Kiến trúc thượng tầng bảo vệ cơ sở hạ tầng sinh ra nó, tương đương với việc bảo vệ hình thái kinh tế xã hội. Ở đây quan hệ sản xuất là khung sườn còn kiến trúc thượng tầng là phần thịt.
Sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội mang tính lịch sử xã hội trong từng thời kỳ.
Quá trình phát triển tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa ở sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Những lực lượng sản xuất được tạo ra bằng lực lượng thực tiễn của con người, song không phải con người làm ra theo ý muốn chủ quan, Bản thân năng lực thực tiễn của con người cũng bị quy định bởi nhiều điều kiện khách quan nhất định. Người talàm ra lực lượng sản xuất của mình dựa trên những lực lượng sản xuất đã đạt được một hình thái kinh doanh xã hội đã có sẵn do thế hệ trước tạo ra, Chính tính chất và trình độ lực lượng sản xuất đã quy định một cách khách quan tính chất và trình độ quan hệ sản xuất, do đó, xét đến cùng lực lượng sản xuất quyết định quá trình vận động và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội như quá trình lịch sử tự nhiên.
Trong các quy luật khách quan chi phối vận động phát triển của các hình thái kinh tế -xã hội thì quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là có vai trò quyết định nhất. Thể hiện tính gián đoạn trong sự phát triển lịch sử. Những quan hệ mới, cao hơn và hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn ra đời. Quy luật này là khuynh hướng tìm đường cho mình trong sự phát triển và thay thế các hình thái kinh tế xã hội.
17 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2126 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích luận điểm của Mác "Tôi coi sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội một quá trình lịch sử tự nhiên", để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài: phân tích luận điểm của Mác "Tôi coi sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội một quá trình lịch sử tự nhiên"
Bài làm
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội là nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử và cũng là một trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác. Học thuyết Mác đã vạch rõ những quy luật cơ bản của vận động xã hội, vạch ra phương pháp duy nhất khoa học để giải thích lịch sử. Bằng sự kế thừa có chọn lọc tất cả những thành quả về triết học xã hội của các bậc tiền bối, bằng những công trình nghiên cứu tỷ mỉ về quá trình lịch sử loài người. Mác đã cho rằng "Tôi coi sự phát triển của hình thái kinh tế -xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên".
Luận điểm trên của Mác đã phủ nhận những cái sai của sự giải thích duy tâm về lịch sử xã hội.
Trước khi có chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa duy tâm đã giữ địa vị thống trị trong việc giải thích lịch sử. Không những các nhà triết học duy tâm, mà ngay cả các nhà tư tưởng tiên tiến trước Mác như các nhà tư tưởng ANh, Pháp thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII hoặc Pơ-bach, nhà duy vật Đức thế kỷ XIX cũng đứng trên lập trường duy tâm để giải thích các hiện tượng sinh hoạt xã hội và hiện tượng lịch sử xã hội.
Người ta đã xuất phát từ một sự thật là trong giới tự nhiên thì những lực lượng tự nhiên hoạt động tự động không có ý thức, còn trong xã hội, nhân tố hoạt động là những người có lý tính, có ý thức và ý chí hoạt động. Căn cứ vào sự thật ấy người ta đi đến kết luận sai lầm rằng: trong giới tự nhiên thì tính quy luật tính tất nhiên thống trị, trái lại trong lịch sử xã hội thì ý chí tự do thống trị và sự thay đổi của ngày đêm , sự thay đổi của bốn mùa, sự biến hóa của khí hậu và những hiện tượng khác không phụ thuộc vào hý chí và ý chí của người ta, còn những sự kiện lịch sử thì do hoạt động tự giác và ý chí của người ta, trước hết là những nhân vật lịch sử ta cóthể thay đổi tiến trình lịch sử.
Đáng lẽ phải lấy sự phát triển của các điều kiện vx của xã hội để giải thích lịch sử, động lực của lịch sử, bản chất của con người, giải thích tư tưởng xã hội, quan điểm chính trị, chế độ chính trị… thì người ta lại đi từ ý thức của con người, giải thích tư tưởng (xã hội) và lý luận chín trị về triết học, pháp luật … để giải thích toàn bộ duy tâm về lịch sử chính là ở chỗ coi ý thức xã hội đề ra và quy định tồn tại xã hội, coi trọng tư tưởng và coi khinh lao động sản xuất vật chất là chủ yếu. Nên quan điểm duy tâm về lịch sử có những thiếu sót căn bản sau.
-Nghiên cứu đời sống xã hội và lịch sử từ động cơ tư tưởng của con người, mà không tìm xem cái gì đã gây nên và quyết định động cơ ấy.
-Chỉ phản ảnh được những hiện tượng tiêng rẽ của quá trình lịch sử, thu góp tài liệu lẻ tẻ của sự thật, không thấy được xã hội cũng vận động theo những quy luật khách quan của nó độc lập với ý thức và ý chí chủ quan con người, không thể tìm ra những quy luật phổ biến chi phối hoạt động và phát triển của xã hội.
-Quy luật xã hội thành lịch sử của các vĩ nhân, không thấy được vai trò quyết định của quân chúng nhân dân trong lịch sử.
Ngược lại với những quan điểm trên , trong chủ nghĩa duy vật về lích sử (về xã hội) của Mác và Ăng ghen là lý luận triết học về vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, quy luật, đặc thù và động lực phát triển xã hội, nguyên lý liên hệ mặt này mặt khác, của đời sống xã hội. Nghiên cứu xã hội là một cơ thể hoàn chỉnh, đưa ra tiêu chuẩn phân tích đánh giá sự kiện trong đời sống xã hội, làm rõ cái gì là xuất phát, là cơ sở còn cái gì là phát sinh để hiểu rõ mối quan hệ chằng chịt phức tạp của các sự kiện lịch sử.
Vấn đề triết học cơ bản trong xã hội là tồn tại xã hội, phạm trù đưa ra khả năng xem xét xã hội như một hình thái cao nhất của sự vận động của vật chất - hình thái xã hội từ đó xem xét khác quan ý thức xã hội. Vai trò cá nhân trong lịch sử được cắt nghĩa từ nguồn gốc vật chất trong tồn tại xã hội.
Giải quyết một cách khoa học nguồn gốc vật chất của các hiện tượng đời sống tinh thần của xã hội thì lịch sử không còn là một đống các sự kiện ngẫu nhiên, hỗn độn hoặc là sản phẩm của sự tự do tuỳ ý là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Để có thể tồn tại và phát triển, con người phải sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu của mình. Quá trình sản xuất và kết quả đạt được luôn nảy sinh những nhu cầu mới, dẫn đến sự phát triển không ngừng của nền sản xuất xã hội, trong quá trình đó lực lượng sản xuất do thế hệ trước tạo ra trở thành tiền đề cho hoạt động sản xuất mới của thế hệ sau, làm thành mối liên hệ giữa các thế hệ con người, hình thành lịch sử nhân loại.
Xã hội là một cộng đồng người với những quan hệ xã hội của họ. Tổng thể những quan hệ xã hội tạo thành một xã hội cụ thể nhất định. Những quan hệ xã hội đó ngày càng trở nên phong phú và không ngừng biến đổi trong tiến trình lịch sử từ tổng thể các quan hệ xã hội "quy" các quan hệ tư tưởng về các quan hệ vật chất, từ các quan hệ vật chất rút ra các quan hệ sản xuất đó là các quan hệ cơ bản đầu tiên và quy định các quan hệ sản xuất khác. Những quan hệ sản xuất hình thành một cách tất yếu, độc lập với ý chí của con người thích ứng với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và sự biến đổi của quan hệ sản xuất là do lực lượng sản xuất quy định.
Phép biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vạch ra quy luật khách quan của sự phát triển xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên. "Trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình, con người ta có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn con người của họ-tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp nhất định với một lực lượng sản xuất có trình độ phát triển nhất định. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị, tương ứng với cơ sở thực tại đó thì có những hình thái ý thức xã hội nhất định. Phương pháp sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại xã hội của họ, trái lại, chính sự tồn tại xã hội của họ quyết định thức của họ. Tại một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó -mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất, khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội (C.Mác-Ph.awng ghen: tuyển tập, tập II, NXB sự thật Hà Nội 1981 trang 637-638).
Đồng thời với việc vạch ra vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, còn có vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, và mối quan hệ giữa vĩ nhân với quần chúng nhân dân.
Xét đến quy luật xã hội và sự hoạt động có ý thức của con người thì trong hành động một cách có suy nghĩ theo đuổi những mục đích nhất định, do những tư tưởng này hay tư tưởng khác hướng dẫn. Vẫn luôn luôn sống trong những điều kiện khách quan nhất định, trong vô vàn mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, giữa con người với tự nhiên thì quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản. Những điều kiện và quan hệ đó là khách quan không phụthuộc vào trình độ nhất định của lực lượng sản xuất.
Sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội cũng là cơ sở của các quy luật xã hội. Chính những quan hệ sản xuất khách quan tất yếu hình thành trong quá trình sản xuất dựa trên những trình độ nhất định của lực lượng sản xuất là cơ sở nảy sinh các quan hệ khác của đời sống xã hội và chi phối mọi hoạt động xã hội của con người. Nhưng quan hệ kinh tế đó, trong xã hội có đối kháng biểu hiện về cơ cấu đối lập về lợi ích giữa các tập đoàn người, các giai cấp trong xã hội.
Kết quả và sự tác động của quy luật xã hội phụ thuộc vào những điều kiện xã hội cụ thể. Những điều kiện đó thay đổi không những từ hình thái kinh tế xã hội này đến hình thái kinh tế xã hội khác, từ nước này đến nước khác mà ở ngay trong mỗi hình thái kinh tế -xã hội và trong nước.
Tổng kết lại, học thuyết Mác -Lênin đã vạch ra nguồn gốc động lực bên trong của sự phát triển xã hội, tìm ra những nguyên nhân cơ bản của sự xuất hiện và biến đổi của những hiện tượng xã hội, đặt cơ sở khoa học cho xã hội học, nâng xã hội học lên thành một khoa học thực sự, chống lại quan điểm duy tâm về lịch sử, coi xã hội là một sự kết hợp có tính chất máy móc của nhiều cá nhân và gia đình, coi sự vận động phát triển của xã hội là do ý chí của các nhà cầm quyền chi phối, coi kỹ thuật là cái chung quyết định tính chất chế độ xã hội là tiêu chuẩn khách quan phân biệt các hình thái kinh tế - xã hội.
Sự phát triển của các hình thái kinh tế -xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Hình thái kinh tế -xã hội thuộc mỗi giai đoạn lịch sử xã hội phát triển nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Sự vận động, thay thế nhay của hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử đều do tác động của các quy luật khách quan.
Các mặt cơ bản hợp thành một hình thái kinh tế xã hội lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng, mà liên hệ biện chứng với nhau hình thành những quy luật phổ biến của xã hội.
Sản xuất vật chất xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử được biểu hiện ở một phương thức sản xuất nhất định, còn lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai nhân tố hợp thành phương thức sản xuất.
Lực lượng sản xuất biểu hiện quan hệ giữa người với giới tự nhiên, trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của loài người. Đó là kết quả của năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tác động của tự nhiên tạo ra của cải vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của loài người.
Lực lượng sản xuất bao gồm:
Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động
Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất.
Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động có công cụ lao động và những tư liệu lao động khác cần thiết cho việc chuyển bảo quản sản phẩm…
Đối tượng lao động không phải toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ có một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất, được con người sử dụng mới là đối tượng lao động trực tiếp. Con người không chỉ tìm trong giới tự nhiên những đối tượng lao động có sẵn, mà còn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao động. Sự phát triển của sản xuất có liên quan với việc đưa những đối tượng ngày càng mới hơn vào quá trình sản xuất. Điều đó hoàn toàn có tính quy luật, bởi chính những vật liệu mới mở rộng khả năng sản xuất của con người.
Tư liệu lao động là vật thể hay là phức hợp vật thể mà con người đặt giữa mình với đối tượng lao động, chúng dẫn truyền sự tích cực sự tác động của con người vào đối tượng lao động. Đối tượng lao động và tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của quá trình lao động sản xuất hợp thành tư liệu sản xuất.
Trong tư liệu lao động, công cụ lao động là hệ thống xương cốt và bắp thịt của sản xuất. Trong quá trình sản xuất công cụ lao động luôn được cải thiện. Nó là yếu đông nhất và cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất. Cùng với sự cải tiến và hoàn thiện công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất của loài người cũng được phát triển và phong phú thêm, những ngành sản xuất mới xuất hiện, sự phân công lao động phát triển.
Trình độ phát triển của tư liệu lao động mà chủ yếu là công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của loài người, là cơ sở xác định trình độ phát triển của sản xuất, là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế.
Đối với mỗi thế hệ mới, những tư liệu lao động do thế hệ trước để lại trở thành điểm xuất phát của sự phát triển tương lai. Vì vậy những cơ sở đó là cơ sở của sự kế tục của lịch sử.
Tư liệu lao động chỉ trở thành hiện tượng tích cực cải biến đối tượng lao động khi chúng kết hợp với trí tuệ và kinh nghiệm của mình đã chế tạo ra tư liệu kinh doanh và sử dụng nó để thực hiện sản xuất.
Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến đâu, nhưng nếu tách khỏi ngân sách lao động thì cũng không thể phát huy được tác dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội Lênin viết: "Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là công nhân, là người lao động" (VI Lênin: Toàn tập trang 38.NXB tiến bộ, M… 1997 trang 130).
Giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất có sự tác động biện chứng. Sự hoạt động của tư liệu lao động phụ thuộc vào trí thông minh, sự hiểu biết, kinh nghiệm của con người. Đồng thời bản thân những phẩm chất của con người, những kinh nghiệm và thói quen của họ đều phụ thuộc và tư liệu sản xuất hiện có, phụ thuộc vào chỗ họ sử dụng những tư liệu lao động nào. Không có đại công nghiệp cơ khí thì không thể có người công nhân hiện đại. Sự phụ thuộc về trình độ, kinh nghiệm, thói quen của người sản xuất vàa kỹ thuật sản xuất là một trong những biểu hiện sự phụ thuộc của nhân tố chủ quan vào nhân tố vật chất sản xuất. Hơn nữa, con người không chỉ sử dụng những công cụ hiện có, mà còn sáng chế ra những tư liệu lao động mới. Những tư liệu lao động này là lực lượng vật chất của tri thức con người. Những tri thức khoa học, những kinh nghiệm thói quen của con người đều cần thiết để hoàn thiện kỹ thuật, phương pháp sản xuất. Như vậy, sự phát triển của lực lượng sản xuất là sự phát triển của tư liệu lao động thích ứng với bản thân con người, với sự phát triển văn hoá khoa học kỹ thuật của họ.
Năng xuất lao động xã hội là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đồng thời xét đến cùng nó là nhân tố quan trọng nhất cho sự thắng lợi của một trật tự xã hội mới.
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đã tạo ra bước nhayr vọt lớn trong lực lượng sản xuất. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Thực chất của cuộc cách mạng đó là ở chỗ nó mở ra kỷ nguyên mới của sản xuất tự động hoá với việc phát triển và ứng dụng điều khiển học và vô tuyến điện tử. Khoa học trở thành điểm xuất phát cho những ngành sản xuất mới, kết hợp khoa học kỹ thuật thành một thể thống nhất, đưa đến những phương pháp công nghệ mới đem lại hiệu quả cao trong sản xuất, phát hiện và đề ra hàng loạt những biện pháp khai thác các nguồn năng lượng mới, chế tạo những vật liệu mới đã có tác dụng mà trước kia loài người chưa biết tới, tạo ra sự thay đổi trong chức năng người sản xuất. Con người không còn khai thác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật mà chủ yếu là sáng tạo và điều khiển quá trình đó một cách tự động, tri thức khoa học trở thành một tất yếu trong hoạt động của người sản xuất thay cho thói quen và kinh nghiệm trong trường tri thức khoa học được vật chất hoá, được kết tinh vào mọi nhân tố của lực lượng sản xuất, từ đối tượng lao động, tư liệu kỹ thuật, phương pháp công nghệ đến tri thức của người lao động "khoa học hoá sản xuất".
Do khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp mà thành phần người cấu thành lực lượng sản xuất cũng thay đổi. Người lao động trong lực lượng sản xuất không chỉ bao gồm lao động chân tay mà còn bao gồm cả kỹ thuật viên, kỹ sư và những cán bộ khoa học phục vụ trực tiếp quá trình sản xuất.
Tiếp đến là quan hệ quan hệ sản xuất, thể hiện mối quan hệ giữa người và trong quá trình sản xuất được gọi là quan hệ sản xuất.
Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội. Tính chất của quan hệ sản xuất được biểu hiện ở chỗ tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người.
Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế xã hội. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội nhất ssịnh.
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau đây: Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Quan hệ về tổ chức quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau trong đó quan hệ sở hữuvề tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả các quan hệ khác. Bản chất của bất kỳ quan hệ nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào?
Có hai hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, sở hữu tư nhân và sở hữu xã hộ. Những hình thức sở hữu đó là những quan hệ kinh tế hiện thực giữa người với người trong xã hội.
Đương nhiê để cho sở hữu về tư liệu sản xuất không trở thành "vô chủ" có chính sách và cơ chế rõ ràng để xác định chủ thể sở hữu và sử dụng đối với những tư liệu sản xuất nhất định.
Trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối có vai trò quan trọng. Những quan hệ này có thể góp phần củng cố quan hệ sản xuất cũng có thể làm biến dạng quan hệ sản xuất. Nếu cần đánh giá và coi trọng các quan hệ này một cách đúng đắn.
Các hệ thống quan hệ sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử đều tồn tại trong một phương thức sản xuất nhất định. Hệ thống quan hệ sản xuất thống trị trong một hình thái kinh tế xã hội quyết định tính chất và bộ mặt của hình thái kinh tế xã hội ấy. Vì vậy, khi nghiên cứu xem xét tính chất của một hình thái xã hội nào thì không thể chỉ nhìn ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà còn xét đến tính chất của các quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ với nhau đó là quy luật về sự phù hợp của chúng lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại không tác rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật xã hội phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật này vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của quan hệ sản xuất vào sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đến lượt mình quan hệ sản xuất tác động trở lại với quan hệ sản xuất.
Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất: tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản xuất và của lao động. Nó thể hiện tính chất của tư liệu sản xuất và của lao động. Nó thể hiện tính chất của tư liệu sản xuất và sử dụng công cụ thủ công và tính chất của lao động là lao động riêng lẻ. Nhưng công cụ sản xuất như búa, rìu, cày, bừa… do một người sử dụng để sản xuất có tính chất cá nhân. Khi máy móc ra đời đòi hỏi phải có nhiều người mới sử dụng được, để làm ra một sản phẩm cần phải có sự hợp tác của nhiều người mỗi người làm một bộ phận công việc mới hoàn thành được sản phẩm ấy thì lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá.
Trình độ của lực lượng sản xuất là trình độ kinh nghiệm, kỹ năng lao động của người lao động, quy mô sản xuất trình độ phân công lao động xã hội .. trình độ lực lượng sản xuất càng cao thì phân công lao động càng tỉ mỉ. Trình độ phát triển của phân công lao động thể hiện rõ ràng nhất trình độ của các lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổ, phát triển được quyết định bởi lực lượng sản xuất.
Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người luôn luôn tìm cách cải tiến, hoàn thiện công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động và chế tạo ra những công cụ mới tinh xảo hơn. Cùng với sự biến đổi và phát triển của công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quan lao động, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ. Lực lượng sản xuất trở thành yếu tố tương đối ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó. Mối quan hệ nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức, hình thức phụ thuộc vào nội dung, nội dung thay đổi trước sau đó hình thức mới biến đổi theo và hình thức cũng tác động lại nội dung.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình hình thành và biến đổi phù hợp với tính chất và trìn độ của lực lượng sản xuất làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Nhưng lực lượng sản xuất phát triển nhanh, còn quan hệ sản xuất có xu hướng tương đối ổn định. Khi lực lượng sản xuất đã phát triển lên một trình độ mới, quan hệ sản xuất không còn phù hợp với nó nữa trở thành chướng ngại vật đối với sự phát triển của nó, sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai phương thức sản xuất. Sự phát triển khách quan đó tất yếu dẫn đến việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới cungc có nghĩa là sự diệt vong của một phương thức lỗ thời và sự ra đời cuả một phương thức sản xuất mới, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản của sự phát triển xã hội loài người. Sự tác động của nó trong lịch sử làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh doanh xã hội thấp lên hình thái kinh tế xã hội khác cao hơn.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Sự hình thành, biến đổi phát triển của quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình độ lực lượng sản xuất. Nhưng quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất dựa vào đó để phát triển, nó tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất, làm lực lượng sản xuất phát triển còn ngược lại làm cho lực lượng sản xuất bị kìm hãm bị "xiềng xích"nhưng chỉ là tạm thời theo tính tất yếu khách quan, nó sẽ bị thay thế bằng kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và có thể tác động trở lại mạnh mẽ như vậy là vì nó quan hệ mục đích của sản xuất, quan hệ hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng đến thái độ của quảng đại quần chúng lao động lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội , nó tạo ta điều kiện kích thích hoặc hạn chế việc sử dụng công cụ, áp dụng khoa học, hợp tác, phân công lao động .
Quy luật về sự phù hợp này là quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội. Đưa xã hội loài người trải qua các phương thức sản xuất: công tác nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và phương thức sản xuất cộng sản tương lai, kế tiếp từ thấp lên cao nhưng không phải nước nào cũng tuần tự trải qua các phương thức sản xuất mà loài người đã biết đến.
ở mỗi phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở hạ tầng, giữ vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng bao gồm những quan điểm tư tưởng và những quan điểm tư tưởng và những thiết chế tương ứng với nó.
Cơ sỏ hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế xã hội nhất định, phản ánh chức năng xã hội của các quan hệ sản xuất với tư cách là cơ cở hạ tâng của xã hội cụ thể bao gồm những quan hệ sản xuất thống trị, những quan hệ sản xuất là tàn dư của xã hội trước và những quan hệ sản xuất là mầm mống của xã hội saau. Những đặc trưng tính chất của một cơ sở hạ tầng là do quan hệ sản xuất thống trị quy định. Trong một cơ sở hạ tầng có nhiều thành phần kinh tế, nhiều kiểu quan hệ sản xuất thì kiểu quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế và các kiểu sản xuất khác. Nó quy định và tác động đến xu hướng chung của toàn bộ đời sống kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng nào thì sẽ sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội, những chi thiết chế tương ứng và những quan điểm nội tại của thượng tầng hình thành trên kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng nhưng không tồn tịa tách rời nhau mà liên hệ tác động qua lại lẫn nhau và đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng. Song một bộ phận tổ chức chính trị pháp luật có liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng còn các yếu tố khác như triết học, nghệ thuật, tôn giáo, thì ở cơ sở hạ tầng và chỉ liên hệ gián tiếp với nó.
Kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm hệ tư tưởng và thể chế của giai cấp thống trịm tàn dư của các quan điểm xã hội trước để lại, các quan điểm mới ra đời, quan điểm tư tưởng và tổ chức của các tầng lớp trung gian. Tính chất cơ bản của kiến trúc thượng tầng trong một hình thái xã hội nhất định.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, thì kiến trúc thượng tầng cũng mang tính chất đối kháng, biểu hiện ở xung đột, quan điểm tư tưởng và đấu tranh tư tưởng của các giai cấp đối kháng. Bộ phận có quyền lực mạnh nhất là pháp luật trong kiến trúc thượng tầng. Nhờ có nhà nước mà tư tưởng nhà nước của giai cấp thống trị mới thống trị được toàn bộ đời sống xã hội.
Giai cấp nào thống trrị về mặt kinh tế và nắm vững chính quyền nhà nước thì hệ tư tưởng và những thể chế của giai cấp ấy, cũng giữ địa vị thống trị. Nó gqd tác động trực tiếp đến toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội và quy định cả tính chất, đặc trưng cơ bản của toàn bộ kiến trúc thượng tầng xã hội.
Giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Cơ sở hạ tầng quyết định tính chất của kiến trúc thượng tầng. Quýt định sự ra đời của kiến trúc thượng tầng. Do vậy sơ sở hạ tầng sẽ quyết định sự ra đời của kiên trúc thượng tầng. Sự biến đổi nàu cần có thời gian, không phải biến đổi ngay một lúc. Và thay đổi này không phải là tất cả. Nội dung của kiến trúc thượng tầng mới còn kế thừa bổ sung và thay đổi. Đây là một phủ định biện chứng không phủ định sạch trơn, khẳng định yếu tố tích cực.
(Kinh tế tồn tại trong kiến trúc thượng tầng) kiến trúc thượng tầng có tính ổn định độc lập tương đối của nó, tác động trở lại cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Kiến trúc thượng tầng có quy luật phát triển riêng tương đối độc lập với cơ sở hạ tầng. Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng, phục vụ cơ sở hạ tầng (bảo vệ giai cấp nhà nước, xã hội, pháp luật …). Kiến trúc thượng tầng lỗi thời làm trì trệ, ngăn chặn cơ sở hạ tầng mới xuất hiện.
Sự toàn vẹn của xã hội được phản ánh bằng khái niệm hình thái kinh tế xã hội trong đó có những mặt cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng . Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với những quan hệ sản xuất thích ứng và lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và với một kiến trúc thượng tầng được xây dựng lên trên những quan hệ sản xuất đó.
Lực lượng sản xuất chức năng nền tảng vật chất kỹ thuật của một nền sản xuất nhất định, nó phát triển từ thấp lên cao, bộ lộ khả năng của con người chinh phục tự nhiên. Nó quyết định một hình thái kinh tế xã hội của một đất nước, chế độ xã hội trong một giai đoạn.
Quan hệ sản xuất dựa trên một lực lượng sản xuất nhất định. Quan hệ sản xuất làm chức năng phân biệt xã hội cụ thể này với xã hội cụ thể khác. Quan hệ sản xuất biểu hiện chất của 1 hình thái xã hội và quyết định quan hệ sản xuất khác.
Kiến trúc thượng tầng bảo vệ cơ sở hạ tầng sinh ra nó, tương đương với việc bảo vệ hình thái kinh tế xã hội. ở đây quan hệ sản xuất là khung sườn còn kiến trúc thượng tầng là phần thịt.
Sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội mang tính lịch sử xã hội trong từng thời kỳ.
Quá trình phát triển tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa ở sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Những lực lượng sản xuất được tạo ra bằng lực lượng thực tiễn của con người, song không phải con người làm ra theo ý muốn chủ quan, Bản thân năng lực thực tiễn của con người cũng bị quy định bởi nhiều điều kiện khách quan nhất định. Người talàm ra lực lượng sản xuất của mình dựa trên những lực lượng sản xuất đã đạt được một hình thái kinh doanh xã hội đã có sẵn do thế hệ trước tạo ra, Chính tính chất và trình độ lực lượng sản xuất đã quy định một cách khách quan tính chất và trình độ quan hệ sản xuất, do đó, xét đến cùng lực lượng sản xuất quyết định quá trình vận động và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội như quá trình lịch sử tự nhiên.
Trong các quy luật khách quan chi phối vận động phát triển của các hình thái kinh tế -xã hội thì quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là có vai trò quyết định nhất. Thể hiện tính gián đoạn trong sự phát triển lịch sử. Những quan hệ mới, cao hơn và hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn ra đời. Quy luật này là khuynh hướng tìm đường cho mình trong sự phát triển và thay thế các hình thái kinh tế xã hội.
Tóm lại, các mặt cơ bản hợp thành mộ hình thái kinh tế xã hội: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng không tách rời nhau mà quan hệ biện chứng với nhau hình thành nên quy luật phổ biến của xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với cơ sở hạ tầng quyết định tính chất ra đời cỉa kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác. Chính do sự tác động của các quy luật khách quan đó, mà các hình thái kinh tế xã hội vận động và phát triển, thay thế nhau từ thấp đến cao trong lịch sử như một quá trình lịch sử tự nhiên không phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng chủ quan của con người.
Nghiên cứu con đường tổng quát của sự phát triển lịch sử được quy định bởi quy luật chung của sự vận động của nền sản xuất vật chất, chúng ta thấy logíc của lịch sử thế giới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28255.doc