Đề tài Phân tích hợp tác thương mại Việt Nam - Liên minh các nước Châu Âu trong lĩnh vực dệt may

Liờn minh Chõu Âu như đó phõn tớch là tổ chức duy nhất cú mục tiờu cơ bản và lõu dàI là thống nhất cả một chõu lục về cả kinh tế và chớnh trị dựa trờn cỏc nguyờn tắc vừa linh hoạt vừa thực dụng và mang tớnh quốc gia ngày càng rừ rệt. Trong hơn 40 năm qua, EU đó tồn tạI khụng ngừng phỏt triển và đúng vai trũ ngày càng quan trọng trong đời sống quốc tế núi chung và cỏc nước trong khối EU núi riờng. Trước những thành cụng mà EU đó đạt được trong tiến trỡnh nhất thể hoỏ kinh tế- tiền tệ về chớnh trị Việt Nam đang ngày càng chỳ trọng tới việc đẩy mạnh quan hệ hợp tỏc kinh tế thương mại với EU, đặc biệt là trong lĩnh vực dệt may Kết quả nghiờn cứu cho thấy, từ khi Hiệp định dệt may giai đoạn 1993 đến 1997 được kớ kết đến nay quan hệ thương mạI Việt Nam- EU trong lĩnh vực dệt may đó cú những bước phỏt triển khả quan. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU khụng ngừng tăng lờn. Nhiều mặt hàng cao cấp của ngành dệt may Việt Nam đó đỏp ứng được thị hiếu tiờu dựng của người chõu Âu “đẹp nhưng phảI rẻ”. Ngược lạI, ngành dệt may Việt Nam cũng đó tiờu thụ một số lượng lớn thiết bị, mỏy múc, vật tư, nguyờn liệu và hoỏ chất nhập từ EU. Hiệp định dệt may Việt Nam- EU được kớ kết vào ngày 10/9/1998 với thiện chớ của hai bờn đó hứa hẹn một tương lai sỏng sủa cho sự hợp tỏc trong lĩnh vực này.

doc28 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1002 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích hợp tác thương mại Việt Nam - Liên minh các nước Châu Âu trong lĩnh vực dệt may, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
châu âu(eu) Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay trong nền kinh tế thế giới xuất hiện nhiều loại hình liên kết kinh tế . Trong đó liên minh Châu Âu ( cộng đồng Châu Âu – EU trước đây ) là khối liên kết kinh tế hình thành sớm nhất và có hiệu quả nhất . Trước ngưỡng cửa của thế kỷ 21, với GDP khoảng 8500 tỷ USD, dân số khoảng 375 triệu người chiếm giữ khoảng 40-50% sản lưởng công nghiệp của các nước tư bản phát triển EU đang trở thành một cực rất mạnh trong nền kinh tế thế giới . 1.1. Sự hình thành và phát triển của liên minh Châu Âu . Ngay từ thời Saclơ đại đế thuộc đế chế La Mã ( TK8 – Sau công nguyên ) những mơ tưởng về thống nhất Châu Âu đã được hình thành . Tuy nhiên trong một thời gian dài , ý đồ thống nhất Châu Âu chỉ thuộc về một vài nhà chính trị , quân sự có nhiều tham vọng và một bộ phận các nhà tri thức . Đại bộ phận Châu Âu vẫn thờ ơ thậm chí không hề có ý tưởng gì về điều đó , mặc dù Châu Âu đã mang sẵn trong mình các yếu tố thống nhất . Đến năm 1923 , Bá Tước người áo –Condenhve Kalerg đã đề nghị thành lập một liên minh Châu Âu theo kiểu Liên Bang Thuỵ Sĩ năm 1648 hay liên bang Hoa Kỳ năm 1776 năm 1929 Bộ trưởng Pháp lúc bấy giờ – Arstide Briand cũng đưa ra đề án thành lập liên minh Châu Âu . Nhưng những ý tưởng này phải mãi đế sau chiến tranh thế giới thứ hai mới trở thành hiện thực . Sau chiến tranh thế giới thứ hai các nước Tây Âu đều kiệt quệ về kinh tế . So với năm 1937 sản lượng của Đức 1946 chỉ bằng 31% , Italia 64% , Anh 96% . Trong khi đó nhờ chiến tranh mà kinh tế Mỹ đã phát triển vượt bậc sức mạnh kinh tế của Mỹ còn lơns hơn sức mạnh kinh tế của tất cả các nước Tây Âu gộp lại .Mặt khác sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đặc biệt là sự phát triển lực lượng sản xuất ở Mỹ đã khẳng định vị trí bá chủ toàn cầu của Mỹ . Chính bối cảnh ấy , buộc các quốc gia Tây Âu phảI tăng cường hợp tác để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển , thoát khỏi sự kiểm toạ của Mỹ và cũng là làm dịu đi bầu không khí chính trị căng thẳng ở Tây Âu , đặc biệt là giữa Pháp và Đức , phong trào giải phóng dân tộc đang dâng lên ở các nước thuộc địa và trên hết là phải đối đầu với “cộng sản ” ở nửa kia Châu Âu – các quốc gia Tây Âu không còn sự lựa chọn nào khác ngoài con đường hoà bình hợp tác với nhau . Ngày 9/5/1950 Ngoại trượng Pháp – Rôbe Suman đã đưa ra một sáng kiến mới khởi đầu cho tiến trình liên kết Châu Âu . Ông đề nghị “Đặt toàn bộ việc sản xuất than và thép của Đức vá Pháp dưới một cơ quan quyền lực tối cao chung trong một tổ chức mở cửa cho các nước Tây Âu khác tham gia ” Trên cơ sở đề nghị đó ngày 18/4/1951 ,tại Paris ,6 quốc gia Tây Âu gồm : Pháp ,Đức , Italia , Bỉ ,Hà Lan , Luych Xăm Bua đã ký Hiệp ước thành lập cộng đồng than thép Châu Âu ( có hiệu lực từ ngày 25/7/1952 ) mở ra một chương mới trong lịch sử quan hệ giữa các nước Tây Âu . Nhìn chung, sáu nước Tây Âu đã thực hiện thành công Hiệp ước Paris năm 1952 . Trên lĩnh vực kinh tế, từ tháng 5/ 1953 một thị trường chung than , sắt , thép cho sáu nước đã hình thành . Ngành luyện kim đạt một bước phát triển mạnh mẽ kéo theo sự phát triển cả nền kinh tế sáu nước . Thành tích kinh tế là to lớn song còn một kết quả quan trọng khác mà cộng đồng than thép Châu Âu mang lại đó là tác động tâm lý đối cới người Tây Âu . Lần đầu tiên họ thấy rằng không cần chiến tranh mà vẫn có thể thống nhất được Châu Âu và thống nhất theo chiều hướng Siêu quốc gia . Tại cuộc họp các ngoại trưởng của các quốc gia Tây Âu ở Messine năm 1955 đã đưa ra đề án mở rộng liên kết của các quốc gia Tây Âu song các lĩnh vực khác và cử ngài Paul Henry Spack – ngoại trưởng Italia làm chủ đề án . Đến 1956 họ đã nhất trí thành lập cộng đồng kinh tế Châu Âu ( Eurpean Economic Community – EEC ) và cộng đồng năng lượng nguyên tử Châu Âu . Ngày 25/ 7/ 1957 hiệp ược về việc thành lập 2 tổ vhức này đã được thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/ 1/ 1958 . Mỗi tổ chức có một chức năng riêng : EEC có nhiệm vụ chung liên quan đến những vấn đề kinh tế với việc tạo lập một thị trường chung , trong đó không còn sự ngăn cản vận động của hàng hoá, tư bản , sức lao động giữa các nước Tây Âu với nhau , cộng đồng năng lượng nguyên tử Châu Âu quan tâm đến việc nghiên cứu phổ biến kiến thức , bảo đảm nguồn cung cấp thường xuyên các nguyên liệu hạt nhân thúc đẩy đầu tư lập các cơ sở sản xuất năng lượng hạt nhân chung lập thị trường nguyên tử chung giữa các nước . Bước vào đầu thập kỷ 90 , sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã làm thay đổi cục diện thế giới từ hai cực trở thành đa cực . Trong trật tự mới , các thế lực đều đang dốc sức chuẩn bị lực lượng để chiếm vị trí tối ưu cho mình trong tương lai . Mặc dù đến thời điểm này cộng đồng Châu Âu đã đạt được những thành tựu nhất định nhưng nói chung về kinh tế , chính trị lẫn quân sự vẫn còn thua kém Mỹ và Nhật Bản . Do vậy trong cuộc cạnh tranh quyết liệt trước mắt các nước Tây Âu vẫn sẽ phải thống nhất lại , đẩy manh công cuộc xây dựng cộng đồng tạo ra sức mạnh tập thể để đối phó với hai đối thủ lớn của mình . ĐIều này được thể hiện rất rõ tại Hội nghị thượng đỉnh các quốc gia Tây Âu ở Maastricht – Hà Lan tháng 11 năm 1991 . Tại Hội nghị này các quốc gia thành viên đã thống nhất : Thứ nhất tiếp tục mở rộng liên kết bằng cắch kết nạp thêm các thành viên mới , thứ hai tạo lập đồng tiền chung Châu Âu làm cho Châu Âu thay đổi một cách căn bản vào năm 2000 . Thứ ba , tiến tới thống nhất mặt chính trị , xây dựng một chính sách quốc phòng an ninh chung . Năm 1993 những hiệp ước trên bắt đầu có hiệu lực và EU cũng chính thức đổi thành liên minh Châu Âu ( European Union – EU ) . Đồng thời , EU tiếp tục mở cửa lần thứ ba đến năm 1995 ba nước ở Tây Bắc Âu gồm : áo, Phần Lan , Thuỵ Điển đã trở thành thành viên chính thức của EU . Như vậy , từ sáu nước thành viên đến nay EU đã mở rộng ra 15 nước và xu thế sẽ tiến tới 21 nước vào đầu thế kỷ 20 liên kết được mở rộng trên rất nhiều lĩnh vực kinh tế , chính trị ,khoa học kỹ thuật , văn hoá , giáo dục. Mục đích của liên minh Châu Âu là nhằm thiết lập và hoàn thiện thị trường nội bộ thống nhất thông qua việc phát hành một đồng tiền thống nhất xoá bỏ hàng rào thuế quan giữa các nước thành viên xây dựng một hàng rào thuế quan thống nhất đối với hàng hoá nhập từ ngoài vào ,xoá bỏ những hạn chế đối với việc tự do di chuyển vốn sức lao động hàng hoá dịch vụ nhằm tăng cường hợp tác , liên kết giữa các quốc gia thành viên xây dựng Châu Âu thành một cực mạnh trong nền kinh tế thế giới . Để đạt được mục tiêu này , EU có một hệ thống thể chế để hoạch định , đIều hành và giám sát. Hệ thống này bao gồm năm cơ quan chính uỷ ban Châu Âu , Hội đồng Châu Âu , Quốc hội Châu Âu , Toà án Châu Âu và toà kiểm toàn cùng với các bộ phận hỗ trợ cho các cơ quan trên như uỷ ban kinh tế và xã hội , uỷ ban khu vực . Vậy , thực chất của liên kết kinh tế EU là tạo lập một thị trường thống nhất với việc phát hành một đồng tiền thống nhất là quá trình quốc tế hoá không chỉ lực lượng sản xuất mà cả quan hệ sản xuất . 1.2. Chiến lược của liên minh Châu Âu đối với Châu á . Quan hệ kinh tế nói chung giữa các nước EU và các nước trong khu vực Châu á đã có từ rất lâu , nhưng trong một thời gian tương đối dài sau chiến tranh thế giới thứ hai , các nước lớn trong EU rất ít chú ý đến Châu á . Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao với thị trường rộng lớn ở Châu Phi đã hấp đẫn các nhà kinh doanh , đầu tư Châu Âu nhiều hơn khu vực Châu á . Trong giai đoạn này , quan hệ của các nước EU với khu vực châu á chủ yếu là viện trợ kinh tế .Tuy vậy từ sau thập kỷ 80 đến nay các nước Mỹ La Tinh đã bị lâm vào khủng hoảng nợ , trong khi các nước đang phát triển Châu á lạI có những chuyển biến trong phát triển kinh tế . Các Nies và ASEAN đã thực hiện thành công chính sách kinh tế hướng về xuất khẩu và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới . Đồng thời sự suy sụp của Liên Xô và các nước Đông Âu đã làm cho cục diện về kinh tế cũng như kinh tế của mình ở Châu á nhằm duy trì ảnh hưởng của mình trong nền kinh tế thế giới . Việc thiết lập được một sự hiện diện mạnh mẽ và đồng bộ tại các khu vực ở Châu á sẽ cho phép EU đảm bảo được lợi ích của mình tại khu vực này vào đầu thế kỷ 21 . Để đạt được điều đó tháng 7/1994 , EU đã thông qua văn kiện “Hướng tới một chiến lược mới đối với Châu á” . Chiến lược mới này hướng tới các mục tiêu chủ yếu là : Thứ nhất : Tăng cường sự hiện diện về kinh tế của EU tại Châu á nhằm duy trì vai trò nổi trội của mình trong nền kinh tế thế giới . Việc thiết lập một sự hiện diện đáng kể ở Châu á sẽ cho phép EU chăm lo những lợi ích của mình được tôn trọng hoàn toàn trong khu vực then chốt này vào đầu thế kỷ 21 . Thứ hai : Góp phần vào sự ổn định ở Châu á bằng cách khuyến khích hợp tác và hiểu biết lẫn nhau ở cấp độ quốc tế . Thứ ba : Khuyến khích sự phát triển kinh tế của các nước và khu vực kém thịnh vượng nhất . EU và các thành viên của mình tiếp tục góp phần làm giảm bớt sự nghèo nàn và tạo ra một sự tăng trưởng bền vững ở các nước và khu vực này . Thứ tư : Góp phần phát triển và củng cố nền dân chủ , nhà nước pháp quyền , cũng như phương tiện tôn trọng quyền con người và các quyền tự do cơ bản ở Châu á . Để đạt được các mục tiêu trên EU đã đưa ra hàng loạt các chính sách củng cố và tăng cường sự hiện diện của mình như . Dành cho Châu á những ưu tiên lớn hơn và đi sâu đối thoại với các nước và các nhóm trong khuôn khổ song phương hoặc đa phương . Coi trọng hợp tác kinh tế trong các lĩnh vực EU có lợi thế như ngân hàng , năng lượng , công nghệ môi trường , viễn thông Dành ưu tiên lớn nhất cho các thị trường Châu á mới trong đó có Đông Nam á , Trung Quốc , ấn Độ Sự cụ thể hoá trong chiến lược mới đối với Châu á chứng tỏ EU đã tiến thêm một bước quan trọng trong chính sách đối ngoại và an ninh chung của mình . Việc EU cố gắng đi đến một chính sách chung đối với Châu á -Thái Bình Dương là xuất phát từ chỗ đánh giá lại thực trạng của mình và tương lai của khu vực Châu á - Thái Bình Dương . Qua chiến lược này EU hy vọng sẽ giành được những vị trí vững chắc cả về kinh tế quốc dân . EU đã sớm đón bắt được một xu thế phát triển đặc thù ở Châu á trong thế kỷ 21 . Đó là vị trí lý tưởng để EU có thể phát huy ảnh hưởng chính trị của mình . Một cơ hội mới đã được tạo ra cho sự hợp tác giữa EU và ASEAN khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN . Tóm lại : Sau 40 năm hình thành và phát triển EU trở thành một siêu cường cả về kinh tế , chính trị , dân số , diện tích và sẽ trở nên mạnh hơn khi đồng tiền chung Euro được sử dụng trước một trật tự thế giới mới đang hình thành và đang đầy biến động phức tạp , EU đã chuyển mình vươn lên tắch khỏi sự lệ thuộc với Mỹ, vươn tầm hoạt động sang trung và Đông âu, Châu á, Châu Mỹ La Tinh, nhằm nâng cao hơn nữa vị thế của mình trước thềm thế kỷ XXI . chính trong quá trình thực hiện chiến lược toàn cầu của mình nói chung và chiến lược mới với Châu á nói riêng, EU đã tìm thấy ở Việt Nam những ưu thế địa chính trị, địa kinh tế để lấy Việt Nam làm đIểm tựa quan trọng trong chiến lược đối ngoại của mình với Châu á. Mối quan hệ Việt Nam – EU đã bắt đầu được thiết lập từ sau năm 1975, nhưng chỉ đơn thuần là viện trợ kinh tế . Bước chuyển biến to lớn đánh dấu một thời kỳ mới trong quan hệ Việt Nam- EU là việc hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao tháng 10/1990. Trên cơ sở đó mối quan hệ Việt Nam và EU đã phát triển nhanh chóng . Hai bbên đã có hàng loạt cuộc tiếp xúc gặp gỡ thăm viếng hội thảo khoa học nhằm trao đổi thông tin và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau . Quan hệ Việt Nam –EU bước vào giai đoạn lịch sử mới khi . Hiệp định khung hợp tác Việt Nam – EU được ký kết vào tháng 7/1995 . Hiệp định đã tạo ra những yếu tố thuận lợi cho EU và mối nước thành viên EU trong quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư với Việt Nam . Có thể nói , hiệp định khung hợp tác Việt Nam – EU vừa là cơ sở pháp lý vừa là động cơ thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và EU phát triên mạnh mẽ và toàn diện trên rất nhiều lĩnh vực : hợp tác thương mại, đầu tư khoa học kỹ thuật môi trường văn hoá giáo dục y tế đặc biệt là trng lĩnh vực dệt may. Bằng chứng là hai hiệp định dệt may Việt Nam – EU giai đoạn 1993 – 1997 và 1998 – 2000 đã ký kết . nhờ đó kim ngạch hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường EU đã tăng lên nhanh chóng . Vẫn đề này sẽ được nghiên cứu kỹ ở chương tiếp theo. Chương 2 Thực trạng thương mạI việt nam -eu trong lĩnh vực dệt may 2.1. Khái quát về ngành dệt may Việt Nam . Ngành dệt may là ngành công nghiệp truyền thống có lịch sử phát triển rất lâu đời ở nước ta . Mạc dù thường xuyên phảI đối mặt với rất nhiều thử thách , song với đặc tính thu hút nhiều lao động , đầu tư ít vốn , thu lãi nhanh , ngành dệt may đã tận dụng được các lợi thế của đất nước và đóng góp ngày càng nhiều cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước . Thứ nhất , ngành dệt may phải thực hiện một nhiệm vụ quan trọng là đảm bảo đầy đủ nhu cầu thiết yếu cho nhân dân trong nước “sau cái ăn là cái mặc ”, qua đó góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân . Trên thực tế sản phẩm của ngành dệt may chỉ mới đáp ứng được một phần nhu cầu trong nước . Hàng năm chúng ta vẫn phảI nhập với một khối lượng lớn nguyên liệu lẫn hàng dệt may thành phẩm . Mặt khác ngành dệt may sản phẩm cho tiêu dùng trong nước chất lượng còn thấp , mẫu mã chưa phong phú , giá cả lại cao so với sản phẩm dệt may nhập khẩu . Tuy nhiên trong những năm gần đây , ngành dệt may đã có kế hoạch đổi mới trang thiết bị , tăng sản lượng , giảm giá thành , đa dạng hoá mẫu mã nhằm đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu cầu của nhân dân trong nước . Thứ hai , với đặc tính sử dụng nhiều lao động , đặc biệt là đối với ngành dệt may Việt Nam thiếu thiết bị công nghệ hiện đại vì thế còn rất nhiêù công đoạn sản xuất thủ công , nên ngành dệt may có khả năng giải quyết việc làm cho rất nhiều lao động . Hiện nay toàn ngành dệt may Việt Nam đang sử dụng hơn 500. 000 lao động Con số này là nhỏ khi so với tổng số 38 triệu người trong độ tuổi lao động của Việt Nam nhưng là một con số khá lớn đối với một ngành công nghiệp , có ý nghĩa không chỉ trên phương diện kinh tế mà còn góp phần bình ổn chính trị – xã hội . Thứ ba , không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước , hiện nay sản phẩm dệt may của Việt Nam đã có mặt ở rất nhiều thị trường nước ngoài . Các sí nghiệp dệt may lớn ở Trung ương và địa phương đều đang cố gắng dành năng lực tốt nhất cho sản xuất hàng dệt may . Ngành dệt may đã phát huy và tận dụng hết tiềm năng sẵn có của đất nước , thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đó . Trong thời gian tới , chúng ta cần phải có những chính sách phù hợp để khai thác hiệu quả những ưu thế của ngành dệt may nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . 2.2. Cơ cấu thị trường ngành dệt may Việt Nam Nhiệm vụ đầu tiên của ngành dệt may là đáp ứng cho nhu cầu của nhân dân trong nước “sau cái ăn là cái mặc ” . Nhưng trên thực tế , ngành dệt may chưa hoàn thành nhiệm vụ này , hàng năm chúng ta vẫn phải nhập một lượng lớn nguyên liệu lẫn hàng dệt may thành phẩm . Điều này chứng tỏ rằng trong quá trình phát triển và hướng ngoại ngành dệt may Việt Nam đã để lại một khoảng trống sau lưng mình , đó là thị trường may mặc trong nước Hiện nay các sí nghiệp dệt may lớn Trung ương và địa phương đều đang cố gắng dành những năng lực tốt nhất cho sản xuất hàng dệt may xuất khẩu , phần nào không xuất được thì để lại tiêu dùng trong nước . bằng chứng là thỉnh thoảng mọt doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu nào đó lạI đưa ra “cửa hàng giới thiệu sản phẩm” của mình những lô hàng kém phẩm chất bán cho hàng tiêu dùng , đó là những chiếc quần áo rộng quá cỡ , khác biệt về màu sắc và kiểu mốt đối với người Việt Nam . Hoạt động của ngành dệt may trên thị trường nội địa có thể được phản ánh như sau : ở thị trường thành thị , thị trường bị thả nổi : Các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng may mặc của tư nhân gia đời rất nhanh với nhiều quy mô và hình thức khác nhau đã thay thế dần cho may mặc quốc doanh , tình trạng kinh doanh đất trốn lậu thuế sản xuất buôn bán hàng giả , hàng “Sida” , hàng ngoại tràn vào một cách tràn lan , khó kiểm soát được . ở thị trường nông thôn , miền núi lại khác hẳn thị trường bị bỏ trống bởi cầu ít , khả năng thanh toán kém do đó không đủ sức để thu hút tư thương vào . Nếu ta chỉ làm một phép tính đơn giản cũng có thể thấy được sự lãng phí đáng quan tâm của ngành dệt may Việt Nam . Nước ta hiện nay có khoảng 78 triệu dân , chỉ tính khiêm tốn mỗi người tiêu dùng bình quân 100. 000 đồng / năm sẽ tạo được một thị trường với sức mua 7800 tỷ đồng ( tương đương với khoảng 600 triệu USD ) xấp xỉ kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của chúng ta vào 14 quốc gia thành viên EU năm 1998 . Đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam được xuất khẩu ra hai khu vực thị trường : có hạn ngạch và phi hạn ngạch . Thị trường có hạn ngạch do EU áp đặt . Nơi đây , loại hình gia công chiếm vhủ yếu 80% kim ngạch xuất khẩu hầu như ổn định . Sau khi Hiệp định dệt may thời kỳ đầu ( 1993 – 1997 ) được ký kết kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU không ngừng tăng lên . Thời kỳ đầu có 105 chủng loại ( category – cat ) quản lý bằng hạn ngạch , sau khi điều chỉnh ( tháng 8/ 1995 ) còn 54 cat và khi hiệp định thời kỳ 1998 – 2000 được ký kết thì số cat quản lý hạn ngạch chỉ còn 29 . Tính gia , có 122 đã được EU “giải phóng ” số lượng Cat được giải phóng này có thể mang lạI một kim ngạch không nhỏ . Trước những khó khăn trong việc khai thác thị trường xuất khẩu như đã nêu trên , việc mở rộng và tăng cường hơn lữa hợp tác với thị trường EU là một đòi hỏi khách quan của nganhf dệt may Việt Nam . Đó cũng chính là lý do mà toàn bộ chỉ đi sâu tìm việc thực trạng của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đi EU để rút ra thách thức và thuận lợi . 2.3. Cơ cấu của ngành dệt may Việt Nam . Theo thống kê cuối năm 1995 , tổng số cơ sở dệt may là 109369. Trong đó : số cơ sở dệt là 74633, may là 34736 đơn vị . Hiện nay các cơ sở dệt may phân bố hầu như khắp các tỉnh thành trong cả nước . Song , hiệu quả hoạt động của các cơ sở ở các tỉnh khác nhau là khác nhau . Theo thống kê chung , các cơ sở miền trung hoạt động kém hiệu quả , sản phẩm không đủ chất lượng để cạnh tranh trên thị trường quốc tế do thiếu công nghệ hiện đại , thiếu thông tin về thị trường , cơ sở hạ tầng lạc hậu Các doanh nghiệp hoàt động có hiệu quả thường tập trung ở thành phố Hồ Chí Minh , Đồng Nai , Nha Trang , Hải Phòng , Hà Nội Sự phát triển không đồng bộ này chính là câu hỏi đặt ra với các nhà hoạch định chính sách . Chúng ta cần có những chính sách đầu tư và tín dụng phù hợp để khai thác đầy đủ và hiệu quả các tiềm lực ở các địa phương nhằm xây dựng ngành dệt may ngang tầm nhiệm vụ của nó , một ngành công nghiệp chủ lực trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam . Và đáng nói nhất của ngành dệt may Việt Nam là nguyên vật liệu . Đây là một vấn đề nan giải , làm ảnh hưởng đến chất lượng giá cả , sự cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế : Nguyên vật liệu của ngành dệt bao gồm các loại : Bông , đay , tơ tằm , xơvisco , xơ PE , các loại xơ liber khác , các loại hoá chất , thuốc nhuộm . Trong đó nguyên liệu sản xuất trong nước chỉ có bông , đay , tơ tằm . Tuy nhiên sản lượng bông đay , tơ tằm vẫn còn thấp ,chất lượng kém do sử dụng giống cũ đã thoái hoá , máy móc trong trang bị trong khâu thu hoạch và bảo quản còn lạc hậu , giá thành cao hơn giá của nguyên liệu ngoại nhập . Hơn nữa , từ năm 1993 đến nay , diện tích trồng các loại nguyên liệu này đã giảm mạnh do ngành dệt chưa có kế hoạch thu mua khiến cho người trồng trọt lo lắng vì giá cả , thị trường tiêu thụ không ổn định . Chính vì vậy , hàng năm chúng ta phải nhập khẩu với số lượng lớn, bông , đay , tơ tằm và các nguồn sợi tổng hợp khác . Nguyên liệu của ngành may cũng vậy , vải trong nước cung cấp cho may công nghiệp rất ít doanh nghiệp đáp ứng được , Mặc dù , một vài năm gần đây công nghệ dệt của ta đã có những bước tiến đáng kể nhưng nhìn chung chưa đồng bộ , chất lượng vải chưa cao. Tính trong toàn bộ năm 1998 lượng bông nhập khẩu là 78 triệu USD , lượng sợi các loại là 207 triệu USD , vải các loại là 418 triệu USD . Đáng chú ý là lượng vải nhập khẩu cho gia công là 392 triệu USD , trong khi lượng vải nhập khẩu cho kinh doanh là 27 triệu USD . Chính vì thế , giảm bớt sự phụ thuộ về nguyên liệu trong ngành dệt – may vừa là mong muốn chủ quan vứa là yêu cầu khách quan . Ngoài ra ngành dệt may còn phải nói đến đổi mới công nghệ , theo đánh giá chung thiết bị và công nghệ của ngành dệt may Việt Nam hiện nay lạc hậu khoảng 10-20 năm so với thế giới . Tuy nhiên so với năm gần đây , có khá nhiều thiết bị , máy móc tiên tién đã được đưa vào sản xuất thay thế cho thiết bị cũ , đặc biệt là ngành may . Nhiều doanh nghiệp đã trang bị nhữnh thiết bị chuyên dùng như máy thêu tự động , máy cắt , hệ thống ủi hơi hập từ các nước công nghiệp tiên tiển . Điều đáng buồn là việc đầu tư trong ngành dệt may không được xem xét dưới các góc độ bảo đảm sự phát triển kinh tế bền vững của một ngành nói riêng và của toàn nền kinh tế nói chung . Đầu tư không đồng bộ giữ ngành may và ngành dệt và giữa các công đoạn trong quá trình sản xuất của một doanh nghiệp . Hầu hết , các chủng loại máy may và công nghệ đang sử dụng trong nghành may đều là máy mới . Ngược lại ngành dệt may chưa có sự thoả đáng , ngành dệt còn 50% thiết bị đã sử dụng trên 20 năm . Sự đồng bộ này còn được thể hiện ngay ở lượng FDI vào ngành dệt may Việt Nam trong những năm vừa qua . Với tình hình trên , nếu việc đầu tư đổi mới công nghệ dệt – may không được cải tiến và không có một chiến lược xét trên giác ngộ toàn ngành dệt sẽ mãi mải tụt hậu so với ngành may và ngành may cũng sẽ bị suy giảm khi Việt Nam không còn thế mạnh là nước có giá trị nhân công rẻ . 2.4. Một số đánh giá về thực trạng thương mại dệt may Việt Nam-EU Từ khi nền kinh tế nước ta mới chập chững vận hành theo cơ chế thị trường ngành công nghiệp dệt may đã chứng tỏ vai trò quan trọng của mình , với đặc điểm sử dụng nhiều lao động . Ngành dệt may đã khai thác được lợi thế so sánh của nước ta và trở thành một trong năm ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tăng lên nhanh chónh từ năm 1989- 1997 và luôn chiếm vị trí thứ hai sau dầu thô . Riêng năm1998 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã vươn lên vị trí đầu bảng với 1,375 tỷ USD . Tuy nhiên việc xuất khẩu mặt hàng này trong năm 1998 cũng đầy “sóng gió” . Mặc dù giữ vị trí đầu bảng nhưng cũng chỉ là mức đã đạt trong năm 1997 và thấp khá xa so với mức dự kiến 1,5 tỷ USD ban đầu . Sự chững lại trong xuất khẩu mặt hàng này là do thị phần ở thị trường phi hạn ngạch giảm quá mạnh từ 900 triệu USD năm 1997 xuống chỉ còn 700 triệu USD năm 1998 . Đồng thời vơíi sự suy giảm vai trò của thị trường các quốc gia Châu á đối với ngành dệt may Việt Nam , vai trò của thị trường EU càng được củng cố . Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vẫn tăng 30% sau khi hiệp định dệt may Việt Nam EU giai đoạn 1998-2000 có hiệu lực , chiếm khoảng 45% so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may EU thực sự là một thị trường xuất khẩu chủ đạo của ngành dệt may Việt Nam . Đối với hàng hoá trong lĩnh vự dệt may nhập từ EU vào Việt Nam , tỷ lệ hàng thành phẩm rất ít , chủ yếu là các loại máy móc , thiết bị , vật tư nguyên liệu và hoá chất . Mặc dù chất lượng hàng dệt may của EU rất cao , nhưng kích thước mẫu mã mầu sắc lạI không phù hợp với thị hiếu của người Việt Nam . Nhìn chung cơ cấu trao đổi hàng hoá đã thể hiện đúng khả năng và nhu cầu của mỗi bên . Cơ cấu trao đổi này cũng hoàn toàn phù hợp với mục tiêu của công cuộc công nghiệp hoá , hiện đại hoá mà Việt Nam đang theo đuổi . Trong những năm tới , chúng ta cần phải tiếp tục khai thác thị trường EU theo hướng này . Có như vậy chúng ta mới tận dụng được tiềm năng của mình và khai thác được các mặt mạnh của EU . Thành quả đã đạt được trong những năm qua là kết quả của những lỗ lực từ hai phía . Phía Việt Nam , chúng ta không ngừng cải tiến mẫu mã , nâng cao chất lượng , hạ giá thành sản phẩm để đáp ứng nhu cầu các khách hàng EU . Ngược lại EU cũng dành cho chúng ta những điều kiện có lợi để thúc đẩy quan hệ buôn bán mặt hàng này . Tuy nhiên , việc thâm nhập một thị trường kỹ tính như EU trong khi chúng ta chưa phải là thành viên của WTO quả là đIều hết sức khó khăn . Mặc dù , kim ngạch xuất khẩu dệt may sang thị trường EU có tăng , song đó vẫn chưa phải là tất cả những gì chúng ta mong đợi . Nguyên nhân của việc này cũng chính là khó khăn thách thức má các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải đối đầu khi thâm nhập thị trường EU . Thứ nhất : Phương châm “may làm lối ra cho dệt” chưa được thể hiện trong việc sản xuất và xuất khẩu sang thị trường EU . Vải sản xuất trong nước không đáp ứng được độ đồng đều về mầu sắc , độ co rút sự đa dạng chủng loại , tính thời trang Chẳng hạn với tiêu chuẩn vải may sơ mi xuất khẩu sang thị trường EU là sợi bông 100% nhưng yêu cầu hình thức như Polyeste thì các công ty dệt may Việt Nam đều không đáp ứng được . Ngoài chênh lệch sản phẩm giữa dùng sợi nội và sợi ngoại là khá lớn , giá bán vải nội có khi còn cao hơn cả giá vải nhập khẩu ,dùng vải nội phải chịu mấy lần tính thuế ( thuế sợi , vải mộc , vải thành phẩm ) Với tình hình trên phía các doanh nghiệp may chưa tìm thấy sự hấp dẫn của vải nội và cũng chưa tích cực tìm kiếm cơ hội . Mặt khác vấn đề nguyên liệu chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng phương thức gia công chiếm tỷ lệ chủ yếu trong kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam sang EU . Thứ hai : ở Việt Nam ngành kinh doanh mẫu mốt chưa trở thành một ngành kinh tế độc lập . Trong khi Châu Âu là cái nôi thời trang của thế giới , người Châu Âu nổi tiếng “sành ăn , sành mặc” . Chính vì thế , hầu hết mẫu mã của hàng dệt may sang thị trường EU do phía đối tác cung cấp . Với khả năng hiện tại , mẫu mã sản phẩm chúng ta chưa có tính chủ động , sáng tạo , có bản sắc riêng mà được khách hàng EU chấp nhận . Hiện nay đa số các cơ sở thiết kế thời trang của ta thường làm theo kiểu Photocopy bằng cách cóp nhặt tổng hợp các mẫu mã vốn đã được lăng xê thành sản phẩm trước đó . Ngay ở Viện mẫu thời trang – nơi được xem là cơ sở làm việc có bài bản nhất ở Việt Nam thì các trang thiết bị phục vụ nghiên cứu mẫu mốt có thể nói gần như không có gì : không có hệ thống máy vi tính, việc thiết kế làm bằng thủ công, sự hiểu biết thị hiếu mẫu mốt nước ngoài quá ít ( vì không có tài chính cử cán bộ đi khảo sát ) , cán bộ nghiên cứu của Viện vốn được đào tạo cơ bản nhưng so với tình hình hiện giờ thì đã lạc hậu, không được bổ túc thêm . Thứ ba : Trong phương thức gia công, các doanh nghiệp của ta phần lớn phải chấp nhận “phương thức tam giác”, 3 đỉnh của tam giác gồm: nhà sản xuất ( doanh nghiệp Việt Nam ) khách hàng ( doanh nghiệp EU ) – người tiêu dùng. Chính khách hàng EU mới là người khai thác thị trường. Họ đưa mẫu, nguyên phụ liệu, ta sản xuất, họ đóng gói mác, nhãn hiệu. Người tiêu dùng chỉ biết đến họ với tư cách là nguồn cung cấp chứ không quan tâm đến nhà sản xuất. Điều này dẫn đến các doanh nghiệp thu được một số ít ngoại tệ ít ỏi nhưng uy tín sản phẩm của ta không hề được biết đến, tất cả những yếu tố thị trường ( giá cả, sức mua, tâm lý tiêu dùng, sự biến đổi sở thích ) ta hoàn toàn không nắm được. Nói cách khác, “trong phương thức tam giác” ta chỉ là nhà sản xuất, còn thị trường là của đối tác EU . Thứ tư : Cho đến hôm nay, số nhóm mặt hàng xuất đi EU bị khống chế bởi hạn ngạch chỉ còn 29 cat, nhưng vẫn là nhiều so với các nước xung quanh ( 29 so với 20 của Thái Lan, 8 của Singapore, 10 của Indonesia ) Xét về khối lượng quota thì Việt Nam vẫn bị đối sử không công bằng so với Trung Quốc cũng như một nước ASEAN khác vì họ được xuất khẩu nhưng mặt hàng tương tự vào EU với lượng lớn hơn của Việt Nam Việc sử dụng các nguyên phụ liệu nhập khẩu từ EU để làm hàng thành phẩm xuất khẩu trở lại EU là một giải pháp tình thế không có lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam . nếu dùng nguyên phụ liệu tương tự nhập khẩu từ các nước Châu á với giá thấp hơn nhưng vẫn đảm bảo số lượng mà được EU chấp nhận thì sẽ có lợi hơn cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam . Theo đánh giá của Bộ thương mại , trong những năm tới thị trường Mỹ còn có nhều phức tạp , thị trường các nước Châu á vẫn chịu ảnh hưởng vủa cuộc khủng hoảng nên trọng tâm của thị trường hàng dệt may Việt Nam sẽ là liên minh Châu Âu và các nước Liên Xô cũ . Trong đó , thị trường EU vẫn là thị trường xuất khẩu chủ đạo . Để khai thác thị trường EU có hiệu quả , các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải nỗ lực để tranh thủ tốt nhất những lợi thế hạn chế những bất lợi . Đặc biệt phải phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm , cải tiến mẫu mã đáp ứng đúng thị hiếu của người tiêu dùng , nâng cao uy tín để chủ động chiếm lĩnh thị trường Châu Âu . Chương 3 Các giảI pháp thúc đẩy thương mạI việt nam – eu trong lĩnh vực dệt – may 3.1. Định hướng của ngành dềt may Việt Nam . Phát triển ngành dệt may ngang tầm nhiệm vụ một ngành công nghiệp chủ lực và sánh ngang trình độ phát triển của ngành dệt may các nước trong khu vực và phát triển trên thế giới , ngành dệt may đã xây dựng một quy hoạch phát triển đến năm 2010 . Trong đó mục tiêu và những định hướng được xác định cụ thể như sau : Năm 2000 sản xuất được 800 triệu mét vải lụa thành phẩm kim ngạch đạt khoảng 2 tỷ USD và tạo việc làm cho khoảng 1 triệu lao động . Năm 2010 sản xuất được 2 tỷ mét vải tụa thành phẩm , kim ngạch xuất khẩu đạt 4 tỷ USD và tạo việc làm cho khoảng 1,8 triệu lao động . Các sản phẩm chủ yếu của ngành dệt may sẽ là hàng sợi bông chiếm 40% vải P/C chiếm 30% vải sợi tổng hợp chiếm 30% . Các sản phẩm của ngành dệt may là sản phẩm ở khâu cuối cùng chứ không phải là sản phẩm gia công ở khâu trung gian . Quần áo may sẵn và hàng dệt kim được tăng lên với tỷ lệ thích đáng . Mục tiêu xuất khẩu các năm 2000 , 2005 , 2010 Mục tiêu giá trị xuất khẩu Thực 2000 2005 2010 Chỉ tiêu Hiện 1995 Kim nghạch (tr USD) Tăng số với 1995 (%) Kim nghạch (tr USD) Tăng số với 1995 (%) Kim nghạch (tr USD) Tăng số với 1995 (%) Kim nghạch Xuất khẩu 750 2000 166. 67 3. 000 50. 000 4. 000 33. 33 Hàng may 500 1600 22000 2. 200 37. 50 3. 000 36. 36 Hàng dệt 250 400 60. 00 800 100. 00 1. 000 25. 00 b- Mục tiêu sản phẩm xuất khẩu . 2000 2005 2010 Chỉ tiêu Hiện 1995 Số lượng Tăng số với 1995 Số lượng Tăng số với 2000 Số lượng Tăng số với 2005 Sản phẩm Xuất khẩu 160 490 330 760 180 810 140 Sản phẩm may 125 400 275 550 150 750 200 Sản phẩm dệt 35 90 55 120 30 160 40 c-Mục tiêu sản xuất phụ liệu phục vụ sản xuất hàng dệt may xuất khẩu TT Loại phụ liệu Đơn vị tính 1996 2000 2005 2010 1. Chỉ may Tấn 2788 5354 7550 10836 2. Nhãn dệt Triệu chiếc 600 1530 2230 3060 3. Bông tấm Triệu m2 31 58,2 69,8 105 4. Mếch Triệu m2 16,4 29,4 35,7 55,2 5. Cúc đính Triệu chiếc 1528 2582 3387 5237 6. Cúc đập Triệu bộ 134,5 310 357.3 587 7. Khoá kéo Triệu m 70 125,5 145,5 224 Nguồn ( a, b, c ) Dự án quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010 . Tổng công ty dệt may Việt Nam . Để đạt được mục tiêu ngành dệt may cần phải phấn đấu : Thứ nhất : Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của ngành dệt may phải đạt 10% và giải quyết các nhu cầu về nguyên liệu dự kiến : Bông thiên nhiên 340.000 tấn , xơ PE là 90 nghìn tấn , sợi PETEX hơn 1000 tấn . trong đó ngành dệt phảI phấn đấu sản xuất 50% sản lượng bông thiên nhiên và 10% xơ PE. Thứ hai : Đến năm 2010 toàn ngành dệt may sẽ phải cần tới 4,8 tỷ USD để đầu tư cho các dự án mới . Trong đó khoảng 3,8 tỷ USD sẽ được đầu tư cho thiết bị và khoảng 1 tỷ đầu tư cho xây dựng , phần đầu tư cho thiết bị ngành dệt sẽ là 3,41 tỷ USD và ngành dệt may là 390 triệu USD. Đầu tư vào ngành dệt may sẽ được thực hiện theo ba giai đoạn . trước năm 2000 phảI đầu tư 668 triệu USD từ năm 2000 đến 2005 đầu tư khoảng 2 tỷ USD phần còn laị dành cho giai đoạn thứ ba từ 2005 – 2010 . Nguồn vốn này được qua nguồn vốn đầu tư trong nước cũng như qua đầu tư nước, trong đó nguồn vốn trong nước là chủ yếu.Ngoài ra ngành dệt may cũng kiến nghị với nhà nước cấp qũy đất để phát triển sản xuất và tham gia liên doanh liên kết với nước ngoài . Thứ ba : Qui hoạch phát triển ngành dệt may thành các vùng chính như sau : Về dệt : Vùng Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long , tập chung chủ yếu vào thành phố Hồ Chí Minh , Đồng Nai , An Giang , Bình Dương , Đồng Tháp , Tây Ninh , Long An Dự kiến sản lượng 50%-60% và mức vốn các dự án mới của các doanh nghiệp Việt Nam là 35% . Vùng đồng bằng sông Hồng và một số tỉnh lân cận gồm thành phố Hà Nội , tỉnh Hà Tây , Hải Hưng , Hải Phòng , Thái Nguyên Dự kiến chiếm 30%-40% về sản lượng và 55% về vốn vùng Duyên HảI miền Trung và một số tỉnh khu bốn cũ gồm Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hoà, Thừa Thiên Huế Dự kiến 10% sản lượng và 10% về vốn. Về may mặc: phân bố trên các địa phương để phục vụ nhu cầu trong nước và tập trung tại 3 vùng phát triển dệt để tham gia xuất khẩu ưu tiên các vùng địa bàn thuận tiện giao thông bến cảng. 3.2. Định hướng thương mại dệt may Việt Nam- EU: Trên cơ sở Hiệp định khung giữa Việt Nam và EU ký kết vào tháng 7 năm 1995: “các bên cam kết phát triển và đa dạng hoá trao đổi thương mại giữa hai bên và cải thiện tiếp thị tới mức cao nhất có thể được. Các bên trong khuôn khổ hiện hành của luật pháp và thể lệ của mỗi bên cam kết thực hiện chính sách nhằm cải thiện cách thức thâm nhập cho sản phẩm của mình vào thị trường của nhau, hai bên sẽ dành cho nhau các điều kiện thuận lợi nhất về nhập khẩu và xuất khẩu và thoả thuận xem xét cách thức biện pháp nhằm loại bỏ hàng rào thương mại giữa hai bên, đặc biệt là hàng rào phi thuế quan ” hai bên đã có rất nhiều cuộc gặp gỡ trao đổi nhằm thúc đẩy thương mại ngành dệt may Dựa trên sự phân tích thực trạng thương mại với EU trong lĩnh vực dệt may và Hiệp định dệt may Viềt Nam – EU giai đoạn 1998- 2000 , hoạt động buôn bán hàng dệt may với EU trong thời gian tới sẽ được tăng cường theo các hướng sau : Mục tiêu cơ bản của ngành dệt may Việt Nam đối với thị trường EU vẫn là : phấn đấu nâng cao sản phẩm cải tiến mẫu mã đáp ứng được đúng thị hiếu cuẩ người tiêu dùng tạo uy tín để chiếm lĩnh thị trường EU tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu , hạn chế việc khai thác sản phảm bằng hình thức gia công thuần tuý , gia tăng hình thức mua nguyên vật liệu và bán thành phẩm . Việc xuất khẩu vào EU những sản phẩm liệt kê tại phụ lục II(Hiệp định dệt may Việt Nam –EU giai đoạn 1998 – 2000) được tăng cường , nhưng phải được hạn chế tốt số lượng đươc EU ấn định cho hàng năm . Trong việc phân bố quota xuất khẩu vào EU , các cơ quan hữu quan của Việt Nam sẽ không phân biệt đối xử với các công ty do các nhà đầu tư EU sở hữu một phần hay toàn bộ đang hoạt động tại Việt Nam . Việc quản lý hạn ngạch xuất khẩu sang thị trường EU có những điểm khác biệt so với các năm trước . Tổng lượng hạn ngạch do EU ấn định sẽ được chia làm 3 phần được phân bố cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sang EU làm bằng vải sản xuất trong nước , phần còn lại sẽ cho đấu thầu nhằm giảm cơ chế xin cho và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự vận động trong cơ chế thị trường . Trong trường hợp cần thiết , Liên bộ Thương mại và Bộ công nghiệp sẽ sử dụng trước một phần quota của năm kế tiếp ấn định tại phụ lục II ( Hiệp định dệt may Việt Nam – EU giai đoạn 1993-1997 ) cho mỗi chủng loại sản phẩm tới mức 5% quota của năm thực hiện . Tất nhiên , phần sử dụng trước phải trừ vào lượng quota ấn định cho năm kế tiếp đó , số lượng quota không sử dụng hết của năm trước sẽ được chuyển sang cho năm kế tiếp đối với mỗi chủng loại tới mức 7% quota cụ thể của năm thực hiện . Các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường EU được phép chuyển giao giữa các chủng loạI 4,5,6,7,8 nhưng chỉ giới hạn ở mức 7% quota của chủng loại được chuyển đổi . Có thể chuyển sang bất kỳ loại nào thuộc các nhóm 2, 3, 4, 5 từ bất kỳ chủng loại nào thuộc các nhóm 1, 2, 3, 4, 5 tới mức 7% quota của chủng loại được chuyển tới . 3.3. Các giải pháp nhằm thúc đẩy hợp tác thương mại Việt Nam-EU trong lĩnh vực dệt may . Tăng cường khai thác thị trường EU là một trong những mục tiêu của ngành dệt may Việt Nam góp phàn làm cho ngành dệt may phát huy vai trò là những công nghiệp xuất khẩu chủ lực . Tuy nhiên qua phân tích thực trạng thương mại Việt Nam – Eu trong lĩnh vực dệt may cho thấy quá trình thâm nhập thị trường EU gập rất nhiều khó khăn . Nười tiêu Châu Âu rất khó tính đối với hàng may mặc liên kết giữa các quốc gia Châu Âu rất chặt chẽ cạnh tranh trên thị trường găy gắt trong khi khả năng của chúng ta lại có hạn chế : Thiếu vốn , công nghệ lạc hậu do đó sản phẩm của chúng ta chất lượng chưa cao , mẫu mã không phong phú . Vì vậy ngành dệt may Việt Nam cần phảI có hệ thống biện pháp phù hợp từ tầm vĩ mô đến vi mô thì mới có thể khai thác được thị trường EU . 3.3.1.Tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại : Trong các thể chế của Liên minh Châu Âu, Uỷ ban Châu Âu là cơ quan phụ trách kinh tế đối ngoại . Chính vì thế muốn mở rộng quan hệ với Eu nói chung và trong lĩnh vực dệt may nói riêng, chúng ta cần tăng cường quan hệ với Uỷ ban Châu Âu. Mặt khác, để hoà nhập vào thị trường EU, đIều quan trọng là chúng ta cần phảI xác định được “cầu nối” trong quan hệ với EU. Trong tất cả các mối quan hệ giữa chúng ta với các quốc gia thành viên của EU thì mối quan hệ Việt- Pháp là lâu dàI và sâu sắc nhất. Với những tiềm năng kinh tế và ảnh hưởng của Pháp trên thị trường quốc tế, thực sự là “cầu nối” Việt Nam và EU. Pháp có ảnh hưởng lớn lạI nằm trong nhiều khối liên minh, vì vậy, chúng ta cần có các mối quan hệ Việt- Pháp ngày càng có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, chúng ta cũng phảI có những chính sách riêng đối với Pháp. Một cầu nối khác không kém phần quan trọng là thông qua ASEAN. Với tư cách là một thành viên đầy đủ ASEAN, chúng ta cần khai thác những lợi ích của các phương tiện và các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ hợp tác EU-ASEAN. NgoàI ra, để hàng dệt may Việt Nam có đủ sức cành tranh với các đối thủ khác thị trường EU, Việt Nam cần xúc tiến mạnh mẽ việc gia nhập WTO, đặc biệt là khi Hiệp định đa sợi đã được thay thế bằng Hiệp định về hàng dệt may. Để thấy được sự cần thiết của việc gia nhập WTO đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU. Theo MFA, các nước nhập khẩu có thể thông qua các thoả thuận song phương hoặc trong trường hợp không đI đến thoả thuận song phương có thể đơn phương thiết lập hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may đối với từng nước xuất khẩu và mức tăng của hạn ngạch thay đổi tuỳ theo mỗi nước. Như vậy, MFA đIều tiết buôn bán hàng dệt may không tuân thủ nguyên tắc không phân biệt đối xử và loạI bỏ hạn chế số lượng của GATT. Người ta cho rằng MFA đã làm biến dạng hình thức buôn bán và sản xuất các sản phẩm dệt may, các nước được hưởng lợi trong buôn bán quốc tế hàng dệt may là các nước công nghiệp phát triển. Năm 1994, trong khuôn khổ vòng đàm phán Urugoay của WTO. Hiệp định về hàng dệt may (ATC) ra đời. Theo ATC hàng dệt may sẽ được hội nhập dần dần theo các quy tắc thông thường của GATT, chấm dứt trường hợp ngoạI lệ trong kinh doanh các sản phẩm dệt may như quy định của MFA. Các thoả thuận về hạn chế số lượng trước đây giữa các nước xuất khẩu và nhập khẩu sẽ được hạn chế loạI bỏ dần dần, thời gian cho việc này kéo dàI trong 10 năm, được chia thành các giai đoạn: Từ ngày 1/1/1995 đến 31/12/1997: 16% tổng khối lượng hàng dệt may nhập khẩu trong năm 1990, sẽ không bị hạn chế về số lượng trong buôn bán hàng dệt may giữa các nước xuất khẩu và nhập khẩu. Từ ngày 1/1/1998 đến 31/12/2000, tương tự là 17%. Từ 1/1/2001 đến 31/12/2004 là 18%. Từ 1/1/2005 là tất cả các số lượng hàng còn lại. Trong từng giai đoạn, mỗi nước nhập khẩu có quyền chọn bất kì một sản phẩm nào trong 4 loạI: sợi, vảI, sản phẩm dệt và quần áo may sẵn để đưa vào danh mục buôn bán không hạn chế số lượng. Đối với những sản phẩm buôn bán , theo hạn chế về số lượng các nước áp dụng phảI chứng minh được các sản phẩm này đang làm thiệt hạI nghiêm trọng đến sản xuất các sản phẩm tượng tự ở trong nước. ACT là một kết quả rất quan trọng của vòng đàm phán Urugoay. Hiệp định ACT sẽ làm tăng khả năng tiếp cận thị trường nước ngoàI cho các nhà sản xuất hàng dệt may, hứa hẹn tăng việc làm và cơ hội kinh doanh cho các nước đang phát triển. Chính vì thế, Việt Nam cần xúc tiến việc gia nhập WTO để được hưởng các tiến bộ của ATC và có đủ sức cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường EU. 3.3.2. CảI cách hệ thống để đẩy mạnh xuất khẩu. Việc áp dụng thuế giá trị gia tăng thay cho thuế doanh thu vừa qua của Nhà nước đã tạo ra một môI trường bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Thuế doanh thu đánh trùng lặp nhiều lần đối với giá trị sản phẩm. Ví dụ, doanh nghiệp may phảI chịu thuế doanh thu trên giá trị mà doanh nghiệp phảI từ doanh nghiệp khác để sản xuất, trong khi đó, phân xưởng may của một doanh nghiệp dệt dùng vảI của doanh nghiệp mình thì không phảI tính thuế. Do đó, nhiều doanh nghiệp dệt đã mở thêm phân xưởng may ngoàI mục đích tạo công ăn việc làm cho công nhân còn vì lí do tránh bị đánh thuế trùng lặp như doanh nghiệp may. Vì vậy chi phí sản phẩm may mặc của doanh nghiệp may cao hơn phân xưởng may của doanh nghiệp dệt, gây ra tình trạng cạnh tranh không bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Khi áp dụng thuế giá trị gia tăng thì khắc phục được đIều này, chi phí sản xuất của các doanh nghiệp sẽ giảm do nỗ lực của từng doanh nghiệp chứ không phảI do cơ chế tính thuế. Tuy nhiên chính sách thuế đối với sản phẩm dệt may của chúng ta cũng còn rất nhiều bất cập. Cách đánh thuế vào nguyên liệu là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trong kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU, tỉ lệ sản phẩm gia công chiếm 80%. Đối với doanh nghiệp may, nếu dùng vảI nội, phảI bỏ vốn ra để mua vảI vừa phảI chịu mấy lần tính thuế ( thuế sợi, vảI mộc, vảI thành phẩm), còn trong phương pháp gia công, hiện nay doanh nghiệp may dùng tất cả các nguyên liệu phụ của đối tác EU và không phảI chịu thuế (tạm nhập, táI xuất). Trước tình hình đó, nên miễn giảm thuế cho các sản phẩm dùng nguyên liệu trong nước giảm thuế với vảI sản xuất bằng thiết bị mới NgoàI ra cần phảI xem xét lạI thời hạn 90 ngày đối với nhập nguyên vật liệu và táI xuất của ngành may. Bởi lẽ từ khâu kí kết hợp đồng, mua nguyên liệu, sản xuất và xuất khẩu khó thực hiện trong thời gian đó, tuy nhiên nếu kéo dàI thời hạn với hàng tạm nhập và táI xuất thì nước có thể bị thất thu về thuế nhưng thời hạn này cũng phảI đủ để không gây khó khăng cho các doanh nghiệp gia công. Theo các chuyên gia thì thời hạn lí tưởng là tư 120 ngày đến 180 ngày. 3.3.3. Đẩy mạnh phát triển nguyên liệu trong nước. Để thực hiện được mục tiêu về diện tích và sản lượng các loạI nguyên liệu. Đến năm 2010, diện tích trồng bông là 100.000 hécta, dâu tằm là 40.000 hecta, sản lượng bông xơ là 60.000 tấn, trong khi diện tích trồng các loạI cây nguyên liệu này đang có sự suy giảm nghiêm trọng năng suất thấp do không có giống mới, thiết bị cộng nghệ để thu hoạch và chế biến lạc hậu thì quả là khó khăn. Để mục tiêu này mang tính khả thi, Tổng công ty dệt may Việt Nam cần phối hợp các bộ ngành tổ chức hội nghị với các địa phương để xác định quỹ đất thực có cho sự phát triển của cây bông, cây dâu nhằm gắn kết quy hoạch ngành với quy hoạc vùng lãnh thổ, xây dựng và đIều hành kế hoạch giữa bông nhập khẩu và bông sản xuất trong nước. Nhà nước cần phảI có những chính sách tiến dụng ưu đãI để tạo nguồn vốn cho người nông dân để họ đầu tư cho giống mới và các máy móc thiết bị trong khâu thu hoạch. Mặt khác, các doanh nghiệp dệt cần có kế hoạch thu mua bông, tơ cụ thể nhằm đảm bảo sự ổn định giá cả và thị trường cho người sản xuất. NgoàI ra cho đến năm 2005, nhu cầu về tơ sợi tổng hợp cũng rất lớn: xơ PE 90.000 tấn, sợi PETEX hơn 1000 tấn trong khi đó cho tới nay mới chỉ có nhà máy dệt Hualon do Malaysia đầu tư ở Đồng Nai sản xuất được tơ sợi tổng hợp và khi nhà máy lọc dầu Dung Quất đI vào hoạt động thì việc sản xuất xơ PE có triển vọng. Nhưng nhìn chung vẫn rất thấp, chính vì thế chúng ta cần phảI có những biện pháp để thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực này. 3.3.4. Nghiên cứu triển khai và đào tạo nhân lực. Biện pháp này chú trọng đến các hướng chính sau: + Chú trọng công tác đào tạo cán bộ quản lí, kĩ thuật và công nhân lành nghề. Lập kế hoạch và triển khai việc đào tạo lạI và cập nhập thông tin cho các cán bộ chủ chốt. Có cơ chế gắn kết Viện- Trường- Doanh nghiệp trong nghiên cứu- đào tạo và triển khai một cách có hiệu quả. + Củng cố Viện mẫu thời trang thành một cộng cụ mạnh và nghiên cứu ứng dụng phát triển ngành. Trang bị phòng thí nghiệm cho Viện và phân viện kinh tế- kĩ thuật dệt- may để xin nhà nước bổ sung chức năng kiểm định quốc gia về hàng dệt may. 3.3.5. Đẩy mạnh phương thức mua nguyên liệu, bán thành phẩm. Như đã trình bày ở những phần trước, kim ngạch xuất khảu hàng dệt may sang EU trong những năm qua rất khả quan, nhưng phương thức gia công thuần tuý lạI chiếm một tỉ lệ rất lớn 80% trong kim ngạch xuất khẩu. Mặc dù trong giai đoạn đầu phương thưvs này đac giảI quyết một số lượng lao động lớn, giúp doanh nghiệp dệt may Việt Nam bước đầu tập dượt tìm hiểu về thi trường EU, đưa về cho đất nước một số lượng ngoạI tệ ít ỏi, nhưng đổi lạI uy tín sản phẩm (giá cả, sức mua, tâm lí tiêu dùng, sự biến đổi sở thích) ta không nắm được. Phương thức này cũng hạn chế sự năng đọng của các doanh nghiệp dệt may kinh doanh theo kiểu “ ngồi buôn” chứ không phảI “đI buôn”. Các doanh nghiệp ngồi tạI chỗ chờ khách đến rồi chạy đI xin hạn ngạch tương đối phổ biến ở các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Vì thế, để ngành dệt may Việt Nam phát triển bền vững, để khai thác hiệu quả thị trường EU chúng ta phảI dần tỉ lệ gia công, nâng dần phương thức “mua đứt bán đoạn” trong kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU. Để làm được đIều này cần có sự hỗ trợ của nhà nước thông qua một hệ thốnh chính sách: chính sách đầu tư, tín dụng, thuế, tỉ giá hối đoáI, nguyên liệu đặc biết là các doanh nghiệp dệt may cần phảI nâng cao chất lượng sản phẩm, cảI tiến mẫu mã đáp ứng đúng thi hiếu của người tiêu dùng, tạo uy tín để chiếm lĩnh thị trường để có đủ sức cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trương EU. Kết luận Liên minh Châu Âu như đã phân tích là tổ chức duy nhất có mục tiêu cơ bản và lâu dàI là thống nhất cả một châu lục về cả kinh tế và chính trị dựa trên các nguyên tắc vừa linh hoạt vừa thực dụng và mang tính quốc gia ngày càng rõ rệt. Trong hơn 40 năm qua, EU đã tồn tạI không ngừng phát triển và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống quốc tế nói chung và các nước trong khối EU nói riêng. Trước những thành công mà EU đã đạt được trong tiến trình nhất thể hoá kinh tế- tiền tệ về chính trị Việt Nam đang ngày càng chú trọng tới việc đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế thương mại với EU, đặc biệt là trong lĩnh vực dệt may Kết quả nghiên cứu cho thấy, từ khi Hiệp định dệt may giai đoạn 1993 đến 1997 được kí kết đến nay quan hệ thương mạI Việt Nam- EU trong lĩnh vực dệt may đã có những bước phát triển khả quan. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU không ngừng tăng lên. Nhiều mặt hàng cao cấp của ngành dệt may Việt Nam đã đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng của người châu Âu “đẹp nhưng phảI rẻ”. Ngược lạI, ngành dệt may Việt Nam cũng đã tiêu thụ một số lượng lớn thiết bị, máy móc, vật tư, nguyên liệu và hoá chất nhập từ EU. Hiệp định dệt may Việt Nam- EU được kí kết vào ngày 10/9/1998 với thiện chí của hai bên đã hứa hẹn một tương lai sáng sủa cho sự hợp tác trong lĩnh vực này. Những năm tới, ngành dệt may Việt Nam cần phảI có những chính sách, biện pháp phù hợp để khắc phục những khó khăn, phát huy các lợi thế của mình nhằm khai thác các thị trường EU hiệu quả hơn. góp phần phát triển ngành dệt may ngang tầm nhiệm vụ- ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Với việc tiếp tục duy trì quan đIểm phát triển và mở rộng quan hệ hợp tác với tất cả quốc gia khác như trên thế giới vì lợi ích trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi dân tộc do Đảng ta đề ra sẽ tạo đIều kiện cho sự hội nhập và phát triển kinh tế Việt Nam. Với thiện chí và tiềm năng to lớn của Việt Nam và EU chúnh ta tin tưởng rằng quan hệ hợp tác Việt Nam- EU nói chung và trong lĩnh vực dệt may ngày càng phát triển tốt đẹp. Tài liệu tham khảo 1. TS. Kim Ngọc - Chiến lược đầu tư của EU đối với các nước trong khu vực và Việt Nam - Tạp chí nghiên cứu Châu Âu tháng 1/1995 2. TS. Kim Ngọc - Việt Nam EU hợp tác kinh tế và thương mại. Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 4/1996. 3. Trần Kim Dung - Chiến lược mới của Liên minh Châu âu đối với Châu á. Tạp chí nghiên cứu Châu âu số 3 + 4 năm 1996. 4. Trần Kim Dung năm 1997 - Một bước tiến mới vững chắc trong quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam EU. Tạp chí nghiên cứu Châu Âu tháng 1/1998. 5. Nguyễn Thị Quế - Việt Nam EU. Tạp chí nghiên cứu Châu âu số 2/1998. 6. Dự án quy hoạch tổng thể phát triển ngành dệt may đến năm 2000 - 2010 của Tổng công ty dệt may Việt Nam. 7. Vũ Hà Quang - Hiệp định dệt may Việt Nam EU những sửa đổi mới tạp chí Thương mại số 15/1998. 8. Đỗ Thúy Loan - Lối thoát cho hàng dệt may Việt Nam sang thị trường phi hạn ngạch - Báo thương mại ngày 27/2/1999. Mục lục Trang Lời mở đầu 1 Chương 1. Một vài nét về liên minh Châu Âu (EU) 2 1.1. Sự hình thành và phát triển của liên minh Châu Âu 2 1.2. Chiến lược của liên minh Châu Âu đối với Châu á 5 Chương 2. Thực trạng thương mại Việt Nam - EU trong lĩnh vực dệt may 8 2.1. Khái quát về ngành dệt may Việt Nam 8 2.2. Cơ cấu thị trường ngành dệt may Việt Nam 9 2.3. Cơ cấu ngành dệt may Việt Nam 10 2.4. Một số đánh giá về thực trạng thương mại dệt may Việt nam - EU 12 Chương 3. Các giải pháp thúc đẩy thương mại Việt Nam - EU trong lĩnh vực dệt may 16 3.1. Định hướng của ngành dệt may Việt Nam 16 3.2. Định hướng thương mại dệt may Việt Nam - EU 18 3.3. Các giải pháp nhằm thúc đẩy hợp tác thương mại Việt Nam - EU trong lĩnh vực dệt may 20 Kết luận 26 Tài liệu tham khảo 27

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0373.doc
Tài liệu liên quan