Đề tài Phân tích kinh tế tư nhân trong thời kì quá độ lên CNXH hiện nay ở nước ta

Trên thực tế quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo thúc đẩy một lĩnh vực hệ trọng nhất trong lãnh đạo và quản lí kinh tế - lĩnh vực thể chế hoá, đổi mới tạo lập và hoàn thiện cơ sở hợp hiến hợp pháp cho hoạt động của các thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp. Thể chế hoá như vậy là chức năng, là hoạt động thực tiễn cơ bản nhất của cơ quan lãnh đạo quản lí kinh tế, là việc đưa chính sách của Đảng vào cuộc sống, đồng thời qua đó tổng kết hoàn thiện chính sách. Đã có nhiều hoạt động lí luận gắn liền và phục vụ thể chế hoá. Thể chế hoá là vấn đề cơ bản để xây dựng nhà nước pháp quyền và tạo đồng bộ nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mà đến nay ta đang ở bước đầu. Dẫu sao thành quả đạt được cũng rất quan trọng – kinh tế tư nhân và kinh tế thị trường có vai trò hợp hiến hợp pháp. Hệ thống pháp luật mới được ban hành và liên tục hoàn thiện đã cổ vũ và bảo đảm pháp lí để mọi người kinh doanh tư nhân ngày càng yên tâm phát triển. Đáng lưu ý các năm từ sau Đại hội VIII đã liên tục có diễn đàn hợp tác đối thoại cởi mở giữa lãnh đạo và cơ quan nhà nước hữu quan với giới kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế mà chủ đề luôn luôn là xây dựng và thực thi thể chế kinh tế và kinh doanh. Nhờ thành quả ban hành và thực thi thể chế như vậy mới có thể có bước phát triển liên tục của kinh tế tư nhân mấy chục năm qua và bước phát triển đột biến từ năm 2002 đến nay – ngay trong tình hình còn có những ý kiến băn khoăn lo ngại.

docChia sẻ: aloso | Lượt xem: 1702 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích kinh tế tư nhân trong thời kì quá độ lên CNXH hiện nay ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuẫn nào của việc phát triển kinh tế tư nhân với định hướng phát triển do Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra để toàn xã hội phấn đấu thực hiện. Khu vực kinh tế tư nhân cần cách nhìn mới về con người.Trong quá khứ, với cách nhìn có thể nói là khá thô sơ về con người, người ta đã khoét sâu vào sự phân chia giai cấp. Con người được chia thành những lực lượng đối kháng nhau trong đời sống và thậm chí, cả trong sản xuất và lực lượng này phải đánh đổ lực lượng kia để tồn tại. Nhiều nhà lý luận coi người lao động là một lực lượng chứ không phải là đối tượng cá nhân cụ thể, nhưng chúng ta có một cái nhìn khác. Hôm nay, một người có thể là người lao động nhưng ngày mai, họ có thể là ông chủ, ngày kia, lại có thể lại trở thành người lao động nếu họ bị phá sản. Đấy là điều bình thường và phải được xem là bình thường, ở mỗi một con người, dù họ là nhà văn, nhà báo, nhà kinh tế hay nhà chính trị, thực ra, đó chỉ là những giai đoạn hay trạng thái khác nhau của một con người mà thôi. Tuyệt đối hóa số phận của họ (là người lao động hay một ông chủ vĩnh viễn) đều là không nhân văn. Chúng ta không nên xem người lao động là một trạng thái vĩnh viễn vì con người có quyền phấn đấu để trở thành ông chủ, thành nhà kinh doanh và thậm chí cả nhà chính trị. Trong quá khứ, những nhà chính trị luôn luôn cần có lực lượng làm chỗ dựa cho mình để đi đến thắng lợi này hoặc thắng lợi kia và lực lượng dễ huy động nhất là lực lượng lao động. Người lao động hay đơn giản là những người nghèo khổ luôn luôn là lực lượng chính trị của các nhà chính trị. Nhà chính trị theo chủ nghĩa nào thì họ cũng đều dựa vào lực lượng này; nhưng tuyệt đối hóa người lao động để vĩnh viễn biến họ thành làm thuê như một số phận thì đấy là hành vi thiếu nhân hậu. Con người không ai chịu vĩnh viễn làm thuê và cũng không ai có quyền vĩnh viễn làm chủ. Xã hội càng phát triển, công nghệ càng thay đổi nhanh chóng bao nhiêu thì chu kỳ lao động làm thuê cũng như chu kỳ làm chủ càng ngắn bấy nhiêu đối với từng cá nhân. Vấn đề không phải là có không gian tự do cho nền kinh tế tư nhân mà là không gian tự do cho các cá nhân, bởi vì không gian tự do cho các cá nhân còn làm thay đổi số phận của mỗi cá nhân trong đó có cả những người mà các nhà lý luận của chủ nghĩa xã hội Xô Viết gọi là người lao động. Bản chất của khoa học kinh tế là khoa học về các lợi ích. Khoa học kinh tế là triết học của kinh doanh. Làm gia tăng các giá trị cụ thể chính là bản năng, là phẩm chất không thể thiếu của nhà kinh doanh. Nhà kinh doanh là những người ý thức về sự gia tăng các giá trị thông qua hành vi của mình. Bất kỳ nhà kinh doanh nào không ý thức được như vậy thì nhà kinh doanh đó khó có thể tồn tại. Gia tăng các giá trị có nghĩa là biến các nguyên liệu thành sản phẩm bán được có giá hơn, biến những người lao động đơn giản trở thành những người sản xuất ra những hàng hóa có thu nhập lớn hơn để tạo ra mức sống cao hơn, đồng tiền mình bỏ ra có lợi nhuận cao hơn. Tóm lại, mỗi nhà kinh doanh phải có khả năng nhận thức chính xác và đầy đủ, ý thức một cách trọn vẹn về cái gọi là giá trị gia tăng. Nhà kinh doanh có giá trị xã hội thì có ý thức về giá trị gia tăng của hành vi của mình đổi với xã hội, nhưng sự gia tăng các giá trị xã hội của nhà kinh doanh nằm ngoài ý thức của nhà kinh doanh. Nếu nhà kinh doanh chỉ ý thức về việc làm giá trị gia tăng cho xã hội thì hoặc là họ đã đạt tới đỉnh cao của sự kinh doanh hoặc là họ không bao giờ kinh doanh được. 2.2 Điều kiện, sự phát triển. Có thể khẳng định rằng, Đảng ta đã hoàn toàn đúng và sáng suốt khi đưa ra chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà ở đó, mọi thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc, kinh tế tư nhân là bộ phận hợp thành không thể thiếu, có vị trí quan trọng đặc biệt và ý nghĩa chiến lược. Tuy nhiên, không phải ngay từ đầu Đảng ta đã có được quan điểm như vậy về vị trí và vai trò của kinh tế tư nhân. Sau 5 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước với đường lối “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”, khi kinh tế tư nhân đã có bước phát triển đáng kể và có những đóng góp không nhỏ trong nền kinh tế quốc dân, mặc dù xác định rõ kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, song trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, Đảng ta mới chỉ coi nó là thành phần kinh tế có thể cần được phát triển. Khi đó, quan điểm của Đảng ta về thành phần kinh tế này là: “Kinh tế cá thể còn có phạm vi tương đối lớn, từng bước đi vào con đường làm ăn hợp tác… Tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh do luật pháp quy định… Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển mạnh, nhưng không phải là một thành phần kinh tế độc lập”. Thêm 5 năm nữa, nghĩa là sau 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, kinh tế tư nhân vẫn chỉ là thành phần kinh tế được Đảng ta xác định là cần “tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi” để cho nó “yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài”, với điểm nhấn mạnh là: “Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài… Kinh tế tư bản tư nhân có khả năng góp phần xây dựng đất nước”. Thêm 5 năm nữa, nghĩa là sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, kinh tế tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân đã thực sự có được những bước khởi sắc đáng kể, tỏ rõ sự năng động cũng như tính hiệu quả trong nền kinh tế quốc dân, đóng góp ngày càng nhiều hơn vào quá trình phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy đời sống kinh tế – xã hội nước ta phát triển theo hướng ngày càng ổn định và bền vững. Trên thực tế, nhờ chính sách đổi mới đúng đắn và sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta, lại được sự đồng tình, hưởng ứng và tham gia một cách tích cực của đông đảo người lao động, sau 10 năm (từ 1991 đến 2001), khi đã chính thức được Đảng ta thừa nhận là bộ phận quan trọng cấu thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân nước ta đã có được sự phát triển rộng khắp trong cả nước, từ các thành phố lớn, thị xã, thị trấn đến các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa và từ các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp đến các lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ. Với sự phát triển rộng lớn đó, với tiềm năng kinh tế ngày càng mạnh và tầm ảnh hưởng ngày càng lớn, kinh tế tư nhân nước ta đã có những đóng góp, có thể khẳng định, là hết sức quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế đất nước, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, tăng ngân sách nhà nước và góp phần tích cực vào việc giữ vững ổn định chính trị – xã hội của đất nước, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội. Không chỉ thế, cùng với các thành phần kinh tế khác, sự phát triển rộng khắp và ngày càng lớn mạnh của kinh tế tư nhân nước ta đã góp phần đắc lực vào việc giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy mạnh mẽ sự phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng thêm khá nhiều số lượng công nhân, lao động và doanh nhân, thúc đẩy một cách có hiệu quả thực sự tính năng động và năng lực sáng tạo của người lao động, đồng thời góp phần không nhỏ vào việc hiện thực hóa chủ trương xã hội hóa các ngành văn hóa, giáo dục - đào tạo, y tế,…, nhất là chủ trương xóa đói giảm nghèo, thực hiện chính sách xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra. Đánh giá đúng sự phát triển và những đóng góp to lớn đó của kinh tế tư nhân nước ta trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế “có vị trí quan trọng lâu dài” trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, được “khuyến khích phát triển rộng rãi”, được “tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý”, được “phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài”. Đặc biệt, với mục đích làm cho đông đảo người lao động nước ta có được sự thống nhất, nhất trí cao với quan điểm mới của Đảng về kinh tế tư nhân với tư cách bộ phận cấu thành không thể thiếu, có vị trí quan trọng đặc biệt và ý nghĩa chiến lược trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là nhằm khuyến khích thành phần kinh tế này phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong những năm tiếp theo của công cuộc đổi mới đất nước, tại Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa IX (từ 18-2 đến 2-3-2002), khi thông qua Nghị quyết “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”, Đảng ta đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế”. Có thể nói, đó là quan điểm chỉ đạo nhất quán của Đảng ta về phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Với quan điểm này, khi một lần nữa nhìn nhận lại tiến trình phát triển của thành phần kinh tế này trong bối cảnh của công cuộc đổi mới đất nước, nhất là sự phát triển của nó trong những năm gần đây, từ 2001 đến 2005, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã khẳng định, trong chiến lược phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh, “kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. Để kinh tế tư nhân có thể thực hiện ngày một tốt hơn vai trò này và thực sự trở thành một động lực thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã nhấn mạnh chủ trương cho phép mọi công dân không những có quyền tham gia vào các hoạt động đầu tư, kinh doanh với quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo hộ, mà còn có quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội, nguồn lực kinh doanh, thông tin và nhận thông tin. Để các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân có được sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa, Đảng ta còn nhấn mạnh chủ trương xóa bỏ mọi rào cản, tạo môi trường tâm lý xã hội và kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển với quy mô không hạn chế trong mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh, kể cả các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân mà pháp luật không cấm. Trên thực tế, trong hơn 5 năm qua, kinh tế tư nhân nước ta đã có được sự phát triển năng động, ngày càng đáp ứng được và thích ứng được với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; khả năng đóng góp vào nền kinh tế quốc dân ngày một tăng; khả năng thu hút lao động cũng ngày một tăng; sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới đã được nâng lên một bước đáng kể. Trình độ sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân nước ta cũng theo đó mà ngày một đổi mới và có sự tiến bộ rõ rệt, nhiều sản phẩm mang thương hiệu doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đã có được uy tín nhất định trên thị trường trong nước, khu vực và thế giới. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam đang từng bước trưởng thành, tăng về số lượng, phát triển về chất lượng, mạnh dần về bản lĩnh kinh doanh thương trường. Số doanh nhân “có tài và thành đạt, đóng góp nhiều cho xã hội” và thực sự xứng đáng tôn vinh ngày một nhiều. Tuy nhiên, so với những đòi hỏi ngày càng cao của tiến trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay thì kinh tế tư nhân nước ta, có thể nói, vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, “quy mô còn nhỏ, sức cạnh tranh còn yếu và chưa được quản lý tốt”. Hiện tại, chúng ta mới chỉ xây dựng được một số doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn, vốn lớn, công nghệ sản xuất hiện đại, còn phần lớn các doanh nghiệp tư nhân vẫn là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ sản xuất yếu kém, hiệu quả và sức cạnh tranh trên thị trường, không chỉ thị trường nước ngoài, mà cả thị trường trong nước, nhìn chung còn yếu. Nguyên nhân chính làm cho tốc độ phát triển của kinh tế tư nhân nước ta chưa đáp ứng được những đòi hỏi của tiến trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là do, một mặt, quan điểm của Đảng ta trên một số vấn đề cụ thể về phát triển kinh tế tư nhân chưa được làm rõ để tạo sự thống nhất cao, một số cơ chế, chính sách của Nhà nước chưa phù hợp với đặc điểm của kinh tế tư nhân mà đại bộ phận có quy mô nhỏ và vừa, quản lý có phần buông lỏng và còn có những sơ hở; mặt khác, “kinh tế tư nhân chưa được tạo đủ điều kiện thuận lợi để phát triển”. Thêm vào đó, kinh tế tư nhân nước ta, ngoài việc phải đối phó với những khó khăn, vướng mắc về vốn, về mặt bằng sản xuất kinh doanh, về môi trường pháp lý và môi trường tâm lý xã hội, về khả năng tiếp cận và xử lý thông tin, còn phải đương đầu với nhiều thách thức, khó khăn về môi trường kinh doanh, về năng lực cạnh tranh, về trình độ công nghệ, chất lượng, giá thành và khả năng tiêu thụ sản phẩm. Do vậy, để kinh tế tư nhân nước ta thực sự có được bước phát triển vượt bậc, đúng hướng, ngày càng tương xứng với vai trò quan trọng, vị trí chiến lược của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trước hết chúng ta cần phải quán triệt, tạo sự thống nhất, nhất trí cao và quyết tâm thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân. Cùng với đó, chúng ta phải tạo ra một môi trường thuận lợi cả về thể chế lẫn tâm lý xã hội cho sự phát triển của kinh tế tư nhân; tiếp tục sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách cho phù hợp với đặc điểm của kinh tế tư nhân nước ta hiện nay. Ngoài việc hỗ trợ về vốn, về cơ sở hạ tầng, Nhà nước cần phải có chính sách hỗ trợ về đào tạo nhân lực, về khoa học, công nghệ và thông tin, xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp tư nhân. Đồng thời, cần phải tăng cường hơn nữa vai trò quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và phát huy có hiệu quả vai trò của các tổ chức quần chúng, các đoàn thể nhân dân, các hiệp hội doanh nghiệp trong sự phát triển kinh tế tư nhân. “Xây dựng thương hiệu, xử lý rủi ro trong kinh doanh, bảo vệ lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp” và “thực sự tôn vinh các doanh nhân có tài và thành đạt, đóng góp nhiều cho xã hội”. III. Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam. 1.Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta đã trải qua hơn 2 thập niên, đã giành được những thắng lợi về kinh tế, chính trị, xã hội, đối ngoại, an ninh quốc phòng, tạo thế vững chắc để nước ta vững bước trên con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vì hạnh phúc của nhân dân. Trong thắng lợi to lớn có tính chiến lược đó phải kể đến tác động của chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nói chung và quan điểm, chính sách đối với kinh tế tư nhân nói riêng, từ đó tạo nền tảng và căn cứ để đổi mới cơ chế quản lý‎ kinh tế cho phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong những năm đổi mới vừa qua, kinh tế tư nhân là một vấn đề gay cấn, lúng túng, gây tranh cãi nhiều nhất, đụng chạm đến những vấn đề chính trị - xã hội như định hướng XHCN, đảng viên làm kinh tế, bóc lột và bị bóc lột, phân hóa giàu nghèo, v.v.. Tuy nhiên, với sự nhất quán trong đường lối đổi mới của Đảng, với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, tôn trọng sự thật, nói đúng sự thật, cùng với sự nỗ lực của các nhà lý‎ luận, các nhà quản lý và sự hưởng ứng của toàn dân, cho tới nay, kinh tế tư nhân đã được hồi phục, phát triển và trở thành một lực lượng kinh tế lớn mạnh, góp phần vào công cuộc đổi mới nhằm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Có thể nói, cho tới nay không còn một người nào, dù là bảo thủ nhất, còn nghi ngờ và phủ nhận vai trò của kinh tế tư nhân ở nước ta, nhưng những vướng mắc về lý‎ luận liên quan đến kinh tế tư nhân vẫn chưa được làm sáng tỏ, giải quyết dứt điểm. Một là, nhận dạng và đánh giá kinh tế tư nhân nước ta. Trước thời kỳ đổi mới, đường lối kinh tế của Đảng ta là xây dựng một nền kinh tế quá độ đi lên CNXH với cơ cấu kinh tế một thành phần – XHCN – gồm hai bộ phận, quốc doanh và tập thể, được quản lý‎ theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, còn các thành phần kinh tế khác được gọi là phi XHCN, được nằm trong diện cải tạo và xóa bỏ, để tiến tới một nền kinh tế thuần khiết, do đó phạm trù kinh tế tư nhân không còn tồn tại trong lý‎ luận và trong đời sống thực tiễn.Ngay cả tại Đại hội VI của Đảng, khởi xướng công cuộc đổi mới và đề ra chính sách kinh tế nhiều thành phần nhưng tư tưởng cải tạo, xóa bỏ các thành phần kinh tế không được coi là XHCN vẫn được nhấn mạnh. Văn kiện Đại hội VI đã ghi rõ: “đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích lũy tập trung của Nhà nước và tranh thủ vốn nước ngoài, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác” . Kinh tế tư nhân mặc dù vẫn tồn tại và hoạt động trong nền kinh tế quốc dân nhưng không còn tên gọi, bị cấm kỵ, thành kiến và bị xa lạ không chỉ trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước mà cả trong các phương tiện thông tin đại chúng và trong cuộc sống đời thường. Nó được gọi dưới các tên hợp thời hơn như kinh tế ngoài quốc doanh, kinh tế phi XHCN, kinh tế tư bản tư nhân… Tuy nhiên, thực tiễn vẫn là tiêu chuẩn của chân lý, tư duy lý luận và quan điểm đường lối cũng không thể né tránh hiện thực xa hội, nên trước sự phát triển khách quan của kinh tế tư nhân, các văn kiện của Đảng đã từng bước đề cập tới kinh tế tư nhân. Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị khóa VI (15-7-1988) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới, nhất quán thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, khẳng định kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế địa bàn, quy mô, trong các ngành nghề mà pháp luật không cấm. Cũng trong năm 1988, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khóa VI) xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, từ đó đổi mới cơ bản cách thức quản lý‎ hợp tác xã nông nghiệp đã tạo động lực cho kinh tế tư nhân trong nông nghiệp hồi phục và phát triển năng động, bước đầu chuyển sang sản xuất hàng hóa. Đó là bước khởi đầu đáng quý‎ đối với kinh tế tư nhân nước ta, mở đường cho những bước đột phá mạnh hơn sau này. Từ Đại hội VII và đặc biệt từ Hội nghị Trung ương 2 khóa VII (1922) kinh tế tư nhân đã được coi trọng và khuyến khích phát triển, trong đó nhấn mạnh: “Bổ sung, sửa đổi thể chế nhằm đảm bảo cho kinh tế tư nhân được phát huy không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm; được tự do lựa chọn hình thức kinh doanh, kể cả liên doanh với nước ngoài theo những điều kiện do luật định”. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, kinh tế tư nhân ngày càng chứng tỏ được sức mạnh, là một trong các động lực phát triển đất nước, đến Hội nghị Trung ương 5 khóa IX, lần đầu tiên, vấn đề phát triển kinh tế tư nhân đã được đưa ra thảo luận trong một chuyên đề riêng và ra Nghị quyết Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Đây là một bước tiến đáng kể về tư duy lý‎ luận và quan điểm, đường lối kinh tế của Đảng ta, thể hiện tính nhất quán của đường lối đổi mới theo hướng kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, đã tạo nên động lực và sự yên tâm cho các doanh nhân và nhà đầu tư được tự do kinh doanh theo pháp luật. Về mặt quản lý‎ nhà nước, sự phát triển kinh tế tư nhân từng bước được thể chế hóa bằng các nghị định và một số bộ luật, trong đó phải kể đến Luật Doanh nghiệp 1999 có hiệu lực từ 1-1-2000, tồn tại song song với Luật Doanh nghiệp Nhà nước, trong đó quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý‎ và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân…, là các hình thức tổ chức doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Sau 5 năm thực hiện, hai bộ luật này đã được thống nhất chung vào Luật doanh nghiệp 2005, có hiệu lực từ 1-7-2006, cùng các bộ luật có liên quan như Luật Đất đai, Luật Đàu tư, Luật Thương mại… được sửa đổi, bổ sung theo hướng thống nhất hóa về mặt pháp luật, bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật đối với các thành phần kinh tế. Nhờ sự khơi thông về mặt lý‎ luận và mở đường về đường lối, cơ chế, chính sách mà kinh tế tư nhân nước ta vốn có sức sồng bền bỉ, năng động đã được phát triển với tốc độ khá cao, trở thành một trong những lực lượng kinh tế chủ yếu của nền kinh tế quốc dân. Đánh giá về vai trò của kinh tế tư nhân, Hội nghị Trung ương 5 khóa IX khẳng định:”Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế”. Văn kiện Hội nghị Trung ương 9 khóa IX cũng đánh giá một cách lạc quan: ”Khu vực kinh tế tư nhân có những bước phát triển vượt bậc so với những năm trước đây, đóng góp nhiều cho việc tạo việc làm mới, tăng thu nhập cho người lao động và cho ngân sách nhà nước“. Sự phát triển vượt bậc đó được thể hiện trên các số liệu chủ yếu sau đây: Từ đầu năm 2000, tức là từ khi Luật doanh nghiệp 1999 có hiệu lực thi hành đến tháng 9-2003 đã có 72.600 doanh nghiệp đăng k‎ý kinh doanh với số vốn đăng ký‎ trên 9,5 tỷ USD, tức là gấp 1,7 lần về số doanh nghiệp và gấp hơn 4 lần về vốn đăng ký‎ so với giai đoạn 10 năm trước đó (1991-1999). Vốn đầu tư năm 2005 của khu vực dân doanh đã lên đến 32,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội (vốn đầu tư nhà nước chiếm 53,1%, vốn đầu tư nước ngoài 14,5%); Theo Báo cáo của Thủ tướng Chính phủ tại Kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa XI ngày 20-3-2007 thì vốn đầu tư toàn xã hội năm 2006 đạt 393,5 nghìn tỷ đồng, bằng 40,4% GDP; trong đó vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước đạt 86,4 nghìn tỷ đồng, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đạt 26,3 nghìn tỷ đồng, vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước đạt 61,1 nghìn tỷ đồng, vốn đầu tư của dân cư và doanh nghiệp tư nhân đạt 132,6 nghìn tỷ đồng, vốn đầu tư của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 65,6 nghìn tỷ đồng; các nguồn vốn khác đạt 21 nghìn tỷ đồng, tức là vốn đầu tư của kinh tế tư nhân đạt 31% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, trong khi vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh, đạt 17,2% so với 14,5% năm 2005. Số việc làm năm 2003 trong khu vực kinh tế tư nhân khoảng 6 triệu người, chiếm 16% lực lượng lao động xã hội (không tính số lao động trong nông nghiệp), cơ cấu lao động khu vực dân doanh năm 2005 chiếm tới 88,8% (nhà nước – 9,6%, đầu tư nước ngoài -1,6% ). Từ năm 2002 đến năm 2006, có khoảng 170 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, số doanh nghiệp gia nhập thị trường tăng bình quân mỗi năm khoảng 17%. Hiện nay, đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh chiếm gần 34% trong tổng đầu tư xã hội, tạo ra 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn. Hằng năm, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã tiếp nhận hơn 90% số lao động mới. Các doanh nghiệp dân doanh, kinh tế hợp tác, kinh tế hộ đã tạo ra 45% GDP . Đóng góp của kinh tế tư nhân vào GDP và tăng trưởng GDP cũng có sự vượt trội. Trong khi tỷ lệ đóng góp của kinh tế nhà nước giảm từ 40,2% năm 1995 xuống còn 39,2% năm 2004, kinh tế tập thể giảm tương ứng từ 10,1% xuống còn 7,1% thì kinh tế tư nhân (chưa tính kinh tế cá thể) tăng tương ứng từ 6,3% lên 15,2%. Tốc độ tăng trưởng GDP của kinh tế tư nhân cũng cao hơn tốc độ tăng trưởng chung: năm 2000 tăng 9,7% so với 6,79%, con số tương ứng năm 2001: 13,43% / 6,89%; năm 2002: 12,02% / 7,08%; năm 2003: 10,2% / 7,34%; năm 2004: 11,9% / 7,69%. Ngoài những con số biết nói đã nêu, kinh tế tư nhân còn có những đóng góp quan trọng như: góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng của toàn xã hội nhờ hàng hóa và dịch vụ ngày càng tăng cả về lượng và chất; nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, làm cho hoạt động kinh tế năng động hơn; mở rộng thị trường trong nước ra thị trường thế giới, đặc biệt làm cho thị trường chứng khoán sôi động hẳn lên; góp phần xóa đói, giảm nghèo; hình thành đội ngũ doanh nhân tài giỏi, có chí, có tâm huyết và năng lực kinh doanh vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, biết tự mình làm giàu chân chính, góp phần xây dựng đất nước mạnh giàu; có ảnh hưởng và tác động tới hệ thống chính trị- xã hội theo hướng dân chủ hóa, thúc đẩy quá trình cải cách hành chính nhà nước, tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Những thành tựu và tiến bộ của khu vực kinh tế tư nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý‎ của Nhà nước là quá rõ ràng và không thể phủ nhận. Tuy nhiên, không chỉ thấy mặt tích cực của kinh tế tư nhân mà không thấy mặt hạn chế, tiêu cực của nó, đó là năng lực kinh tế còn nhỏ bé, trình độ công nghệ và quản lý‎ kinh doanh phần lớn còn yếu kém, sức cạnh tranh còn yếu, còn nhiều tiêu cực trong kinh doanh. Mặt khác, sự phát triển kinh tế tư nhân vẫn còn gặp nhiều vướng mắt, lúng túng cả về tư duy lý‎ luận, quan điểm, chính sách đến thực tiễn, như Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX đã nêu: “Quan điểm của Đảng trên một số vấn đề cụ thể về phát triển kinh tế tư nhân chưa được làm rõ để có sự thống nhất cao. Một số cơ chế, chính sách của Nhà nước chưa phù hợp với đặc điểm của kinh tế tư nhân đại bộ phận có quy mô nhỏ và vừa; quản l‎ý có phần buông lỏng và có nhiều sơ hở, hạn chế việc thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển đúng hướng”. Tới nay, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về cơ bản nhận định đó vẫn còn giá trị. Hiện nay, nhận thức và quan niệm về kinh tế tư nhân trong xã hội vẫn còn chưa thống nhất. Mặc dù những thuật ngữ trước đây tới nay không còn phù hợp, như kinh tế ngoài quốc doanh hoặc kinh tế phi XHCN, nhưng hiện nay trong xã hội vẫn còn quan niệm cho rằng kinh tế tư nhân là kinh tế tư bản tư nhân, trong khi cho tới nay chúng ta vẫn chưa xác định được tiêu chí thế nào là tư bản tư nhân, nên còn gây ra mặc cảm đối với các chủ doanh nghiệp tư nhân. Hai là, phát triển kinh tế tư nhân với vấn đề bóc lột và bị bóc lột. Mục tiêu của Đảng Cộng sản là xây dựng một chế độ xã hội ấm no, công bằng, văn minh, không có người bóc lột người mà như Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tổng kết là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là mục tiêu bất di bất dịch, cho cả trước đây, hiện nay và sau này. Trước đây, do những hạn chế về lý‎ luận và nắm bắt thực tiễn, với tư duy đơn giản, chúng ta cứ nghĩ rằng cứ xóa bỏ tư nhân là xóa được bóc lột, xây dựng kinh tế chỉ có quốc doanh, tập thể là không có bóc lột và như vậy sẽ xây dựng thành công CNXH, do đó đảng viên cộng sản không được làm kinh tế tư nhân vì như vậy là đi vào con đường bóc lột. Hoặc tồn tại tư duy đơn giản là hễ làm chủ tư nhân là bóc lột, làm thuê là bị bóc lột. Những cách suy nghĩ và tư duy máy móc như thế không phải không còn ở một số người hiện nay. Em xin được trình bày một vài hiện tượng thực tiễn sau đây: -         Hiện nay, trên đường phố các thành thị, đặc biệt là ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có rất nhiều người mong chờ để được “bóc lột”, tức là được làm thuê cho một ông chủ nào đó và nếu được thuê làm việc gì thì họ cũng hết sức cảm ơn người đã “bóc lột” mình và họ sẵn sàng, tự nguyện để “bị bóc lột”. -         Xuất khẩu lao động là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta đưa lao động đi làm thuê ở nước ngoài để có thu nhập cao hơn nhiều lần ở trong nước, góp phần xóa đói giảm nghèo, thực chất là đi làm thuê, mà lại làm thuê cho tư bản. Không phải bất cứ ai cũng có thể đi làm thuê cho tư bản nếu không có trình độ, năng lực, tay nghề và đóng tiền hàng chục triệu đồng để được đi xuất khẩu lao động, để chịu “bị bóc lột”. -         Hiện nay ở nước ta đã hình thành các công ty thuộc các thành phần kinh tế, trong hoạt động thường làm thuê cho nhau. Các công ty nhà nước làm thuê cho nhau, các công ty tư nhân làm thuê cho nhau, công ty tư nhân làm thuê cho công ty Nhà nước và ngược lại. Khi nhận được công việc làm thuê, các công ty lại thuê người khác làm việc cho mình hoặc đi làm thuê tiếp, phải chăng là họ bóc lột lẫn nhau hay đó là sự phân công, hợp tác mà trước đây C.Mác đã phân tích rất sâu trong Bộ Tư bản. Hiện nay trong nông thôn nước ta sau khi chuyển đổi hợp tác xã đã hình thành các tổ dịch vụ, có thể của tập thể hoặc của tư nhân, họ đi làm thuê cho các hộ nông dân tự chủ, nông dân là chủ, có khi cũng chẳng có giàu có gì, còn người hoạt động dịch vụ là làm thuê, có riêng máy kéo, không chỉ một chiếc mà dăm ba chiếc, phải thuê lao động để đi làm thuê cho các hộ nông dân. Hoặc hộ nông dân thuê lao động làm ruộng cho mình để mình đi làm thuê nơi khác có thu nhập cao hơn. Như vậy thì ai bóc lột ai? Thật khó trả lời một cách rành rọt. Ba là, vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân. Vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân đã được đặt ra và tranh luận từ những năm đầu của thập niên 90 thế kỷ trước, tới Hội nghị Trung ương 3 khóa X đã thảo luận và đã thông qua “Quy định đảng viên làm kinh tế tư nhân” theo tinh thần bảo đảm tuân thủ đầy đủ quy định của Điều lệ Đảng, nghị quyết, quyết định của Đảng và các quy định của pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước, đồng thời phải nêu cao tính tiền phong gương mẫu của người đảng viên trong mọi lĩnh vực, để vừa phát huy được khả năng làm kinh tế của đảng viên, vừa giữ được tư cách, phẩm chất của đảng viên, giữ vững bản chất cách mạng của Đảng. Quy định này cho thấy Đảng ta rất thận trọng đối với vấn đề hết sức nhạy cảm này, đã mở đường cho đảng viên ra kinh doanh hợp pháp. Trước đây, có nhiều đảng viên đã cống hiến cả tuổi trẻ và xương máu của mình cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng, chống kẻ thù xâm lược, sau khi hòa bình lập lại đã đi đầu trong phát triển kinh tế, bỏ vốn ra để lập doanh nbghiệp, bươn trải trên thương trường, có thắng, có thua, nhiều người vượt qua thử thách đã ăn nên làm ra, tạo nhiều việc làm cho xã hội, làm ra nhiều hàng hóa và dịch vụ cho đất nước, đóng góp vào ngân sách nhà nước, mở rộng thị trường trong nước và vươn ra thị trường thế giới, bản thân trở thành người giàu có, và chính họ đã góp sức vào thành công của công cuộc đổi mới của Đảng. Nhưng do những quy định cứng nhắc đảng viên không được làm kinh tế tư nhân, họ phải chọn một trong hai con đường, hoặc là ra khỏi đảng để tiếp tục kinh doanh, hoặc vẫn là đảng viên thì phải từ bỏ kinh doanh, và nhiều đảng viên là doanh nhân đã chọn con đường thứ nhất, ra khỏi Đảng để giữ lấy doanh nghiệp. Tuy không còn là đảng viên nhưng họ vẫn giữ phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm không kém những đảng viên của Đảng. Cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân chính là động lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, phát huy tiềm năng của đảng viên, xóa bỏ mặc cảm của xã hội đối với kinh tế tư nhân. Bốn là, làm giàu bằng phát triển kinh tế tư nhân và vấn đề công bằng xã hội. Mục tiêu của phát triển đất nước ta trước mắt cũng như lâu dài là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Điều đó là hiện thực. Để thực hiện mục tiêu đó thì phải huy động được mọi tiềm năng của đất nước từ con người, tài nguyên, trí tuệ, truyền thống văn hóa, điều kiện quốc tế…phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội có lợi nhất cho quốc kế dân sinh. Điều đó phụ thuộc chủ yếu vào đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước. Trước đây trong thời bao cấp, do những điều kiện lịch sử và những hạn chế chủ quan, chúng ta không khuyến khích làm giàu mà muốn xây dựng một xã hội bình đẳng, công bằng tuyệt đối theo kiểu “cào bằng”, “chia đều cái nghèo” dẫn tới một xã hội khan hiếm. Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, đã xuất hiện những doanh nhân có tài, có tâm, có tầm và trở thành những người giàu thực sự, có tài sản hàng nghìn tỷ đồng. Vừa qua các phương tiện thông tin đại chúng đã công bố danh sách 100 người giàu nhất cả nước dựa trên số cổ phiếu mà họ nắm giữ, tuy tiêu chí này còn phải bàn thêm, và còn nhiều người giàu còn ẩn danh, nhưng cũng nói lên sự trỗi dậy của những người có đầu óc kinh doanh, biết làm giàu cho mình và góp phần làm giàu cho đất nước, cần được tôn vinh. Vấn đề đặt ra là, sự phân hóa giàu nghèo rõ rệt như vậy liệu có ảnh hưởng gì đến việc thực hiện mục tiêu công bằng xã hội không? Công bằng xã hội trước hết phải là công bằng về cơ hội, Đảng và Nhà nước đã cố gắng tạo mọi cơ hội cho mọi người làm ăn, còn khai thác cơ hội, tính toán chi phí cơ hội như thế nào cho có lợi hại phụ thuộc vào từng con người cụ thể, mà trình độ, năng lực của những con người trong xã hội lại rất khác nhau. Ngoài ra, còn phải kể đến yếu tố may rủi và tác động của khách quan. Như vậy, sự phân hóa giàu nghèo trong kinh tế thị trường là khách quan, Nhà nước thực hiện công bằng xã hội bằng công cụ điều tiết và chính sách xóa đói, giảm nghèo, nhưng điều tiết mà không triệt tiêu động lực làm giàu; xóa đói, giảm nghèo mà không tạo nên tâm lý‎ ỷ lại, dựa dẫm, sinh ra lười biếng. Có như vậy mới đảm bảo được công bằng xã hội. Năm là, về mối quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế tư nhân. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước vừa đóng vai trò chủ thể quản lý‎ nền kinh tế thị trường, trong đó có khu vực kinh tế tư nhân, đồng thời Nhà nước cũng là đối tác của kinh tế tư nhân. Với tư cách là chủ thể quản lý‎ đối với kinh tế tư nhân, Nhà nước ban hành luật pháp; ban hành và thực hiện cơ chế quản lý‎ phù hợp với cơ chế thị trường và luật pháp quốc tế, hỗ trợ (không phải là bảo hộ) các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ và hộ nông dân; kiểm tra, kiểm soát mọi hoạt động kinh tế của các thành phần kinh tế; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân vươn ra thị trường thế giới. Trong mối quan hệ này, Nhà nước là chủ thể quản lý‎ nhưng phải tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, phục vụ nhân dân, những tổ chức và cá nhân đại diện cho chủ thể quản lý‎ không được gây phiền hà cho doanh nhân để hưởng lợi bất chính. Với tư cách là đối tác của kinh tế tư nhân, nhà nước đóng hai vai trò, vừa là khách hàng, hộ tiêu dùng lớn của kinh tế tư nhân (trước đây chỉ có doanh nghiệp nhà nước), vừa là đối tác liên doanh, hợp tác thông qua các doanh nghiệp nhà nước. Trong mối quan hệ đối tác, kinh doanh theo cơ chế thị trường, quan hệ giữa các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp nhà nước là quan hệ bình đẳng trước pháp luật, quan hệ hợp tác và cạnh tranh cùng có lợi. Sáu là, kinh tế tư nhân với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một bài toán khó, chưa có lời giải có sức thuyết phục. Nước ta thực hiện đường lối đổi mới, thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, phát triển kinh tế thị trường trong điều kiện mở cửa, hội nhập, định hướng đi lên CNXH, vì thế phải thay đổi tư duy và quan niệm về mô hình CNXH, đó là CNXH trong điều kiện kinh tế tư nhân không ngừng phát triển, mở rộng thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Chính từ thực tiễn đó, nhất quán thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, Đảng ta đã khẳng định quan điểm phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng đồng thời trong văn kiện của Đảng cũng thể hiện quan điểm “Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần về kinh tế…”, “Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản”; và “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc” . Nhiều người băn khoăn rằng hết thời kỳ quá độ có còn nền kinh tế nhiều thành phần không. Thực ra, cho tới nay khó mà đoán chắc bao giờ hết thời kỳ quá độ, bao giờ xây dựng thành công CNXH ở nước ta, và trên thực tế tỷ trọng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày một giảm, Chính phủ lại đang đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, kể cả những tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước lớn. Đây là những vấn đề lớn và phức tạp cần được tiếp tục nghiên cứu, nhưng trên thực tế đã dẫn tới tình hình: “không ít cán bộ, đảng viên còn băn khoăn về cơ sở lý‎ luận của một số vấn đề về đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Văn kiện của Đảng, qua các kỳ đại hội đều nói rằng, con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng sáng tỏ nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh ”nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mới dừng lại ở những nét khái quát chung, còn không ít vấn đề cụ thể đặt ra từ thực tiễn chưa có lời giải đáp hoặc giải đáp chưa đủ sức thuyết phục”. Văn kiện Đại hội X của Đảng đã đề ra nhiệm vụ: “Tiếp tục đổi mới tư duy, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý‎ luận, kịp thời làm sáng tỏ hơn những vấn đề bức xúc về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tất cả những điều đó phản ánh thực tế khách quan của những bất cập về l‎ý luận xây dựng CNXH ở nước ta, đòi hỏi sự tập trung cao độ để nghiên cứu làm sáng tỏ. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải tạo ra sự nhất trí trong Đảng, sự thông suốt trong đảng viên và sự đồng thuận xã hội, nhằm tạo niềm tin và sự yên tâm thực sự đối với các nhà đầu tư tư nhân và các doanh nhân có tiềm lực bỏ vốn ra kinh doanh nhằm mục tiêu ích nước, lợi nhà, phục vụ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đó chính là mục tiêu của CNXH mà chúng ta đang ra sức xây dựng. 2.Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trong thời kì mới. Báo cáo Chính trị tại Đại hội X của Đảng xác định đảng viên được làm kinh tế tư nhân. Điều này phù hợp với nhu cầu thực tế khách quan, hợp lòng dân, tạo điều kiện để đảng viên phát huy vai trò tiên phong của Đảng viên. Để thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam từ nay đến năm 2010, Đảng xác định: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Vì vậy, các cấp ủy phải tăng cường lãnh đạo kinh tế, thông qua hoạt động kinh tế mà “đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”. Do đó, đảng viên phải gương mẫu, phải đi tiên phong trong mọi lĩnh vực xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm cả phát triển thành phần kinh tế tư nhân theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, kinh tế tư nhân là một bộ phận trong kinh tế nhiều thành phần, tỷ trọng cán bộ, công nhân viên, người lao động hoạt động trong khu vực này là không nhỏ. Do tính tự phát tư bản chủ nghĩa của thành phần kinh tế này nên nó chứa đựng nhiều nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, việc lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng đối với thành phần kinh tế tư nhân là rất cần thiết. Do đó, vai trò lãnh đạo của các cơ sở đảng và tính tiên phong, gương mẫu của các đảng viên hoạt động trong khu vực kinh tế này là rất quan trọng bảo đảm cho thành phần kinh tế tư nhân phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân ở nước ta đã được đề cập đến từ khi đổi mới, nhưng cho đến Đại hội IX của Đảng vấn đề này vẫn còn bị bỏ ngỏ. Trong các điều quy định đảng viên không được làm vẫn xác định đảng viên không được làm kinh tế tư bản tư nhân. Một trong những nguyên nhân là do trong Điều lệ của Đảng quy định: đảng viên là những người có lao động không bóc lột. Do đó, vấn đề đặt ra là phải có nhận thức đúng đắn về vấn đề giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bóc lột kiểu tư bản chủ nghĩa. Đối với khu vực kinh tế tư bản tư nhân việc quan niệm thế nào là bóc lột cũng cần có nhận thức mới cho phù hợp với thực tế cuộc sống. Chúng ta biết rằng, bất kỳ loại hình sản xuất, kinh doanh nào trong nền kinh tế thị trường ở nước ta cũng đều phải có lợi nhuận (trừ các doanh nghiệp công ích phi lợi nhuận). Tuy nhiên, lợi nhuận ở đây được hiểu là phần giá trị dôi ra ngoài phần giá trị tất yếu (bao gồm cả phần lao động quản lý của chủ doanh nghiệp), còn quan hệ bóc lột hay không, bóc lột nhiều hay ít là phụ thuộc vào phần dôi ra ngoài phần giá trị tất yếu của toàn bộ doanh nghiệp và phần dôi ra đó được sử dụng thế nào? Việc xác định mức độ bóc lột là vấn đề không khó khăn. Quan hệ cung cầu trên thị trường lao động, việc chấp nhận mức tiền công giữa người lao động và người sử dụng lao động (trên cơ sở bộ Luật Lao động và chính sách tiền lương của Nhà nước trong từng giai đoạn, từng lĩnh vực) có thể là thước đo về tính hợp lý của quan hệ trao đổi, có thể coi đó là mức độ chấp nhận được của tất cả các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh, bao gồm cả doanh nghiệp tư bản tư nhân và doanh nghiệp tư bản tư nhân do đảng viên là chủ sở hữu. Do đó, đảng viên của Đảng hoàn toàn có thể “làm kinh tế tư nhân” mà không vi phạm Điều lệ Đảng và quy định cụ thể của Ban Chấp hành Trung ương khi các mối liên hệ về lợi ích giữa chủ và người lao động được thể chế hóa một cách cụ thể, trên cơ sở đó mà thực hiện phân phối lợi nhuận (giá trị thặng dư) hợp lý, bảo đảm hài hòa giữa lợi ích của mình, của người lao động làm công ăn lương và của xã hội. Mặt khác, cần thấy rằng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang hướng tất cả các thành phần kinh tế đều phải kinh doanh có lãi (có lợi nhuận), có năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao, nhất là trên thương trường khu vực và quốc tế. Đồng thời, thông qua điều hành vĩ mô của Nhà nước để bảo đảm cho sự phân phối sản phẩm thặng dư - lợi nhuận ngày càng hợp lý hợp trên phạm vi toàn xã hội và trong từng doanh nghiệp. Để quan điểm đảng viên làm kinh tế tư nhân của Đảng sớm đi vào đời sống thực tế, thiết nghĩ chúng ta cần quan tâm đến một số giải pháp chủ yếu sau đây: Một là, đầu tư vào công tác nghiên cứu đổi mới lý luận, nhất là lý luận kinh tế chính trị, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; làm rõ các hình thức biểu hiện vụ thể của giá trị thặng dư, các hình thức lợi nhuận và quan hệ lợi ích giữa chủ thể kinh doanh với chủ thể lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Hai là, có chính sách khuyến khích các chủ thể kinh tế tư nhân là đảng viên phát triển các hình thức sản xuất, kinh doanh đa dạng, bao gồm cả kinh doanh tư bản tư nhân theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, có chủ trương phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp kinh tế tư nhân, trước hết là những người lao động và chủ doanh nghiệp thể hiện được vai trò tiền phong trong xây dựng, phát triển doanh nghiệp tư nhân theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng trong các loại hình doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân. Bốn là, xác định đảng viên không chỉ có vai trò tiền phong trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh với tư cách là chủ thể lao động, mà phải tiền phong cả trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh với tư cách là chủ doanh nghiệp tư nhân theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau hơn một thập kỷ đổi mới và mở cửa, Việt Nam hiện có mức độ hội nhập kinh tế quốc tế cao hơn, nhưng cũng như tại hầu hết các nước đang phát triển, thế và lực của kinh tế tư nhân Việt Nam vẫn còn quá nhỏ bé so với các nước phát triển. Không nhận thức được mình, chúng ta đặt ra quá nhiều mục tiêu, quá nhiều tham vọng cho phát triển kinh tế. Tất cả các sai lầm của chúng ta là ở chỗ chúng ta tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa với tư cách là một kẻ sĩ diện, một kẻ cần được thế giới đánh giá và công nhận giá trị nào đó. Chúng ta cần nhìn nhận vấn đề toàn cầu hóa và hội nhập với quan điểm thực tế hơn. Nếu chúng ta xây dựng một nền kinh tế, xây dựng những chỉ tiêu để tạo ra chỗ đứng chính trị ở trong đời sống xã hội thì chúng ta luôn luôn sai lầm. Chúng ta phát triển kinh tế vì con người, năng lực nhân dân đến đâu thì chúng ta xây dựng sự phát triển đến đấy. Không có sự thất bại, sự lép vế nào không đẻ ra sự nhận thức về tính giới hạn. Chúng ta cần có thái độ bình thản để hội nhập và không hội nhập vì các chỉ tiêu. Chúng ta tham gia tiến trình toàn cầu hóa với tâm lý phải thắng thì chúng ta sẽ thua, nhưng nếu chúng ta hội nhập với thế giới để chúng ta sống thì chúng ta sẽ sống. Kinh tế sinh ra để phục vụ sự sống của con người chứ không phải phục vụ sự thăng tiến, sự hãnh diện của các nhà chính trị. Chúng ta đổi mới, chúng ta mở cửa, chúng ta sống vì chúng ta chứ không vì bất kỳ ai và bất kỳ cái gì khác. Chúng ta phải nhận thức lại chính chúng ta, trước hết phải định nghĩa lại Việt Nam. Việt Nam không phải là một nước lớn, Việt Nam chỉ là một nước trung bình xét theo cả quan điểm kinh tế, dân số, năng lực sáng tạo lẫn năng lực cạnh tranh. Một quốc gia bình thường thì phải sống theo quy luật bình thường, tức là theo quy luật của những nước nhỏ. Phải nhận thức được điều này. Cũng có những nước rất bé như Bỉ, như Hà Lan... vẫn là những cường quốc kinh tế, nhưng giai đoạn mà người ta có thể trở thành một người khổng lồ trên một hòn đất sét con con do sự sáng tạo của ý chí thực dân đã qua rồi. Hiện Việt Nam đang ở giai đoạn thông thường, hòa bình của nhân loại. Việc nhận thức đúng mình và vị trí của mình trong cộng đồng quốc tế giúp chúng ta xác lập thái độ khi hội nhập. Nếu chúng ta hội nhập để thắng thì vô vọng. Việt Nam phải mất hàng trăm năm nữa để có thể nhận thức được làm thế nào để thắng. Chúng ta hội nhập, đổi mới để sống. Chúng ta phải quay trở lại đời sống thông thường của con người và xác lập thái độ bình thường khi hội nhập, mục tiêu của chúng ta chỉ giản dị như vậy. Mục tiêu của mọi sự phát triển là đời sống nhân dân, chứ không phải là sự hãnh diện của các nhà chính trị. Không tiêu hao năng lượng có ích của mình cho những mục tiêu vô ích, đó là sự sáng suốt của con người hay là sự sáng suốt của một quốc gia. Chúng ta phải đi bằng đôi chân của mình chứ không phải bay bằng trí tưởng tượng của người khác. Không phải đi tắt đón đầu để theo đuổi những mục tiêu không tưởng kiểu như muốn có ngay được nền kinh tế tri thức tại một nước còn quá lạc hậu như Việt Nam. Không có cách gì để đi tắt đón đầu cả, đó chỉ là sự tự huyễn hoặc mình và lừa bịp người. Nếu chúng ta mưu cầu hạnh phúc của nhân dân thì chúng ta không phải đi tắt đón đầu, không cần phải tìm những biện pháp cơ hội chủ nghĩa mà phải rèn luyện nhân dân chúng ta có những năng lực để cạnh tranh không lép vế, để sáng tạo ra những giá trị gia tăng ở mức độ phục vụ được sự tăng trưởng đời sống kinh tế, đời sống tinh thần hay là hạnh phúc. Nếu chúng ta hội nhập với một thái độ tỉnh táo như vậy thì người Việt Nam có cơ may trở thành một dân tộc hạnh phúc. Tạo ra một cuộc sống tương đối đầy đủ là để có một không gian vật chất đủ rộng để nhân cách, tính cách và năng lực của con người phát triển một cách tự nhiên. Bởi vì, cường điệu xu hướng vật chất lên thì con người sẽ méo mó và không thể đứng vững trước những thách thức và rủi ro có thật của đời sống. C.KẾT LUẬN Trên thực tế quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo thúc đẩy một lĩnh vực hệ trọng nhất trong lãnh đạo và quản lí kinh tế - lĩnh vực thể chế hoá, đổi mới tạo lập và hoàn thiện cơ sở hợp hiến hợp pháp cho hoạt động của các thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp. Thể chế hoá như vậy là chức năng, là hoạt động thực tiễn cơ bản nhất của cơ quan lãnh đạo quản lí kinh tế, là việc đưa chính sách của Đảng vào cuộc sống, đồng thời qua đó tổng kết hoàn thiện chính sách. Đã có nhiều hoạt động lí luận gắn liền và phục vụ thể chế hoá. Thể chế hoá là vấn đề cơ bản để xây dựng nhà nước pháp quyền và tạo đồng bộ nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mà đến nay ta đang ở bước đầu. Dẫu sao thành quả đạt được cũng rất quan trọng – kinh tế tư nhân và kinh tế thị trường có vai trò hợp hiến hợp pháp. Hệ thống pháp luật mới được ban hành và liên tục hoàn thiện đã cổ vũ và bảo đảm pháp lí để mọi người kinh doanh tư nhân ngày càng yên tâm phát triển. Đáng lưu ý các năm từ sau Đại hội VIII đã liên tục có diễn đàn hợp tác đối thoại cởi mở giữa lãnh đạo và cơ quan nhà nước hữu quan với giới kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế mà chủ đề luôn luôn là xây dựng và thực thi thể chế kinh tế và kinh doanh. Nhờ thành quả ban hành và thực thi thể chế như vậy mới có thể có bước phát triển liên tục của kinh tế tư nhân mấy chục năm qua và bước phát triển đột biến từ năm 2002 đến nay – ngay trong tình hình còn có những ý kiến băn khoăn lo ngại. Đại hội IX về mặt phát triển kinh tế tư nhân đã đạt được bước mới về hoàn thiện chính sách khẳng định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN trong đó kinh tế tư nhân là bộ phận quan trọng. Xác định quan hệ giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác đấu tranh trong nội bộ nhân dân cùng nhau đi lên CNXH dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hội nghị lần thứ V của ban chấp hành trung ương, trong nghị quyết về kinh tế tư nhân đã xác định 2 điều quan trọng : xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở pháp luật và tinh thần tương thân tương ái, những Đảng viên làm chủ doanh nghiệp của tư nhân chấp hành tốt điều lệ của Đảng và pháp luật, chính sách của nhà nước thì vẫn là Đảng viên của Đảng. Nhìn tổng quát lại có thể thấy rõ trong công cuộc đổi mới của đất nước ta nói chung và nói riêng trong bước mở đường và phát triển kinh tế tư nhân đã diễn ra sự tìm tòi đổi mới mang tính nhân dân, tính xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí của Nhà nước đã có vai trò mở đường, khuyến khích, định hướng và điều tiết rất rõ. Bản thân cuộc tìm tòi đổi mới đó bao hàm quá trình đổi mới tư duy lí luận gắn với thực tiễn xây dựng và hoàn thiện chính sách, thể chế, từ đó trải qua mấy chục năm đã thêm chất liệu và kinh nghiệm cụ thể phong phú để tổng kết và giải đáp những vấn đề lí luận đặt ra.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10755.doc
Tài liệu liên quan