Là những tư liệu sản xuất tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm, chuyển toàn bộ giá trị vào giá trị của sản phẩm.
Tài sản lưu động là tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh. Giá trị của các loại tài sản lưu động của doanh nghiệp kinh doanh sản xuất thường chiếm từ 25% đến 50% tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp sản xuất. Quản lý và sử dụng hợp lý các loại tài sản lưu động có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp. Mặc dù hầu hết các vụ phá sản trong kinh doanh là hệ quả của nhiều yếu tố chứ không phải chỉ do quản trị vốn lưu động tồi. Nhưng cũng cần thấy rằng sự bất lực của một số Công ty trong việc hoạch định và kiểm soát một cách chặt chẽ các loại tài sản lưu động, các khoản nợ ngắn hạn hầu như là một nguyên nhân dẫn đến thất bại cuối cùng của họ. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động có ý nghĩa hết sức sống còn đối với doanh nghiệp. Nó nao gồm việc quản lý, sử dụng và huy động nguồn lực về vốn, tài sản lưu động của doanh nghiệp.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại xí nghiệp Kim Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i gian để rút ra kết luận, nhận xét để giúp cho công tác quản lý doanh nghiệp dễ dàng hơn thuận lợi hơn.
* Phương pháp so sánh.
Là phương pháp so sánh các chỉ tiêu số liệu đã xử lý qua các mốc thời gian. Qua đây tôi sử dụng hai kỳ nghiên cứu là năm 2000 và 2001. Phương pháp này được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu đề tài với mục đích nhằm đánh giá (so sánh) hiệu quả sử dụng vốn của xí nghiệp Kim Hà Nội.
3.2.4. Phương pháp dự báo.
Dự báo thống kê là việc xác định các thông tin chưa biết có thể xảy ra trong tươnglai của hiện tượng nghiên cứu dựa trên những số liệu thống kê và hiện tượng đó trong những giai đoạn đã qua:
Mô hình dự báo: Yn + m = YnX (t)m
Với:
Trong đó:
T : tốc độ phát triển bình quân
Yn : Mức độ cuối cùng của dãy số biến động thời gian
Yn + m: Mức độ dự báo thời kỳ m + n
Y1 : Mức độ ban đầu của dãy số biến động thời gian
m : Tầm nhìn xa của dự báo
Phần thứ tư
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Tình hình chung về nguồn vốn dùng trong sản xuất kinh doanh của xí nghiệp
Bảng 4: Thời gian từ năm 1999 đến 2001 tình hình bảo toàn vốn của xí nghiệp như sau:
Năm
1999
2000
2001
So sánh
Chỉ tiêu
2000/1999
2001/2000
Tổng nguồn vốn kinh doanh
7.085
7.185
7.385
101
102
Trong đó:
Vốn cố định
5.601
5.651
5.751
100
101
Vốn lưu động
319
369
469
115
127
Vốn khác
1.165
1.165
1.165
Mặc dù xí nghiệp đạt được các chỉ tiêu về doanh thu, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước, vốn được bảo toàn và phát triển, tuy nhiên trong ba năm từ năm 1999 đến 2001 cơ cấu vốn xí nghiệp còn có nhiều điều bất hợp lý dẫn đến việc sử dụng vốn còn đạt được hiệu quả chưa cao.
Bảng 5: Một số chỉ tiêu khái quát tình hình hoạt động của
doanh nghiệp
Năm
1999
2000
2001
So sánh
Chỉ tiêu
2000/1999
2001/2000
1. Cơ cấu vốn
- % VCĐ/ tổng vốn KD
79
78,6
77,87
0,99
0,99
- % VLĐ/ tổng vốn KD
4,5
5,13
6,35
1,14
1,23
- % Vốn khác/ tổng vốn KD
16,5
16,27
15,78
0,98
0,96
2. Tỷ suất lợi nhuận
- % Lợi nhuận/ tổng DT
4,3
4,12
6,23
0,95
1,51
- % lợi nhuận/ vốn
3,02
4,16
9,67
1,37
2,32
Trong cơ cấu vốn của xí nghiệp, tỷ trọng của vốn lưu động chia tổng vốn kinh doanh quá thấp từ đó dẫn đến thiếu vốn cho sản xuất. Với tỷ trọng (năm 1999) vốn lưu động/ tổng vốn kinh doanh chỉ xấp sỉ 4,5% việc quay vòng vốn kinh doanh của xí nghiệp gặp nhiều khó khăn. Từ việc thiếu vốn lưu động trầm trọng dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao vì xí nghiệp luôn phải đi huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau như: vay ngân hàng, vay của cán bộ công nhân viên và vay từ nhiều nguồn khác nhau. Mặt khác, do thiếu vốn dẫn đến nhiều mặt hàng hợp đồng sản xuất qua tính toán sơ bộ là có hiệu quả nhưng do không đủ vốn để sản xuất hoặc lúc đó mới đi huy động vốn dẫn đến chậm tiến độ sản xuất từ đó không ký được hợp đồng sản xuất và mất khách hàng.
Ngoài ra dây chuyền sản xuất kim khâu máy và dây chuyền sản xuất kim dệt được đầu tư từ thời kỳ bao cấp từ nguồn viện trợ nhân đạo và vốn vay, tính đến nay đã gần 15 năm sử dụng. Trong quá trình sản xuất do máy móc thiết bị nhập về thiếu đồng bộ dẫn đến có những thiết bị thiếu trong việc phục vụ công nghệ sản xuất bên cạnh đó lại thừa quá nhiều thiết bị trên dây chuyền sản xuất.
Đến ngày 31 tháng 12 năm 2001 giá trị tài sản không cần dùng và chờ thanh lý của xí nghiệp trị giá (theo giá trị còn lại) là trên 4 tỷ đồng, từ đó dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn của xí nghiệp không cao vì số vốn không phát huy được hiệu quả lớn.
Mặt khác do ngành sản xuất kim là một ngành hoàn toàn mới do đó trong những năm đầu nhập dây chuyền về phải qua nhiều lần chế thử để rút kinh nghiệm, nhằm hoàn thiện sản phẩm dẫn đến sản phẩm tồn kho, ứ đọng, kém phẩm chất từ những năm chế thử chiếm giá trị tương đối lớn mà chưa thu hồi được vốn. Ngoài ra xí nghiệp còn tồn đọng nhiều sản phẩm kim dệt xuất khẩu do sản xuất theo hợp đồng cho Liên Xô cũ nhưng thị trường Liên Xô bị vỡ dẫn đến không tiêu thụ được (vì là hàng đặc chủng).
ở bài viết này sẽ đề cập đến một số vấn đề trong sử dụng và bảo toàn vốn lưu động tại xí nghiệp cùng một số giải pháp trước mắt cũng như lâu dài trong huy động và sử dụng vốn để khắc phục các hạn chế trong sử dụng và bảo toàn vốn của xí nghiệp.
4.2. Thực trạng sử dụng vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp Kim Hà Nội.
Kết quả sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp Kim Hà Nội năm 2000 - 2001.
Trong những năm gần đây, việc phát huy hiệu quả sử dụng vốn đặc biệt làvốn lưu động của xí nghiệp ngày càng có tiến triển khả quan. Theo các số liệu chính thức của bảng cân đối kế toán trong hai năm 2000 và 2001 cho thấy các số liệu như sau:
Bảng 6: Bảng cân đối kế toán năm 2000 và 2001
Chỉ tiêu
Năm 20000
Năm 2001
Đầu năm
Cuối năm
Đầu năm
Cuối năm
A - Tài sản
I. TSLĐ và đầu tư ngắn hạn
5.762.568
5.765.686
5.765.686
5.840.740
1. Vốn bằng tiền
194.715
373.998
373.998
517.237
2. Các khoản phải thu
698.606
743.994
743.994
1.428.271
3. Hàng tồn kho
4.413.074
3.769.284
3.769.284
3.153.106
4. Tài sản lưu động khác
456.173
878.592
878.592
742.126
II. TSCĐ và đầu tư dài hạn
13.741.255
13.723.238
13.723.238
13.705.533
1. TSCĐ hữu hình
13.733.284
13.679.321
13.679.321
13.625.358
- Nguyên giá
21.494.443
21.594.443
21.594.443
21.694.433
- Giá trị hao mòn luỹ kế
(7.761.159)
(7.915.122)
(7.915.122)
(8.069.085)
2. Chi phí XDCB dở dang
7.971
43.971
43.971
80.175
Cộng A (tài sản)
19.503.823
19.489.106
19.489.106
19.546.273
B - Nguồn vốn
I. Nợ phải trả
11.107.490
11.108.397
11.108.397
10.763.447
1. Nợ ngắn hạn
1.595.753
1.668.660
1.668.660
1.251.710
- Nợ ngân hàng
54.669
-
-
24.288
- Nợ nhà cung cấp
1.002.951
1.334.918
1.334.918
935.590
- Nợ ngân sách
538.133
333.742
333.742
291.832
2. Nợ dài hạn
9.511.737
9.511.737
9.511.737
9.511.737
II. Vốn chủ sở hữu
8.396.333
8.308.709
8.308.709
8.782.826
1. Nguồn vốn quỹ
8.396.333
8.308.709
8.308.709
8.782.826
- Nguồn vốn kinh doanh
7.085.000
7.185.000
7.185.000
7.385.000
- Lãi chưa phân phối
150.000
259.000
259.000
500.000
- Nguồn vốn xây dựng cơ bản
1.161.333
864.709
864.709
897.826
2. Kinh phí sự nghiệp
Cộng B (nguồn vốn)
19.503.823
19.489.106
19.489.106
19.546.273
4.2.1. Thực trạng sử dụng vốn lưu động dùng trong sản xuất.
Để nhằm đảm bảo phục vụ cho quá trình sản xuất ta phải xác định được nhu cầu về vốn lưu động của xí nghiệp từ đó có kế hoạch huy động vốn. Trong chu kỳ kinh doanh phát sinh ra nhu cầu vốn lưu động cho hoạt động kinh doanh. Nhu cầu vốn lưu động của xí nghiệp là thể hiện số vốn tiền cần thiết xí nghiệp phải trực tiếp ứng ra để hình thành một lượng dự trữ hàng tồn kho (vật tư, sản phẩm dở dang, thành phẩm và khoản cho khách hàng nợ sau khi đã sử dụng khoán tín dụng của người cung cấp).
Chu kỳ kinh doanh của xí nghiệp là thời gian trung bình cần thiết để thực hiện việc mua sắm, dự trữ vật tư sản xuất ra sản phẩm và bán thành phẩm thu được tiền bán hàng. Ta có thể chia chu kỳ kinh doanh của xí nghiệp thành ba giai đoạn gồm:
+ Giai đoạn mua sắm và dự trữ vật tư: nhằm tạo lập nên một lượng vật tư dự trữ. Giai đoạn này phát sinh một luồng vật tư đi vào xí nghiệp. Trong trường hợp phải trả tiền ngay thì có luồng tiền ra khỏi xí nghiệp. Tuy nhiên, trong trường hợp trả tiền sau thì có nghĩa là người cung cấp vật tư đã cấp cho xí nghiệp một khoản tín dụng.
+ Giai đoạn sản xuất: giai đoạn này vật tư được sử dụng và chuyển hoá sang hình thái sản phẩm dở dang và thành phẩm. Để thực hiện quá trình này doanh nghiệp phải ứng ra một số vốn nhất định.
+ Giai đoạn bán sản phẩm và thu tiền bán hàng: sau khi hàng đã sản xuất song hoặc mua song phải phân kho và hình thành nên một lượng dự trữ nhất định. Nếu doanh nghiệp bán hàng và thu tiền ngay thì khi xuất hàng doanh nghiệp đã thu hồi được vốn đã ứng ra để phục vụ chu kỳ kinh doanh mới. Nếu doanh nghiệp bán chịu hàng cho khách thì khi nào thu được tiền mới thu hồi được số vốn ứng ra.
Nhu cầu vốn lưu động
=
Mức dự trữ hàng tồn kho
+
Khoản phải thu từ khách hàng
-
Khoản phải trả người cung cấp
4.2.2. Vốn lưu động trực tiếp sản xuất
Theo phương pháp trực tiếp để xác định nhu cầu vốn lưu động của xí nghiệp theo trình tự sau: xác định lượng hàng tồn kho cần thiết cho hoạt động kinh doanh của xí nghiệp theo trình tự sau: xác định lượng hàng tồn kho cần thiết cho hoạt động kinh doanh của xí nghiệp, xác định chính sách tiêu thụ sản phẩm và khoản tín dụng cung cấp cho khách hàng, xác định các khoản nợ phải trả cho người cung cấp, tổng hợp xác định nhu cầu vốn lưu động của xí nghiệp.
Trong đó:
+ Xác định lượng hàng tồn kho cần thiết: để quá trình sản xuất được thực hiện liên tục đòi hỏi phải duy trì một lượng dự trữ sản xuất nhất định bao gồm nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế vật đóng gói, công cụ, dụng cụ... Việc xác định lượng dự trữ nguyên vật liệu được xác định bằng công thức tổng quát:
Dn = Nd x Fn
Trong đó:
Dn: Dự trữ cần thiết nguyên vật liệu chính trong kỳ
Nd: Số ngày dự trữ cần thiết về nguyên vật liệu chính
Fn: Chi phí nguyên vật liệu chính bình quân 1 ngày trong kỳ.
4.2.3. Vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh.
Nhu cầu vốn lưu động của xí nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó cần chú ý một số yếu tố chủ yếu sau:
- Tính chất của ngành nghề kinh doanh và mức độ kinh doanh của xí nghiệp: Từ quy mô chu kỳ kinh doanh, công nghệ,... có ảnh hưởng rất lớn đến lượng vốn lưu động mà xí nghiệp phải ứng ra và thời gian thu hồi vốn.
- Các yếu tố và mua sắm vật tư tiêu thụ sản phẩm như khoản cách giữ nơi mua, nơi bán, điều kiện giao thông điều kiện thanh toán, kỳ hạn thanh toán, thủ tục thanh toán... ảnh hưởng đến vốn lưu động phục vụ sản xuất.
- Các yếu tố về giả cả vật tư, hàng hoá dự trữ cũng ảnh hưởng lớn đến vốn lưu động phục vụ sản xuất, số vốn lưu động xí nghiệp phải ứng ra trực tiếp phụ thuộc vào nhu cầu vốn lưu động trong từ kỳ kinh doanh. Trong công tác quản lý vốn lưu động phục vụ sản xuất một vấn đề quan trọng là phải xác định được nhu cầu cần thiết tương ứng với quy mô và định hướng kinh doanh nhất định, đây là một vấn đề phức tạp. có thể áp dụng các phương pháp khác nhau để xác định vốn lưu động dùng trong phân phối sản phẩm (tiêu thụ sản phẩm) thường xuyên.
4.2.4. Thực trạng vốn lưu động dùng trong phân phối sản phẩm (tiêu thụ sản phẩm).
Do quá trình sản xuất diễn ra liên tục vì thế trong dây chuyền có một lượng sản phẩm dở dang nhất định. Xí nghiệp phải ứng vốn ra một lượng nhất định về sản phẩm dở dang. Lượng vốn ứng ra tuỳ thuộc vào lượng giá trị của sản phẩm dở dang.
Bên cạnh việc dự trữ về nguyên, nhiên liệu, công cụ, phụ tùng, sản phẩm dở dang... để đảm bảo cho quá trình tiêu thụ sản phẩm được thường xuyên, liên tục đòi hỏi xí nghiệp phải dự trữ một lượng nhất định thành phẩm trong kho. Mức dự trữ được xác định dựa trên cơ sở xem xét quá trình sản xuất và cách thức tiêu thụ sản phẩm của xí nghiệp. Nhu cầu dự trữ thành phẩm được xác định theo công thức:
Dt = Zn x Nt
Trong đó:
Dt: Số dự trữ cần thiết về thành phẩm trong kỳ
Zn: Giá thành sản xuất của sản phẩm sản xuất bình quân
mỗi ngày kỳ kế hoạch
Nt: Số ngày dự trữ thành phẩm.
Giá thành sản xuất của sản phẩm hàng hoá bình quân mỗi ngày kỳ kế hoạch có thể tính bằng cách lấy tổng giá thành sản xuất hàng hoá sản phẩm trong năm chia cho số ngày trong năm. Số ngày dự trữ thành phẩm là số ngày kể từ lúc thành phẩm nhập kho cho đến khi thành phẩm được xuất khỏi kho tiên thụ.
Trên cơ sở xác định mức dự trữ về nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang và thành phẩm tổng hợp lại sẽ xác định được tổng mức dự trữ hàng tồn kho:
+ Dự kiến khoản phải thu: trong tiêu thụ sản phẩm, xí nghiệp đã sử dụng biện pháp bán chịu cho khách hàng từ đó hình thành nên các khoản phải thu từ khách hàng. Khi bán chịu cho khách hàng cũng có nghĩa là xí nghiệp đã cấp cho khách hàng một khoản tín dụng. Việc bán chịu có thể giúp cho xí nghiệp tăng thêm được lượng hàng hoá bán ra và từ đó tăng được lợi nhuận. Nhưng việc bán chịu cũng khiến cho xí nghiệp phải ứng thêm một lượng vốn, tăng thêm chi phí quản lý, chi phí thu hồi tiền bán chịu và mức độ rủi ro cũng tăng lên. Điều đó đòi hỏi xí nghiệp phải có sự cân nhắc để lựa chọn phương thức bán chịu thích hợp. Một trong những yếu tố quan trọng là cần xác định trong việc bán chịu là thời gian bán chịu hàng, thời gian cho khách nợ. Trên cơ sở xác định được độ dài thời gian này có thể xác định được khoản nợ phải thu trung bình từ khách hàng theo công thức sau:
Nợ phải thu dự kiến trong kỳ
=
Thời hạn trung bình cho khách hàng nợ
x
Doanh thu tiêu thụ bình quân 1 ngày trong kỳ
+ Dự kiến khoản nợ phải trả: trong hoạt động kinh doanh xí nghiệp có thể mua chịu nguyên vật liệu, hàng hoá... của người cung cấp từ đó hình thành khoản phải trả người cung cấp khi được chấp thuận mua chịu cũng có nghĩa là người bán đã âps một khoản tín dụng thương mại cho người mua hàng. Việc sử dụng tín dụng thương mại đòi hỏi xí nghiệp phải xem xét xác điều kiện do người cung cấp đưa ra và tình hình tài chính của xí nghiệp, từ đó có thể dự kiến khoản phải trả người cung cấp theo công thức:
Nợ phải trả người cung cấp
=
Kỳ trả tiền trung bình
x
Giá trị vật tư, hàng hoá mua vào (mua chịu) bình quân 1 ngày trong kỳ
Từ các yếu tố tính toán về nhu cầu hàng tồn kho, khoản phải thu, khoản phải trả như tính toán ở trên ta có thể xác định được nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của xí nghiệp.
Để xác định nhu cầu vốn lưu động thường xuyên, ngoài phương pháp trực tiếp đã nêu ở trên ta còn có thể xác định được một cách gián tiếp. Dựa vào tình hình thực tế sử dụng, vốn lưu động ở thời kỳ vừa qua của xí nghiệp để xác định nhu cầu về vốn cho các thời kỳ tiếp theo. Nội dung chủ yếu của phương pháp này là dựa vào mối quan hệ giữa các mối quan hệ hợp thành nhu cầu vốn lưu động với doanh thu của kỳ vừa qua để xác định tỷ lệ chuẩn nhu cầu vốn lưu động tính theo doanh thu và tỷ lệ này để xác định nhu cầu vốn lưu động cho các kỳ tiếp theo. Có thể thực hiện phương pháp này theo các trình tự sau:
+ Xác định số dư bình quân các khoản trong năm, bao gồm số hàng tồn kho bình quân (nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm...) số phải thu từ khách hàng bình quân, số nợ phải trả bình quân. Khi xác định số dư bình quân các khoản phải phân tích tình hình để loại trừ số không hợp lý.
+ Xác định tỷ lệ các khoản trên so với doanh thu thuần trong năm từ đó xác định tỷ lệ nhu cầu vốn lưu động so với doanh thu, đồng thời có thể xác định nhu cầu vốn lưu động cho các kỳ sau. Chỉ khi tình hình kinh doanh, quản lý có sự thay đổi tương đối lớn vì điều kiện và tổ chức mua sắm, dự trữ vật tư, công nghệ sản xuất, chính sách tiêu thụ, chính sách tín dụng... của xí nghiệp thì mới cần thay đổi, điều chỉnh tỷ lệ này.
4.2.5. Đánh giá chung về tình hình sử dụng vốn lưu động ở xí nghiệp.
Vốn là yếu tố rất cần thiết cho doanh nghiệp, không có vốn mọi hoạt động của doanh nghiệp sẽ bị ngừng trệ hoặc kém hiệu quả, nguồn vốn là có hạn và không phải doanh nghiệp nào cũng có nhiều vốn. Do vậy vấn đề sử dụng vốn như thế nào để có hiệu quả cao là vấn đề mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm và giải quyết.
Để biết được nguồn vốn trong xí nghiệp sử dụng có hiệu quả hay không chung ta cần tiến hành xem xét đánh giá một cách khách quan thông qua các chỉ tiêu sau:
+ Số vòng quay vốn = Tổng doanh thu/ vốn kinh doanh
+ Hiệu quả sử dụng vốn cố định = Lợi nhuận/vốn cố định
+ Hiệu quả sử dụng vốn lưu động = Lợi nhuận/ vốn lưu động
+ Số vòng luân chuyển vốn lưu động = Doanh thu/ vốn lưu động
Qua các số liệu thực tế của xí nghiệp Kim Hà Nội trong hai năm 2000 và 2001 về các chỉ tiêu tài chính, sự tăng trưởng đóng góp cho Nhà nước. Xí nghiệp đã xó sự tăng trưởng nhất định.
Doanh thu năm 2000 tăng so với năm 1999 là 80% năm 2001 tăng so với năm 2000 là 32%. Nộp ngân sách năm 2000 tăng 45% so với năm 1999. Năm 2001 tăng 31% so với năm 2000. Lợi nhuận trước thuế năm 2000 tăng 37% so với năm 1999. Năm 2001 tăng 92% so với năm 2000. Bên cạnh đó xí nghiệp đã đảm bảo được đời sống cho tập thể cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp, có được tích luỹ cho sản xuất.
Bên cạnh sự tăng trưởng cơ bản trên, tình hình tài chính của xí nghiệp cũng ngày càng lành mạnh hơn, các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá khả năng tài chính của xí nghiệp năm 2001 nói chung đều tốt hơn 2000. Cụ thể:
- Nhu cầu vốn lưu động so với doanh thu thuần năm 2000 là 44,38%; năm 2001 là 40%.
- Vốn lưu động thường xuyên năm 2000 có 4.097.208 (nghìn đồng); năm 2001 có 4.589.030 (nghìn đồng).
- Hàng tồn kho và các tài sản lưu động khác của xí nghiệp cuối năm so với đầu năm đều có biến động giảm. Năm 2000 giảm 221.371 (nghìn đồng), năm 2001 giả: (616.178 + 136.466) = 752.644 (nghìn đồng).
Điều này cho thấy xí nghiệp đã tích cực tiêu thụ sản phẩm, tăng nhanh vòng quay của vốn bằng cách chỉ để lượng tồn kho hợp lý. Lượng hàng tồn kho đã được giải phóng nhanh để thu hồi vốn cho sản xuất. Mặt khác, lượng tiền dự trữ của xí nghiệp cũng tăng nên đáp ứng nhu cầu chi trả trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Các khả năng thanh toán của xí nghiệp năm 2001 đều cao hơn năm 2000. Số nợ phải trả năm 2001 giảm đi so với năm 2000. Từ các chỉ số cơ bản trên cho thấy vòng quay của vốn lưu động của xí nghiệp năm 2001 tăng cao hơn năm 2000, số ngày của một kỳ luân chuyển giảm đi từ đó giúp xí nghiệp có thể tiết kiệm được vốn lưu động cho sản xuất. Hàng tồn kho của xí nghiệp cũng tăng được vòng quay nhiều hơn các hệ số sinh lời năm 2001 nói chung đều cao hơn năm 2000.
* Bên cạnh những thành tích đã đạt được, trong quản lý và sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp cũng còn có một số tồn tại cần khắc phục cụ thể là:
- Số nợ phải thu của năm 2000 và năm 2001 đều tăng cao khi so sánh cuối năm so với đầu năm. Năm 2000 tăng 45.388 nghìn đồng thì năm 2001 tăng 684.277 nghìn đồng từ đó dẫn đến kỳ thu tiền bình quân của năm 2001 tăng nên so với năm 2000 là 13 ngày. Xí nghiệp cần tích cực có phương án thu hồi nợ để thu hồi vốn cho xí nghiệp. Hạn chế rủi ro có thể xảy ra.
- Lượng hàng hoá tồn kho, ứ đọng mất phẩm chất khá lớn dẫn đến ứ đụng không có vốn cho sản xuất và có khả năng không thu hồi được vốn nên xí nghiệp cần có phương án bán thanh lý nhanh số vật tư hàng hoá này (trị giá theo sổ sách là: 1.126.812 nghìn đồng, số này không có khả năng thu hồi vốn).
* Đứng trước thực trạng trên, xí nghiệp đã có một số giải pháp nhằm phát huy những thành tích đã đạt được, khắc phục nghiên cứu mặt hạn chế nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói riêng. Một số biện pháp cơ bản xí nghiệp đã tiến hành là:
- Tiếp tục nâng cao công suất sử dụng máy móc thiết bị, ổn định thị trường tiêu thụ đồng thời tìm kiếm thị trường mới. Cải tiến mẫu mã sản phẩm để tăng tính cạnh tranh trên thị trường.
- Triệt để thực hiện tiết kiệm để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
- Tăng cường thu hồi nợ nhằm tránh rủi ro đối với các khoản nợ phải thu và tận thu vốn cho sản xuất. Hạn chế bán chịu cho khách hàng.
- Tìm các biện pháp bán thanh lý đối với các vật tư, hàng hoá ứ đọng, kém, mất phẩm chất như: chấp nhận bán lỗ, bán trả chậm... để thu hồi phần nào vốn đã bỏ ra.
- Huy động vốn trong cán bộ công nhân viên để phục vụ cho sản xuất của xí nghiệp.
- Thanh lý bớt các tài sản cố định không cần dùng cho sản xuất kinh doanh.
Trên đây là một số thành tích cũng như các mặt còn hạn chế của xí nghiệp trong việc sử dụng vốn cho sản xuất kinh doanh và các biện pháp của xí nghiệp để sử dụng vốn ngày càng có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, xí nghiệp cần có những giải pháp triệt để hơn nữa để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và sử dụng vốn lưu động nói riêng.
4.2.6. Kết quả sử dụng vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp.
Bảng 7: Kết quả sử dụng vốn lưu động qua hai năm 2000 và 2001
Đơn vị tính: nghìn đồng.
Chỉ tiêu
2000
2001
So sánh % 2001/2000
Vốn lưu động huy động cho sản xuất
Trong đó:
- Hàng tồn kho bình quân trong năm
4.091.175
3.461.195
84
- Số phải thu từ khách hàng bình quân trong năm
721.300
1.086.132,5
150
- Tài sản lưu động khác bình quân trong năm
721.300
810.359
112
- Số phải trả bình quân trong năm
1.604.872
1.448.041
90
Tổng nhu cầu vốn lưu động của xí nghiệp
3.874.989,5
3.909.645,5
100
So với DT thuần nhu cầu VLĐ của xí nghiệp
44,38%
40%
Cũng từ bảng cân đối kế toán của năm 2000 và 2001 cho thấy vốn lưu động thường xuyên của xí nghiệp Kim trong năm 2000 và 2001 là:
Năm 2000:
Vốn lưu động thường xuyên = 5.840.740 - 1.251.710 = 4.589.030
Như vậy, trong năm 2000 vốn lưu động thường xuyên của xí nghiệp cần là: 4.097.208 đồng, nguồn vốn dài hạn của xí nghiệp đầu tư vào tài sản lưu động.
Các khoản phải thu của xí nghiệp cuối năm 2000 so với đầu năm 2000 đã tăng lên là:
743.994 - 698.606 = 45.388
Hàng tồn kho và các tài sản lưu động khác cuối năm 2000 so với đầu năm 2000 là:
(3.769.284 + 878.592) - (4.413.074 + 456.173) = -211.371
Điều này chứng tỏ trong năm 2000 xí nghiệp đã tích cực tiêu thụ sản phẩm, giảm bớt số tồn kho quá mức nhằm thu hồi vốn. Tuy nhiên số nợ phải thu cũng tăng lên so với đầu năm là 45.388 đồng do đó xí nghiệp cần có phương án thu hồi nợ. Mặt khác, nợ ngắn hạn của xí nghiệp cuối năm cũng tăng lên so với đầu năm là:
1.668.680 - 1.595.753 = 72.927
Mặc dù như vậy nhưng lượng tiền tệ của xí nghiệp cũng được cải thiện đáng kể, so với đầu năm, cuối năm xí nghiệp đã tích luỹ thêm để dự phòng cho sản xuất kinh doanh là:
373.998 - 194.715 = 179.283
Năm 2001:
Tương tự như vậy, năm 2001 vốn lưu động thường xuyên của xí nghiệp có 4.589.030 đồng cũng cho thấy nguồn vốn dài hạn của xí nghiệp đã đầu tư một phần vào tài sản lưu động. Trong năm, xí nghiệp đã tích cực tiêu thụ sản phẩm nhằm giảm bớt số tồn kho. Lượng hàng tồn kho cuối năm giảm so với đầu kỳ là:
3.1530.106 - 878.592 = -616.178
Tài sản lưu động khác cuối năm 2001 giảm so với đầu năm 2001 là:
742.126 - 1.668.660 = 416.950
Mặt khác, lượng tiền dự trữ cho sản xuất của xí nghiệp cũng được tăng lên nhằm chuẩn bị cho dự trữ vật tư cho các chu kỳ sản xuất tiếp theo. Lượng tiền dự trữ tăng lên là;
517.237 - 337.998 = 143.239
Tuy nhiên, xí nghiệp cần có các biện pháp thiết thực hơn để đôn đốc việc thu hồi các khoản nợ phải thu. Số nợ phải thu của xí nghiệp số cuối năm không những không giảm bớt đi so với đầu năm mà còn tăng lên. với số lượng lớn. Số nợ phải thu cuối năm tăng so với đầu năm là:
1.428.271 - 743.994 = 684.277
4.2.7. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp.
Giữa năm 2001 và năm 2000 hệ số thanh toán tức thời tăng lên gần gần hai lần. Khả năng thanh toán của xí nghiệp ngày càng ổn định. Mặt khác, mặc dù số vốn của xí nghiệp được bổ xung chưa nhiều nhưng xí nghiệp đã tăng được vòng quay của vốn lưu động, đạt các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận... ở mức độ khả quan. Mặc dù tốc độ tăng vòng quay vốn lưu động tốc độ tăng doanh thu, đặc biệt là các chỉ số doanh thu/vốn, lợi nhuận/vốn... nói chung vẫn còn ở mức độ khiêm tốn. Nhưng điều đáng khích lệ là các chỉ tiêu này đều có sự tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Điều đó cho thấy xí nghiệp đang có triển vọng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bảng 8: Báo cáo kết quả kinh doanh trong năm 2000 và 2001 như sau
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
1. Doanh thu bán hàng
9.000.000
11.855.000
- Thuế doanh thu
270.000
355.000
- Hàng bán trả lại
2. Doanh thu thuần
8.730.000
11.499.350
3. Giá vốn hàng bán
7.050.500
9.060.350
4. Lãi gộp
1.679.500
2.439.000
5. Chi phí bán hàng, quản lý
1.309.500
1.725.000
Trong đó:
- Lãi tiền vay
15.200
21.000
6. Lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh
370.000
714.000
7. Kết quả từ các hoạt động khác
-
-
- Thu bất thường
-
-
- Chi bất thường
-
-
8. Lợi nhuận trước thuế
370.000
714.000
9. Thuế lợi tức
111.000
214.200
10. Lợi nhuận sau thuế
259.000
449.800
Căn cứ vào các số liệu của bảng cân đối kế toán báo cáo kết quả kinh doanh của xí nghiệp trong hai năm 2000 và 2001 ta có các chỉ tiêu sau:
Bảng 9: Tổng hợp vật tư, dụng cụ ứ đọng, kém phẩm chất
Đơn vị tính: 1000 đồng
Chỉ tiêu
Theo giá hạch toán
Dự kiến thu hồi
1 - Nguyên vật liệu
27.242
3.204
2 - Công cụ dụng cụ
9.427
500
Cộng
36.669
3.704
Tổng số giá trị thành phẩm, vật tư ứ đọng kém phẩm chất không thể thu hồi được là:
Bảng 10: Hiệu quả thanh toán vốn lưu động của xí nghiệp Kim các năm 2000 và 2001.
Chỉ tiêu
2000
2001
So sánh 2001 và 2000 (%)
Hệ số thanh toán ngắn hạn
3,46
4,67
1,34
Hệ số thanh toán ngắn hạn
2,78
3,77
1,35
Khả năng thanh toán nhanh
0,67
1,55
2,31
Hệ số thanh toán tức thời
0,22
0,41
1,86
Tuy hệ số thanh toán nợ ngắn hạn của xí nghiệp trên thực tế thấp hơn khá nhiều so với tính toán trên bảng cân đối kế toán. Lý do như đã trình bày ở phần trên, là do trong số hàng tồn kho của xí nghiệp số hàng hoá, vật tư, thành phẩm tồn kho ứ đọng, kém phẩm chất, không thể tiêu thụ được với số lượng tương đối lớn (1.126.812 chiếm gần 30% trong tổng số hàng tồn kho). Tuy nhiên, do trong tài sản lưu động của xí nghiệp vẫn còn có nhiều tiềm năng trong khả năng thanh toán. Mặt khác, số nợ phải trả của xí nghiệp năm 2001 cũng giảm đáng kể so với năm 2000, do đó trên thực tế hệ số thanh toán nợ ngắn hạn của xí nghiệp vẫn ở mức độ cao và có chiều hướng tốt (hệ số năm 2001 cao hơn rất nhiều so với năm 2000).
Tuy nhiên, trên thực tế hệ số thanh toán nợ ngắn hạn của xí nghiệp thấp hơn khá nhiều, lý do là sản phẩm của xí nghiệp bị tồn đọng không thể tiêu thụ được và hầu như không thu hồi được vốn. Các sản phẩm tồn đọng này do sản xuất từ những năm chế thử (do dây chuyền sản xuất kim của xí nghiệp là dây chuyền hoàn toàn mới ở Việt Nam và là dây chuyền duy nhất ở Đông Dương. Do vậy trong quá trình đi vào sản xuất, xí nghiệp phải sản xuất vừa phải tự rút kinh nghiệm để hoàn thiện công nghệ sản xuất). Mặt khác, trong thời kỳ 1990 đến 1991 xí nghiệp sản xuất để xuất khẩu cho Liên Xô cũ nhưng do thị trường Liên Xô và Đông Âu sụp đổ khiến sản phẩm của xí nghiệp không thể tiêu thụ được. Việc khắc phục sự cố này gần như không thể được vì sản phẩm kim thuộc loại đặc củng dành riêng cho từng loại máy dệt khác nhau. Các sản phẩm ứ đọng của xí nghiệp chỉ còn cách huỷ bỏ không thể tận dụng được. Ngoài hàng hoá tồn kho, lượng vật tư của xí nghiệp cũng bị ứ đọng khá nhiều so được phân phối chỉ tiêu mua từ những năm bao cấp, trải qua năm tháng đến nay có nhiều chủng loại, vật tư không thể đưa vào sản xuất được do bị kém hoặc mất phẩm chất. Đến thời điểm hiện nay số hàng hoá sản phẩm, vật tư bị kém, mất phẩm chất không thể thu hồi được vốn là:
Bảng 11: Tổng hợp thành phẩm, ứ đọng, mất phẩm chất
Chỉ tiêu
Số lượng (c)
Theo giá thành (1000đ)
Dự kiến thu (1000đ)
1 - Kim dệt
2.951.272
956.019
0
2 - Kim tay
2.884.427
46.603
0
3 - Kim máy khâu
1.831.707
91.225
0
Cộng thành phẩm
1.093.847
0
4.3. Định hưỡng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp Kim Hà Nội.
4.3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp Kim Hà Nội trong thời gian tới.
Pháp huy những thành tích đã đạt trong thời gian vừa qua, đặc biệt là trong năm 2000và 2001. Xí nghiệp đã đặt kế hoạch phát triển cho những năm trước mắt cũng như lâu dài. Xét về tiêm năng của xí nghiệp : trong thời gian tới xí nghiệp hoàn toàn có khả năng nâng cao sản lượng sản xuất các mặt hàng chủ yếu. Sản lượng Kim Khâu tay trong năm 2001 đã đạt được gần đến với công suất thiết kế( 40 triệu/ 45 triệu cây Kim= 89% so với công suất thiết kế ). Tuy nhiên, các mặt hàng chính có thể đem lại doanh thu cao như Kim máy Khâu, Kim dệt của xí nghiệp lại chưa khai thác hết công suất. Sản lượng Kim máy Khâu năm 2001 so với công suất thiết kế mới chỉ đạt 10 triệu kim trên 55 triệu Kim = 18,8%; sản lượng kim dệt năm dệt năm 2001 mới sản xuất được so với công suất thiết kế là 1,2 triệu kim/6,2 triệu kim bằng 19,3% so với công suất thiết kế. Do vậy khả năng sản xuất của xí nghiệp vẫn còn nhiều tiềm năng chưa khai thác hết.
Với lợi thế dây chuyền sản xuất kim là cơ sở duy nhất ở Đông Dương sản xuất các loại kim do đó việc tiêu thụ của xí nghiệp có nhiều thuận lợi. Mặt khác, thị trường tiêu thụ của xí nghiệp cũng rộng vì trong nước cũng có nhiều cơ sở dệt may... nên xí nghiệp có nhiều khả năng trong khai thác thị trường. Đứng trướ nhiều thuận lợi như vậy, xí nghiệp đã có chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để cạnh tranh với các loại kim ngoại nhapạ (chủ yếu là Kim Trung Quốc). Xí nghiệp đặt chỉ tiêu phấn đấu trong ba năm tới với sản lượng và doanh thu hàng năm tăng từ 15% đến 20%.
Bên cạnh việc đặt kế hoạch tăng sản lượng kim máy khâu và kim dệt, từ các thành công ban đầu trong sản xuất hàng gia công kim khí cho Nhật Bản, xí nghiệp đang tiếp tục đẩy mạnh sản xuất hàng gia công đồng thời hoàn thiện công nghệ sản xuất để tiến tới tự sản xuất để bản sản phẩm trên thị trường. Song song với việc tăng cường sản xuất kim, đẩy mạnh và hoàn thiện sản xuất hàng cơ kim khí phục vụ cho sản xuất và phục vụ cho thị trường trong nước xí nghiệp tiếp tục sản xuất các mặt hàng truyền thống như mạ gia công, phun phủ kẽm lên bề mặt kim loại... Đồng thời xí nghiệp tiếp tục có hướng đầu tư thêm trang thiết bị, công nghệ sản xuất các mặt hàng mới.
Để có thể sản xuất tiếp tục ổn định và tăng trưởng xí nghiệp cần có các biện pháp, chính sách huy động và sử dụng vốn hợp lý hơn nữa nhằm nâng cao tỷ suất lợi nhuận trên vốn, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và hạn chế các rủi ro có thể xảy ra. ở phần tiếp theo chúng ta sẽ xem xét một số giải pháp trước mắt cũng như lâu dài để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
4.3.2. Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở xí nghiệp Kim Hà Nội.
Để thực hiện các mục tiêu đã đề ra, trong thời gian tới bên cạnh các giải pháp đồng bộ về kinh tế, kỹ thuật công nghệ.... xí nghiệp cần có những giải pháp cụ thể về việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tiêu thụ sản phẩm, hạn chế rủi ro.
Một số giải pháp cơ bản bao gồm:
4.3.2.1. Giải pháp về tiêu thụ sản phẩm.
Có chiến lược đầu tư chiều sâu để sản xuất các mặt hàng mới, đa dạng hoá, mặt hàng, ngành hàng. Tích cực cải tiến công nghệ, chất lượng, mẫu mã, chủng loại sản phẩm để sản phẩm của xí nghiệp tiếp tục đứng vững trên thị trường. Hàng năm nên để một phần kinh phí hợp lý cho nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thị trường từ đó các các chính sách hợp lý về giá cả, phương thức bán hàng... để sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn.
* Quản lý vốn dự trữ.
Một trong những vấn đề quan trọng để tăng tốc độ luân chuyển vốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là phải thực hiện quản lý tốt vốn dự trữ hàng tồn kho nhằm đạt tới mục tiêu: Tổ chức hợp lý việc dự trữ đảm bảo cho quá trình kinh doanh diễn ra liên tục tránh mọi sự gián đoạn do dự trữ gây ra. Đồng thời giảm tới mức thấp nhất có thể được số vốn cần thiết cho dự trữ. Để quản lý tốt vốn dự trữ đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận quản lý trong doanh nghiệp như: bộ phận cung ứng vật tư, bộ phận tiêu thụ sản phẩm, bộ phận quản lý tài chính...
Doanh nghiệp cần chú ý một số biện pháp sau:
- Xác định đúng đắn lượng nguyên vật liệu, hàng hoá cần mua trong kỳ và lượng tồn kho dự trữ thường xuyên. Xác định và lựa chọn người cung ứng thích hợp: mục tiêu cần đạt được là lựa chọn giá cả thấp, những điều khoản thương lượng thuận lợi (thời gian, địa điểm giao hàng, điều kiện thanh toán...) chất lượng phù hợp. Lựa chọn hình thức vận chuyển phù hợp.
- Thường xuyên theo dõi sự biến động của thị trường vật tư hàng hoá từ đó dự toán và quyết định điều chỉnh kịp thời việc mua sắm nguyên vật liệu, hàng hoá có lợi cho doanh nghiệp trước sự biến động của thị trường. Đây là biện pháp rất quan trọng để bảo toàn vốn của doanh nghiệp.
- Tổ chức tốt việc dự trữ, bảo quản nguyên vật liệu tránh mất mát, hao hụt quá mức. Thường xuyên kiểm tra nắm vững tình hình dự trứ phát triển kịp thời hàng hoá bị ứ đọng nhằm có biện pháp giải phóng hàng ứ đọng thu hồi vốn.
- Thực hiện việc mua bảo hiểm với vật tư, hàng hoá lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho... nhằm chủ động bảo toàn vốn lưu động.
* Quản lý phải thu.
Trong hoạt động kinh doanh thường xuyên nảy sinh việc xuất giao thành phẩm hàng hoá cho khách hàng và một thời gian sau mói thu được tiền. Tình hình đó làm nảy sinh khoản phải thu từ khách hàng. Quản lý khoản phải thu từ khách hàng là một vấn đề rất quan trọng và phức tạp trong công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp bởi vì:
- Việc quản lý khoản phải thu có liên quan chặt chẽ với việc tiêu thụ sản phẩm từ đó có ảnh hưởng lớn tới doanh thu tiêu thụ và lợi nhuận của doanh nghiệp. Khi lượng hàng hoá bán chịu sẽ làm tăng khoản phải thu nhưng có khả năng tăng được lượng hàng hoá bán ra và tăng lợi nhuận.
- Quản lý khoản phải thu liên quan chặt chẽ tới việc tổ chức và bảo toàn vốn lưu động. Việc tăng nợ phải thu sẽ kéo theo nhiều chi phí để thu hồi nợ, đòi hỏi doanh nghiệp phải tìm thêm nguồn vốn vay để đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình kinh doanh tiếp theo và phải trả lãi cho tiền vay.
- Nợ phải thu tăng nên cũng làm tăng rủi ro đối với doanh nghiệp dẫn đến tình trạng nợ khó đòi hoặc không thu hồi được do khách hàng vỡ nợ gây tổn thất vốn cho doanh nghiệp.
Để quản lý tốt nợ phải thu từ khách hàng doanh nghiệp cần chú ý một số biện pháp sau:
- Xác định chính sách bán chịu và mức độ nợ phải thu. Mỗi doanh nghiệp cần xác định chính sách, định hướng bán chịu cho khách hàng căn cứ vào các mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp như:
+ Mục tiêu mở rộng thị trường để tiêu thụ, tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Tính chất thời vụ trong sản xuất và tiêu thụ của một số sản phẩm.
+ Tình trạng cạnh tranh: doanh nghiệp cần phải xem xét tình hình bán chịu của đối thủ cạnh tranh để có đối sách thích hợp.
+ Tình trạng tài chính của doanh nghiệp.
+ Phân tích khách hàng, xác định đối tượng bán chịu nhằm đánh giá khách hàng nhất là đối với khách hàng tiềm năng.
+ Xác định điều kiện thanh toán: trong đó chú ý đến thời hạn thanh toán và chiếthâu bán hàng (hay chiết khấu thanh toán).
Việc quản lý nợ phải thu là một vấn đề rất quan trọng và phức tạp trong công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp do đó cần kiểm soát chặt chẽ nợ phải thu từ khách hàng, trong đó càn chú ý: mở sổ theo dõi nợ phải thu và tình hình thanh toán với khách hàng. Thường xuyên nắm vững và kiểm soát tình hình nợ phải thu và tình hình thu hồi nợ. Cần xác định giới hạn hệ số nợ phải thu.
Hệ số nợ phải thu =
Nợ phải thu từ khách hàng
Doanh số bán hàng
Thường xuyên theo dõi, phân tích cơ cấu nợ phải thu theo thời gian và chuẩn bị các biện pháp thu hồi. Khi phát sinh các khoản nợ khó đòi cần phân tích, đánh giá tìm nguyên nhân và cá biện pháp để hạn chế sự tổn thất.
* Quản lý vốn bằng tiền.
Tiền là một loại tài sản của doanh nghiệp và có thể dễ dàng chuyển hoá thành các tài sản khác nhau. Vốn bằng tiền là yếu tố trực tiếp quyết định khả năng thanh toán của một doanh nghiệp. Tương xứng với quy mô kinh doanh nhất định đòi hỏi phải thường xuyên có một lượng tiền tương xứng mới đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp ở trạng thái bình thường. Chính vì vậy việc quản lý vốn bằng tiền là vấn đề hết sức quan trọng trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp.
Nội dung chủ yếu của quản lý vốn bằng tiền bao gồm các vấn đề chủ yếu sau:
- Quản lý chặt chẽ các khoản thu, chi bằng tiền: nhằm tránh mất mát, lạm dụng. Xác định chặt chẽ các khoản tạm ứng tiền mặt về đối tượng, số lượng và thời hạn thanh toán tạm ứng.
Chỉ đề tồn quỹ tiền mặt ở mức tối thiểu, phần vượt quá mức tối thiểu cần gửi ngay vào ngân hàng nhằm đảm bảo an toàn và sinh được số lãi nhất định.
- Đảm bảo khả năng thanh toán, duy trì dự trữ tiền tệ ở mức cần thiết. Đảm bảo đủ cho yếu tố giao dịch kinh doanh và một lượng tiền nhất định để dự phòng.
Trên đây là một số vấn đề lý luận trong việc quản lý, sử dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng ốn (đặc biệt là vốn lưu động) của doanh nghiệp. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
4.3.2.2. Giải pháp về bảo tồn vốn.
Một là: có những biện pháp cụ thể, triết để nhằm thu hồi các khoản nợ phải thu.
Qua các số liệu ở phần thứ ba: địa bàn và phương pháp nghiên cứu cho thấy số nợ phải thu năm sau cao hơn năm trước. Năm 2000 số nợ phải thu cuối năm tăng so với đầu năm là:
743.994 - 698.606 = 45.388
Năm 2001 số nợ phải thu không những không giảm đi mà còn tăng lên khá cao. Năm 2001 số nợ phải thu cuối năm tăng nên so với đầu năm là:
1.428.271 - 743.994 = 684.277
Do các khoản nợ phải thu năm 2001 tăng lên rất nhiều so với năm 2000 trong khi tốc độ doanh thu tăng không nhiều. Vì vậy kỳ thu tiền bình quân của xí nghiệp từ 30 ngày năm 2000 đã tăng lên đến 43 ngày năm 2001.
Việc bán hàng trả chậm có thể làm tăng được doanh thu từ đó tăng được khả năng sinh lời cho xí nghiệp nhưng xí nghiệp cần có biện pháp cụ thể, cương quyết, khéo léo nhằm thu hồi vốn cho sản xuất. Do số nợ phải thu quá cao có thể dẫn đến tình trạng xí nghiệp bị động trong việc huy động vốn cho sản xuất, khả năng rủi ro cao có thể dẫn đến thất thoát vốn. Mặt khác, do tiền vốn của xí nghiệp còn đọng ở các khoản phải thu trong khi đó xí nghiệp vẫn phải huy động vốn cho sản xuất điều này dễ dẫn đến tăng chi phí do huy động vốn làm giảm lợi nhuận.
Để quản lý chặt chẽ các khoản phải thu đòi hỏi xí nghiệp khi tiêu thụ sản phẩm cần xác định bán chịu cho ai? Cần đánh giá tiềm năng của khách hàng trong khả năng thanh toán. Đồng thời có thể áp dụng chính sách chiết khấi hợp lý để khuyến khích khách hàng thanh toán nhanh các khoản nợ tiền hàng. Bên cạnh đó cần kiểm soát chặt chẽ hơn nữa các khoản nợ tiền hàng, mở sổ theo dõi nợ phải thu, thường xuyên nắm vững và kiểm soát được tình hình nợ phải thu, các khoản nợ quá hạn và tình hình thu hồi nợ.
Xí nghiệp cần chuẩn bị sẵn sàng các chứng từ cần thiết để đối với các khoản nợ sắp đến kỳ thanh toán, thực hiện kịp thời các thủ tục và đôn đốc khách hàng thanh toán các khoản nợ đến hạn thanh toán. Chủ động áp dụng các biện pháp thích hợp để thu hồi nợ quá hạn. Khi phát sinh các khoản nợ khó đòi cần phân tích, đánh giá tìm nguyên nhân và biện pháp khắc phục để hạn chế tổn thất.
Hai là: Quản lý, đánh giá chính xác, các khoản dự trứ, tồn kho để mức tồn kho dự trứ phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh doanh. Thường xuyên kiểm kê, đánh giá lại vật tư hàng hoá để tránh mất mát, hao hụt, mất phẩm chất dẫn đến ứ đọng. Đối với các vật tư, sản phẩm nếu đã thấy có dấu hiệu kém, mất phẩm chất cần có biện pháp giải phóng ngay để thu hồi vốn tránh bị mất quá nhiều. Tiêu thụ nhanh những sản phẩm có chiều hướng bị lạc hậu về công nghệ.
Như ở phần thứ ba đã trình bày: vật tư, sản phẩm của xí nghiệp hiện đang ứ đọng không có khả năng tiêu thụ trị giá gần bằng 1.126.812.000 đồng, nên xí nghiệp cần có chính sách hợp lý để tiêu thụ nhanh số vật tư, hàng hoá này. Việc tiêu thụ này có thể chỉ thu hồi được rất ít vốn so với giá trị trên sổ sách nhưng cũng nên làm bởi càng để lâu số vật tư, sản phẩm này càng hư hỏng và có thể không thu hồi được số tiền nào.
Ba là: Quản lý tốt vốn bằng tiền khi chưa sử dụng đến không nên để tồn quỹ tiền mặt với số tiền lớn mà nên gửi vào tài khoản của xí nghiệp taị ngân hàng. chỉ đề tồn quỹ tiền mặt ở mức tối thiểu. Thường xuyên đối chiếu, kiểm quỹ để tránh nhầm lẫn, thất thoát... trong thời gian tới cần xây dựng nguyên tắc chi tiêu bằng tiền mặt, quản lý chặt chẽ các khoản tạm ứng xác định rõ đối tượng, thời gian phải hoàn tạm ứng, khi gửi có khoản tiền mặt chưa sử dụng đến vào tài khoản của xí nghiệp tại ngân hàng sẽ giúp xí nghiệp có được sự an toàn hơn trong quản lý tiền tệ, đồng thời sẽ mang lại số tiền lãi nhất định.
Ngoài ra, đối với các khoản tiền tạm thời chưa sử dụng đến xí nghiệp có thể đầu tư ngắn hạn, đầu tư tạm thời để có thể góp một phần lợi nhuận cho hoạt động của xí nghiệp.
Bốn là: đối với các tài sản cố định không cần dùng cho sản xuất kinh doanh. Xí nghiệp cần có hướng cho thuê hoặc cải tạo, lại công năng để tận dụng công suất máy móc thiết bị. Nếu thấy không thể cho thuê hoặc không thể cải tạo được thì xí nghiệp cần nhanh chóng thanh lý để tạo vốn cho tái sản xuất. Hiện tại, số máy móc thiết bị của xí nghiệp không cần dùng và chờ thanh lý tương đối nhiều do được đầu tư từ thời kỳ bao cấp nên đến nay không còn phù hợp với yêu cầu của sản xuất. Số máy móc thiết bị không cần dùng có giá trị 6 tỷ đồng - đây là số tiền tồn đọng rất lớn so với tổng tài sản của xí nghiệp. Xí nghiệp cần thanh lý nhanh để thu hồi phần nào tiền vốn cho sản xuất. Mặt khác, số thiết bị này càng để lâu càng lạc hậu công nghệ, hư hỏng nên càng mất giá do đó xí nghiệp càng nên nhanh chóng xử lý.
Năm là: tìm thêm các biện pháp huy động vốn cho sản xuất, trong nước năm vừa qua xí nghiệp đã vừa vay vốn ngân hàng, vừa vay vốn của cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp để phục vụ sản xuất kinh doanh. ở thời điểm hiện nay, xí nghiệp nên chú trọng tới việc huy động vốn trong cán bộ công nhân viên với lãi suất vay bằng với lãi suất vay ngắn hạn Ngân hàng và đã được nhiều cán bộ công nhân viên hưởng ứng cho vay với số tiền tương đối lớn. Điều này vừa mang lại thu nhập thêm cho cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp vừa đơn giản trong thủ tục vay. Mặt khác, người công nhân khi mang lại đồng vốn của mình cho xí nghiệp vay sẽ có lòng tin hơn với việc sản xuất kinh doanh của xí nghiệp, tạo phấn khích cho sản xuất. Mặt khác, xí nghiệp nên thí điểm cổ phần hoá từng bộ phận sản xuất trong xí nghiệp để tạo chủ động hơn cho việc huy động vốn, sản xuất kinh doanh của bộ phận sản xuất được cổ phần. Từ đó tiến dần từng bước trong cổ phần hoá các bộ phận sản xuất khác trong xí nghiệp.
Trên đây là một số giải pháp trong việc phát huy hiệu quả sử dụng vốn nói chung, vốn lưu động nói riêng của xí nghiệp. Nhưng để các giải pháp của xí nghiệp có thể thực hiện được và xí nghiệp chủ động phát huy hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, ở góc độ Nhà nước cũng cần có những cơ chế phù hợp nhằm tháo gỡ bớt khó khăn cho xí nghiệp.
Phần thứ năm
Kiến nghị và kết luận
5.1. Kiến nghị.
Để xí nghiệp thực hiện sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn, xí nghiệp cũng kiến nghị với Nhà nước và các ban ngành chức năng một số yêu cầu cần được tháo gỡ. Nhưng kiến nghị cơ bản là:
- Như ở phần trên đã trình bày: xí nghiệp có lượng sản phẩm, vật tư ứ đọng từ thời kỳ chế thử sản phẩm, từ những năm bao cấp sản xuất theo kế hoạch và kim xuất khẩu tồn tại từ quá lâu trị giá gần bằng 1.126 triệu đồng. Số vật tư thành phẩm này nếu bán thì khả năng sẽ thu hồi vốn được rất í nên sẽ dẫn đến lỗ hàng tỷ đồng nếu bán thanh lý số vật tư, sản phẩm trên. Nhưng nếu không bán thanh lý thì có thể sẽ hỏng hết không thể thu hồi được phần vốn nào. Do đó xí nghiệp đề nghị Nhà nước cho bán thanh lý phần lỗ do thanh lý sữ được ghi nhận để lấy phần lợi nhuận trước thuế của các năm, sau bù đắp dần.
- Công trình sản xuất kim ngâu tay của xí nghiệp hình thành từ nguồn viện trợ nhân đạo (nay tính là vốn ngân sách cấp) do đó chưa đánh giá đúng giá trị thực của tài sản so với giá trên sổ sách. Giá trên sổ sách quá cao so với giá trị thực (do trước kia là viện trợ nhân đạo nên phía xí nghiệp chỉ nhận hiện vật, sau đó phía bạn thông báo giá trị của lô hàng) nên để giao vốn cho xí nghiệp được chính xác hơn cần có kiểm định lại về giá, về độ lạc hậu công nghệ... Bên cạnh đó, có nhiều thiết bị không cần dùng nên Nhà nước cần cho khoanh lại không tính thuế vốn đối với số tài sản này. Trong những năm vừa qua sau khi nộp thuế lợi tức xí nghiệp hầu như không còn lợi nhuận sau thuế để trích các quỹ vì phải nộp thuế vốn theo Nghị định 59 của Chính phủ. Nếu được khoanh lại phần TSCĐ không dùng thì sau khi nộp thuế vốn (loại trừ phần thuế đối với các TSCĐ khoanh lại) xí nghiệp sẽ còn một phần để trích các quỹ, trong đó có quỹ đầu tư và quỹ dự phòng cho rủi ro.
- Từ năm 1999 Nhà nước áp dụng luật thuế giá trị gia tăng các sản phẩm cơ khí của xí nghiệp chịu mức thuế suất 10% trong khi giá bán sản phẩm của xí nghiệp không tăng được so với thuế doanh thu cũ sản phẩm của xí nghiệp chỉ chịu thuế suất 2% thì mức thuế mới của xí nghiệp quá lớn. Điều này ảnh hưởng nhiều đến doanh thu thuần của xí nghiệp dẫn đến lợi nhuận của xí nghiệp cũng bị giảm theo. Nhà nước cần có chính sách ưu đãi về thuế đối với các sản phẩm thuộc ngành cơ khí.
Mặt khác, việc sản xuất kim chủ yếu là tiền lương công nghệ, giá trị vật tư trong giá thành sản phẩm rất ít nên số thuế được khấu trừ cũng ít. Sau khi khấu trừ thuế đầu vào, phần thuế phải nộp của xí nghiệp chiếm khoảng 6,0% - 6,5% so với doanh thu, tỷ lệ này quá cao so với mức thuế suất thuế doanh thu cũ là 2%. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp để xí nghiệp có thể có tiền cho tái sản xuất (vì số tiền thuế phải nộp quá cao).
- Sản phẩm của xí nghiệp bị kim ngoại tràn voà bằng nhiều luồng với giá bán rẻ 9chất lượng kim ngoại kém nhiều so với kim của xí nghiệp), đồng thời có nhiều sản phẩm của xí nghiệp bị bên ngoài làm giả, bao bì để bán với giá nhãn mác giống của xí nghiệp. Nhà nước cần có chính sách bảo hộ đối với hàng sản xuất ở trong nước để tránh các sản phẩm kim của nước ngoài được nhập lậu mang vào cạnh tranh với giá rẻ (do chốn được thuế) và giả danh sản phẩm của xí nghiệp.
Trên đây là một số kiến nghị với Nhà nước nhằm tháo gỡ bớt một phần khó khăn cho xí nghiệp trong sản xuất kinh doanh.
5.2. Kết luận.
Quản lý và sử dụng vốn lưu động có hiệu quả và bảo toàn phát triển vốn lưu động trong các doanh nghiệp quốc doanh là vấn đề hết sức cần thiết trong tình hình kinh tế quản lý tài chính hiện hay khi Nhà nước đã thực hiện giao vốn cho các doanh nghiệp tự quản lý. Trong điều kiện hiện nay, việc sản xuất kinh doanh cũng như bảo tòn vốn của các doanh nghiệp hết sức khó khăn do tính cạnh tranh khốc liệt của thị trường. Mở rộng quyền làm chủ đồng thời, cũng tăng thêm trách nhiệm của các doanh nghiệp trước diễn biến phức tạp và tình hình cạnh tranh gay gắt của thị trường buộc các doanh nghiệp phải quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả sử dụng của mỗi đồng vốn đưa vào sử dụng.
Nhìn chung, quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh tại Xí nghiệp Kim Hà Nội chưa lớn lắm nhưng ta có thể nhận xét là xí nghiệp Kim Hà Nội đã biết kết hợp hài hoà giữa lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội. Lợi ích trước mắt hiện nay còn chưa cao lắm nhưng theo đuổi lợi ích lâu dài thì có thể đảm bảo sự tích luỹ đủ lực và điều kiện để có những bước tiến xa hơn sau này là: phát triển hiệu quả - ổn định - bền vững.
Sau những giải pháp và kiến nghị được đề ra để giải quyết những tồn tại trong công tác đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại xí nghiệp Kim Hà Nội. Nếu được áp dụng và thực hiện sẽ mang lại những hiệu quả nhất định và rất có ý nghĩa không chỉ đối với xí nghiệp mà còn có ý nghĩa đối với nền kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Tài liệu tham khảo
1. Quản trị tài chính doanh nghiệp của PTS Vũ Duy Hoàn - Đàm Văn Huệ - Thạc sỹ Nguyễn Quang Ninh - NXB Thống kê năm 1997.
2. Tạp chí tài chính các số liên tiếp từ năm 1999 đến tháng 6 năm 2001 - NXB Tài chính.
3. Tài chính trong nền kinh tế thị trường và xu hướng phát triển của Việt Nam của GS Võ Đình Hảo - Nguyễn Công Nghiệp - NXB Pháp lý năm 1991.
4. Các văn bản về chế độ tài chính hiện hành.
5. Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh và Thuyết minh báo cáo tài chính của Xí nghiệp Kim Hà Nội các năm 1999, 2000, 2001.
6. Một số tài liệu, giáo trình khác trong quá trình học tập tại trường Đại học Nông nghiệp I - Hà Nội.
Lời cảm ơn
Trong thời gian thực tập tại xí nghiệp Kim Hà Nội với sự hướng dẫn tận tình của thầy cô, các bác, các anh, chị phòng ban tại Xí nghiệp đã giúp tôi hoàn thành báo cáo thực tập này. Qua trang giấy trắng này tôi xin.
Chân thành cảm ơn thầy cô giáo Trường Đại học Nông nghiệp I - Hà Nội đã trang bị cho em những kiến thức vô cùng quý báu.
Chân thành cảm ơn thầy Dương Văn Hiếu đã hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và viết báo cáo.
Chân thành cảm ơn Ban giám đốc xí nghiệp Kim Hà Nội đã tạo điều kiện tốt cho tôi trong suốt thời gian thực tập.
Với thời gian thực tập ngắn ngủi cùng với sự hiểu biết còn hạn hẹp của bản thân chắc chắn báo cáo thực tập còn nhiều hạn chế và sai sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến chỉ dẫn thêm của các thầy cô, các bác các anh chị và các bạn trong Xí nghiệp Kim Hà Nội.
Mục lục
Trang
Phần thứ nhất - đặt vấn đề
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài 2
1.2.1. Mục tiêu chung 2
1.2.2. Mục tiêu cụ thể 2
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu 2
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu 3
Phần thứ hai - Tổng quan tài liệu
2.1. Cơ sở lý luận về hiệu quả sử dụng vốn lưu động 4
2.1.1. Một số khái niệm 4
2.1.2. Phân loại vốn lưu động 9
2.1.3. Vai trò của vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh 10
2.1.4. Chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả sử dụng vốn lưu động.. 10
2.1.5. Đặc điểm sử dụng vốn lưu động 13
phần thứ ba - địa bàn và phương pháp nghiên cứu
3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 18
3.1.1. Tình hình chung của xí nghiệp Kim Hà Nội 19
3.1.2. Tình hình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp Kim Hà Nội trong ba năm 1999, 2000, 2001 23
3.2. Phương pháp nghiên cứu 28
3.2.1. Phương pháp thu thập số liệu 28
3.2.2. Phương pháp phân tích 28
3.2.4. Phương pháp dự báo 29
Phần thứ tư - kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Tình hình chung về nguồn vốn dùng trong sản xuất kinh doanh của xí nghiệp 30
4.2. Thực trạng sử dụng vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp Kim Hà Nội 32
4.2.1. Thực trạng sử dụng vốn lưu động dùng trong sản xuất 34
4.2.2. Vốn lưu động trực tiếp sản xuất 35
4.2.3. Vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh 35
4.2.4. Thực trạng vốn lưu động dùng trong phân phối sản phẩm (tiêu thụ sản phẩm) 36
4.2.5. Đánh giá chung về tình hình sử dụng vốn lưu động ở xí nghiệp Kim Hà Nội 39
4.2.6. Kết quả sử dụng vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp 42
4.2.7. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp 44
4.3. Đánh giá và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp Kim Hà Nội 48
4.3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp Kim Hà Nội trong thời gian tới 48
4.3.2. Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở xí nghiệp Kim Hà Nội 49
phần thứ năm - kiến nghị và kết luận
5.1. Kiến nghị 57
5.2. Kết luận 59
Tài liệu tham khảo 60
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0034.doc