Vì khái niệm về thiếu việc làm khá rộng do đó việc xác định số người thiếu việc làm là rất khó khăn. Vì vậy nhất là khi việc xác định số người thiếu việc làm ở Việt Nam còn khó khăn nên chúng ta cần bám chắc khái niệm thiếu việc làm của ILO, từ đó chỉ xác định người thiếu việc làm ở dạng nhìn thấy còn những trường hợp khác nên đưa vào nhóm những người có việc làm nhưng không ổn định.
Tình trạng thiếu việc làm hiện nay tồn tại ở rất nhiều nước nhất là ở những nước đang phát triển như Việt Nam. Việc giải quyết vấn đề này phải có sự kết hợp của nhiều cấp, nhiều ngành và mang tính rất lan giải.
Từ những khái niệm trên có khái niệm về việc làm đầy đủ : Việc làm đầy đủ là sự thoả mãn nhu cầu về việc làm cho bất cứ ai có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân hay việc làm đầy đủ là trạng thái mà mỗi người có khả năng lao động, muốn làm việc thì đều có thể tìm được việc làm trong một thời gian tương đối ngắn.
65 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1064 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích thực trạng tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào - Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
N
3.812
4.010
4.650
5.146
XDCB
256
258
310
400
TN – sửa chữa
702
785
950
995
Khách sạn, nhà hàng
234
236
250
295
Vận tải, kho bãi
500
513
585
650
Tài chính tín dụng
61
62
65
82
QLNN – ANQP
212
219
220
223
Giáo dục đào tạo
733
735
742
751
Y tế
124
128
134
142
Văn hoá - TDTT
16
18
20
23
Đảng - Đoàn thể
135
138
142
150
Các ngành KTQD khác
401
412
396
520
Số lao động sử dụng trong nông nghiệp
28.079
38.341
28.000
27.702
(Báo cáo tình hình lao động huyện Mỹ Hàog giai đoạn 2001-2005)
Trong ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp thì lượng lao động tăng là cao nhất, đặc biệt là năm 2004 tăng 640 người so với năm 2003, năm 2005 tăng 496 người so với năm 2004. Số lượng lao động trong ngành này tăng cao như vậy bởi vì trong những năm gần đây thì một số doanh nghiệp trên địa bàn huyện đã đi vào hoạt động và thu hút được nhiều lao động trong huyện. Các ngành khác cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp cũng phát triển theo và thu hút nhiều lao động hơn trước kia. Đó là ngành xây dựng cơ bản để phục vụ cho tiến trình công nghiệp hoá (năm 2005 thu hút 400 lao động vào làm việc cao hơn năm 2004 là 90 người). Các ngành tài chính tín dụng, vận tải kho bãi cũng ngày càng thu hút được nhiều lao động vào làm việc hơn. Số lượng y bác sỹ, người phục vụ trong ngành y tế tăng cao chứng tỏ sự quan tâm sức khoẻ cho người dân ở huyện Mỹ Hào được chú trọng hơn, đảm bảo cho nguồn lao động có sức khoẻ tốt. Lượng lao động trong linh vực giáo dục đào tạo, văn hoá - TDTT, Đảng - đoàn thể tăng tương đối ổn định qua các năm cùng với sự tăng lên của số lao động trong độ tuổi. Số lao động làm việc trong những ngành KTQD khác biến động không đều (giảm ở năm 2004 nhưng lại tăng rất cao vào năm 2005) các ngành này chủ yếu là buôn bán, kinh doanh tại nhà Lượng lao động hoạt động trong ngành nông nghiệp ngày càng giảm, điều này chứng tỏ có sự di chuyển lao động từ ngành nông nghiệp sang các ngành khác. Sự di chuyển này cũng phù hợp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do vậy chúng ta cần phải có chương trình tạo việc làm phù hợp với các ngành nghề.
Qua số liệu bảng 2.7 ta thấy được tình hình lao động phân theo giới tính của huyện Mỹ Hào cũng khác nhau, cụ thể như sau : lượng lao động nam làm việc nhiều hơn lao động nữ, năm 2005 tổng số lao động nam làm việc tại các thành phần kinh tế là 1845 người, nữ là 1566 người. Sở dĩ số lao động nam làm việc nhiều hơn số lao động nữ bởi vì trên địa bàn huyện vẫn còn nhiều lao động nữ làm công việc tại nhà và chăm sóc con cái, mặt khác thì phụ nữ có sức khoẻ kém so với nam giới nên chỉ làm những công việc nhẹ. Ngoài ra chúng ta vẫn còn giữ quan niệm cho rằng người phụ nữ chủ yếu là chăm lo việc nhà còn đàn ông đi kiếm tiền là chủ yếu. Trên đây cũng cho thấy được số lượng lao động nam có trình độ chuyên môn đại học và trên đại học nhiều hơn so với nữ giới. Điều này chứng tỏ nam giới được chú trọng và có điều kiện học hành hơn nữ giới. Lao động nam có trình độ công nhân kỹ thuật là 701 người trong khi đó ở nữ là 443 người. Bởi vì nữ giới có sức khoẻ yếu hơn nam giới nên khi có trình độ chuyên môn là CNKT thì sẽ làm những công việc nặng nhọc, do đó sẽ phù hợp với lao động nam hơn. Lao động nữ chủ yếu là làm ở khu vực kinh tế Nhà nước (1329 người) trong khi đó số lượng này ở nam giới là 936 người. Nam giới làm việc dải dác đều hơn ở các thành phần kinh tế khác nhau so với nữ giới bởi vì tâm lý người lao động nữ muốn làm việc tại những chỗ ổn định, nhàn để chăm lo cho gia đình nhiều hơn, trong khi đó người lao động nam thì muốn thử thách chính mình, muốn làm ở những nơi có thu nhập cao. Như vậy cho thấy lao động phân theo thành phần giới tính ở huyện Mỹ Hào là không cân đối, lao động nam làm việc vẫn có tính cơ động hơn lao động nữ.
Bảng 2.7: Lao động phân theo giới tính ở huyện Mỹ Hào năm 2005
(ĐVT: người )
Thành phần kinh tế, giới tính
Tổng số
CNKT
THCN
Cao đẳng
Đại học
Thạc sỹ
Nam
1.845
701
637
169
330
08
Khu vực Nhà nước
936
195
374
105
255
07
Tập thể
460
236
162
25
36
01
Tư nhân
64
35
15
06
08
-
Cá thể
350
220
75
25
30
-
Hỗn hợp
28
12
09
06
01
-
Nước ngoài
07
03
02
02
-
-
Nữ
1.566
443
623
362
135
03
Khu vực Nhà nước
1.239
300
475
339
123
02
Tập thể
247
108
117
15
06
01
Tư nhân
05
03
02
-
-
-
Cá thể
65
26
25
08
06
-
Hỗn hợp
10
06
04
-
-
-
Cộng
3.411
1.144
1.206
531
465
11
(Báo cáo chương trình việc làm huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001-2005)
Như vậy vấn đề tạo việc làm cho lao động ở huyện Mỹ Hào còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Vì vậy khi ra chương trình tạo việc làm cho người lao động cần phải chú trọng đến các yếu tố này phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế của huyện Mỹ Hào đồng thời phù hợp với đặc điểm nguồn nhân lực tại huyện.
2.2. Phân tích thực trạng tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào
2.2.1. Phân tích những kết quả giải quyết việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001 – 2005
Với sự cố gắng của UBND huyện Mỹ Hào, các đơn vị đoàn thể, toàn thể nhân dân, các nhà đầu tưthì qua các năm qua huyện Mỹ Hào đã giải quyết được nhiều việc làm cho người lao động. Nhưng trong huyện vẫn còn rất nhiều lao động chưa có việc làm và còn rất nhiều lao động thiếu việc làm.
Bảng 2.8: Số lao động dư thừa ở huyện Mỹ Hào qua các năm.
(ĐVT : người)
Năm
Dân số
Số lao động có khả năng lao động
Hệ số nhàn dỗi
Số lao động dư thừa qua các năm
2001
81.343
33.749
31%
10.642
2002
82.156
34.434
30%
10.330
2003
82.997
35.138
29%
10.190
2004
83.827
35.844
27%
9.678
2005
84.655
36.522
26%
9.496
(Báo cáo chương trình việc làm huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001-2005)
Từ những số liệu trên cho thấy mặc dù số lao động có khả năng lao động của huyện Mỹ Hào tăng qua tất cả các năm, hệ số nhàn dỗi tuy có giảm nhưng không đáng kể .Vì vậy mà số lao động dư thừa được quy đổi qua các năm tuy có giảm nhưng không đều giữa các năm. Năm 2002 số lao động dư thừa được quy đổi giảm 312 người so với năm 2001; năm 2003 giảm 140 người so với năm 2002; nhưng năm 2004 lại giảm 512 người so với năm 2003; năm 2005 giảm hơn năm 2004 là 182 người. Lượng lao động dư thừa này chủ yếu ở khu vực nông thôn, vì điều kiện tìm chỗ làm việc là khó khăn mà chủ yếu họ tập chung vào việc trồng trọt và chăn nuôi. Thời gian làm việc của họ mang tính mùa vụ do đó xảy ra tình trạng thiếu việc làm cho lao động ở nông thôn. Do trong những năm gần đây huyện Mỹ Hào đã có nhiều chuyển đổi trong những ngành kinh tế mà tạo thêm được nhiều việc làm cho lao động trong huyện, giảm số lao động dư thừa. Trong hai năm 2003 – 2004 thì trên địa bàn huyện Mỹ Hào có nhiều công ty được đầu tư và đi vào hoạt động do vậy sẽ tạo điều kiện cho người lao động, đặc biệt là lao động ở nông thôn có thể đi làm, do đó mà số lao động nhàn dỗi được quy đổi giảm mạnh qua hai năm này. Mặt khác thì bản thân ngành nông nghiệp cũng có sự thay đổi về cơ cấu cây trồng, thâm canh tăng vụ, thị trường hoá ngành nông nghiệp do đó giảm tỷ lệ thiếu việc làm trong ngành nông nghiệp.
Như vậy thì mặc dù số lao động dư thừa được quy đổi qua các năm có giảm nhưng hệ số nhàn dỗi cũng rất lớn. Việc này là một tồn tại rất lớn ở huyện Mỹ Hào. Chúng ta cần phải có một chương trình tạo việc làm cho người lao động mà trước hết là lao động nhàn dỗi ở khu vực nông thôn
Trong những năm qua thì chúng ta đã giải quyết được việc làm cho nhiều người lao động. Nhưng giữa các ngành nghề, các thành phần kinh tế, giữa các khu vực là không giống nhau. Sau đây là những kết quả giải quyết việc làm ở huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001 – 2005.
Qua bảng số liệu 2.9 cho thấy số lao động được giải quyết việc làm mới tăng dần qua các năm: năm 2001 tạo được việc làm cho 1.170 người; năm 2002 tạo được việc làm cho 1.254 người và con số này ở năm 2003 là 1.270 người; năm 2004 là 1.325 người; nhưng đến năm 2005 thì giảm còn 1.315 người. Điều này chứng tỏ công tác tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào đã ngày càng đạt được nhiều thành công. Đó là sự cố gắng của toàn thể các ban ngành, đoàn thể và sự ủng hộ của toàn bộ nhân dân huyện Mỹ Hào.
Bảng 2.9 : Kết quả giải quyết việc làm ở huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001-2005, phân theo nhóm ngành kinh tế
Chỉ tiêu
Tổng số LĐ được giải quyết VL
CN – XD cơ bản
Nông nghiệp
Thương mại, dịch vụ
Số lượng (người)
%so với số lao động được giải quyết VL
Số lượng (người)
%so với số lao động được giải quyết VL
Số lượng (người)
%so với số lao động được giải quyết VL
2001
1.170
587
50,2%
233
19,9%
350
29,9%
2002
1.254
670
53,43%
246
19,62%
338
26,95%
2003
1.270
695
54,72%
220
17,32%
355
27,95%
2004
1.325
750
56,61%
180
13,58%
395
29,81%
2005
1.315
737
56,04%
182
13,84%
396
30,11%
(Báo cáo chương trình việc làm huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001 – 2005)
Trong đó số lao động được tạo việc làm mới ở ngành công nghiệp – xây dựng cơ bản chiếm tỷ lệ cao nhất và không ngừng tăng qua các năm: năm 2001 tạo được việc làm cho 587 lao động làm việc trong ngành công nghiệp – xây dựng cơ bản, chiếm 50.2% trong tổng số lao động được giải quyết việc làm; năm 2002 con số này là 670 người chiếm 53,45%; năm 2003 là 695 người chiếm 54,72%; năm 2004 là 750 người chiếm 56,6%; nhưng đến năm 2005 giảm chỉ còn 737 người chiếm 56.04%. Trong ngành nông nghiệp số lao động được tạo việc làm biến động không đều qua các năm: năm 2001 tạo việc làm cho 233 người chiếm 19,9% trong tổng số lao động được giải quyết việc làm; năm 2002 số lượng này tăng là 246 người nhưng chỉ chiếm 19.62% trong tổng số lao động được giải quyết việc làm; năm 2003 thì lượng lao động được giải quyết việc làm trong ngành nông nghiệp giảm cả về mặt tuyệt đối và tương đối: số lao động được giải quyết việc làm là 220 người chiếm 17,37%; đến năm 2004 tiếp tục giảm còn 180 người chiếm 13,58%; năm 2005 tăng không đáng kể là 182 người chiếm 13,84%. Sở dĩ có sự biến động trên vì trong thời gian gần đây huyện Mỹ Hào tiến hành công nghiệp hoá nền kinh tế rất mạnh, trên địa bàn huyện đã xuất hiện nhiều công ty, doanh nghiệp đến đầu tư và hoạt động, do đó đã tạo nhiều việc làm cho người lao động trong lĩnh vực công nghiệp – xây dựng cơ bản. Mặt khác trong ngành nông nghiệp thì diện tích gieo trồng bị giảm nhường chỗ cho ngành công nghiệp, mặc dù đã có nhiều biện pháp tạo việc làm cho người lao động trong nông nghiệp như thâm canh, tăng vụ, phát triển mô hình trang trại nhưng vẫn còn nhiều hạn chế do đó tạo được ít việc làm cho người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp. Ngoài ra công việc trong nông nghiệp lại nặng nhọc, thu nhập thấp mà lại mang tính thời vụ do đó người lao động có xu hướng tìm việc làm ở các ngành kinh tế khác. Cùng với tiến trình công nghiệp hoá thì ngành thương mại dịch vụ của huyện Mỹ Hào cũng phát triển mạnh trong những năm gần đây và tạo việc làm cho nhiều lao động. Số lao động được giải quyết việc làm trong ngành thương mại dịch vụ tăng qua các năm và ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số lao động được giải quyết việc làm: năm 2001 giải quyết việc làm cho 350 người trong ngành thương mại dịch vụ chiếm 29,9% trong tổng số lao động được giải quyết việc làm ở huyện Mỹ Hào; đến năm 2005 thì đã tăng thành 396 người chiếm 30,11%. Đây là những thành tựu nổi bật trong công tác tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào. Trong thời gian tới chúng ta phải tiếp tục giữ vững những thành tựu đã đạt được trong những năm qua và phải tạo việc làm cho nhiều người lao động hơn, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp vì lao động hoạt động trong ngành nông nghiệp ở huyện Mỹ Hào vẫn là chủ yếu (trên 80%).
Số lượng lao động được giải quyết việc làm theo thành phần kinh tế là cũng rất khác nhau qua các năm.
Cụ thể qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.10: Kết quả giải quyết việc làm ở huyện Mỹ Hào giai đoạn đoạn 2001-2005, phân theo thành phần kinh tế
(ĐVT: người)
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
Nhà nước
18
19
11
8
7
Tư nhân
529
538
540
544
540
Nước ngoài
235
242
245
320
326
Hỗn hợp
388
455
474
453
442
Tổng số lao động được giải quyết VL
1.170
1.254
1.270
1.325
1.315
(Báo cáo chương trình việc làm huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001 – 2005)
Trong khu vực Nhà nước thì hàng năm số lượng lao động vào làm việc mới chủ yếu là giảm: năm 2002 là 19 người; năm 2003 là 11 người; năm 2004 là 8 người; đến năm 2005 là 7 người. Những con số này giảm qua những năm gần đây là do một số doanh nghiệp Nhà nước ở huyện Mỹ Hào đã được cổ phần hoá, ngoài ra nhu cầu tuyển thêm lao động trong lĩnh vực này là rất ít. Khi có quyết định mới về chế độ hưu trí đối với các công nhân viên chức nhà nước thì có nhiều lao động làm việc trong lĩnh vực này thậm chí còn bị giảm biên chế nên số lao động được tạo việc làm trong thành phần kinh tế này giảm là điều không thể tránh khỏi.
Trong các thành phần kinh tế thì thành phần kinh tế tư nhân thu hút được nhiều lao động vào làm việc nhất, các doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn huyện chủ yếu là các công ty da giầy, may mặc nên tạo được nhiều việc làm cho người lao động có trình độ chuyên môn thấp. Lượng lao động được giải quyết việc làm ở thành phần kinh tế tư nhân chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số lao động được giải quyết việc làm (năm 2001 chiếm 45,21%; năm 2002 chiếm 42,9%; năm 2003 chiếm 42,52%; năm 2003 chiếm 41,06%; năm 2005 chiếm 41,06%). Số lượng lao động mới vào làm việc trong thành phần kinh tế tư nhân tăng về mặt số lượng: năm 2001 có thêm 529 lao động vào làm việc; năm 2002 tăng lên thành 538 người; năm 2003 là 540 người; năm 2004 là 544 người và đến năm 2005 giảm xuống còn 540 người. Tuy tăng về mặt tuyệt đối nhưng tỷ lệ trong tổng số lao động được giải quyết việc làm của thành phần kinh tế này giảm trong những năm từ 2001 đến năm 2005. Lý do của sự biến động này là ở các công ty tư nhân có yêu cầu tuyển dụng thấp do đó người lao động có trình độ chuyên môn thấp có cơ hội được làm việc nhiều hơn ở các thành phần kinh tế khác. Nhưng cũng ở thành phần kinh tế tư nhân vấn đề đảm bảo quyền lợi cho người lao động như đóng bảo hiểm, đảm bảo thời gian làm việc theo quy định không được chú trọng bằng các thành phần kinh tế khác nên người lao động có xu hướng chuyển sang các thành phần kinh tế khác. Do đó trong thời gian tới thì các cấp chính quyền ở huyện Mỹ Hào cần can thiệp nhiều hơn để người lao động làm việc trong thành phần kinh tế tư nhân được đảm bảo quyền lợi của mình. Ngày nay thành phần kinh tế tư nhân rất phát triển và tạo được rất nhiều chỗ làm cho người lao động, do đó chúng ta phải chú trọng đến những vấn đề trên để người lao động yên tâm làm việc trong thành phần kinh tế này.
Do có những chính sách thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào đầu tư và hoạt động như miễn giảm thuế, lới lỏng luật đầu tưnên đã ngày càng có nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào hoạt động trên địa bàn huyện, do đó mà số lượng lao động vào làm việc trong thành phần kinh tế này không ngừng tăng qua các năm: năm 2001 có thêm 235 lao động vào làm việc trong các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài; năm 2002 thêm 242 người; năm 2003 thêm 245 người; đặc biệt năm 2004 tăng mạnh là 320 người; năm 2005 là 326 người. Xu hướng của người lao động là muốn được vào làm việc trong thành phần kinh tế này bởi lẽ thu nhập cao, đồng thời quyền lợi của người lao động được đảm bảo hơn. Hầu hết các doanh nghiệp có vốn nước ngoài đều chú trọng đến việc đóng BHXH cho người lao động, đảm bảo thời gian làm việc theo đúng quy định, do đó người lao động sẽ yên tâm làm việc hơn. Nhưng những yêu cầu tuyển dụng của thành phần kinh tế này là tương đối cao và rất khắt khe. Các doanh nghiệp có vốn nước ngoài (doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài) thường tuyển dụng những người lao động có trình độ chuyên môn cao, có nhiều kinh nghiệm vào làm việc. Nhưng người lao động ở huyện Mỹ Hào lại có trình độ chuyên môn thấp, do đó trong thời gian tới chúng ta phải có chương trình đào tạo cho người lao động để người lao động có cơ hội vào làm việc trong thành phần kinh tế có yếu tố nước ngoài – là thành phần kinh tế có triển vọng nhất hiện nay.
Số lượng lao động được giải quyết việc làm trong thành phần kinh tế hỗn hợp biến động không đều qua các năm: năm 2001 là 388 người; năm 2002 tăng lên thành 455 người; năm 2003 là 474 người; đặc biệt năm 2004 con số này lại giảm ở 453 người và đến năm 2005 giảm xuống còn 442 người. Người lao động làm việc trong thành phần kinh tế này chủ yếu là do di chuyển từ các thành phần kinh tế khác. Vào những năm 2001, 2002, 2003 thì trên địa bàn huyện các thành phần kinh tế tư nhân và có yếu tố nước ngoài hoạt động chưa được nhiều do đó người lao động làm việc ở thành phần kinh tế hỗn hợp nhiều. Nhưng đến những năm 2004, 2005 thì các loại hình kinh tế khác phát triển rất nhiều và đi vào hoạt động thường xuyên do đó sẽ tạo được nhiều việc làm cho người lao động hơn, vì vậy mà số lao động vào làm việc trong thành phần kinh tế hỗn hợp hàng năm giảm.
Không những kết quả giải quyết việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào biến động không đều giữa các thành phần kinh tế, nhóm ngành kinh tế mà kết quả này còn rất khác nhau theo khu vực nông thôn, thị trấn. Số lao động được giải quyết việc làm trong khu vực nông thôn ở huyện Mỹ Hào biến động không đều qua các năm: năm 2001 thì có 398 người được giải quyết việc làm chiếm 34% tổng số lao động được giải quyết việc làm; do chuyển đổi cơ cấu cây trồng, thâm canh, tăng vụ, thị trường hoá sản xuất trong nông nghiệp, phát triển một số làng nghề thủ công mỹ nghệ trong khu vực nông thôn mà đến năm 2002 số lao động được giải quyết việc làm ở nông thôn tăng lên là 409 người nhưng tỷ lệ trong tổng số lao động được giải quyết việc làm thì lại giảm còn 32,65%. Nhưng đến năm 2003 số lao động được giải quyết việc làm trong nông thôn lại giảm về cả mặt tuyệt đối và tương đối. Vào những năm 2004, 2005 thì những con số này càng giảm mạnh: đến năm 2005 chỉ có 324 lao động được giải quyết việc làm trong khu vực nông thôn chiếm 19,93% tổng số lao động được giải quyết việc làm. Trong giai đoạn 2001-2005 thì số lao động được giải quyết việc làm ở khu vực thị trấn đều tăng rất nhanh và chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số lao động được giải quyết việc làm. Cụ thể qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.11: Kết quả giải quyết việc làm ở huyện Mỹ Hào – Hưng Yên
giai đoạn 2001 – 2005, phân theo khu vực
Chỉ tiêu
Tổng số lao động được tạo VL(1)
Nông thôn
Thị trấn
Số lượng (đv: người)
% so với (1)
Số lượng (đv: người)
% so với (1)
2001
1.170
398
34%
772
66%
2002
1.254
409
32,65%
845
67,35%
2003
1.270
349
27,48%
921
72,52%
2004
1.325
324
24,4%
1.001
75,6%
2005
1.315
262
19,93%
1.053
80,07%
(Báo cáo chương trình việc làm huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001 – 2005)
Năm 2001 số lượng lao động được giải quyết việc làm ở thị trấn là 772 người chiếm 66% trong tổng số lao động được giải quyết việc làm; đến năm 2005 đã tăng lên là 1.053 lao động được giải quyết việc làm ở thị trấn chiếm đến 80,07% số lao động được giải quyết việc làm. Có sự chênh lệch này chủ yếu là do những năm gần đây thì lao động di chuyển ra thị trấn nhiều, cụ thể là thị trấn Bần Yên Nhân. Người lao động có xu hướng ra làm việc ở thị trấn nhiều vì dù sao ở thị trấn cũng được chú trọng đầu tư nhiều hơn, có nhiều công ty hơn,do đó cơ hội tìm được việc làm ở thị trấn cao hơn rất nhiều ở nông thốn. Trong khi đó người lao động ở nông thôn nhàn dỗi rất nhiều, thu nhập thì thấp do đó họ ra thị trấn để tìm việc nhiều hơn. Cũng do việc công nghiệp hoá ở huyện Mỹ Hào thường tập trung ở thị trấn do đó công tác tạo việc làm cho người lao động ở thị trấn cũng đạt được những kết quả cao hơn ở nông thôn. Trong thời gian tới thì vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn là rất cần thiết để tránh tình trạng người lao động di chuyển từ nông thôn ra thị trấn gây áp lực công tác tạo việc làm, đảm bảo an ninh xã hội.
Như vậy trong giai đoạn 2001 – 2005 số lao động được giải quyết việc làm hàng năm đều tăng. Tuy vậy thành tựu này không cân đối giữa các thành phần kinh tế, nhóm ngành kinh tế, theo khu vực. Vì vậy trong thời gian tới chúng ta cần phải có một chương trình tạo việc làm cho người lao động phù hợp hơn giữa các ngành nghề, khu vực.
Đạt được những thành tựu ở trên thì không thể không kể đến sự hỗ trợ của Nhà nước, của địa phương dưới hình thức cho người dân vay vốn với lãi suất thấp, sử dụng quỹ hỗ trợ quốc gia giải quyết việc làm cho người lao động. Từ đó hàng năm đã giải quyết được nhiều việc làm cho người lao động. Hàng năm số dự án được đầu tư không ngừng tăng lên: năm 2003 tăng 15 dự án so với năm 2002, năm 2004 tăng 10 dự án so với năm 2003 và năm 2005 cũng tăng 10 dự án so với năm 2004. Số lượng lao động được giải quyết việc làm do nguồn quỹ này cũng tăng mạnh qua các năm: năm 2002 là 450 người; năm 2003 là 636 người; năm 2004 là 760 người; đến năm 2005 là 838 người. Số lao động được giải quyết việc làm bình quân trên một dự án cũng tăng qua các năm: Năm 2002 bình quân một dự án giải quyết được việc làm cho 10 người; đến năm 2003 là 10,6 người; năm 2004 là 10,8 người. Đây là những con số chứng tỏ sự thành công của việc sử dụng quỹ hỗ trợ QGGQVL cho người lao động của huyện Mỹ Hào, đồng thời cũng chứng tỏ sự quan tâm của Nhà nước đối với người lao động. Cụ thể qua bảng số liệu 2.12:
Bảng 2.12: Kết quả giải quyết việc làm ở huyện Mỹ Hào – Hưng Yên giai đoạn 2001-2005 do sự hỗ trợ của quỹ QGGQVL
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
Số dự án
45
60
70
80
Số lao động được giải quyết việc làm (đv: người)
450
636
760
838
(Báo cáo chương trình việc làm huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001 – 2005)
Việc sử dụng quỹ hỗ trợ QGGQVL chủ yếu là cho người lao động vay với lãi suất thấp, mở những lớp đào tạo nghề cho người lao động, phát triển những trung tâm giới thiệu việc làm cho người lao động, gửi người lao động đi học tập tại các cơ sở, các địa phương khácdo đó ngày càng nâng cao chất lượng cho người lao động ở huyện Mỹ Hào và tạo việc làm cho nhiều lao động hơn. Nhưng vấn đề sử dụng nguồn quỹ này còn chưa đạt được thành tựu tốt nhất, số vốn được vay của nguồn quỹ này không chỉ được người lao động tăng gia sản xuất, tạo việc làm cho chính mình mà ngoài ra họ còn sử dụng vào những việc khác nên sẽ gây lãng phí nguồn quỹ này. Vì vậy trong những năm tiếp theo chúng ta cần phải sử dụng nguồn quỹ này có hiệu quả hơn, cần phải xem xét những yêu cầu về việc vay vốn của người lao động.
Như vậy trong giai đoạn 2001 – 2005 thì lượng lao động được giải quyết việc làm đều tăng qua các năm. Đây là thành tựu rất to lớn của công tác tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào nhưng chúng ta vẫn còn một số tồn tại và vấn đề tạo việc làm cho người lao động vẫn còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố.
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào
2.2.2.1. Đất đai và tình hình sử dụng đất
Huyện Mỹ Hào là một huyện có dân số hoạt động trong ngành nông nghiệp là chủ yếu (trên 80%). Nhưng trong thời gian gần đây do quá trình công nghiệp hoá thì diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Vì thế mà người lao động trong nông nghiệp sẽ bị giảm diện tích canh tác, gây khó khăn cho việc giải quyết việc làm cho người lao động nông nghiệp. Mặc dù việc phát triển ngành công nghiệp cũng góp phần tạo nhiều việc làm cho người lao động nhưng lao động nhàn dỗi trong nông nghiệp vẫn còn rất nhiều. Vì vậy vấn để sử dụng đất ở Mỹ Hào vẫn còn nhiều bất cập. Chúng ta cần phải khai thác chiều sâu của đất, phân bổ diện tích sao cho phù hợp giữa nông nghiệp và công nghiệp. Huyện chúng ta thuộc khu vực đồng bằng nên hướng chính vẫn là chú trọng biện pháp thâm canh tăng vụ trong sản xuất nông nghiệp, thực hiện tốt việc chuyển đổi cơ cấu giống lúa, chọn giống có năng suất cao, ngắn ngày, chống chịu tốt, chú trọng xác định đúng đắn thời vụ gieo cấy cho từng loại, đồng thời chúng ta cần phải tiến hành thị trường hoá nền sản xuất nông nghiệp để tạo việc làm thêm cho lao động nhàn dỗi trong nông nghiệp.
Vì vậy thì với xu hướng giảm diện tích đất nông nghiệp , tăng diện tích đất công nghiệp thì vấn đề sử dụng đất cũng ảnh hưởng rất lớn trong việc giải quyết việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào.
2.2.2.2. Cơ sở hạ tầng và sự áp dụng khoa học kỹ thuật
Trong những năm gần đây thì việc phát triển cơ sở hạ tầng ở huyện Mỹ Hào luôn được chú trọng. Hệ thống đường giao thông trên địa bàn huyện đa dạng và có chất lượng cao. Hệ thống thông tin liên lạc phát triển rộng khắp giúp việc giao lưu buôn bán của người dân được dễ dàng hơn. Mạng lưới tài chính tín dụng tiếp tục được phát triển mở rộng hỗ trợ cho người dân vay vốn để tạo việc làm tăng thu nhập cho gia đình. Bảo hiểm xã hội của huyện được đầu tư và luôn hoạt động tốt đảm bảo cho người lao động trong địa bàn huyện được đảm bảo quyền lợi của mình. Đây là một lợi thế lớn trong việc tạo việc làm cho người lao động.
Tình hình sử dụng khoa học kỹ thuật đang được chú trọng đầu tư ở cả ngành nông nghiệp và công nghiệp. Nhờ có khoa học kỹ thuật mà trong nông nghiệp đã áp dụng công nghệ sinh học mà cơ cấu giống cây trồng ngày càng cho năng suất cao, chất lượng cao, có giá trị kinh tế lớn. Trong công nghiệp nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật mà năng suất lao động không ngừng nâng lên, chất lượng sản phẩm tăng cao có sự cạnh tranh cao trên thị trường như sản phẩm may mặc, giày daNgoài ra sự áp dụng khoa học kỹ thuật cũng giúp người lao động làm việc đỡ vất vả hơn.
2.2.2.3. Tình hình sử dụng vốn
Vốn là điều kiện tiền đề và hết sức quan trọng trong vấn đề phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động. Nhưng hiện nay thì nguồn vốn còn hạn hẹp, người lao động có rất ít vốn, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, do đó chưa tận dụng được hết nguồn lực trong sản xuất. Mặc dù huyện cũng có nhiều biện pháp giúp tạo vốn cho người lao động như cho vay dài hạn với lãi xuất thấp, giảm thuế đối với các doanh nghiệp nhưng hiện tượng thiếu vốn để sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện còn rất nhiều. Đặc biệt trong ngành nông nghiệp thì việc đầu tư vốn còn rất ít mặc dù có trên 80% lao động trong ngành này. Vì thế vấn đề sử dụng vốn cũng ảnh hưởng đến việc tạo việc làm cho người lao động.
2.2.2.4. Lực lượng lao động
Lực lượng lao động ở huyện Mỹ Hào là tương đối dồi dào và không ngừng tăng qua các năm. Nhưng nói chung thì lực lượng lao động này vẫn còn là lao động thủ công. Số người có trình độ đại học, cao đẳng là chưa cao vì vậy vấn đề tạo việc làm cho người lao động là rất khó khăn. Mặt khác thì trên địa bàn huyện số người thất nghiệp và thiếu việc làm là rất nhiều, đặc biệt là lao động ở nông thôn, mà những lao động này chỉ làm việc theo mùa vụ được thôi vì họ còn phải sản xuất nông nghiệp. Do đó điều khó khăn cho công tác tạo việc làm cho người lao động, nhất là đối tượng lao động này. Chúng ta phải có phương pháp đào tạo nghề cho những lao động phổ thông đồng thời có biện pháp để thu hút người lao động có trình độ chuyên môn cao về quê để làm việc như khuyến khích tài chính, tinh thần
2.2.2.5. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế
Trong những năm gần đây nền kinh tế của huyện Mỹ Hào có sự chuyển đổi rõ rệt, đó là sự dịch chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp. Mặc dù sự chuyển đổi này làm cho nền kinh tế tăng trưởng qua các năm qua đồng thời tạo việc làm cho nhiều lao động trong huyện. Nhưng sự dịch chuyển này chưa có sự đồng bộ, sản xuất kinh doanh còn chưa ổn định, quy mô còn nhỏ, trình độ công nghệ chưa hiện đại, thiếu đổi mới. Trong thời gian tới huyện cần phải chú trọng phát triển các ngành nghể tiểu thủ công nghiệp để tạo việc làm cho người lao động, nhất là lao động ở nông thôn.
2.2.2.6. Thị trường tiêu thụ
Dù ở bất kỳ hình thức sản xuất kinh doanh nào thì thị trường tiêu thụ đều đóng vai trò quan trọng. Nhưng sản phẩm của các doanh nghiệp do thiếu trình độ sản xuất kinh doanh kém, vốn còn ít, nguyên liệu phải nhập từ nơi khác đến nên còn có chất lượng thấp, mẫu mã không đa dạng, kém sức cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy trong thời gian tới phải tập trung đầu tư vốn, khoa học công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ. Mặt khác thì chúng ta cần phải chú trọng tới công tác giới thiệu sản phẩm trên các kênh thông tin đại chúng để người dân biết được sản phẩm của mình, mở rộng thị trường sang các tỉnh khác.
2.2.2.7. Cơ chế chính sách của địa phương
Các cơ quan, ban ngành của huyện Mỹ Hào luôn hỗ trợ và nhiệt tình ủng hộ dể thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của huyện. Huyện đã tập trung thực hiện các chương trình quốc gia, đồng thời là chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, xoá đói giảm nghèo. Trong 5 năm qua việc thực hiện giải quyết việc làm cho người lao động đạt kết quả khá tốt, hàng nghìn lao động được tạo việc làm để nâng cao thu nhập. Bằng các biện pháp như cho vay vốn với lãi suất thấp, điều chỉnh luật đầu tư tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Ngoài ra địa phương cũng chú trọng vào việc đầu tư cho các cơ sở dạy nghề và hàng năm đã đào tạo nghề cho hơn 1000 lao động. Vì thế có thể nói chính sách của địa phương luôn góp phần tích cực cho việc tạo việc làm cho người lao động.
Vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Vì thế khi nghiên cứu chính sách tạo việc làm cho người lao động cần phải tận dụng những yếu tố tích cực và khắc phục những khó khăn để được kết quả cao.
Mặc dù trong những năm qua thì rất nhiều lao động của huyện Mỹ Hào được tạo việc làm, con số này đều tăng qua các năm nhưng vẫn còn một số tồn tại.
2.2.3. Những tồn tại và nguyên nhân
Dưới sự chỉ đạo của Huyện uỷ- UBND huyên, bằng những quyết tâm và những việc làm cụ thể của các cấp, ban ngành đã sắp xếp được số lượng việc làm tương đối cao. Góp phần giảm áp lực đáng kể nhu cầu bức xúc của lao động việc làm trong huyện, tạo lập được thị trường lao động việc làm tương đối bình ổn, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân từng bước được nâng cao. Tuy nhiên vẫn còn gặp những khó khăn tồn tại như sau :
Do đặc điểm và tính chất của nông nghiệp, cho nên lao động trong khối nông nghiệp còn có những hạn chế nhất định như trình độ thấp, tính thời vụ, chủ yếu là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo và có đào tạo trong thời gian rất ngắn, nên tay nghề chưa cao, người lao động chưa bắt nhịp được với nhịp sống công nghiệp, sản phẩm làm ra chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu hiện tại, dẫn đến thu nhập thấp. Chúng ta chưa có trung tâm đào tạo nghề quy mô tiêu chuẩn nên số lượng lao động đào tạo chưa nhiều, chất lượng đào tạo còn chưa cao.
Số lao động được đào tạo chưa nhiều, số lao động có trình độ chuyên môn còn rất thấp (năm 2005 số lao động này chiếm 9,5% tổng số lao động trong độ tuổi) vì thế gây khó khăn trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động. Số lao động được giải quyết việc làm của huyện thấp hơn số lao động có nhu cầu cần được giải quyết việc làm. Số lao động ở nông thôn còn chiếm tỷ lệ khá cao.
Các ngành nghề ở địa phương chưa được đầu tư chiều sâu, quy trình công nghệ không được đổi mới, sự áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất còn hạn chế, chưa phục vụ tốt cho người lao động trong công việc.
Công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, công ty TNHH, công ty cổ phần còn lỏng lẻo dẫn đến việc đào tạo và tuyển dụng còn bị động, chưa có kể hoạch kết hợp giữa đào tạo và tuyển dụng. Ngoài ra người lao động chưa được đảm bảo quyền lợi tối đa như việc đảm bảo chế độ BHXH, người thất nghiệp chưa được quan tâm nhiều.
Việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế mặc dù có sự tiến chuyển mạnh nhưng vẫn chưa kéo theo được sự dịch chuyển cơ cấu lao động nhiều. Vấn đề đào tạo nghề cho người lao động mới chỉ là trên phương diện số lượng mà chưa gắn với nhu cầu về lao động của các ngành nghề, các thành phần kinh tế.
Ngân sách cho vấn đề tạo việc làm cho người lao động mặc dù có tăng trong thời gian vừa qua nhưng vẫn chưa đủ để giải quyết được việc làm cho nhiều lao động trong huyện. Ngoài ra các cán bộ làm công tác quản lý và tạo việc làm cho người lao động chưa được coi trọng cả về số lượng và chất lượng.
Cơ sở hạ tầng trong huyện Mỹ Hào có chất lượng chưa cao. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào trọng đời sống và sản xuất tuy đã được chú trọng nhưng vẫn còn lạc hậu. Nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong tiểu thủ công nghiệp vẫn dùng lao động chân tay là chủ yếu, vì vậy mà người lao động làm việc vất vả mà năng suất lại không cao.
Người lao động trong huyện vẫn còn tự tìm việc làm cho mình là chủ yếu, không thông qua những trung tâm tư vấn việc làm, không trông chờ vào Nhà nước. Phương hướng hàng năm của các cấp ngành về vấn đề giải quyết việc làm chưa được đề cập đúng vị trí. Mặt khác do quá trình điều tra lao động mà số lượng lao động có tính sai lệch dẫn đến việc ra quyết định sai về vấn đề tạo việc làm cho người lao động.
Chính vì thế mà trong thời gian gần đây chúng ta cần phải có phương hướng tạo việc làm cho người lao động phù hợp hơn, giải quyết việc làm cho người lao động trong huyện, đặc biệt là lao động nông thôn.
CHƯƠNG 3 : NHỮNG GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM
CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở HUYỆN MỸ HÀO – HƯNG YÊN
3.1. Mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động trong thời gian tới
Trong thời gian tới mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động được quan tâm rất nhiều. Bằng nhiều hướng khác nhau nhưng chủ yếu trong thời gian tới việc tạo việc làm cho người lao động phụ thuộc vào sự phát triển và chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Ngoài ra các công ty cổ phần và công ty TNHH trên địa bàn huyện có kế hoạch đi vào hoạt động do đó sẽ giải quyết việc làm nhiều lao động trong huyện.
Biểu 3.1 : Mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào trong thời gian tới
Năm
Tổng số việc làm
Do phát triển kinh tế, chuyển đổi cơ cấu (đv : người)
Do công ty cổ phần, công ty TNHH (đv: người)
2006
15.400
11.770
3.630
2007
15.970
12.120
3.850
2008
16.550
12.430
4.120
2009
17.305
12.845
4.460
2010
18.130
13.260
4.870
(Báo cáo chương trình việc làm huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001 - 2005)
Để đạt được mục tiêu trên, giảm bớt được những khó khăn, nguyên nhân gây cản trở việc tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào thì trong thời gian tới chúng ta có những giải pháp cụ thể.
3.2. Những giải pháp tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào trong thời gian tới
Trong thời gian tới chúng ta có nhiều giải pháp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo việc làm cho người lao động. Chúng ta cần kết hợp những giải pháp này để cho người lao động trong huyện Mỹ Hào có đủ việc làm, nâng cao thu nhập, giúp xoá đói giảm nghèo. Sau đây là một số phương pháp chủ yếu :
3.2.1. Chính sách của địa phương
Trong thời gian tới chính sách của huyện Mỹ Hào là phải gắn thực hiện chương trình phát triển kinh tế với chương trình việc làm thì việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp – công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và đầu tư xây dựng cơ bản – dịch vụ thương mại có nghĩa là cơ cấu đầu tư vốn vào lĩnh vực này cũng thay đổi, sẽ tạo dựng được những bước chuyển biến tích cực trong lĩnh vực việc làm. Chúng ta cần phải có một chương trình phát triển kinh tế sao cho cân đối về lực lượng lao động giữa các ngành với nhau, không để tình trạng có ngành thừa lao động nhưng có ngành lại khó khăn khi tìm lao động.
Trong thời gian tới mục tiêu cơ cấu nông nghiệp – công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp – dịch vụ, thương mại đạt tỷ lệ 18,9% - 57,6% - 23,5%. Bình quân đầu người đạt trên 900 USD/ người/ năm. Như vậy trong thời gian tới chúng ta tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại. Đây là cách tốt nhất để phát triển kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào vì lực lượng lao động trong nông nghiệp của huyện hiện nay nhàn dỗi rất nhiều, do đó việc phát triển ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ sẽ góp phần giải quyết việc làm cho lượng lao động này. Ngoài ra việc tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ cũng phù hợp với xu hướng phát triển của đất nước ta.
Mặt khác chính sách của địa phương trong thời gian tới phải quan tâm hơn đối với người lao động, tạo những cơ hội cho người lao động có thể tự tạo việc làm cho chính bản thân mình như cho vay vốn với lãi xuất thấp và phải quan tâm đến người lao động thiếu việc làm và thất nghiệp trong huyện hơn như trợ cấp, giới thiệu việc làm. Ngoài ra cần phải chú trọng đến việc kiểm tra giám sát việc đảm bảo quyền lợi cho người lao động như việc đóng BHXH cho người lao động, đảm bảo thời gian làm việc theo đúng tiêu chuẩn ở các cơ sở sản xuất kinh doanh, nhất là các doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn huyện. Để giải quyết việc làm cho nhiều lao động thì chúng ta cần phải tập trung đến những chương trình tạo việc làm cho người lao động hơn cũng như nâng cao chất lượng của các cán bộ chuyên trách về lĩnh vực lao động việc làm. Có như vậy thì công tác tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào mới thành công hơn, người lao động trong huyện đỡ vất vả hơn.
3.2.2. Biện pháp trong nông nghiệp
Trong thời gian tới, ở huyện Mỹ Hào phải tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện, chúng ta đề ra mục tiêu đảm bảo diện tích trồng lúa cả năm 8.150 ha với năng suất 12,3 tấn/ha. Trong đó diện tích trồng lúa có giá trị hàng hoá cao đạt 70% tổng số diện tích lúa; diện tích trồng cây vụ đông 650 ha; phát triển nhiều mô hình trang trại đạt tiêu chí mới, giá trị trên một ha canh tác đạt 37,5 triệu đồng; giá trị sản xuất ngành nông nghiệp đạt 253 tỷ đồng tăng 5% so với năm 2005 trong đó giá trị trồng trọt đạt 134 tỷ, giá trị chăn nuôi – thủy sản đạt 119 tỷ đồng. Ngoài ra phải tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình sản xuất giống lúa; tăng cường công tác quy vùng, thực hiện sản xuất ở các xã, thị trấn, đẩy mạnh chăn nuôi trong các hộ nông dân, phấn đấu tăng đàn lợn, tận dụng triệt để mặt nước để nuôi trồng thuỷ sản đặc biệt là thủy sản có giá trị hàng hoá cao.
Vì ngành nông nghiệp của huyện Mỹ Hào hiện nay gặp nhiều khó khăn như diện tích đất canh tác giảm, nhưng người lao động làm việc trong ngành này lại nhiều, đây là áp lực rất lớn trong công tác tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào nhất là lao động trong nông nghiệp. Do đó trong thời gian tới chúng ta phải có các biện pháp như: khai thác chiều sâu của đất, thâm canh, tăng vụ, tạo ra nhiều giống mớiđể tạo ra nhiều việc làm cho lao động ở nông thôn, tạo thu nhập cho người nông dân.
Ngành nông nghiệp Mỹ Hào còn lạc hậu nên trong thời gian tới phải đầu tư vốn để phát triển kết cấu hạ tầng cơ sở trong nông thôn. Đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ trong nông nghiệp, từng bước cơ giới hoá từng khâu sản xuất, chuyển đổi cơ cấu vật nuôi theo hướng năng suất cao, tăng vụ, tăng diện tích cây vụ đông, tăng cường công tác khuyến nông bảo vệ thực vật. Thực hiện đổi ruộng đất xong ở 13 xã, thị trấn; thực hiện bê tông hoá kênh mương. Chúng ta cần có kế hoạch sử dụng quỹ đất, mặt nước cho hợp lý, không để người lao động ngồi chơi mà đất đai mặt nước bỏ không sử dụng. Ngoài ra cần phải chú trọng đến việc thị trường hóa nông nghiệp, phải có phương hướng trồng trọt, chăn nuôi không những đáp ứng đủ nhu cầu của người dân trong huyện mà còn có thể đem bán ở những địa phương khác. Có thực hiện các biện pháp trên thì người lao động trong nông nghiệp làm việc nhàn hạ hơn, có nhiều việc làm hơn, giảm bớt lượng lao động thiếu việc làm trong nông nghiệp, xoá đói giảm nghèo trong nông thôn. Huyện Mỹ Hào là huyện làm nông nghiệp là chủ yếu nên chúng ta cần phải khai thác triệt để thuận lợi trong nông nghiệp để tạo việc làm cho người nông dân.
3.2.3. Biện pháp trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản
Hiện nay số lao động làm việc trong ngành công nghiệp,tiểu thủ công nghiệp ở huyện Mỹ Hào ngày càng tăng, điều này chứng tỏ việc phát triển ngành này sẽ hứa hẹn rất nhiều trong việc tạo việc làm cho người lao động. Nhất là khi ngành nông nghiệp tuy có phát triển nhưng còn bị hạn chế bởi diện tích canh tác có hạn thì việc phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong những năm tới là mục tiêu hàng đầu trong việc phát triển kinh tế huyện Mỹ Hào đồng thời tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động trong huyện.
Trong năm 2006 huyện Mỹ Hào đặt ra mục tiêu phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng 28%; giá trị sản xuất đạt 772 tỷ đồng. Để đạt được mục tiêu trên thì trong những năm tới chúng ta phải ưu tiên phát triển công nghiệp, đầu tư kết cấu cơ sở hạ tầng; quy hoạch khu công nghiệp, khu dân cư, khu đô thị. Phải có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế vào đầu tư vào phát triển như việc giảm thuế... Tạo môi trường đầu tư thông thoáng như thủ tục cấp giấy phép, cấp đất, công tác đền bù, giải toả, bàn giao đất cần phải làm nhanh, gọn, rút ngắn thời gian chờ đợi đầu tư của doanh nghiệp để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Để hỗ trợ ngành nông nghiệp đang rất khó khăn thì trong thời gian tới chúng ta cần phải ưu tiên cho những dự án hàng chế biến nông sản thực phẩm. Nhưng việc tiếp nhận dự án đầu tư không nên vội vàng mà phải xem xét tới vấn đề đảm bảo vệ sinh môi trường để không ảnh hưởng tới sức khoẻ người dân. Hiện nay việc phát triển công nghiệp trên địa bàn huyện đang là phương hướng hàng đầu trong việc giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động ở Mỹ Hào, thể hiện ở số lao động làm việc tại các công ty cổ phần và công ty TNHH ngày càng tăng. Nhưng việc giải quyết việc làm cho những lao động nhàn dỗi trong khu vực nông nghiệp thì không thể thiếu đến các cơ sở tiểu thủ công nghiệp ở cơ sở. Vì thế trong thời gian tới chúng ta phải tập trung đầu tư các chương trình phát triển kinh tế, chú trọng phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp ở cơ sở; khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống như : chạm gỗ, chạm bạc, làm Tương Bần, làm thảm chiếu cói, mây tre đan xuất khẩu, đa dạng hoá các sản phẩm, trợ giúp, tìm đầu ra cho sản phẩm, trợ giúp vốn, đào tạo nghề cho người lao động. Việc khôi phục những làng nghề truyền thống vừa giúp tạo việc làm cho lao động nhàn dỗi ở nông thôn, tăng thêm thu nhập vừa mang tính bản sắc dân tộc sâu sắc. Do đó dù có phát triển kinh tế đến mức nào thì chúng ta cũng không thể bỏ qua những nghề truyền thống của quê hương.
Về lĩnh vực xây dựng cơ bản, huyện Mỹ Hào trong thời gian tới phải đẩy mạnh tiến độ thi công những công trình được giao như việc xây dựng cầu Yên Xá, nâng cấp cải tạo đê Kim Sơn lên đường giao thông nông thôn, xây dựng dự án cụm làng nghề xã Dị Sử, Nhân HoàVấn đề xây dựng cơ bản là vấn đề phải được quan tâm đầu tiên vì nó sẽ góp phần to lớn trong vấn đề thu hút những nguồn vốn đầu tư của các nhà đầu tư, do đó sẽ góp phần vào việc phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào.
3.2.4. Giải pháp về dịch vụ, thương mại
Vấn đề dịch vụ thương mại ở huyện Mỹ Hào trong thời gian qua chưa được chú trọng mạnh, vì vậy trong thời gian tới cần phải mở rộng mạng lưới thương mại – dịch vụ từ thôn đến xã, huyện. Hiện nay quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá không thể không nói đến việc phát triển của dịch vụ thương mại, ngoài ra lĩnh vực này đang thu hút rất nhiều lao động vì vậy việc phát triển dịch vụ thương mại sẽ tạo rất nhiều việc làm cho người lao động. Vì vậy trong thời gian tới huyện Mỹ Hào phải quy hoạch và xây dựng các chợ cụm dân cư; thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động thương mại dịch vụ. Ngoài ra cần phải nâng cao chất lượng hoạt động của các dịch vụ bưu chính viễn thông, chú trọng đến chất lượng hoạt động của hệ thống bưu điện văn hoá xã. Khi khu công nghiệp Phố Nối được hình thành thì dịch vụ thương mại cũng được phát triển theo, đòi hỏi công tác dịch vụ thương mại phải được chuẩn bị tốt, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và cán bộ công nhân viên trong toàn huyện. Việc phát triển của dịch vụ thương mại không những làm cho việc sinh hoạt của người dân trong khu vực được dễ dàng hơn mà còn thu hút một lượng lớn lao động làm việc trong lĩnh vực này. Để hoạt động dịch vụ thương mại hoạt động tốt thì trong thời gian tới phải khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động thương mại. Chất lượng dịch vụ thương mại tại địa bàn huyện ta còn nhiều yếu kém, bất cập, nhất là công tác văn minh thương nghiệp, chất lượng phục vụ cần phải có những bước chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa.
Ngoài ra để giúp đỡ tích cực cho vấn đề phát triển nền kinh tế của huyện Mỹ Hào thì hoạt động tài chính tín dụng phải phát triển mạnh để tạo nguồn vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh.Vốn là điều kiện tiên quyết đến vấn đề phát triển kinh tế. Nhưng người lao động lại thiếu vốn trầm trọng để phát triển kinh tế, để tạo việc làm cho bản thân và gia đình. Vì thế trong thời gian tới thì hoạt động về tài chính tín dụng đóng một vai trò rất quan trọng. Để tạo điều kiện cho người lao động có thể phát triển kinh tế thì trong thời gian tới các ngân hàng phải tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nông dân và doanh nhân vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh, kịp thời với cơ hội đầu tư, thời vụ. Phải chú trọng phát triển các quỹ tín dụng nhân dân tại 13 xã, thị trấn để nắm bắt được nhu cầu vay vốn, mục đích đầu tư, hiệu quả đầu tư được xác thực. Tránh việc cho người lao động vay nặng lãi.
Cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống ngân hàng trong toàn huyện. Chú trọng việc tiếp nhân dân đến vay vốn được tốt hơn. Ngoài ra chúng ta cần phải có chính sách thu hút sự hình thành của các loại hình ngân hàng để tạo điều kiện cho người lao động vay vốn và tạo chỗ làm cho lao động trong huyện.
Như vậy để tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào thì trong thời gian tới chúng ta phải chú trọng đến vấn đề phát triển thương mại dịch vụ hơn.
3.2.5. Giải pháp về giáo dục - đào tạo hướng nghiệp:
Một nguyên nhân quan trọng nhất gây khó khăn cho việc tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào chính là bản thân người lao động. Lực lượng lao động của huyện Mỹ Hào rất dồi dào nhưng trình độ của người lao động lại rất thấp. Vì vậy trong thời gian tới cùng với các chính sách phát triển kinh tế xã hội thì công tác giáo dục và hướng nghiệp là rất quan trọng.
Trong thời gian tới chúng ta cần phải giữ vững những thành tích đã đạt được trong những năm qua ở các cấp tiểu học, THCS, THPT để xây dựng bước khởi đầu vững chắc trong việc phát triển trình độ chuyện môn cho người lao động.
Vì việc đào tạo nghề của chúng ta chưa gắn liền với nhu cầu lao động trên thị trường, vì vậy cần phải tổ chức những hoạt động dịch vụ tư vấn giới thiệu việc làm, định hướng có chọn lọc các ngành nghề cho phù hợp với trình độ chuyên môn, trình độ văn hoá. Mở các khoá đào tạo nghề tại huyện, trực tiếp tại các xã, thị trấn, đặc biệt là các ngành nghề truyền thống để tạo việc làm cho người lao động nhàn dỗi ở nông thôn; tổ chức các đoàn đi thực tế tham quan, khảo sát, học tập ở những địa phương, cá nhân có cách làm hay, điển hình về làm kinh tế.
Trong thời gian tới thì hình thức xuất khẩu lao động đi làm việc tại nước ngoài hứa hẹn nhiều thành công. Vì vậy chúng ta cần phải nâng cao chất lượng của người lao động bằng các hình thức như đào tạo tại cơ sở hoặc gửi đi học ở những trung tâm, địa phương khác để khai thác hình thức xuất khẩu lao động ra nước ngoài.
Hiện nay thì số học sinh đỗ vào các trường đại học, cao đẳng của huyện ta không ngừng tăng lên qua các năm nhưng số sinh viên ra trường về làm việc tại địa phương thì lại rất ít. Vì thế trong thời gian tới cần phải có chính sách thu hút người tài, lao động có trình độ chuyên môn không những ở địa phương mà còn ở các địa phương khác, tránh tình trạng chảy máu chất xám ở huyện Mỹ Hào. Có thể thu hút lao động có trình độ chuyên môn cao bằng nhiều cách như khuyến khích tài chính, khuyến khích tinh thầnDo đó trong thời gian tới thì huyện Mỹ Hào phải chú ý đến vấn đề này khi ra chính sách về việc làm.
Trình độ của người lao động không những quyết định đến vấn đề tiền lương, tiền công của người lao động mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tạo việc làm cho người lao động. Vì vậy mà huyện Mỹ Hào đang tiếp tục đề nghị tỉnh xây dựng trung tâm đào tạo nghề II tại Phố Nối. Điều này hứa hẹn một lực lượng lao động có trình độ trong tương lai.
3.2.6. Phối hợp chương trình việc làm với các chương trình khác
Như chương trình xoá đói giảm nghèo, chính sách người có công với nước, các phong trào đoàn thể như: Thanh niên, Phụ Nữ, Hội Nông dân tập thể, hội cựu chiến binh để tạo điều kiện cho công tác tạo việc làm cho người lao động được gắn kết hơn với các phong trào khác trong huyện, từ đó thì công tác tuyên truyền, khuyến khích người lao động sẽ có tác dụng hơn và như vậy thì việc tạo việc làm cho người lao động sẽ hoàn thiện hơn.
3.2.7. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền
Bằng các hình thức: tăng thời lượng phát thanh, truyền thanh của huyện, xã có nội dung về lao động việc làm; phổ biến tuyên truyền những gương làm kinh tế giỏi để người lao động có thể học hỏi và noi theo. Ngoài ra việc xây dựng và phát triển làng văn hoá mới, xây dựng nếp sống văn minh gia đình văn hoá mới, xoá bỏ tệ nạn xã hội, công tác giữ gìn an ninh trật tự – an toàn xã hội phải được làm thường xuyên, tạo dựng cuộc sống bình yên cho nhân dân, để người lao động yên tâm sản xuất.
KẾT LUẬN
Qua quá trình đi sâu nghiên cứu vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào – tỉnh Hưng Yên đã cho thấy vấn đề tạo việc làm cho người lao động là một vấn đề hết sức quan trọng và bức xúc hiện nay.
Trong những năm vừa qua thì huyện Mỹ Hào luôn chú trọng công tác tạo việc làm cho người lao động và đạt được nhiều kết quả cao nhưng số lượng người lao động chưa được giải quyết việc làm và số người thiếu việc làm còn chiếm tỷ lệ cao. Vì thế trong thời gian tới các ban ngành đoàn thể, quần chúng nhân dân cố gắng khắc phục những khó khăn cản trở để tạo nhiều việc làm cho người lao động, giúp tăng thu nhập của người dân, xoá đói giảm nghèo, ổn định xã hội, góp phần vào sự phồn vinh của tỉnh Hưng Yên nói riêng và cả nước nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Báo cáo chương trình việc làm huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001 - 2005
- Báo cáo tình hình thực hiện kinh tế xã hội của huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001 – 2005.
- Tài liệu nghiệp vụ Lao động – Thương binh và xã hội ( Bộ Lao động Thương binh và xã hội )
- Bộ luật lao động nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau khi đã sửa đổi bổ sung.
- Tạp chí lao động xã hội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5459.doc