoàn thiện hệ thống thông tin dự báo về thị trường để các công ty có cơ ra quyết định sản xuất kinh doanh.
- Đảm bảo thị trường tiền tệ ổn định, tạo điều kiện về vốn sản xuất cho doanh nghiệp. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về lãi suất vay, giúp doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng về trả lãi ngân hàng và có thể có điều kiện đầu tư chiều sâu đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ.
Kết luận
Phân tích hiệu quả kinh doanh là một việc làm tất yếu khách quan có từ lâu trong sản xuất kinh doanh nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh cuả doanh nghiệp. Nó phát sinh và phát triển cùng với quá trình sản xuất kinh doanh , tính tất yếu của nó do yêu cầu sản xuất kinh doanh đòi hỏi và mục đích không ngừng vươn lên của con người. Nó có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ và thực chất hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Qua phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh, các nhà quản lý sẽ nắm được các yếu tố tích cực và yếu kém tồn tại trong sản xuất kinh doanh, tìm ra nguyên nhân ảnh hưỏng đến hiệu quả đó rồi từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm, đề ra các biện pháp khắc phục thích hợp để ngày càng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh .
Chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước, Công ty Bánh kẹo Hải Châu đã có những thay đổi theo hướng tích cực, doanh thu ngày một tăng, hiệu quả ngày một cao và có vị trí vững chắc, uy tín trên thị trường trong nước, có được những kết quả này là do sự nỗ lực của Công ty nhất là trong những năm gần đây. Song bên cạnh đó Công ty đã gặp không ít những khó khăn, vẫn còn một số điểm vẫn tồn tại cần có biện pháp giải quyết để nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh , đây chính là những thử thách để Công ty tiếp tục tự khẳng định mình.
Đề tài " Phân tích hiệu quả kinh doanh ở Công ty Bánh kẹo Hải Châu " là kết quả nghiên cứu của em trong thời gian qua. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu và khả năng còn hạn chế nên đề tài này không tránh khỏi những sai sót trong quá trình phân tích. Em rất mong nhận được sự đóng góp chỉ dẫn của các thầy cô giáo và của lãnh đạo nhà máy để xây dựng bản khoá luận này được hoàn chỉnh hơn.
Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới T.S. Nguyễn Thị Minh Tâm là người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện khoá luận này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các cô chú trong phòng Kế hoạch vật tư đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện để em hoàn thành đề tài khoá luận này.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Phùng Thanh Bình - Nguyễn Đình Khiêm:
35 năm Bánh kẹo Hải Châu. NXB Lao động - Hà Nội 2000
2. Phạm Văn Được - Đặng Kim Cương:
Phân tích hoạt động kinh doanh. NXB Thống kê Hà Nội - 1997
3.GS-TS. Ngô Đình Giao :
Những vấn đề cơ bản về hiệu quả kinh tế trong XHCN
NXB Lao động - 1994
4. Đoàn Nghiệp - Nguyễn Thị Nguyệt:
Tập bài giảng Hoạch định kinh doanh.
Hà Nội 10- 1999
5. TS. Nguyễn Thị Minh Tâm:
Giáo trình Hạch toán kế toán Lưu hành tháng 12-1995
6. Đoàn Thị Ngọc Thanh :
Nguyên lý phân tích kinh tế. NXB Giao thông vận tải - 1995
7. Tài liệu của Công ty: Báo cáo đại hội công nhân viên chức, Báo cáo kết quả kinh doanh 1999-2001.
8.Tạp chí: Tạp chí công nghiệp Việt Nam số 6/1999, số 19/2000.
Tạp chí tài chính: Số 2/2000.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0349.doc