Đề tài Phân tích tài chính và các giải pháp nhằm tăng cường năng lực tài chính tại Công ty Công ty Xây Lắp và Kinh Doanh Vật Tư Thiết Bị

Thu thập và xử lý thông tin nhằm chuẩn bị những tiền đề và điều kiện cần thiết để người sử dụng thông tin dự đoán nhu cầu và đưa ra các quyết định hoạt động kinh doanh. Đối với chủ doanh nghiệp, phân tích hoạt động tài chính nhằm đưa ra các quyết định liên quan tới mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tăng trưởng, phát triển, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá doanh thu. Đối với cho vay và đầu tư vào doanh nghiệp thì đưa ra các quyết định về tài trợ đầu tư, đối với cấp trên của doanh nghiệp thì đưa ra các quyết định quản lý doanh nghiệp.

doc90 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1134 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tài chính và các giải pháp nhằm tăng cường năng lực tài chính tại Công ty Công ty Xây Lắp và Kinh Doanh Vật Tư Thiết Bị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giảm 1.213 triệu đồng tức là giảm 6,3%, tỷ suất đầu tư của Công ty năm 2001 là 0,12 (17.948/145.522) nên hiệu quả sử dụng vốn cố định của Công ty năm 2001 có hiệu quả hơn năm 1999, 2000. Để biết cụ thể hơn ta đi phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định. Về tài sản lưu động, so với năm 1999, năm 2000 và năm 2001 tiền mặt có giảm hơn trong khi các khoản phải thu tăng lên nhanh chóng, năm 1999 các khoản phải thu của Công ty là 10.810 triệu đồng nhưng đến năm 2000 là 36.025 triệu, năm 2001 là 75.823 triệu đồng chủ yếu là phải thu của khách hàng. Vì vậy, Công ty phải có biện pháp thu hồi để khoản phải thu giảm, tránh tình trạng khách hàng chiếm dụng vốn lâu làm giảm nguồn vốn ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn của Công ty. Đồng thời hàng tồn kho của Công ty cũng tăng lên, hàng tồn chủ yếu là các hàng máy xây dựng và các trang thiết bị phụ tùng với giá trị lớn, cần phải tăng cường các biện pháp bán hàng để tránh sự ứ đọng vốn. Bảng 3 : Cơ cấu nguồn vốn của Công ty Xây Lắp và Kinh Doanh Vật Tư Thiết Bị từ năm 1999- 2001. Đơn vị tính: Triệu đồng. Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 2000/1999 2001/2000 Số tiền (D) Tỷ trọng (%) D % A. Nợ phải trả. I. Nợ ngắn hạn II. Nợ dài hạn III.Nợ khác B. Nguồn vốn CSH I. Nguồn vốn quỹ Trong đó nguồn vốn kinh doanh 29.258 19.507 4.261 5.490 47.063 47.063 45.779 50.020 28.165 13.858 7.997 46.676 46.676 44992 98.408 65.027 23.832 9.549 47.114 47.114 45.210 20.762 8.658 9.597 2.507 -387 -387 -787 170,9 144,4 325,2 145,7 99,2 99,2 98,3 48.388 36.862 9.974 1.552 438 438 218 196,7 230,9 172 119,4 100,9 100,9 100,5 Tổng nguồn vốn 76.321 96.696 145.522 20.375 126,7 48.826 150,5 Nguồn: phòng kế toán - tài chính Bảng cân đối kế toán năm 1999, 2000, 2001. Tuy nguồn vốn của Công ty tăng mạnh qua các năm, năm 1999 là 76.321 triệu đồng, sang năm 2000 là 96.696 triệu tăng 20.375 triệu hay 126,7% so với năm 1999, năm 2001 là 145.522 triệu tăng 48.826 triệu hay 150,5% so với năm 2000 và tăng 69.201 triệu hay 196,7% so với năm 1999 nhưng tỷ suất tài trợ của các năm giảm xuống. Tỷ suất tài trợ = Nguồn vốn chủ sở hữu Tổng số nguồn vốn Năm 1999 tỷ suất tài trợ của Công ty là 62% (47.063/76.321 = 0,62), chứng tỏ mức độc lập về mặt tài chính của Công ty vì hầu hết tài sản mà Công ty có được đầu tư bằng số vốn của mình. Nhưng sang năm 2000 và 2001 tỷ suất tài trợ giảm đáng kể, năm 2000 là 48% (46.676/96.696 = 0,48) và năm 2001 là 32% (47.114/145.522 = 0,32) nên hầu hết tài sản mà Công ty có được đều đầu tư bằng vốn vay chủ yếu là vay ngắn hạn. 2.2. Thực trạng tình hình tài chính qua phân tích mối quan hệ và tình hình biến động của các khoản mục trong Báo cáo kết quả kinh doanh. Để đánh giá hiệu quả kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty cần phải quan tâm đến kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh đó là lợi nhuận, lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng để đánh giá hiệu quả kinh tế của các hoạt động của doanh nghiệp, nó là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được doanh thu đó từ hoạt động kinh doanh chủ yếu của Công ty Xây Lắp và Kinh Doanh Vật Tư Thiết Bị là hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Bảng 4: Kết quả kinh doanh của Công ty từ năm 1999 đến năm 2001 Đơn vị tính: Triệu đồng. Chỉ tiêu Năm 2000/1999 2001/2000 1999 2000 2001 Giá trị (Δ) Tỷ lệ (%) Giá trị (Δ) Tỷ lệ (%) Tổng doanh thu 107.679 185.372 286.380 77.693 172 111.008 160 Tổng chi phí 105.585 183.350 284.280 77.665 173 100.930 155 Lợi nhuận 1.994 2.022 2.100 28 101 78 103,8 Nguồn: phòng kế toán - tài chính Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 1999, 2000, 2001. Qua các số liệu thực tế trên, ta thấy kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty tăng lên rõ rệt qua các năm. Năm 1999, với tổng doanh thu là 107.679 triệu đồng, công ty đã thu được một khoản lợi nhuận là 1994 triệu đồng. Bên cạnh nhiều doanh nghiệp nhà nước hiện nay làm ăn thua lỗ, với mức lợi nhuận này chứng tỏ hoạt động kinh doanh của Công ty đạt hiệu quả rất cao, đó là một sự cố gắng nỗ lực của lãnh đạo Công ty trong việc huy động và sử dựng vốn hợp lý. So với năm 1999, năm 2000 tất cả các chỉ tiêu về doanh thu, chi phí, lợi nhuận của Công ty đều tăng lên, tổng doanh thu là 185.372 triệu đồng, so với năm 1999 tăng lên 77.693 triệu đồng hay 172%, lợi nhuận thu được 2022 triệu đồng so với năm 1999 tăng 28 triệu đồng hay 101%. Đến năm 2001, tổng doanh thu của Công ty đạt 286.380 triệu đồng tăng 111.008 triệu so với năm 2000 hay 160%, lợi nhuận đạt 2100 triệu tăng 78 triệu đồng hay 103,8%. Mặc dù tỷ lệ gia tăng của tổng doanh thu của năm nay so với năm trước rất cao 160% nhưng tỷ lệ gia tăng về lợi nhuận không cao lắm là 103,8% là do thu và chi phí có tốc độ tăng như là bằng nhau, có nghĩa là việc quản lý và sử dụng chi phí của Công ty chưa tốt, chưa đạt hiệu quả. Biểu đồ sau sẽ thể hiện rõ hơn kết quả kinh doanh của Công ty qua các chỉ tiêu Tổng doanh thu, tổng chi phí, lợi nhuận qua 3 năm 1999,2000,2001. Biểu đồ 2: Kết quả kinh doanh của Công ty qua 3 năm 1999-2001. Bảng 5: Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Xây Lắp và Kinh Doanh Vật Tư Thiết Bị. Đơn vị tính: triệu đồng. Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Tổng doanh thu 107.679 185.372 286.380 Các khoản giảm trừ 0 0 0 Doanh thu thuần 107.679 185.372 286.380 Tổng chi phí 105.685 183.350 284.280 Tổng lợi nhuận 1.994 2.022 2.100 Vốn kinh doanh 45.779 44.992 45.210 Vốn cố định 19.152 19.165 17.948 Vốn lưu động 26.627 25.827 27.262 Nguồn: phòng kế toán - tài chính Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 1999, 2000, 2001. Để phân tích tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, phải phân tích các hệ thống chỉ tiêu sau: 2.2.1. Hiệu suất vốn kinh doanh. Hiệu suất vốn kinh doanh (Hs) = Hs1999 = = 2,35 Hs2000 = = 4,12 Hs2001 = = 6,33 Hiệu suất vốn kinh doanh cho ta biết với 1 đồng vốn đưa vào kinh doanh sẽ đem lại cho Công ty 2,35 đồng doanh thu năm 1999; và 4,12 đồng doanh thu năm 2000 còn năm 2001 là 6,33 đồng doanh thu. Đây là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng vốn, qua đó ta thấy hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty năm 2001 có hiệu quả hơn 2000 và năm 1999. 2.2.2. Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh. Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh = TSLN1999 = = 0,043 ; TSLN2000 = = 0,045. TSLN2001 = = 0,046 ý nghĩa kinh tế: 1000 đồng vốn kinh doanh ở năm 2000 tạo ra được 45 đồng lợi nhuận lớn hơn năm 1999 là 43 đồng và ở năm 2001 chỉ tạo ra được 46 đồng lợi nhuận. Và thông qua chỉ tiêu này ta thấy tuy hiệu quả sử dụng vốn của Công ty có tăng nhưng không đáng kể, nói chung là vẫn còn thấp. 2.3. Hiệu quả tài chính qua phân tích hiệu quả kinh doanh. Một doanh nghiệp được xem là có hiệu quả khi sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả, đặc biệt là sử dụng vốn kinh doanh. Để đánh giá một cách cụ thể và chính xác hiệu quả sử dụng vốn, ta cần đi xem xét hiệu quả sử dụng vốn ở hai loại: 2.3.1. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định. Kiểm tra tài chính đối với hiệu quả sử dụng vốn cố định là một nội dung quan trọng của hoạt động tà chính doanh nghiệp, thông qua kiểm tra tài chính doanh nghiệp có những căn cứ xác đáng để đưa ra các quyết định về mặt tài chính như điều chỉnh quy mô và cơ cấu vốn đầu tư, đầu tư mới hay hiện đại hóa tài sản cố định, về các biện pháp khai thác năng lực sản xuất của tài sản cố định hiện có, nhờ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. Để tiến hành kiểm tra tài chính đối với hiệu quả sử dụng vốn cố định cần xác định đúng đắn hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định và tài sản cố định của doanh nghiệp. 2.3.1.1. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = Hs1999 = = 5,62 Hs2000 = = 9,67 Hs2001 = = 15,96. 2.3.1.2. Mức doanh lợi của vốn cố định (Mdl). Mức doanh lợi của vốn cố định = Mdl1999 = = 0,104. Mdl2000 = = 0,105. Mdl2001 = = 0,117. 2.3.1.3. Sức hao phí tài sản cố định (Shp). Sức hao phí tài sản cố định = Shp1999 = = 9,6 Shp2000 = = 9,478 Shp2001 = = 8.55 Ta có bảng tổng kết tài sản cố định như sau: Bảng 7: Bảng tổng kết hiệu quả sử dụng vốn cố định. Chỉ tiêu Thực hiện So sánh Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 2000/1999 2001/2000 (D) % (D) % Vốn cố định 19.152 19.165 17.948 Hiệu suất sử dụng TSCĐ 5,62 9,67 15,96 4,05 172,06 6,29 164,88 Mức doanh lợi của VCĐ 0,104 0,105 0,117 0,001 100,9 0,012 111,4 Sức hao phí TSCĐ 9,6 9,478 8,55 - 0,122 98,7 - 0,928 90,2 Nguồn: phòng kế toán - tài chính Báo cáo tài chính năm 1999, 2000, 2001. Tuy lượng vốn cố định (Tài sản cố định) của Công ty năm 2001 có giảm hơn so với năm 2000 và 1999, nhưng hiệu quả sử dụng vốn cố định của năm 2001 lại lớn hơn, hợp lý hơn. Cụ thể, hiệu quả sử dụng TSCĐ của năm 1999 là 5,62 ; Năm 2000 là 9,67, năm 2001 là 15,96 tức là 1 đồng nguyên giá TSCĐ năm 1999 đem lại cho Công ty 5,62 đồng doanh thu; Năm 2000 đem lại cho Công ty 9,67 đồng doanh thu, lớn hơn năm 1999 4,05 đồng trên 1 đồng vốn bỏ ra hay tăng 172,06%, còn năm 2001 là 15,96 đồng doanh thu. Với mức doanh lợi năm 1999 là 0,104; năm 2000 là 0,105 và năm 2001 là 0,117 tức là với 1 đồng vốn cố định bình quân năm 1999 tạo ra 0,104 đồng lời; năm 2000 sẽ tạo ra 0,105 đồng lời còn năm 2001 cao hơn tạo ra được 0,117 đồng lời. Do vốn cố định của năm 2001 nhỏ hơn năm 1999 và năm 2000 nhưng lại thu được doanh thu và tạo ra một khoản lợi nhuận lớn hơn chứng tỏ việc sử dụng vốn cố định của Công ty Xây Lắp và Kinh Doanh Vật Tư Thiết Bị là rất hiệu quả. Như vậy, qua việc phân tích trên ta thấy việc sử dụng và quản lý tài sản cố định của Công ty năm 2000 tuy có hiệu quả nhưng chưa cao, nhưng đến năm 2001, Công ty đã khắc phục kịp thời dẫn đến việc sử dụng tài sản cố định có hiệu quả hơn. Công ty cần tiếp tục duy trì, phát huy và tranh thủ sử dụng một cách tối đa những thiết bị đó để nâng cao hiệu quả hiệu quả sử dụng vốn của mình. 2.3.2. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động. So với các yếu tố như lợi nhuận, doanh thu, chi phí thì trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn cũng là một yếu tố không kém phần quan trọng, nó là vấn đề then chốt gắn liền với sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp. Riêng đối với các doanh nghiệp thực hiện chức năng kinh doanh là chủ yếu thì cần phải đặc biệt chú ý đến vốn lưu động. Bởi vậy, phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doah nghiệp sẽ đánh giá được chất lượng quản lý sử dụng vốn, vạch ra các khả năng tiềm tàng nâng cao hơn nữa kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn một cách có hiệu quả nhất. 2.3.2.1. Phân tích chung. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động được phản ánh qua các chỉ tiêu như sức sản xuất, sinh sinh lợi của Vốn lưu động (TSLĐ). 2.3.2.1.1. Sức sản xuất của vốn lưu động (Ssx). Sức sản xuất của vốn lưu động = Ssx1999 = = 4,04 Ssx2000 = = 7,18 Ssx2001 = = 10,5 2.3.2.1.2. Mức doanh lợi của vốn lưu động (Mdl). Mức doanh lợi của vốn lưu động = Mdl1999 = = 0,075 Mdl2000 = = 0,078 Mdl2001 = = 0,077 Ta thấy, với một đồng vốn lưu động, năm 1999 Công ty thu được 4,04 đồng doanh thuvà 0,075 đồng lợi nhuận. Năm 2000, thu được 7,18 đồng doanh thu và 0,078 đồng lợi nhuận. Năm 2001 thu được 10,5 đồng doanh thu và 0,077 đồng lợi nhuận. Mức doanh lợi của vốn lưu động (mức sinh lợi của vốn lưu động): Phản ánh một đồng vốn lưu động thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Với một đồng vốn lưu động, năm 1999 Công ty thu được 4,04 đồng doanh thu và 0,075 đồng lợi nhuận. Sức sinh lợi của vốn lưu động năm 2000 là 0,078 tức là 1 đồng vốn lưu động Công ty bỏ ra thu được 0,078 đồng lợi nhuận. Năm 2001 mức sinh lợi là 0,077 như vậy giảm 0,001 đồng lợi nhuận trên 1 đồng vốn bỏ ra so với năm 2000 tức là giảm 1,3%. Qua đó có thể đưa ra nhận xét tuy năm 2001 doanh thu trên một đồng vốn lưu động của Công ty là rất cao (cao hơn nhiều so với năm 1999 và năm 2000) nhưng lợi nhuận thì lại thấp hơn năm 2000, điều đó chứng tỏ tuy Công ty sử dụng đồng vốn lưu động có hiệu quả hơn nhưng Công ty quản lý các khoản chi phí không hợp lý. Đó cũng là do các nguyên nhân khách quan tác động như do sự biến động của thị trường trong khu vực và thế giới, hơn nữa hoạt động kinh doanh chính của Công ty là xuất nhập khẩu nên chi phí vận chuyển và bán hàng là rất lớn, mặt khác do bạn hàng nợ nhiều, hàng hóa tồn kho lớn nên gây ra sức sinh lợi bé hơn. 2.3.2.2. Phân tích tốc độ luân chuyển vốn. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn lưu động vận động không ngừng, thường xuyên qua các quá trình tái sản xuất (dự trữ- sản xuất- tiêu thụ). Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để xác định tốc độ lưu chuyển của vốn lưu động, người ta thường dùng các chỉ tiêu sau: 2.3.2.2.1. Số vòng quay của vốn lưu động (n). Số vòng quay của vốn lưu động = n1999 = = 4,04 (vòng) n2000 = = 7,18 (vòng) n2001 = = 10,5 (vòng) 2.3.2.2.2. Thời gian của một vòng lưu chuyển (T). T = T1999 = = 89,1 (ngày) T2000 = = 50,14 ( ngày) T2001 = = 34,28 (ngày) 2.3.2.2.3. Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động (HSĐN). Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động = HSĐN1999 = = 0,25 HSĐN2000 = = 0,139 HSĐN2001 = = 0,095 Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao, số vốn tiết kiệm được càng nhiều. Ta có bảng tính các chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển. Bảng 8 : Bảng tính các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty Xây Lắp và Kinh Doanh Vật Tư Thiết Bị qua 3 năm 1999- 2001. Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 So sánh 00/99 01/00 Hệ số luân chuyển Vòng 4,04 7,18 10,5 3,14 3,32 Thời gian 1 vòng luân chuyển Ngày 89,1 50,14 34,28 - 38,96 - 15,86 Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động Đồng 0,25 0,139 0,095 -0,111 - 0,044 Nguồn: phòng kế toán - tài chính Báo cáo tài chính năm 1999, 2000, 2001 . Kết quả cho thấy, năm 1999, số vòng quay của vốn lưu động là 4,04 vòng. So với năm 1999, năm 2000 số vòng quay là 7,18 tăng thêm 3,14 vòng nên thời gian 1 vòng quay giảm được 38,96 ngày và hệ số đảm nhiệm của một đồng vốn lưu động giảm thêm 0,111. Năm 2001, số vòng quay là 10,5 tăng thêm 3,32 vòng so với năm 2000 và tăng 6,46 vòng so với năm 1999, thời gian một vòng giảm 15,86 ngày và hệ số đảm nhiệm 1 đồng vốn lưu động giảm 0,044 đồng. Chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động của năm 2001 tốt hơn năm 1999, 2000. Tuy nhiên sức sinh lợi của vốn lưu động năm 2001 nhỏ hơn năm 2000. Nguyên nhân là mặc dù số vòng quay của năm 2001 cao nhưng do tổng chi phí qúa cao, bạn hàng nợ nhiều, hàng hóa tồn kho gây ứ đọng vốn làm giảm sức sinh lợi. Thời gian 1 vòng luân chuyển của năm 1999 là 89,1 ngày tức là để vốn lưu động quay được 1 vòng mất 89,1 ngày, năm 2000 là 50,14 ngày tức là để vốn lưu động quay được 1vòng mất 51 ngày, còn của năm 2001 là 34,28 ngày giảm 15,86 ngày so với năm 2000 cho thấy tốc độ lưu chuyển vốn lưu động của năm 2001 nhanh hơn. Tuy nhiên, để việc sử dụng vốn lưu động có hiệu qủa hơn Công ty cần đẩy nhanh mức tiêu thụ hàng hóa, cần tổ chức công tác thanh quyết toán một cách tốt hơn, giảm chi phí để thu được mức sinh lợi cao hơn. Tốc độ lưu chuyển vốn lưu động của Công ty qua các năm tăng lên chứng tỏ việc sử dụng vốn lưu động của Công ty là rất có hiệu quả. Vì việc tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động sẽ làm giảm thời gian của một vòng quay vốn, tiết kiệm được vốn, tăng doanh số từ đó tạo điều kiện tăng thêm lợi nhuận. Vì xuất phát từ công thức: Tổng doanh thu thuần = VLĐbq * Hệ số luân chuyển. Ta thấy vốn lưu động của Công ty tăng không đáng kể, nếu hệ số luân chuyển tăng sẽ tăng được tổng số doanh thu thuần. Vậy, việc tăng hệ số luân chuyển hay số vòng quay của vốn lưu động có ý nghĩa rất quan trọng trong việc sử dụng có hiệu quả vốn lưu động và là một trong những biện pháp cho Công ty nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. - Tốc độ luân chuyển của vốn lưu động thay đổi do ảnh hưởng của các nhân tố: Số ngày một vòng luân chuyển năm 2001 so năm 2000 giảm 15,86 ngày + Do số vốn lưu động bình quân thay đổi. Thời gian 1 vòng luân chuyển = = ảnh hưởng của số vốn lưu động bình quân đến số ngày là: (ngày) Do tổng số chu chuyển thay đổi ảnh hưởng đến số ngày: (ngày) Tổng cộng : 2,78 + (-18,64) = - 15,86 (ngày) Như vậy, do số vốn lưu động tăng đã làm tăng thời gian 1 vòng luân chuyển thêm 2,78 ngày. Tuy nhiên, do số doanh thu thuần tăng đã làm giảm thời gian 1 vòng chu chuyển là 18,64 ngày. Việc tăng tốc độ chu chuyển do tăng doanh thu thuần đã giúp Công ty trong những năm qua tiết kiệm được một lượng vốn đáng kể. Cụ thể, số vốn lưu động tiết kiệm được của Công ty trong năm 2000 là: Kkh - Kbc B = * Obqkh Kbc Trong đó: B : Số vốn lưu động tiết kiệm được Kkh : Số vòng quay kỳ kế hoạch Kbc: Số vòng quay kỳ báo cáo Obqkh: Số dư bình quân kỳ kế hoạch. B2000 = (triệu đồng) B2001 = (triệu đồng) Qua phân tích trên cho thấy việc sử dụng vốn lưu động của Công ty Xây Lắp và Kinh Doanh Vật Tư Thiết Bị là khá hiệu quả. Việc tăng được tốc độ luân chuyển đã giúp Công ty giảm bớt được sự căng thẳng về vốn, tăng doanh thu và tiết kiệm được một lượng vốn lưu động để có thể dùng vào hoạt động kinh doanh. Chương III- Một số khiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa năng lực tài chính của Công ty Xây Lắp và Kinh Doanh Vật Tư Thiết Bị. 1. Một số kiến nghị với nhà nước. Kể từ khi đổi mới mở cửa, hệ thống chính sách và luật kinh doanh đã được Nhà nước cho sửa đổi bổ xung nhiều lần để phù hợp với thực tế sản xuất kinh doanh trong thời kỳ mới. Tuy nhiên trong đó vẫn còn nhiều tồn tại gây khó khăn cản trở cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cân cần nghiên cứu để sửa đổi: - Đề nghị Bộ tài chính nghiên cứu thống nhất thu thuế VAT theo phương pháp khấu trừ, tránh các loại hoá đơn thường khó quản lý. Đồng thời nên thu thuế VAT theo địa bàn kinh doanh đối với các dự án do ngân sách cấp vốn thì thu luôn thuế theo dự toán công trình vừa không thất thoát vừa tiện cho cơ sở sản xuất không phải đăng ký thuế ở các địa phương xa trụ sở làm việc của công ty. Còn thuế đầu vào và phần chênh lệch do cục thuế sở tại nơi đơn vị đặt trụ sở quyết toán. - Thánh toán vốn xây dựng cơ bản kịp thời, tránh nợ đọng lâu. - Nhà nước cần khuyến khích thoả đáng thông qua tái đầu tư đối với các đơn vị làm ăn có lãi, đóng góp nhiều cho ngân sách Nhà nước để các công ty này mở rộng sản xuất và phát triển. - Nhà nước cần coi trọng và khuyến khích sự phát triển của các tổ chức tư vấn đầu tư công nghệ để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các công ty có nhu cầu thi mua được công nghệ mới và phù hợp tránh tình trạng mua phải công nghệ lạc hậu gây thiệt hại cho công ty và cho cả nền kinh tế quốc dân. - Cải cách các thủ tục hành chính, cắt bỏ những thủ tục phiền hà cho Doanh nghiệp xung quanh việc nộp thuế, vay vốn... tiến tới "một cửa một dấu" sao cho tiết kiệm được thời gian và tiền bạc cho các Doanh nghiệp. - Nới lỏng điều kiện vay vốn trung và dài hạn đối với các công ty vừa và nhỏ, tạo điều kiện cho các công ty này phát triển. Hiện nay phần vốn đối ứng mà chủ đầu tư phải có theo qui định của ngân hàng ít nhất là 40%/tổng dự toán của dự án. Trong khi đó các Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta phần vốn tự có thường rất nhỏ so với qui mô hoạt động. Vì vậy rất nhiều Doanh nghiệp có phương án sử dụng vốn khả thi mà hiệu quả song vì thiếu tài sản thế chấp đã bị Ngân hàng từ chối thẳng thừng. - Hoàn thiện hoạt động của thị trường chứng khoán để đó thật sự là nơi các Doanh nghiệp có thể kinh doanh kiếm lời. - Cho phép công ty phát hành trái phiếu để huy động vốn của cán bộ công nhân viên trong công ty, của người dân và của các Doanh nghiệp khác để đổi mới công nghệ. - Xây dựng hệ thống chỉ tiêu trung bình ngày một cách đầy đủ và tiên tiến nhằm làm cơ sở so sánh với các chỉ tiêu phân tích tài chính để đưa ra được những giải pháp đúng đắn hợp lý. 2. Một số kiến nghị và giải pháp đối với hoạt động tài chính của công ty. 2.1. Kiến nghị về phương hướng phát triển sản xuất kinh doanh của công ty. Thứ nhất, Tăng cường công tác quản lý nội bộ bằng các qui chế và qui định cụ thể hơn, xây dựng thêm các định mức kinh tế kỹ thuật phù hợp với thực tế sản xuất. Thứ hai, đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề, nội dung đào tạo đi sâu vào thực tế sản xuất của công ty. Đối với cán bộ chủ chốt thì đưa đi học về quản lý ở các trung tâm đào tạo của nhà nước. Thứ ba, tăng cường khâu bán hàng tiếp thị: Công ty cần chủ động trong việc tham gia đấu thầu để có được các công trình lớn vừa tăng doanh thu vừa có thêm việc làm, cải thiện đời sống cho người lao động. Kế hoạch giai đoạn năm 2000 – 2005 của công ty là tăng cường vốn sản xuất kinh doanh đầu tư cho công nghệ sản xuất mới hiện đại đuổi kịp với sự phát triển công nghệ trong khu vực ASEAN. Giai đoạn năm 2000 –2005 công ty sẽ thực hiện giá trị sản lượng với mức tăng trưởng hàng năm từ 10-20% và chấp hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ đối với nhà nước. 2.2. Kiến nghị về phương hướng nâng cao năng lực tài chính cho công ty. Trên cơ sở phân tích tình hình tài chính của Xây lắp và kinh doanh vật tư thiết bị ở phần II, có thể thấy rằng mặc dù đã có những cố gắng và nỗ lực không ngừng nhưng bên cạnh những thành tựu đã đạt được công ty vẫn còn bộc lộ một số hạn chế trong chính sách quản lý tài chính gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung của công ty. Từ đó em xin được đưa ra một số ý kiến về các giải pháp tăng cường năng lực tài chính của công ty như sau: 2.2.1. Xác định chính sách tài trợ, xây dựng cơ cấu vốn hợp lý. Mục tiêu, chính sách kinh doanh của doanh nghiệp trong từng giai đoạn nhất định là khác nhau, song đều tựu chung lại ở mục tiêu tài chính là tối đa lợi ích của chủ sở hữu - tức là tối đa tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu trong phạm vi mức độ rủi ro cho phép. Chính vì thế, xây dựng- thiết lập được một cơ cấu tài chính tối ưu sẽ đảm bảo cho mức độ rủi ro tài chính của công ty là nhỏ và công ty sẽ thoát khỏi nguy cơ phá sản. Với cơ cấu vốn của Công ty như đã phân tích ở phần II là quá bất hợp lý: TSLĐ chiếm tỷ trọng lớn hơn rất nhiều so với TSCĐ (60,3% so với 17.978%) nên cần cân đối lại. đồng thời trang thiết bị máy móc của công ty cần được đầu tư đổi mới trong thời gian tới. Để thực hiện được điều này, Công ty cần huy động một lượng lớn vốn trung và dài hạn. Trong khi đó các chủ nợ thường xem xét hiệu quả kinh doanh và cơ cấu tài chính của Công ty để quyết định có cho vay vốn hay không. (Hiện tại theo số liệu thống kê năm 2001, tổng nguồn vốn của công ty là 145.522 triệu thì tương ứng đã có tới 98.408 triệu nợ phải trả.) Vì vậy, muốn có vốn để đầu tư đổi mới công nghệ trong những năm tới, ngay từ bây giờ Công ty cần phải thực hiện những biện pháp cần thiết nhằm làm cho cơ cấu vốn của công ty hợp lý hơn. Theo em, cơ cấu vốn phải đáp ứng được yêu cầu của chính sách tài trợ mà Công ty đã lựa chọn, mà như hiện nay, chính sách tài trợ của công ty thuộc dạng chính sách tài trợ mạo hiểm: Tức là nguồn vốn ngắn hạn tham gia tài trợ cho các TSLĐ thường xuyên, thậm chí cho cả TSCĐ. Chính sách này rất dễ đẩy công ty vào tình trạng mất khả năng thanh toán, mà trước hết là khả năng thanh toán nhanh. Nó có thể được áp dụng đối với các công ty được nhà cung cấp cho chịu với kỳ hạn dài và số lượng lớn. Nhưng chính vì thế, đối với công ty lại khó có thể áp dụng chính sách bán chịu, làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh nói chung. Với chính sách tài trợ như vậy, cộng với khoản nợ dài hạn của công ty thấp (23.832triệu so với 65.027triệu nợ ngắn hạn) công ty nên dựa vào đó để xác định nhu cầu về vốn nhằm đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình được diễn ra một cách bình thường. Cụ thể là công ty cần xác định xem mình cần bao nhiêu vốn đầu tư, bao nhiêu vốn để hoạt động và thời gian sử dụng các nguồn vốn này trong bao lâu, chi phí huy động và sử dụng vốn như thế nào... để từ đó cân đối lại lượng nợ dài hạn làm một trong giải pháp huy động vốn khiến cơ cấu vốn và chính sách tài trợ của công ty được vững chắc hơn. Cũng theo phân tích, năm 2001, Tổng số tài sản của công ty tăng đáng kể so với năm 2000 (96.696triệu-->145.522triệu) nhưng tỷ suất lợi nhuận lại giảm, mà nguyên nhân chính do chi phí tăng quá cao tương ứng. Vì vậy, công ty có thể áp dụng chính sách huy động vốn sau: - Chính sách huy động tập trung nguồn: Tức là công ty sẽ chỉ tập trung vào một hay một số ít nguồn. Chính sách này có ưu điểm là chi phí huy động có thể giảm song nó có nhược điểm là làm cho công ty phụ thuộc hơn vào một chủ nợ nào đó. Để tránh tình trạng bị phụ thuộc vào một chủ nợ khi áp dụng chính sách này, Trước hết, công ty cần xác định khả năng huy động vốn chủ sở hữu bao gồm: - Sử dụng linh hoạt tiết kiệm nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các quỹ trích lập nhưng chưa sử dụng đến. - Vốn NSNN và các nguồn vốn có nguồn gốc NSNN như các khoản Nhà nước trực tiếp cung cấp hay các khoản đáng ra công ty phải nộp cho Nhà nước nhưng được giữ lại để mở rộng sản xuất kinh doanh. - Lợi nhuận để lại công ty: Đây là nguồn vốn hình thành từ lợi nhuận của công ty sau mỗi kỳ kinh doanh có lãi. Nguồn vốn này có ý nghĩa rất lớn vì chỉ khi nào công ty làm ăn có lãi thì mới bổ sung được cho nguồn vốn này còn khi làm ăn thua lỗ thì không những không bổ sung được mà còn làm giảm nguồn vốn này, Để tăng lợi nhuận để lại,công ty cần tăng mọi nguồn thu và giảm thiểu các chi phí không cần thiết. Tuy nhiên nguồn vốn chủ sở hữu là một con số còn quá khiêm tốn so với lượng vốn mà công ty cần được đáp ứng (47.114triệu/145.522triệu). Vì vậy công ty phải huy động từ các nguồn khác như: ă Nguồn lợi tích luỹ: Là các khoản phải trả khác nhưng chưa đến hạn thanh toán như nợ lương CBCNV, nợ thuế, phải trả các đơn vị nội bộ,... đây là hình thức tài trợ " miễn phí" vì công ty sử dụng mà không phải trả lãi cho đến ngày thanh toán. Tuy nhiên, phạm vi ứng dụng các khoản nợ là có giới hạn bởi lẽ công ty chỉ có thể trì hoãn nộp thuế trong một thời hạn nhất định, còn nếu chậm trễ trả lương cho công nhân sẽ làm suy giảm tinh thần làm việc của họ. Các khoản nợ tích luỹ là nguồn tài trợ tự động, phụ thuộc vào quy mô kinh doanh của công ty tại từng thời điểm. Chúng tự phát thay đổi cùng với các hoạt động kinh doanh của công ty: khi công ty thu hẹp sản xuất, các khoản này sẽ giảm theo, ngược lại chúng sẽ tự động tăng lên khi sản xuất mở rộng. Như vậy để tận dụng và sử dụng hiệu quả nguồn tài trợ này thì việc mở rộng sản xuất, đầu tư đúng hướng, tiết kiệm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm trên thị trường là giải pháp tối ưu nhất. ă Chiếm dụng vốn của nhà cung cấp: Mua chịu là một hình thức đã rất phổ biến trong môi trường kinh doanh hiện nay. Một công ty nhỏ có thể không đủ tiêu chuẩn vay ngân hàng nhưng vẫn có thể mua chịu được. Để tận dụng tốt nguồn tài trợ này, công ty cần chú ý mua chịu của các nhà cung cấp lớn, tiềm lực tài chính mạnh vì họ mới đủ khả năng bán chịu với thời hạn dài cho các DN nhỏ khác. Ngoài ra, công ty cần tận dụng tối đa thời hạn thiếu chịu: nếu muốn hưởng chiết khấu, công ty nên thanh toán vào ngày cuối cùng của thời hạn chiết khấu. Còn nếu không đủ khả năng thì nên để đến ngày hết hạn hoá đơn mới thanh toán là có lợi nhất. Công ty cũng nên tránh việc trì hoãn thanh toán các khoản tièn mua trả chậm vượt quá thời hạn phải trả, bởi vì việc đó có thể gây ra những tác động tiêu cực như làm tổn hại đến uy tín, vị thế và các mối quan hệ của công ty, hơn thế nữa công ty còn phải gánh chịu chi phí tín dụng rất cao, thậm trí còn cao hơn cả lãi suất vay ngắn hạn. ă Nguồn vốn từ các tổ chức tài chính tín dụng: Ngân hàng có vai trò rất quan trọng việc bổ sung vốn kịp thời cho các DN. Thực tế trong ba năm qua công ty đã rất thành công trong việc huy động các khoản nợ ngắn hạn song vẫn rất ít lần vay vốn trung và dài hạn để sử dụng. Hiện nay các khoản vay ngắn hạn của công ty đã quá dư thừa, hơn nữa các khoản vay ngắn hạn thường có thời gian đáo hạn ngắn nên việc gia tăng nguồn tài trợ này dễ dẫn đến tình trạng các món nợ đến hạn chồng chất lên nhau trong tương lai không xa. Trong khi đó, công ty đang cần những nguồn tài trợ có thời gian dài để đầu tư cho TSCĐ. Vì vậy công ty nên giảm nợ ngắn hạn, thay bằng nợ dài hạn. Mặc dù các khoản vay dài hạn phải chịu chi phí lớn hơn nên có thể ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty nhưng xét về mục tiêu lâu dài thì điều đó là cần thiết. Ưu điểm của các khoản vay dài hạn là những giao dịch vay mượn này tương đối linh hoạt, người cho vay có thể thiết lập lịch trả nợ phù hợp với dòng tiền thu nhập của người vay, cũng như bản thân công ty cũng có thời gian để thực hiện kế hoạch trả dần tiền vay ngắn hạn. Trong thời gian tới để huy động được nguồn tài trợ này nhằm đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn của công ty, biện pháp quan trọng nhất là phải tính toán, lựa chọn, thiết lập được các phương án kinh doanh cũng như phương án đầu tư có tính khả thi cao. Đồng thời phải lựa chọn được cơ cấu sản phẩm hợp lý để sản xuất sao cho công ty vừa đảm bảo được chi phí sản xuất cộng thêm lãi suất ngân hàng mà vẫn có lãi. Nếu công ty áp dụng và thực hiện tốt được các biện pháp nêu trên thì chắc chắn rằng nợ ngắn hạn sẽ giảm được một lượng tương đối lớn, công ty sẽ có điều kiện vay vốn trung và dài hạn đồng thời có khả năng sử dụng hiệu quả nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn nhằm đem lại lợi ích thiết thực, sản phẩm có khả năng tiêu thụ tốt, quá trình sản xuất diễn ra liên tục từ đó đảm bảo vốn luân chuyển đều đặn, tạo điều kiện bảo toàn và phát triển vốn. Tuy nhiên, đòi hỏi đặt ra ở đây dó là: - Công ty phải đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của ngân hàng và các tổ chức tín dụng để được vay vốn trung và dài hạn. - Công ty phải đảm bảo sử dụng tốt các nguồn vốn khác để khi giảm nợ ngắn hạn tức là lượng vốn lưu động giảm sẽ không gây ảnh hưởng đến hoạt động và kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. - Số vốn dài hạn này phải được sử dụng đúng mục đích là đầu tư cho TSCĐ cần thiết và dự án đầu tư là khả thi. - Chi phí huy động và sử dụng vốn dài hạn không quá lớn so với vốn ngắn hạn, làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. 2.2.2. Quản lý dự trữ và quay vòng vốn. ở Công ty, Mặc dù thị trường hàng hoá khá ổn định không có những biến động lớn do là thị trường thiết bị xây dựng và công ty cũng đã thường xuyên theo dõi, phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động dự trữ, nhưng công tác dự trữ vẫn chưa phát huy được hiệu quả cần thiết như đúng nhu cầu thị trường, đúng thời điểm. Vì vậy vấn đề đặt ra là phải có giải pháp nhằm quản lý hoạt động dự trữ sao cho hợp lý nhất. Như vậy, hiệu quả sử dụng vốn lưu động sẽ được nâng lên hay số vòng quay vốn tăng. Để giải quyết vấn đề quản lý dự trữ, lý thuyết quản trị hiện đại đã đề cập đến mô hình thuật toán dự trữ, mô hình cung ứng đúng thời diểm... song có lẽ, mô hình quản lý dự trữ có lựa chọn A, B, C là đặc biệt có ý nghĩa với thực trạng quản lý ở công ty hiện nay, bởi trước hết nó dễ thực hiện, dễ phổ biến, đồng thời từng bước đưa quản lý dự trữ theo hướng hiện đại. áp dụng mô hình quản lý dự trữ hàng hoá có lựa chọn A-B-C: các loại hàng hoá dự trữ dược phân thành 3 nhóm a, b, c theo hai tiêu thức: giá trị hàng hoá sử dụng hàng năm và số loại hàng hoá. Nhóm A: gồm những hàng hoá có giá trị từ 70- 80%, số chủng loại từ 15- 20% so với tổng số hàng hoá dự trữ. Nhóm B: giá trị hàng hoá từ 15- 25%, chủng loại từ 25- 30%. Nhóm C: giá trị hàng hoá khoảng 5%, chủng loại chiếm từ 45- 55%. Căn cứ vào hoạt động và tính chất thị trường cung ứng, công ty sẽ có kế hoạch dự trữ đối với từng nhóm, từng loại hàng hoá và sử dụng vốn lưu động. Từ việc phân nhóm hàng hoá kết hợp với việc phân tích tình hình cung ứng và dự trữ, có thể đề ra các chính sách cụ thể đối với từng nhóm và từng loại hàng hoá. Từ đó đưa ra các chính sách sử dụng vốn lưu động căn cứ vào hoạt động và tính chất thị trường cung ứng. Giả sử theo phân tích, máy xúc đào gầu sấp, có giá trị ổn định, nhà cung cấp đã quen biết, thời gian cung ứng dài hạn, dự trữ yêu cầu kỹ thuật đơn giản thì cần tận dụng chính sách tín dụng giao hàng trên cơ sở do cấp phòng quản lý. Nhờ sử dụng chính sách tín dụng giao hàng nên Công ty còn có thể chiếm dụng dược một khoản vốn của nhà cung ứng để sử dụng trong một thời gian nhất định. Khi Công ty thực hiện chính sách này có nghĩa là tài sản lưu động của Công ty cũng giảm đi một lượng tuơng tự. 2.2.3. Sử dụng hợp lý chính sách bán chịu để tăng doanh thu. Như ở chương II đã phân tích: Công ty Xây Lắp và Kinh Doanh Vật Tư Thiết Bị hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh các loại máy móc xây dựng là chủ yếu, khách hàng có nhu cầu sản phẩm dịch vụ của công ty thường sử dụng nguồn vốn Ngân sách Nhà nước cấp hoặc vốn của các tổ chức tài trợ. Mà nguồn vốn này thường có tốc độ rải ngân rất chậm, hơn nữa phải qua nhiều cấp mới đến tay người sử dụng. Do đó, việc công ty buộc phải cho khách hàng chịu nợ và thanh toán chậm thường xuyên xảy ra. Trên thực tế, trong ba năm qua, các khoản vốn bị chiếm dụng (Năm 2001: Các khoản phải thu là 75.823triệu) của công ty thường chiếm tỷ trọng rất cao buộc công ty phải tìm các khoản vay ngắn hạn để bù đắp cho nên chi phí hoạt động tài chính của công ty cao hơn thu nhập hoạt động tài chính. Một phần do lãi vay tăng lên, một phần do các chi phí đòi nợ tăng.Tuy nhiên, công ty muốn tiêu thụ được hàng hoá, muốn có việc làm cho công nhân viên thì phải chấp nhận tất cả những điều đó. Chính vì vậy, công ty cần chủ động thực hiện chính sách bán chịu để tiếp tục sản xuất kinh doanh bình thường mà không bị thiệt hại nhiều. Mặt khác, kinh doanh trong cơ chế thị trường, việc bán chịu hàng hoá trở thành một thứ công cụ khuyến mại của người bán mà vai trò của nó là không thể phủ nhận được trong việc thu hút thêm khách hàng mới và tăng doanh thu bán hàng. Vì vậy, công ty cần phải: - Xác định mục tiêu bán chịu: Nhằm thúc đẩy tăng doanh thu, giải toả hàng tồn kho, gây uy tín về năng lực tài chính của doanh nghiệp. - Xây dựng các điều kiện bán chịu: thông thường căn cứ vào mức giá, lãi suất nợ vay và thời hạn bán chịu. - Tính toán hiệu quả của chính sách bán chịu: thực chất là so sánh giữa các chi phí phát sinh do bán chịu với lợi nhuận mà chúng mang lại. Trong cơ chế thị trường hiện nay, bán chịu được coi như là một trong những biện pháp để đẩy nhanh tiêu thụ. Mâu thuẫn ở đây là đẩy nhanh tiêu thụ trong trường hợp này lại làm chậm kỳ luân chuyển vốn, giảm số vòng quay vốn lưu động. Chính vì vậy, để tính toán hiệu quả của chính sách bán chịu, công ty phải căn cứ vào chỉ tiêu lợi ích tài chính bán chịu: LBC = DTNB - CPBC Trong đó: LBC: lợi ích bán chịu DTNBC: chênh lệch thu nhập nhờ bán chịu DTNBC=( DTBC - CF1) - (DT0 -CF0) Với: DTBC: Doanh thu đạt được nhờ có bán chịu DT0: Doanh thu đạt được nếu không bán chịu CF0: Chi phí toàn bộ khi không bán chịu CF1: chi phí toàn bộ khi có bán chịu Chi phí bán chịu: CFBC = CFk + CFql + CFth CFk: Lãi phải trả cho khoản phải thu vì bán chịu CFql: Chi phí quản lý do bán chịu như đi lại, điện thoại, công văn, tiền lương... CFth: Chi phí thu hồi nợ khác ==> LBC =[(DTBC - CF1) - ( DT0 -CF0)] -(CFk + CFql + CFth) Trên đây là cách tính toán lợi ích của một chính sách bán chịu so với không bán chịu. Điều quan trọng nhất, công ty cần gắn liền một cách chặt chẽ việc bán chịu với các chính sách thu hồi công nợ và các hình thức chiết khấu,giảm giá phù hợp, mềm dẻo, linh hoạt nhằm giúp cho công ty nhanh chóng thu lại phần vốn4 bị chiếm dụng, tăng khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thu, đẩy mạnh tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Nhờ bán chịu hàng hoá, sản phẩm cho khách hàng, công ty có thể tiêu thụ được một lượng hàng lớn hơn so với không bán chịu cho khách hàng. Do đó doanh thu tiêu thụ tăng thêm làm cho các chỉ tiêu có liên quan đến doanh thu tiêu thụ cũng được cải thiện như vòng quay tiền, vòng quay hàng tồn kho, hiệu suất sử dụng vốn cố định. Tuy nhiên mặt trái của chính sách này là làm giảm một số chỉ tiêu như vòng quay vốn lưu động, kỳ thu tiền bình quân, doanh lợi tiêu thụ. Nhưng chính sách bán chịu cũng đem lại lợi ích thực tế cho công ty, mặc dù con số này nhỏ bé nhưng cũng góp phần cải thiện các chỉ tiêu về khả năng sinh lợi của công ty. Để thực hiện được chính sách này, công ty cần phải: - Giao trách nhiệm cho một bộ phận trong phòng kinh doanh chuyên giải quyết các vấn đề xung quanh chính sách bán chịu. - Có phương án xử lý cụ thể đối với từng khoản bán chịu sao cho giảm được các chi phí thu tiền, nợ khó đòi... đồng thời vẫn phải đảm bảo bù đắp được mọi rủi ro công ty có thể phải gánh chịu khi áp dụng việc bán chịu. - Thời hạn bán chịu không quá dài. - Khách hàng có khả năng thanh toán nợ trong tương lai. - Lãi suất nợ vay thấp. -Mức giá bán chịu phải cao hơn mức giá bán thanh toán ngay. 2.2.4. Quản lý thanh toán. Qua phân tích tình hình tài chính của Công ty ta thấy: Công ty thường bị khách hàng chiếm dụng vốn lớn nên Công ty thường phải vay nợ để bù đắp cho khoản này, làm ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty. Do đó, Công ty cần phải có một chính sách thanh toán hợp lý. Trước hết phải quản lý tốt các khoản phải thu, nhanh chóng thu hồi công nợ. - Giảm giá, triết khấu hợp lý với những khách hàng mua số lượng lớn và thanh toán đúng hạn. - Thực hiện chính sách thu tiền linh hoạt, mền dẻo nhằm mục đích vừa không làm mất thị trường vừa thu hồi được các khoản nợ dây dưa khó đòi. Bởi lẽ, trên thực tế, rõ ràng là nếu công ty áp dụng các biện pháp quá cứng rắn thì cơ hội thu hồi nợ lớn hơn nhưng sẽ khiến cho khách hàng khó chịu dẫn đến việc họ có thể cắt đứt các mối quan hệ làm ăn với công ty. Vì vậy, hết thời hạn thanh toán, nếu khách hàng vẫn chưa trả tiền thì công ty có thể tiến hành quy trình thu hồi nợ theo các cấp độ: + Gọi điện, gửi thư nhắc nợ, thư khuyên nhủ hoặc thư chuyển cho cơ quan chuyên trách thu hồi giúp. + Cử người đến gặp trực tiếp khách hàng để đòi nợ. + Cuối cùng, nếu các biện pháp trên không thành công thì phải uỷ quyền cho người đại diện tiến hành các thủ tục pháp lý. Mặt khác, đối với các khoản nợ bị khách hàng chiếm dụng cũ, Công ty cần phải dứt điểm theo dõi chặt chẽ và tuân thủ theo nguyên tắc: Các khoản nợ cũ phải dứt điểm so với các khoản nợ mới phát sinh. Ngoài ra, khi nền kinh tế thị trường ở nước ta ngày càng phát triển, Công ty có thể nghiên cứu xem xét chính sách thay thế tín dụng bằng đáo nợ (Factoring). Thực chất của chính sách này là việc doanh nghiệp giảm thiểu các khoản phải thu, phải trả trong cân đối tài chính nhằm tạo ra một bức tranh tài chính thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh thông qua một loại công ty tài chính trung gian là Factoring. Các khoản phải thu, phải trả xuất hiện khi Công ty có việc mua chịu và bán chịu. Khi đó, công ty Factoring sẽ đứng ra làm trung gian thanh toán các khoản này với một tỷ lệ chiết khấu thoả thuận (Thông thường là cao hơn lãi suất vay tín dụng ngắn hạn). 2.2.5. Đầu tư đổi mới công nghệ. Trong cơ chế thị trường hiện nay, khả năng cạnh tranh quyết định bởi chất lượng hàng hoá trên một đơn vị chi phí thấp nhất. Những năm qua, do máy móc thiết bị không theo kịp nhu cầu thị trường nên chất lượng sản phẩm của công ty chưa được cao. Vài năm trở lại đây, công ty đã từng bước hiện đại hoá công nghệ sản xuất và đã mang lại những hiệu quả kinh tế nhất định. Tuy nhiên, do số vốn dùng cho đổi mới công nghệ còn hạn hẹp (Vốn cố định năm 2001:17.948triệu) nên công ty tiến hành đổi mới công nghệ từng phần dẫn đến máy móc thiết bị của công ty thiếu đồng bộ, hạn chế hiệu suất tài sản cố định. Cho đến nay, phần giá trị TSCĐ còn lại của công ty chiếm khoảng 1/3 nguyên giá và một số TSCĐ đã khấu hao hết nhưng chưa có điều kiện đổi mới. Vì vậy, nhiệm vụ trước mắt của công ty là đẩy mạnh đổi mới công nghệ, nhanh chóng nắm bắt và ứng dụng khoa học- công nghệ kỹ thuật hiện đại vào sản xuất kinh doanh. Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đổi mới công nghệ nhằm góp phần thiết thực vào việc nâng cao kết quả và hiệu quả kinh doanh, công ty cần chú ý đổi mới đồng bộ các yếu tố cấu thành công nghệ: từ máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu, năng lượng đến nâng cao trình độ, kỹ năng kỹ xảo của người lao động, đổi mới tổ chức sản xuất và quản lý. Ttong thời gian tới, công ty nên thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, cụ thể như: - Công ty cần tính toán để đầu tư vào các bộ phận thiết yếu trước. Từng bước thay thế một cách đồng bộ thiết bị cho phù hợp với nhu cầu thị trường bằng việc đầu tư có hiệu quả vào công nghệ hiện đại hơn. Việc đổi mới công nghệ phải đảm bảo cân đối giữa phần cứng và phần mềm để phát huy hiệu quả của công nghệ mới. Khi mua các thiết bị máy móc cũng như bí quyết công nghệ công ty có thể thương lượng với các đối tác để được thanh toán theo phương thức trả chậm. - Tận dụng trang thiết bị máy móc hiện có trong công ty, ngoài ra phải tiến hành bảo dưỡng máy móc theo định kỳ thay cho việc cứ khi nào phát sinh sự cố thì công ty mới cử cán bộ kỹ thuật đến sửa chữa như hiện nay nhằm đảm bảo các trục trặc được sửa chữa kịp thời giúp cho dây chuyền sản xuất hoạt động liên tục và tiếp kiệm thời gian và công sức cho người trực tiếp lao động sản xuất. - Đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất. - Để nâng cao năng lực công nghệ, công ty cần phải xây dựng mối quan hệ với các cơ quan nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong và ngoài nước để phát triển công nghệ theo chiều sâu và từng bước hoàn chỉnh công nghệ hiện đại. - Tích cực đào tạo độ ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, khoa học quản lý, công nhân lành nghề trên cơ sở đảm bảo bồi dưởng vật chất thoả đáng cho họ. - Nâng cao trình độ quản lý, trong đó chú trọng đến vai trò của quản lý kỹ thuật. - Tiến hành các nghiên cứu, phân tích về thị trường, nhu cầu thị trường, năng lực công nghệ của công ty để lựa chọn máy móc thiết bị công nghệ phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho công ty. Hiệu quả đổi mới công nghệ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và tình hình tài chính của công ty nói riêng rất khó định lượng. Bởi lẽ cơ cấu sản phẩm của công ty đa dạng, giá trị các loại sản phẩm chênh lệch nhau nhiều, hơn nữa một loại thiết bị công nghệ không thể áp dụng cho hầu hết các loại sản phẩm của công ty. Nhưng thực tế đã chứng minh từ khi thực hiện việc nâng cấp đồng bộ hệ thống trang thiết bị phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tính từ năm 1999 đến năm 2001, vốn cố định giảm từ 19.152 xuống còn 17.948 trong khi đó hiệu suất sử dụng tài sản cố định lại tăng từ 5,62 lên 15,96. Đó cũng chính là những con số phản ánh hiệu quả của việc đổi mới công nghệ, trang thiết bị trong công ty. Qua đó ta thấy rõ được hiệu quả của đối mới công nghệ đối với hoạt động của công ty: Quy mô sản xuất tăng lên, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận. Do đó khả năng hoạt động của công ty cũng được cải thiện, sản phẩm sản xuất ra có chất lượng cao hơn nên tiêu thụ tốt hơn vì vậy khả năng sinh lợi của công ty cũng tăng lên. Ngoài ra đổi mới công nghệ còn làm cho cơ cấu vốn của công ty hợp lý hơn, và để thực hiện được tốt hơn nữa giải pháp này, công ty cần: - Công ty phải tiến hành những nghiên cứu, phân tích đánh giá xem đầu tư vào một thiệt bị công nghệ cụ thể nào đó có khả thi không, có thật sự cần thiết không, có đem lại hiệu quả không. - Công ty có đủ khả năng huy động các nguồn vốn trung và dài hạn để tài trợ cho hoạt động đổi mới thiết bị công nghệ của mình. - Công ty phải thiết lập được mối quan hệ với các công ty tư vấn về công nghệ để lựa chọn được thiết bị hiện đại phù hợp giá cả phải chăng. - Công ty cần tăng cường nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ công nhân kỹ thuật để có đủ kiến thức điều khiển, làm chủ công nghệ mới. 2.2.6. Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ lao động. Đội ngũ lao động là một yếu tố có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của một Doanh nghiệp. Ngày nay cho dù trên thế giới đã tạo ra được nhiều thiết bị tự động, Rô bốt thay thế con người trong hoạt động sản xuất, Tuy nhiên các máy móc đó cho dù hiện đại đến đâu đi nữa nếu thiếu sự điều khiển của con người cũng trở nên vô tác dụng. Trong qúa trình sản xuất kinh doanh lao động tác động đến mọi khẩu, đến mọi quá trình hoạt động từ khâu thu mua nguyên vật liệu, chế tạo ra sản phẩm đến quá trình tiêu thụ sản phẩm, hay nói cách khác lao động là nguồn gốc sáng tạo ra mọi của cải vật chất cho xã hội. Do đó công ty cần phải phát huy được sức mạnh của độ ngũ lao động khơi dậy trong họ tiềm năng to lớn tạo cho họ động lực để họ phát huy được hết khả năng. Khi đó công việc được giao cho họ sẽ đạt hiệu quả cao nhất. Tiêu chuẩn tối ưu của lao động đòi hỏi phải có trình độ kỹ thuật cao về chuyên môn và phải đào tạo có hệ thống. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, công ty cần phải có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lao động: Thứ nhất, công ty cần nâng cao tiêu chuẩn tuyển chọn lao động, đảm bảo chất lượng lao động tuyển thêm. Mặt khác do yêu cầu đổi mới công nghệ nên công ty cần khuyến khích người lao động không ngừng học hỏi nâng cao kiến thức để đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật. Thứ hai, người lao động chỉ có thể phát huy có hiệu quả khả năng và trình độ của họ khi được khuyến khích và đánh giá đúng khả năng vì vậy bên cạnh chính sách đào tạo bồi dưỡng trình độ, công ty cần phải chú ý đến việc phân phối thù lao lao động và thu nhập đúng với khả năng và công sức của người lao động. Làm được như vậy sẽ tạo ra động lực thúc đẩy người lao động tự nâng cao trình độ và năng lực để tiến hành công việc có chất lượng và hiệu quả cao góp phần tăng kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Nhìn chung công ty đã nhận thức được vai trò quan trọng của vấn đế phát triển nguồn nhân lực thông qua đào tạo nâng cao trình độ người lao động thể hiện: Công ty đã có chương trình đào tạo đội ngũ công nhân trực tiếp sản xuất về những kiến thức có liên quan đến kỹ thuật công nghệ, tổ chức công tác thi nâng bậc, nâng cấp cho công nhân lao động, bồi dưỡng kiến thức quản lý cho đội ngũ quản đốc, tổ trưởng sản xuất. Hình thức đào tạo tuy chưa được phong phú mới chỉ dừng lại ở hình thức truyền thống là cử cán bộ đi học tại các trường đại học. Vì vậy công ty cần mở rộng nội dung đào tạo kết hợp nâng cao năng lực chuyên môn kỹ thuật với nâng cao năng lực quản trị. Số lượng công nhân viên có trình độ đại học ở công ty còn ít. Công ty có thể thi tuyển dụng để có được những người có trình độ cao hoặc tuyển chọn những người trẻ tuổi, có năng lực để đào tạo đại học và trên đại học, đặc biệt là chuyên nghành Quản trị kinh doanh để nâng cao năng lực quản lý. Bên cạnh đó công ty cần đào tạo bộ phận chuyên trách Marketing. Ngoài ra công ty cần tranh thủ sự giúp đỡ của các nhà cung cấp công nghệ để nâng cao trình độ người lao động làm chủ các công nghệ mới. Hiệu quả của việc bồi dưỡng đội ngũ lao động là rất lớn. Việc công ty quan tâm đến đào tạo con người chắc chắn sẽ ảnh hưởng tốt đến quá trình sản xuất kinh doanh, từ đó góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực tài chính cho công ty. - Người lao động trực tiếp sản xuất sau khi được đào tạo, nâng cao tay nghề thì công việc làm sẽ chuẩn xác hơn, giảm tỷ lệ phế phẩm nâng cao chất lượng sản phẩm, thời gian hoàn thành công việc cũng rút ngắn đi. Do đó người lao động làm tăng năng suất và giảm chi phí sản xuất cá nhân góp phần nâng cao năng suất và giảm bớt chi phí sản xuất của toàn công ty nghĩa là hoạt động sản xuất của công ty đạt hiêụ quả cao hơn. - Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý công ty nghĩa là nâng cao hiệu quả của công tác quản lý. Cán bộ quản lý có năng lực sẽ biết bố trí đúng người đúng việc, góp phần vào việc sử dụng có hiệu quả nguồn nguyên vật liệu, thiết bị máy móc, sức lao động của công ty qua đó tác động tích cực đến việc nâng cao kết quả và hiệu quả kinh doanh của công ty. Nhà quản trị kinh doanh trình độ cao có khả năng chớp được ngôi sao sáng và biết cách động viên khuyến khích huy động mọi nguồn lực trong công ty để biến cơ hội kinh doanh thành khả năng sinh lợi cao. Tóm lại: việc đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty có thể đem lại hiệu quả vô cùng lớn đối với việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý có vai trò như những người trèo lái con thuyền công ty, nếu được đào tạo bồi dưỡng có đủ năng lực trình độ sẽ đưa được con thuyền đến những đích chiến lược đã vạch ra bằng con đường ngắn nhất ít sóng gió nhất và trong thời gian ngắn nhất. Để làm được như vậy, công ty cần: - Trích lập ngân quỹ phục vụ cho công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ lao động. - Có chính sách khuyên khích và hỗ trợ đối với cán bộ công nhân viên có điều kiện tự đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn. - Có chính sách sử dụng hợp lý những cán bộ công nhân viên đã qua đào tạo trình độ được nâng cao lên như đề bạt tăng bậc lương, tuyên chuyển vị trí công tác đến nơi phù hợp có trình độ cao hơn... Kết luận Trong chặng đường hình thành và phát triển của mình, giai đoạn hơn 10 năm đổi mới chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập chung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là thời kỳ khó khăn nhất đối với công ty nói riêng và các Doanh nghiệp Nhà nước nói chung. Tuy nhiên chính trong giai đoạn này, công ty đã khẳng định được sức mạnh của mình: Đứng vững và phát triển bằng chính nội lực của bản thân. Đúng là "lửa thử vàng, gian nan thử sức". Trong những năm qua công ty đã đạt được nhiều thành tích sản phẩm của công ty không ngừng cải tiến, đáp ứng được yêu cầu của thị trưởng, sản lượng, doanh thu tiêu thụ, lợi nhuận có xu hướng ngày càng tăng. Tuy nhiên bên cạnh những thành công đã đạt được, công ty vẫn còn nhiều hạn chế như cơ cấu vốn mất cân đối, hiệu quả sử dụng vốn chưa tương xứng với lượng vốn bỏ ra, ứ đọng vốn trong khâu thanh toán, chưa chú trọng đúng mức đến hoạt động Marketing... tất cả các điều đó làm cho tốc độ phát triển của công ty còn bị hạn chế. Theo ý chủ quan của mình, em đã nêu ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm tăng cường năng lực tài chính của công ty. Tuy nhiên do thời gian thực tập chưa được bao lâu, trình độ bản thân còn nhiều hạn chế bước đầu làm quen với tình hình thực tế nên em còn có những thiếu sót không thể tránh khỏi. Vì vậy em mong rằng sẽ nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô giáo và các bạn để bài viết hoàn thiện hơn, góp phần nhỏ bé làm cho công ty phát triển vững mạnh hơn. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3828.doc
Tài liệu liên quan