Đề tài Phân tích nguyên tắc tập trung - Dân chủ và chỉ ra ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay

LỜI MỞ ĐẦU Tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nguyên tắc này đã được ghi nhận tại Điều 4 Hiến pháp 1959, Điều 6 Hiến pháp 1980 và Điều 6 Hiến pháp 1992 “ Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Không những ở nước ta, các nước xã hội chủ nghĩa cũng ghi nhận nguyên tắc này trong Hiến pháp. Nguyên tắc tập chung dân chủ được xác định là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, đồng thời cũng là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động quản lí hành chính. Với mục đích trau dồi kiến thức và tìm hiểu sâu hơn về nguyên tắc tập chung dân chủ trong tổ chức, hoạt động quản lí hành chính nên em xin lựa chọn đề tài số 2 : Phân tích nguyên tắc tập trung - dân chủ và chỉ ra ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Trong quá trình làm bài em đã cố gắng nhiều, song với trình độ hiểu biết vấn đề còn hạn chế nên bài viết khó thể tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy, em rất mong có thể nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía thầy cô cũng như các bạn để bài làm của em được hoàn thiện hơn. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1. Một số quan điểm hiện nay về nguyên tắc tập trung dân chủ 2. Nguyên tắc tập trung – dân chủ 2.1. Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong hệ thống nguyên tắc quản lí nhà nước xã hội chủ nghĩa 2.2. Bản chất, vị trí, của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí nhà nước xã hội chủ nghĩa 3. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước Việt Nam hiện nay 4. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay 5. Kết luận DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nxb. Lao động. 2. Trường Đại học Luật Hà nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2008. 3. Khoa luật, Đại học quốc gia Hà nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, 2005. 4. Tạp chí khoa học pháp luật số 3/2004 về nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước. 5. Trường Đại học luật Hà nội, Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. CAND, Hà Nội, 2008. 6. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật Hiến phápViệt Nam, Nxb. CAND. Hà Nội, 2008.

doc12 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2384 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích nguyên tắc tập trung - Dân chủ và chỉ ra ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nguyên tắc này đã được ghi nhận tại Điều 4 Hiến pháp 1959, Điều 6 Hiến pháp 1980 và Điều 6 Hiến pháp 1992 “…Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Không những ở nước ta, các nước xã hội chủ nghĩa cũng ghi nhận nguyên tắc này trong Hiến pháp. Nguyên tắc tập chung dân chủ được xác định là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, đồng thời cũng là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động quản lí hành chính. Với mục đích trau dồi kiến thức và tìm hiểu sâu hơn về nguyên tắc tập chung dân chủ trong tổ chức, hoạt động quản lí hành chính nên em xin lựa chọn đề tài số 2 : Phân tích nguyên tắc tập trung - dân chủ và chỉ ra ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Trong quá trình làm bài em đã cố gắng nhiều, song với trình độ hiểu biết vấn đề còn hạn chế nên bài viết khó thể tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy, em rất mong có thể nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía thầy cô cũng như các bạn để bài làm của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! NỘI DUNG 1. Một số quan điểm hiện nay về nguyên tắc tập trung dân chủ Đối với nguyên tắc tập trung dân chủ, hiện nay có ba loại ý kiến khác nhau về nguyên tắc này : Loại ý kiến thứ nhất cho rằng nội dung của nguyên tắc này là sự kết hợp hai mặt tập trung và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất kết hợp hài hòa với nhau. Nếu thiên về tập trung mà không chú trọng đến dân chủ sẽ dẫn đến tập trung quan liêu, độc đoán trái với bản chất của Nhà nước ta. Ngược lại, nếu thiên về dân chủ mà coi nhẹ tập trung sẽ dẫn đến dân chủ quá trớn làm cho hoạt động của bộ máy nhà nước kém hiệu quả. Loại ý kiến thứ hai cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ là “sự” tập trung “một cách” dân chủ. Nguyên tắc này thể hiện sự tập trung trên cơ sở dân chủ chân chính, kết hợp sáng tạo với sự thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh và tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ luật cao. Loại ý kiến thứ ba cho rằng tập trung dân chủ là việc thủ trưởng có toàn quyền quyết định các vấn đề của cơ quan trên cơ sở đóng góp ý kiến của nhân viên. Hay nói một cách khác, việc đóng góp ý kiến của cán bộ, công nhân viên, các thành viên trong cơ quan, đơn vị chỉ có ý nghĩa tham khảo và việc quyết định thuộc thẩm quyền của thủ trưởng. Như vậy, một điểm chung nhất giữa các loại ý kiến đó là nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước là sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ. Sự kết hợp giữa các mặt này là không giống nhau, điều đó phụ thuộc vào tính chất của các cơ quan, phụ thuộc vào trình độ quản lý, vào điều kiện cụ thể về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Ở nước ta, nguyên tắc tập trung dân chủ  không chỉ được áp dụng trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam mà còn được áp dụng trong tổ chức và hoạt động của một số các tổ chức chính trị - xã hội khác. Với sự đồng tình và thông suốt theo quan điểm số một, thì toàn bộ nội dung bài viết về vấn đề em xin được trình bày theo quan điểm số một. 2. Nguyên tắc tập trung – dân chủ 2.1. Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong hệ thống nguyên tắc quản lí nhà nước xã hội chủ nghĩa Bất kì xã hội và bất kỳ kiểu nhà nước nào, việc quản lí xã hội và thực hiện quyền lực nhà nước (quản lí nhà nước) đều phải có sự tập trung quyền lực. Đây là yếu tố bắt buộc và mang tính tất yếu nhằm quản lí được toàn bộ các hoạt động xã hội, thiết lập và duy trì một trật tự xã hội phù hợp với ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị xã hội. Tuy nhiên, nội dung, tính chất của sự tập chung trong các chế độ xã hội và chế độ nhà nước hoàn toàn không giống nhau. Điều đó trước hết phụ thuộc vào bản chất của chế độ xã hội, chế độ nhà nước, phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội. Trong xã hội phong kiến, quyền lực nhà nước tập trung trong tay giai cấp thống trị phong kiến mà đại diện là nhà vua; đặc biệt ở các nhà nước theo chính thể quân chủ chuyên chế, chế độ cai trị thể hiện sự độc đoán, chuyên quyền, phản dân chủ ( hoặc có dân chủ nhưng rất hạn chế ). Đến chế độ tư bản chủ nghĩa, tập chung, quan liêu là đặc trưng điển hình của việc tổ chức bộ máy nhà nước tư sản. Các cơ quan cai trị với những quan lại cai trị được bổ nhiệm từ trên xuống luôn kiêu căng, lấn át, xa rời thực tế; chỉ chịu trách nhiệm trước cấp trên mà không chịu trách nhiệm trước nhân dân và không chịu sự giám sát của nhân dân. Khi chủ nghĩa tư bản tồn tại thì không thể nói đến phát huy dân chủ mà chỉ nói đến tập trung, sự tập trung này là tập trung quan liêu, thể hiện ở việc cơ quan địa phương do trung ương bổ nhiệm và hoàn toàn lệ thuộc vào trung ương và chế độ này, nó đảm bảo cho trung ương nắm toàn bộ bộ máy nhà nước, bắt bộ máy đó hoạt động hoàn toàn theo ý muốn của mình và ưu tiên thoả mãn lợi ích của mình tạo nên sự đối lập giữa lợi ích của trung ương với lợi ích của địa phương. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã kịch liệt phê phán cơ chế tập chung quan liêu đó. Đối với bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa thì một nguyên tắc mới đã được vận dụng, đó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung của nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có biểu hiện rất phong phú và đa dạng, nhưng thể hiện một cách khái quát ở việc phân công việc, mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan nhà nước ( ở trung ương cũng như ở các cấp địa phương ), sự phân cấp về thẩm quyền ( nhiệm vụ, quyền hạn ), mối quan hệ giữa trung ương với địa phương, giữa các cấp địa phương với nhau. Trong từng cơ quan nhà nước, những vấn đề nào do tập thể quyết định; những vấn đề nào do người đứng đầu quyết định; qui định cách thức quyết định những vấn đề đó. 2.2. Bản chất, vị trí, của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí nhà nước xã hội chủ nghĩa Nguyên tắc tập trung dân chủ được thể hiện thành những quy phạm nhất định, điều chỉnh các mặt tổ chức và hoạt động chủ yếu nhất của bộ máy quản lí nhà nước, của các cơ quan quản lí nhà nước về lề lối, phương pháp làm việc của cơ quan ấy. Nó thể hiện bản chất xã hội xã hội chủ nghĩa, phản ánh những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản, nó có tính chất chung cho toàn bộ tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa chứ không riêng cho một bộ máy hành chính, nhưng riêng cho các cơ quan quản lí nhà nước nó có nội dung cụ thể, biểu hiện riêng, mang tính chất đặc thù hành chính. Nguyên tắc tập trung dân chủ xuất phát từ quan điểm Mác – Lênin, nghĩa là tư quan điểm của giai cấp công nhân, coi nhà nước về mặt tổ chức và hoạt động như là một công cụ để xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa, rồi chủ nghĩa cộng sản với ý thức cao về những quy luật phát triển của nó và những đặc điểm của đất nước. Tính chất giai cấp của nguyên tắc tập trung dân chủ nói nên sự khác nhau về cơ bản, bản chất giữa quản lí xã hội chủ nghĩa với quản lí xã hội tư bản chủ nghĩa hay quản lí của giai cấp bóc lột nói chung, thứ quản lí quan liêu “ dựa trên như Mác đã vạch rõ – sự đối kháng không thể tránh khỏi kẻ bóc lột ”, một thứ quản lí tập trung trong tay những tập đoàn bóc lột, cạnh tranh và giành xé nhau. Trong quản lí nhà nước, tập trung nhằm đảm bảo thâu tóm quyền lực nhà nước vào chủ thể quản lí để điều hành, chỉ đạo để thực hiện chính sách, pháp luật một cách thống nhất. Dân chủ hướng tới việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lí trong quá trình thực hiện chính sách pháp luật. Tập trung dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất, không bao giờ được phép cường điệu hoặc coi nhẹ bất cứ mặt nào. Vì như vậy sẽ dẫn đến những hậu quả như: chuyên quyền, độc đoán, mất dân chủ, hạn chế tự do, sáng tạo, coi thường pháp luật v.v. Tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất kết hợp hài hòa với nhau. Nếu thiên về tập trung mà không chú trọng đến dân chủ sẽ dẫn đến tập trung quan liêu, độc đoán trái với bản chất của Nhà nước ta. Ngược lại, nếu thiên về dân chủ mà coi nhẹ tập trung sẽ dẫn đến dân chủ quá trớn làm cho hoạt động của bộ máy nhà nước kém hiệu quả. Sự vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ cần kết hợp tối ưu của hai mặt tập trung và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của từng lĩnh vực, ngành cụ thể, trong từng giai đoạn, từng hoàn cảnh, thậm chí là từng vấn đề cụ thể. Trong từng địa phương, từng thời điểm khác nhau cần định ra liều lượng kết hợp giữa những chế độ tập trung và chế độ dân chủ thích hợp tạo nên sự thống nhất hai mặt của nguyên tắc. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là sự kết hợp biện chứng giữa hai mặt: tập trung (thống nhất) và dân chủ. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa chế độ tập trung và chế độ dân chủ. Do vậy, bất kỳ sự nhấn mạnh hay coi nhẹ một mặt nào của nguyên tắc này sẽ dẫn đến sự thiếu hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Nếu quá tập trung sẽ dẫn đến tình trạng tập trung quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, phi dân chủ, còn nếu quá dân chủ sẽ dẫn đến tình trạng dân chủ quá trớn, lạm dụng dân chủ và vô chính phủ cho nên tập trung phải phải trên cơ sở dân chủ. Lênin đã làm rõ vấn đề đó như sau: “Quần chúng phải có quyền đưa bất cứ một người công dân nào trong số họ vào chức vụ lãnh đạo nhưng điều đó không hề có nghĩa là công việc tập thể lại không cần có người lãnh đạo để đảm nhiệm một trách nhiệm rõ ràng, không cần có một trật tự chặt chẽ do ý chí duy nhất người lãnh đạo tạo ra. Nếu không có một ý chí thống nhất để đoàn kết được toàn thể những người lao động lại thành một cơ quan kinh tế duy nhất hoạt động chính xác như bộ máy đồng hồ thì bất cứ là đường sắt vận tải hay máy móc lớn hơn, và xí nghiệp lớn tới chừng nào cũng đều không thể hoạt động tốt được. Chủ nghĩa xã hội là do nền đại công nghiệp cơ khí sản sinh ra, nếu quần chúng lao động là những người thiết lập nên chủ nghĩa xã hội mà không biết làm cho người thuộc cơ quan của mình giống như nền công nghiệp cơ khí thì không thể nói đến thực hiện chủ nghĩa xã hội”. Hay theo như chủ tịch Hồ Chí Minh có viết: “chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải là tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý, lúc đó quyền tự do tự hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý”. Tóm lại, tập trung dân chủ là hai mặt của thể thống nhất hài hoà với nhau. Nếu thiên về tập trung mà không chú trọng đến dân chủ sẽ dẫn đến tập trung quan liêu, độc đoán trái với bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, nếu thiên về dân chủ mà coi nhẹ tập trung sẽ dẫn đến dân chủ quá trớn làm cho hoạt động của bộ máy nhà nước kém hiệu quả. 3. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước Việt Nam hiện nay Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của nhà nước và hoạt động quản lí hành chính nhà nước cũng được tổ chức thực hiện trên cơ sở tuân thủ nội dung của nguyên tắc này. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước được biểu hiện ở những nội dung sau : Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp Ðiều 6-Hiến pháp 1992 quy định : Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Như vậy, Hiến pháp quy định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan quyền lực nhà nước do chính họ bầu ra để thay mặt mình trực tiếp thực hiện những quyền lực đó. Ðể thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước, hệ thống cơ quan hành chính nhà nước được thành lập và nó luôn có sự phụ thuộc vào các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Các cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định trong việc thành lập, thay đổi, bãi bỏ, các cơ quan hành chính cùng cấp. Đồng thời trong hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình với các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Tất cả sự phụ thuộc này nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động, bảo đảm sự tập trung quyền lực vào cơ quan quyền lực – cơ quan do nhân dân bầu và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, của địa phương đối với trung ương Nhờ có sự phục tùng này cấp trên và trung ương mới tập trung quyền lực nhà nước để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương, nếu không có sự phục tùng sẽ xảy ra tình trạng cục bộ địa phương, tùy tiện, vô chính phủ. Sự phục tùng ở đây là sự phục tùng mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật. Mặt khác, trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, địa phương về công tác tổ chức, hoạt động và về các vấn đề khác của quản lý hành chính nhà nước và phải tạo điều kiện để cấp dưới, địa phương phát huy sự chủ động, sáng tạo nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nhằm chủ động thực hiện được "thẩm quyền cấp mình". Có như thế mới khắc phục tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm mất đi tính chủ động sáng tạo chủ độnh của địa phương, cấp dưới. Sự phân cấp quản lý Là sự phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong bộ máy quản lí hành chính nhà nước. Mỗi cấp quản lí có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và những phương thức cần thiết để thực hiện một cách tốt nhất những mục tiêu, nhiệm vụ của cấp mình. Phân cấp quản lí là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên, việc phân cấp phải đảm bảo những yêu cầu sau : + Phải xác định quyền quyết định của trung ương đối với những lĩnh vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược để đảm bảo sự phát triển cân đối hài hòa của toàn xã hội, bảo đảm sự quản lí tập trung và thống nhất của nhà nước trong phạm vi toàn quốc. + Phải mạnh dạn phân quyền cho địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy tính chủ động sáng tạo trong quản lí, tích cực phát huy sức người, sức của, đẩy mạnh sản xuất và phục vụ đời sống nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao phó. + Phải phân cấp quản lí cụ thể, hợp lý trên cơ sở quy định của pháp luật. Hạn chế tình trạng cấp trên gom quá nhiều việc, khi không làm xuể công việc ấy thì giao lại cho cấp dưới. Phân cấp quản lí phải xác định chức năng cơ quan. Mỗi loại việc chỉ được thực hiện bởi một cấp cơ quan, hoặc một vài cấp cơ quan. Cấp trên không phải lúc nào cũng thực hiện được một số chức năng một cách có hiệu quả như cấp dưới . Sự hướng về cơ sở Hướng về cơ sở là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lý tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hóa xã hội trực thuộc. Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi tạo ra của cải vật chất trực tiếp phục vụ đời sống nhân dân. Vì thế nhà nước cần có các chính sách quản lí thống nhất và chặt chẽ, cung cấp và giúp đỡ về vật chất nhằm tạo điều kiện để đơn vị cơ sở hoạt động có hiệu quả. Có như vậy hoạt động của các đơn vị này mới phát triển một cách mạnh mẽ theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Ðây cũng chính là việc thực hiện “dân là gốc” trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc song trùng trực thuộc. Ðối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền chung một mặt phụ thuộc vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, mặt khác phụ thuộc vào cơ quan hành chính cấp trên. Ví dụ: UBND Tỉnh X một mặt chịu sự chỉ đạo của HÐND Tỉnh X theo chiều ngang, một mặt chịu sự chỉ đạo của chính phủ theo chiều dọc. Ðối với cơ quan chuyên môn, một mặt phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung cùng cấp, mặt khác nó phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cấp trên trực tiếp. Ví dụ: Sở Tư pháp Tỉnh Y, một mặt phụ thuộc vào UBND Tỉnh Y, mặt khác phụ thuộc vào Bộ Tư pháp. Nguyên tắc song trùng trực thuộc của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương bảo đảm sự thống nhất giữa lợi ích chung của nhà nước với lợi ích của địa phương, giữa lợi ích ngành với lợi ích lãnh thổ. 4. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay Điều 2 Hiến pháp 1992 khẳng định: “ Nhà nưóc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp nhân dân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”. Như vậy, nhà nước ta là nhà nước chuyên chính vô sản, theo chế độ xã hội chủ nghĩa. Áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí nhà nước nói chung và trong quản lí hành chính nói riêng là điều tất yếu và rất cần thiết. Việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước hiện nay nó có ý nghĩa rất lớn. Trước hết, nguyên tắc tập trung dân chủ nó là nguyên tắc cơ bản, đóng vai trò là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình thực hiện quản lý nhà nước, quản lí xã hội. Trong quản lí hành chính thì nguyên tắc này nó đảm bảo cho sự tập trung quyền lực nhà nước vào chủ thể quản lí quản lí để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện chính sách, pháp luật một cách thống nhất, đồng thời nguyên tắc này, đảm bảo việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lí nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lí, phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng quản lí trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật. Như vậy, mặc dù nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc quản lí hành chính nhà nước mang tính chất chỉ đạo hoạt động nhận thức và cải tạo xã hội nhưng khi vận dụng vào thực tế, nguyên tắc này đã giúp cho công tác quản lí hành chính nhà nước đạt được những hiệu quả rất tốt trong việc tăng hiệu quả hoạt động của công tác quản lí hành chính nhà nước. Nội dung của nguyên tắc này quy định những đặc điểm chung, mang tính quy luật khách quan trong hoạt động của hệ thống quản lí xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, nó phản ánh sự thống nhất giữa cơ sở tư tưởng, chiến lược và tổ chức của xã hội chủ nghĩa. Việc áp dụng  nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước đã giúp cho việc thực hiện quyền lực làm chủ của nhân dân (thông qua các cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương và địa phương) hoàn thiện hơn, người dân có thể thực hiện quyền giám sát của mình một cách hữu hiệu, tạo nên một cơ chế đảm bảo cho quần chúng tích cực tham gia vào công tác quản lí hành chính nhà nước. Tuy nhiên, cần lưu ý là việc áp dụng yếu tố dân chủ nhưng không thể loại trừ trách nhiệm cá nhân, nghĩa là, dân chủ nhưng phải gắn với trách nhiệm của từng cá nhân cụ thể, trong công việc nhất định, thời gian nhất định. Đồng thời việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước cũng tạo nên một sự thống nhất về ý chí trong việc quản lí hành chính nhà nước, tạo ra sự nhịp nhàng, ăn khớp giữa các cơ quan, ngành khối trong toàn xã hội mà vẫn bảo đảm để cho các địa phương trong nước có quyền tự do tương đối trong việc định ra các hình thức phát triển khác nhau phù hợp với địa phương của mình. Tạo nên một sức mạnh tổng thể cho đất nước. 5. Kết luận Tập trung và dân chủ là một nguyên tắc quản lí hành chính nhà nước khoa học, nhưng việc thực hiện đúng đắn nội dung của nguyên tắc này là một nhiệm vụ hết sức khó khăn và vô cùng quan trọng. Chỉ khi nào chúng ta kết hợp được sự tập trung và dân chủ một cách hài hoà thì mới phát huy được hết vai trò của nguyên tắc này trong thực tế xã hội nước ta hiện nay. Việc tìm hiểu nguyên tắc tập trung dân chủ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng quan trọng đối với công tác quản lí xã hội và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Đặc biệt là đối với các nhà quản lí, họ cần phải tiếp tục làm rõ nội dung, hình thức và sự vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong điều kiện nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa. Việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước phải dựa trên quan niệm mới là quản lí tập trung trong điều kiện phát huy quyền tự chủ của tất cả các chủ thể xã hội. Chỉ có như vậy, bản chất ưu việt của chế độ mới được phát huy, sức mạnh của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới được thực thi và sức sáng tạo của người dân mới được tôn trọng và giải phóng. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………. 1 1. Một số quan điểm hiện nay về nguyên tắc tập trung dân chủ…………...........2 2. Nguyên tắc tập trung – dân chủ……………………………………………… .3 2.1. Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong hệ thống nguyên tắc quản lí nhà nước xã hội chủ nghĩa……………………….....3 2.2. Bản chất, vị trí, của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí nhà nước xã hội chủ nghĩa ………………………………………………4 3. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước Việt Nam hiện nay……………………………………………………………..6 4. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay…………………………………………………...9 5. Kết luận………………………………………………………………………..10 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nxb. Lao động. Trường Đại học Luật Hà nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2008. Khoa luật, Đại học quốc gia Hà nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, 2005. Tạp chí khoa học pháp luật số 3/2004 về nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước. Trường Đại học luật Hà nội, Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. CAND, Hà Nội, 2008. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật Hiến phápViệt Nam, Nxb. CAND. Hà Nội, 2008.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docloi_mo_dau_hccccccccccccccc_4767.doc
Tài liệu liên quan