Chỉ số này có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống của con người lao động và đến mặt thể lực của nguồn nhân lực. Quan hệ giữa chỉ số này và dân số là để tăng được chỉ tiêu GDP trên đầu người thì tổng sản phẩm quốc nội phải tăng nhanh hơn tỷ lệ gia tăng dân số (nếu không làm GDP giảm sút) cũng sẽ làm tăng GDP trên đầu người.
Do ảnh hưởng đến trực tiếp tới khả năng tích luỹ và tiêu dùng của dân số nói chung và người lao động nói riêng, quan hệ giữa chỉ số này với nguồn nhân lực được cụ thể hoá trong một loạt các chỉ số như: Điều kiện dinh dưỡng (số lương thực, thực phẩm/người; số calo/người/ngày; số rotein/người/ngày.). Điều kiện nhà ở (diện tích ở bình quân/người; chất lượng nhà.) mức tiêu dùng điện năng. Đây là những chỉ tiêu liên quan và phản ánh trực tiếp tình trạng thể lực, trình độ phát triển mức độ tiêu dùng của nguồn nhân lực.
53 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1143 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tình hình sử dụng nguồn nhân lực ở Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hình sử dụng nguồn nhân lực ở Hà Nội
2.1. Các đặc điểm có liên quan đến sử dụng tổng số nguồn nhân lực ở Hà Nội
2.1.1. Cơ cấu tuổi và giới tính
Phân tích cơ cấu giới tính của lao động khoa học kỹ thuật nói chung, lao động có trình độ cao nói riêng cho thấy rằng: Đa số lao động được đào tạo của cả nước ta trong thời gian qua là nam giới (chiếm 72,5%) và phần lớn nằm ở độ tuổi 40-60 tuổi. Nguyên nhân của tình hình này là do kế hoạch đào tạo không cân đối giữa các thời kỳ. Hầu hết các cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân lành nghề được đào tạo ồ ạt nhất vào thời kỳ 1960-1975. Thời kỳ 1980 lại đây một mặt do khả năng đào tạo trong nước hạn chế và mặt khác việc hợp tác đào tạo ở nước ngoài giảm. Nên số tốt nghiệp ở các trường trung đại học trở nên hàng năm chưa đủ 1.000 người cho tất cả các loại. Vì vậy cán bộ có trình độ trung Đại học trẻ (ở nóm dưới 45 tuổi) chiếm tỷ lệ thấp.
Bảng 2. Cơ cấu giới tính và độ tuổi của cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân lành nghề
Đơn vị: %
Giới tính
Nhóm tuổi
Nam
Nữ
<30 tuổi
31-45 tuổi
46-60 tuổi
1
Trên Đại học
81,00
19,00
6,10
38,00
55,90
2
Đại học và tương đương
75,00
27,00
15,60
41,00
43,40
3
Trung học chuyên nghiệp
69,00
31,00
19,00
29,40
51,60
4
Công nhân lành nghề
58,00
42,00
21,30
25,60
46,90
Nguồn: Theo số liệu điều tra của chương trình KX 07.
Độ tuổi của những người có trình độ đại học tăng khá cao, lực lượng trẻ có rất ít, nhất là số trình độ sau đại học. Theo số liệu của vụ trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Bộ Giáo dục - Đào tạo hiện nay có 20% cán bộ có trình độ đại học, 32% phó tiến sĩ, 63% tiến sĩ trên 50 tuổi.
Tình trạng cụ thể đội ngũ giao sư, phó giáo sư như sau
- Độ tuổi giáo sư
46-50 tuổi chiếm 9% tổng số giáo sư
51-55 tuổi chiếm 30% tổng số giáo sư 56-60 tuổi chiếm 18% tổng số giáo sư
61-65 tuổi chiếm 6% tổng số giáo sư
Trên 65 tuổi chiếm 6% tổng số giáo sư
- Độ tuổi phó giáo sư
31-45 tuổi chiếm 7,8% tổng số phó giáo sư
46-50 tuổi chiếm 20% tổng số phó giáo sư
51-55 tuổi chiếm 27% tổng số phó giáo sư
56-60 tuổi chiếm 28% tổng số phó giáo sư 61-65 tuổi chiếm 11% tổng số phó giáo sư
Trên 65 tuổi chiếm 4,3% tổng số phó giáo sư
Nếu không trẻ hoá đội ngũ chất xám cao cấp này thì sẽ hẫng hụt lớn (trên 10% đã qua 65 tuổi, trên 25% đã qua 60 tuổi, trên 65% đã qua 50 tuổi).
Trong số công nhân lành nghề, nhiều người đã lớn tuổi, sức khoẻ yếu, tuy đã được xếp vào bậc cao, nhưng thực tế trình độ không còn đạt tương xứng với bậc đã xếp cả về năng suất, chất lượng và cả về lý thuyết tay nghề.
2.1.2. Các đặc trưng về trình độ văn hoá và chuyên môn kỹ thuật.
+ Về trình độ văn hoá: Số lao động ở Hà Nội có trình độ văn hoá khá cao (xem bảng 2)
Xét về trình độ văn hoá, Hà Nội đứng đầu trong cả nước về tỷ lệ số lao động tốt nghiệp cấp III. Bình quân tỷ lệ chung cả nước là 13,47% (năm 1996) và 14,70% (năm 1997) trong khi tương ứng của Hà Nội là 36,71% và 41,17%.
+ Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: Theo số liệu điều tra của Tổng liên đoàn Việt Nam, ở một số tỉnh, thành phố tỷ lệ công nhân bậc 1-2 của Hà Nội là 19,45%, bậc 3-4 là 59,15%, bậc 6-7 là 10,22% và số công nhân chưa được xếp bậc thợ do chưa qua đào tạo nghề chiếm 9,56%.
Nhìn chung số cán bộ có trình độ chuyên môn tập trung phần nhiều ở thành thị và tăng nhanh. Thực tế lực lượng lao động của nước ta trước đây được đào tạo theo một quy trình "cứng" tức là nặng về lý thuyết. Nhưng nhẹ về thực hành, theo công nghệ cũ, lạc hậu, không theo kịp với trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Vì thế khi nhà nước thực hiện mở cửa nền kinh tế, cho phép người nước ngoài đầu tư vào Việt Nam thì lực lượng lao động của cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng chưa đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của công nghệ mới. Vì thế phải tiến hành đào tạo lại ở nhiều khâu phải do lao động khoa học nước ngoài đảm nhiệm trong khi nguồn lao động của thành phố còn rất dồi dào. Quá trình đổi mới cũng cho thấy chúng ta đang thiếu một đội ngũ lao động có trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh giỏi, thiếu một đội ngũ khoa học bậc cao trong các ngành và các lĩnh vực kinh doanh hay kinh tế, cũng như ý thức tổ chức kỷ luật lao động còn kém: tác phong công nghiệp còn chậm do còn mang nặng tác phong của nền sản xuất nhỏ, manh mún.
Trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp đã dẫn tới tình trạng trong nhiều ngành nghề lao động không có chuyên môn kỹ thuật, phải đảm nhiệm những công việc đơn giản, nặng nhọc, lao động chân tay chấp nhận thu nhập thấp. Trong các cơ quan doanh nghiệp nhà nước khi sắp xếp lại tổ chức, thay đổi quy trình lao động công nghệ, số người phải nghỉ việc phần đông lại rơi vào những người không có tay nghề hoặc trình độ chuyên môn không đáp ứng kịp với sự thay đổi của công nghệ và kỹ thuật. Số lao động phải nghỉ việc, tay nghề kém ra ngoài thị trường lao động thì càng khó kiếm việc làm hơn.
Xem xét chất lượng lao động của Hà Nội ta thấy một điều đáng suy nghĩ là trình độ học vấn nói chung ở mức cao nhất so với toàn quốc nhưng về trình độ chuyên môn kỹ thuật thì còn thiếu, nhiều vấn đề bất cập cho tỷ lệ lao động không qua đào tạo nghề, tập trung trong các ngành nông lâm ngư nghiệp và một số khâu công việc của các ngành nghề khác như: làm nương, khuân vác, dọn vệ sinh công cộng, bao bì... Tình trạng lao động giản đơn đã tạo ra một nhận thức chuyên môn, chỉ cần tăng cường độ lao động là chủ yếu. Với kinh nghiệm cổ truyền có sức khoẻ... là làm được việc. Vì vậy tình trạng lao động thủ công vẫn còn phổ biến, công việc buồn nản, không sáng tạo, năng suất thấp và chỉ bằng con đường đầu tư sức lao động để tăng thêm thu nhập. Do đó rất khó có điều kiện ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để đạt năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao.
Đa số lao động không qua đào tạo, không có đầu óc quản lý, hoặc nếu có thì kém hơn lao động qua đào tạo, vì lực lượng thông tin mà họ thu thập được sử dụng mở rộng quan hệ giao tiếp, sự tìm hiểu nhu cầu thị trường, bạn hàng... đều kém hơn lao động qua đào tạo.
Từ sự phân tích trên đây cho thấy: Nguồn lao động ở Thủ đô xét cả về mặt số lượng là nguồn lao động dồi dào đó là một lợi thế cho sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, lợi thế này còn ở dạng "tiềm năng, tiềm ẩn", và còn nhiều điểm hạn chế, ảnh hưởng tới năng suất lao động và hiệu quả lao động của họ.
Xét về cơ cấu lao động trên phạm vi cả nước, lao động nông nghiệp năm 1998 so với năm 1996 giảm 6,32% bình quân hàng năm giảm 3,13%, trong đó lao động nông nghiệp của Hà Nội 1997 giảm 23,5% so với năm 1996 (số tuyệt đối giảm tới 101.979 người) lao động trong lĩnh vực dịch vụ tăng nhanh chiếm từ 37,99% năm 1996 lên 51,02% năm 1997. Cơ cấu lao động ở khu vực chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ từ 65,75% năm 1996 lên 75,11% năm 1997. Ngược lại lao động nông nghiệp chỉ còn 1 tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số lao động của thành thị (3,38% năm 1996 và 1,88% năm 1997).
Hà Nội trong những năm gần đây với phương thức mềm dẻo, đa dạng hoá các loại hình đào tạo và từng bước đổi mới đào tạo nên số lượng học sinh thu hút vào các trường lớp đã tăng đáng kể, dạy nghề chính quy tăng từ 3078 học sinh (năm 1991) lên 6959 học sinh (năm 1996-1996). Dạy nghề ngắn hạn. Tăng từ 12.000 học sinh năm 1992 lên 24.000 học sinh năm 1996.
Hiện nay các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề trung ương có trên 20.000 học sinh trong đó học sinh Hà Nội chiếm gần 30% (trên 6000 học sinh). Trong các trung tâm dịch vụ việc làm hàng năm dạy nghề phổ thông ở trung tâm dạy nghề quận, huyện, trung tâm kỹ thuật, hướng nghiệp hàng năm dạy nghề phổ thông cho hơn 9.000 học sinh phổ thông trung học. Thời gian vừa qua do quy mô của các trường đại học, cao đẳng được mở rộng nên số học sinh trung học phổ thông vào các trường trung học chuyên nghiệp có giảm đi. Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội đã chỉ đạo các trường dạy nghề chuyển hướng tuyển sinh tốt nghiệp trung học cơ sở (hết lớp 9) vì vậy quy mô đào tạo đã được ổn định và phát triển. Tuy nhiên, so với nhu cầu học nghề của thanh niên và của hàng vạn người lao động, đặc biệt phục vụ cho nhu cầu công nghiệp hoá Thủ đô, chuyển đổi cơ cấu lao động nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Theo hướng của các nghị quyết trung ương và chương trình của thành uỷ Hà Nội từ quy mô đào tạo hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu (xem bảng 3).
Lực lượng lao động qua đào tạo ở các thành thị tăng từ 31,56% (năm 1996) lên 32% (năm 1997), 33,70% (năm 1998). Số liệu điều tra ở bảng 3 cho thấy, trên địa bàn Hà Nội tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật ở thành thị tăng từ 35,9% năm 1993 lên 54,17% năm 1996, năm 1997 là 59,31%. Trong khi đó lao động ở nông thôn lại giảm từ 20,5% năm 1993 xuống còn 18,25% vào năm 1997.
Đến cuối năm 1998 tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở Hà Nội tay nghề bậc 1-2 chiếm 9,3% tay nghề bậc 5 có 22,6%, tay nghề bậc 6-8 có 8,5%. Trong đó số công nhân có tay nghề cao đã ít ngà càng có xu hướng giảm vì đến tuổi nghỉ hưu, hàng năm có khoảng từ 7-15% công nhân bậc 6-7 xin nghỉ việc sang làm liên doanh hoặc nghỉ hưu.
2.1.3. ảnh hưởng của chất lượng nguồn nhân lực đối với Hà Nội theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH - HĐH).
Cùng với cả nước Thủ đô Hà Nội đón chào thiên niên kỷ mới với những cơ hội và thách thức mới sự nghiệp CNH - HĐH Thủ đô đang được đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế và khu vực đang được mở rộng, nền kinh tế tri thức với yêu cầu cao về tiềm lực kinh tế trí tuệ và khoa học công nghệ đang đặt ra những đòi hỏi lớn đối với nguồn nhân lực phát triển trong đó nguồn nhân lực chiếm vị trí hàng đầu.
Nguồn nhân lực ngày nay được xem là yếu tố cơ bản, yếu tố năng động nhất có vai trò quyết định nhất cho sự phát triển nhanh và bền vững cho nên trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước nói chung của thành phố Hà Nội nói riêng con người được đặt vào vị trí trung tâm con người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội khoá XII. Hà Nội bước vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế. Một trong những mục tiêu quan trọng của Thủ đô là phải đào tạo được một đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, có khả năng tiếp thu và ứng dụng các thiết bị hiện đại, góp phần quyết định thắng lợi phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô đồng thời nâng cao chất lượng lao động toàn quốc nói chung (đạt từ 22-25% vào năm 2000) và chất lượng lao động của Thủ đô nói riêng đạt từ 30-35% năm 2000 và 50-60% năm 2010.
* Dự báo nhu cầu nguồn nhân lực trong thời kỳ CNH - HĐH.
Dự báo phát triển kinh tế giai đoạn đến năm 2010
Bảng 5. Dự báo GDP (giai đoạn 1995-2010)
Chỉ tiêu
1995
2000
2010
Tốc độ tăng bình quân (%)
1996-2000
2001- 2010
A. Tổng GDP (tỷ đồng)
14,449
27,012
97,995
13,13
12,53
1. Công nghiệp
3,489
7,698
35,278
17,15
16,44
% so với tổng số
24,15
28,50
36
2. Xây dựng
1,298
2,917
13,817
17,58
16,83
% so với tổng số
8,98
10,80
14,1
3. Nông nghiệp
0,782
0,959
1,420
4,16
4,01
% so với tổng số
5,41
3,55
1,45
4. Dịch vụ
8,800
15,437
47,479
11,69
11,89
% so với tổng số
61,46
57,15
48,45
B. GDP/người (1000đ)
6,186
10,251
30,623
10,63
11,57
Nguồn: Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội từ 1995 đến 2010
Qua bảng 5 cho ta thấy tốc độ tăng bình quân GDP giai đoạn 1996-2000 là 13,13%. Giai đoạn 2001-2010 tốc độ bình quân tuy giảm (12,53%) nhưng về thời kỳ 2001-2010 tăng nhanh hơn giai đoạn 1995-2000 (11,57% so với 10,63%) giá trị tuyệt đối tăng gấp 3 lần.
* Dự báo số lao động giai đoạn đến 2010.
Dân số Hà Nội năm 2000 có khoảng 2,6 triệu dân lao động là 1,4 triệu người.
Năm 2005 có khoảng 2,9 triệu dân, lao động là 1,6 triệu người.
Năm 2000 có khoảng 3,1 triệu dân, lao động là 1,8 triệu người.
Dự báo lao động cần đào tạo từ nay đến 2010 cần đào tạo mới 1 triệu lao động có kỹ thuật, có trình độ chuyên môn ngoại ngữ cho các ngành nghề, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động Thủ đô và các vùng khác trong cả nước.
Đào tạo lại và nâng cao trình độ cho số lao động đang làm việc hoặc số lao động dồi dư khoảng 100.000 người.
Với đặc thù là một thành phố lớn đi đầu trong công cuộc CNH - HĐH việc quy hoạch đào tạo nghề trên địa bàn Hà Nội đang đứng trước những đòi hỏi đa dạng, phức tạp hơn các tỉnh, thành phố khác rất nhiều đó là:
Tốc độ đô thị hoá cao, những làng nghề truyền thống ven đô thị bị thu hẹp dần đất đai, mất đi tư liệu sản xuất là việc khó tránh khỏi. Việc đào tạo nghề mới để chuẩn bị cho lực lượng dư thừa ấy trở nên cấp bách. Đã có vụ tranh chấp đất đai gây chấn động dư luận cả nước, như Thọ Đa (ở Đông Anh), Dịch vọng (Từ Liêm) Tây Hồ, v.v... Nguyên nhân của những vụ tranh chấp chính là ở chỗ người dân không còn ruộng đất, các xí nghiệp chấp nhận họ vào làm việc được chỉ vì không có nghề nghiệp.
Trước tình trạng dân di cư từ nông thôn ồ ạt ra thành phố. Hiện nay (khoảng 3 vạn lao động) lực lượng lao động Thủ đô sẽ phải đối mặt một sự cạnh tranh và sức ép rất lớn cả về việc làm, tệ nạn xã hội, an ninh trật tự công cộng và nhiều vấn đề khác.
Với vị thế là một trung tâm kinh tế của cả nước. Hà Nội cần phải có công nghệ cao, với trình độ giảng dạy, học tập, đạt chất lượng tầm khu vực và quốc tế, cung cấp lao động cho các khu công nghiệp, các ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế đất nước và xuất khẩu sang các nước.
Tình hình trên đang đặt ra yêu cầu cấp thiết phải quy hoạch được một hệ thống cơ sở đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu phát triển nguồn nhân lực từng ngành, từng địa phương và vùng kinh tế. Dựa trên những yếu tố đội ngũ giáo viên, nội dung chương trình, cơ sở vật chất và công tác tổ chức và quản lý quá trình đào tạo trong đó yếu tố cuối cùng, có ý nghĩa quyết định là để đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô và mong mỏi của người lao động.
* Dự báo nhu cầu đào tạo nghề trên địa bàn ở Hà Nội đến năm 2010.
Trước hết mở rộng các cơ sở đào tạo nghề trong các thành phần kinh tế đáp ứng nhu cầu học nghề cho mọi đối tượng lao động trên địa bàn thành phố nhằm góp phần đào tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động có cơ hội tìm được việc làm.
* Đầu tư năm 2001-2010
Đầu tư xây dựng nâng cấp hai trường dạy nghề, "Đào tạo công nhân kỹ thuật bậc cao" mang tính chất vùng đảm bảo đủ điều kiện đào tạo công nghệ kỹ thuật có tay nghề kỹ thuật cao, cung ứng nhu cầu lao động cho các khu công nghiệp, khu chế xuất và doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, đảm bảo đội ngũ lao động lòng cốt trong lực lượng lao động nói chung nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá của Thủ đô nói riêng và cả nước nói chung.
1. Trường trung học chuyên nghiệp Hà Nội (Đống Đa)
2. Trường đào tạo công nhân kỹ thuật cơ khí I (Đông Anh).
Đầu tư xây dựng 4 trung tâm dạy nghề ở 4 quận huyện chưa có trung tâm dạy nghề nhằm đảm bảo mỗi quận, huyện có một trung tâm thực hiện đào tạo nghề cho lao động nhất là số lao động xã hội trên từng địa bàn.
1. Trung tâm dạy nghề quận Thanh Xuân.
2. Trung tâm dạy nghề quận Tây Hồ 3. Trung tâm dạy nghề huyện Từ Liêm
4. Trung tâm dạy nghề huyện Đông Anh.
Công tác đào tạo công nghệ kỹ thuật của Hà Nội đang đứng trước những khó khăn rất lớn như quy mô đào tạo nhỏ bé, chất lượng đào tạo thấp không đáp ứng kịp sự phát triển của công nghệ khoa học kỹ thuật, cơ cấu đào tạo nghề chưa phù hợp với các yêu cầu lao động kỹ thuật của các ngành kinh tế, các khu vực và địa phương. Thị trường lao động đang mất cân đối lớn giữa cung và cầu, lao động đặc biệt là lao động kỹ thuật. Trong nhiều năm qua công tác quản lý, sắp xếp quy hoạch mạng lưới đào tạo nghề chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức...
Thực hiện yêu cầu CNH - HĐH từ nay đến 2010 Hà Nội cần đào tạo mỗi năm có 67.000 lao động và đào tạo lại cho 100.000 lao động.
Để thực hiện mục tiêu trên Thủ đô đang cùng cả nước phải có những thay đổi lớn về công tác đào tạo từ nhận thức, quan điểm đến mục tiêu nhiệm vụ và các giải pháp biện pháp cụ thể. Vấn đề quan trọng nhất là đổi mới tổ chức quản lý đào tạo lại, tập trung các nguồn lực để nâng cao các nguồn lực sẵn có, mở rộng và thành lập các trường đào tạo nghề có chất lượng cao, đổi mới và hoàn thiện chương trình, nội dung phương pháp đào tạo, tăng nhanh số lượng và nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên dạy nghề.
Xã hội hoá đào tạo nghề là hướng chủ yếu để thực hiện mục tiêu đào tạo 1 triệu lao động đến 2010. Nguồn lực đã được xác định nhưng cần phải sử dụng tối đa và có hiệu quả, xu hướng chung là phải tập trung vào nhưng không thể xem nhẹ các nguồn ngoại lực. Kinh nghiệm của nhiều nước trong khu vực cho thấy không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà cả trong lĩnh vực đào tạo dạy nghề nếu chúng ta biết tiếp thu nhanh và có hiệu quả kinh nghiệm của các nước tiên tiến (thông qua các hình thức học tập và liên kết đào tạo) thì mục tiêu trên càng nhanh thành hiện thực.
2.2. Phân tích tình hình sử dụng nguồn nhân lực ở Hà Nội
2.2.1. Việc làm và thất nghiệp.
Trước đòi hỏi bức xúc của công cuộc đổi mới năm 1992, Đảng và Nhà nước đã quyết định chương trình quốc gia xúc tiến việc làm và chương trình này được khẳng định trong bộ Luật Lao động được Quốc hội chuẩn y và có hiệu lực từ 1/1/1995. Từ thực tế đó: Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đưa vào hệ thống chỉ tiêu kinh tế - xã hội, các chỉ tiêu về giải quyết việc làm, phải phấn đấu đến năm 2001 cụ thể.
Trong 5 năm (1997-2001 phải tạo thêm việc làm cho 6,5-7 triệu lao động.
Giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống còn 5%.
Tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động nông thôn lên 75%.
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động tiếp đó, năm 1998 Chính phủ đã quyết định đưa chương trình việc làm nói trên thành chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm đồng thời ban hành các chế độ, chính sách và quản lý để thực hiện chương trình này, các chính sách trọng tâm hướng vào.
- Phát triển kinh tế tạo mở việc làm.
- Bảo đảm việc làm trong cơ sở sản xuất kinh doanh chống sa thải hàng loạt, hỗ trợ đối với các đối tượng khó tự mình, tự tạo việc làm hoặc tự kiếm việc làm.
Mấy năm qua, Hà Nội tuy đã tạo được nhiều việc làm ở thành thị và nông thôn, song do áp lực việc làm tăng lên từ nhiều phía, do công tác thống kê việc làm - thất nghiệp... nên tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị vẫn còn cao và nơi có tỷ lệ cao nhất trong nước. ởnông thôn chỉ sử dụng hết 3/4 quỹ thời gian làm việc do không có việc làm, hoặc không tiêu thụ được sản phẩm nên ngừng sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng, không giám mở rộng sản xuất.
Muốn tạo thêm nhiều việc làm cần phải có nhiều biện pháp đồng bộ như: + Tạo nhiều mặt hàng, sau sản phẩm mới, có chất lượng, mang sắc thái Thủ đô có giá thành phù hợp trong công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng và dịch vụ... Nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, đáp ứng yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu lao động...
+ Mở rộng thị trường tiêu thụ ở trong và ngoài nước thông qua hệ thống Marketing, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp và người sản xuất.
+ Chính sách và thủ tục phù hợp về vay vốn, thuế về thuê mướn lao động, dưới 10 lao động cho các hộ nông dân và các trang trại trong nông thôn... + Đầu tư thoả đáng cho cơ sở hạ tầng ở nông thôn trước mắt là điện, đường giao thông...
Thực hiện các chủ trương và chính sách, nhiệm vụ giải quyết việc làm đã đạt được kết quả cụ thể. Hàng năm đã tạo thêm việc làm cho 1,2-1,3 triệu lao động hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị từ 9-10% (năm 1991-1992) xuống khoảng 5,7-5,8% (năm 1997-1998). Từng bước tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động nông thôn. Từ cuối năm 1998 đến nay, do tác động xấu của khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn có chiều hướng tăng lên (năm 1999).
Bảng 6.
1997
1998
1999
- Số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế (triệu người)
35,79
36,99
38,75
- Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị (%)
5,76
5,82
6,68
- Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn
72,11
72,90
70,88
- Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị
74%
- Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn
71%
Những kết quả giải quyết việc làm nêu trên là yếu tố do phát triển các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ trên phạm vi cả nước. Tới nay ta có 5.790 doanh nghiệp nhà nước với tổng số lao động là 1,78 triệu người với 2.575 dự án FDI với tổng số vốn đầu tư 35,84 tỷ USD, 1900 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập trong đó có 1500 doanh nghiệp đi vào hoạt động thu hút 27,5 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động khác có công ăn việc làm 21.572 doanh nghiệp tư nhân, 8.937 công ty trách nhiệm hữu hạn, 202 công ty cổ phần, 18284 hợp tác xã các loại đã thu hút hàng triệu lao động làm việc, ngoài ra các hoạt động phi kết cấu tạo ra việc làm cho hàng chục vạn lao động.
Trong nông nghiệp - nông thôn hiện có 13.176 hợp tác xã nông nghiệp, 334 hợp tác xã thuỷ sản, 11,3 vạ trang trại, các loại ra đời (với 270.000 ha, khoảng 2.700 tỷ đồng vốn tự có, tạo việc làm cho 52 vạn lao động ở nông thôn). Nhân tố này vừa bổ sung vừa tạo môi trường cho kinh tế hộ, hợp tác xã phát triển sản xuất hàng hoá và giải quyết việc làm cho người lao động. Tự bảo toàn và phát triển nguồn quỹ giải quyết việc làm thuộc chương trình 126: từ năm 1993-1999, doanh số cho vay tới 2.600 tỷ đồng cho 70.000 dự án nhỏ, giải quyết việc làm cho 2 triệu lao động (bình quân mỗi năm tạo việc làm mới cho 25-27 vạn lao động). Từ sự phát triển các trung tâm dịch vụ và từ vấn đề việc trong cả nước. Các trung tâm đã tư vấn cho 1,4 triệu lao động, dạy nghề cho 68 vạn người, giới thiệu và cung ứng cho 76 vạn lao động, hướng dẫn cách làm ăn cho 9 vạn người. Các chương trình quốc tế về việc làm đều được triển khai có kết quả.
Tuy nhiên, thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn là vấn đề nan giải vì đang có xu hướng tiếp tục gia tăng. Ngoài các nguyên nhân khách quan. Về mặt chủ quan là do các cấp, các ngành không đưa chỉ tiêu giải quyết việc làm vào trong các chương trình dự án, kế hoạch phát triển kinh tế. Các tổ chức chỉ đạo giải quyết việc làm gặp những khó khăn do thiếu hệ thống thông tin về thị trường lao động về cung và cầu lao động trên địa bàn.
Thực tiễn đổi mới của Hà Nội là phát triển kinh tế - xã hội của nhiều nước cho thấy rõ 3 phạm trù:
Phát triển nguồn nhân lực; thị trường làm việc; thị trường sức lao động có mối quan hệ tác động qua lại hữu cơ, cụ thể.
Trong thị trường việc làm và thị trường sức lao động có các yếu tố cơ bản là cung, cầu và giá cả (tiền công).
Sự phát triển của kinh tế tạo ra cầu của việc làm, cầu về sức lao động, sự phát triển nguồn nhân lực xét theo giác độ phù hợp. Tạo ra cung cho 2 bộ phận thị trường nói trên. Sự phát triển kinh tế tạo ra các chỗ việc làm mới trong nền kinh tế quốc dân, còn sự phát triển nguồn nhân lực tạo ra số lượng, cơ cấu và chất lượng lao động. ởtrạng thái khả năng về sức lao động khi mặt cung và cầu về sức lao động gặp nhau, thông qua giá trị cả tiền công lao động phù hợp (thông thường là trên cơ sở thoả thuận trong quan hệ lao động) thì nhiệm vụ giải quyết việc làm được hình thành.
Như vậy xét từ góc độ cung của phát triển nguồn nhân lực, nó tạo ra điều kiện cho người lao động có thể thích ứng với chỗ làm việc đã được thị trường việc làm tạo ra, xét về căn nguyên sâu xa hơn đó là do phát triển kinh tế tạo ra. Xong quá trình không dừng lại ở chỗ cung về sức lao động đã gặp cầu về sức lao động, trong quá trình lao động, quá trình làm việc, trình độ của người lao động được nâng cao không ngừng. Đó cũng là nội dung phát triển nguồn nhân lực về mặt đào tạo và tái đào tạo và giáo dục suốt đời. Trong thực tế, đó là khâu sử dụng nhân lực, sử dụng nhân tài. Như vậy mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực với giải quyết việc làm, còn bao hàm cả khâu tiếp sau của sự hội tụ giữa cung và cầu sức lao động. Thực tiễn trong giải quyết việc làm cho thấy, nước ta vừa thừa lại vừa thiếu lao động. So với yêu cầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì mọi nơi, mọi ngành, mọi địa phương đều vừa thừa tương đối không chỉ lao động giản đơn, mà cả lao động có nghề được đào tạo. Nhưng lại thiếu tuyệt đối lao động có nghề theo công việc kỹ thuật đòi hỏi và thiếu lao động chất lượng cao. Nhìn bên ngoài đâu đâu cũng thấy nhiều lao động không có hoặc thiếu việc làm. Nhưng những chỗ làm việc mới thì lại thiếu lao động đáp ứng được là sự bất cập của phát triển của nguồn nhân lực (xét ở cả khâu cung ứng lẫn khâu sử dụng nguồn nhân lực). Đối với yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Mặt khác đó còn là sự yếu kém của nền kinh tế trong việc tạo ra nhiều việc làm mới với yêu cầu thấp hơn về chất lượng, nhân lực để giải quyết việc làm cho số đông lao động phổ thông.
Từ sự phân tích trên có thể nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn mối quan hệ biện chứng giữa phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm và có thể mô tả theo sơ đồ 1.
ở khung A đó là sự hội tụ của cung và cầu lao động phù hợp với khung B, đó là sự phát triển liên tục của nguồn nhân lực thông qua giải quyết việc làm, tức sử dụng lao động trong quá trình lao động. Sơ đồ này cho thấy quá trình sự gắn kết giữa phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm là một quá trình hoạt động, phát triển gặp thách thức không nhỏ ở các khâu.
- Tiếp tục tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
- Đào tạo nhân lực phù hợp với yêu cầu CNH -HĐH, thị trường sức lao động.
- Sử dụng nguồn nhân lực trong điều kiện mới, môi trường mới của nền kinh tế.
Sơ đồ 1
B
Giải quyết việc làm
Người lao động
có việc làm
Sử dụng nhân
lực (tiếp tục phát triển NNL)
A
Tăng kinh tế
A
Đào tạo NNL
2.2.2. Thu nhập
Mục đích cuối cùng của người lao động là phải gắn liền với việc làm và tạo thu nhập cho mình và cho xã hội. Tuy nhiên thực tế những năm qua đã xảy ra hiện tượng không ít lao động được đào tạo, thậm chí cả một số sinh viên đã tốt nghiệp đại học mà vẫn không tìm được việc làm hoặc làm không phù hợp với chuyên môn của mình được đào tạo. Để đáp ứng được nền kinh tế thị trường, phương thức giáo dục và đào tạo phải có sự chuyển biến căn bản. Một mặt nâng dần trình độ dân trí ở khu vực Thủ đô. Mặt khác căn cứ vào cụ thể của mỗi nơi: Đất đai, ngành nghề truyền thống, nhu cầu của thị trường, phương hướng phát triển kinh tế xã hội mà có kế hoạch bồi dưỡng trình độ chuyên môn cho người lao động. Vừa bồi dưỡng một số khả năng học dài hạn: Cao đẳng, đại học vừa đào tạo nhanh những công nhân kỹ thuật. Việc đào tạo giáo dục để nâng cao trình độ cho người lao động phải xuất phát từ nhu cầu thị trường lao động bao gồm: Số lượng, chất lượng và cơ cấu các loại trình độ cơ cấu ngành nghề.
Theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, khu vực nông nghiệp và thủ đô sẽ là nơi diễn ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động mạnh mẽ. Lao động làm nông nghiệp giảm cả tuyệt đối và tương đối, lao động sản xuất ngành nghề, buôn bán dịch vụ sẽ tăng lên. Để có sự tăng năng suất lao động và thu nhập ở Hà Nội sẽ hình thành một số ngành nghề mới hoặc khôi phục ngành nghề truyền thống hình thành và phát triển các doanh nghiệp nhỏ sản xuất công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Nếu không nâng cao nguồn chất lượng lao động, không bồi dưỡng và đào tạo kỹ thuật chuyên môn kỹ thuật thì không thể chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển sản xuất hàng hoá, tăng thu nhập cho người lao động.
Việc làm và thu nhập có tác dụng như là một động lực quan trọng thúc đẩy con người nâng cao chất lượng sức lao động của mình. Giải quyết công ăn việc làm ở Thủ đô phải dựa vào việc phát triển nông lâm ngư nghiệp, vừa dựa vào các ngành sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng đặc biệt là công nghiệp chế biến, thương nghiệp dịch vụ theo hướng đa dạng hoá ngành nghề ở Thủ đô. Mặt khác, cần tạo điều kiện cho mọi người lao động có thể kiếm được dễ dàng, tức là cần phát triển thị trường ở Thủ đô sôi động và có hiệu quả. Để tạo công ăn việc làm, thu hút đại bộ phận lao động dư thừa, tăng năng suất lao động xã hội.
Đổi mới kinh tế nông nghiệp, phát triển các loại công nghệ sản xuất có hiệu quả nhưng sử dụng nhiều lao động.
Xây dựng dự án và triển khai việc tạo việc làm trong các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Tiền lương và thu nhập luôn là động lực kích thích người lao động, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Cần có chính sách tiền lương thu nhập hoặc phụ cấp để khuyến khích thanh niên Thủ đô sau khi học tập chuyên môn, nghiệp vụ tình nguyện đi công tác ở vùng sâu vùng xa. Một trong những mục đích của chuyển đổi ngành cơ cấu lao động giữa các ngành nông, công nghiệp và dịch vụ và tiếp tục giảm tỉ trọng lao động của Hà Nội nói chung và của nông thôn Hà Nội nói riêng để tăng nhanh lao động cho dịch vụ và công nghiệp xây dựng nhằm tăng năng suất lao động xã hội. Hiện nay, tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp là 31,71% (riêng nông thôn 62,56%), công nghiệp - xây dựng 17,26% (riêng nông thôn 11,95%) dịch vụ 51,02% (riêng nông thôn 25,47%) cần tiếp tục giảm tỷ lệ lao động trong nông nghiệp. Ngoài ra cần nâng cao tỷ lệ lao động được đào tạo ở bậc cao đẳng, đại học ở nông thôn (hiện nay 2,02%) tránh tình trạng ở nông thôn thiếu cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học, trong khi ở thành phố nhiều người có trình độ đại học cao đẳng vẫn chưa có việc làm, muốn vậy phải đẩy nhanh sự nghiệp đô thị hoá ngoại thành Hà Nội và nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông ngoại thành. Trên đây là một số biện pháp chủ yếu nằm trong hệ thống tổng hợp của nhiều biện pháp. Mỗi lúc mỗi nơi sẽ chú trọng một số biện pháp trọng điểm trong hệ thống các biện pháp đó.
Chương 3
Phương hướng biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực ở Hà Nội đến 2010
3.1. Phương hướng sử dụng nguồn nhân lực ở Hà Nội
3.1.1. Những quan điểm cơ bản để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Hà Nội
* Quan điểm hệ thống: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung và khu vực Hà Nội nói riêng là một vấn đề vừa mang tính kinh tế vừa là vấn đề xã hội. Đây là một vấn đề phải kết hợp nhiều ngành, nhiều lĩnh vực trên cơ sở những định hướng, mục tiêu chung.
Khi nghiên cứu để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực lao động, chung ta sẽ xem xét những mặt bản chất, những nét đặc trưng cơ bản của dân cư nói chung, nhất là những người lao động tham gia hoạt động sản xuất xã hội. Trong quá trình chuyển dịch nền kinh tế, đòi hỏi nguồn lao động phải đáp ứng những nhu cầu mới về số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề, trình độ chuyên môn. Để có chất lượng nguồn lao động tốt, trước hết phải có sự tác động của ngành y tế nhằm hình thành lực lượng dân cư có sức khoẻ phù hợp, tiếp đến là vai trò của người công tác giáo dục đào tạo trong việc nâng cao dân trí, từ việc thanh toán nạn mù chữ, giáo dục mầm non, đến hệ thống trung học, đại học. Đây là nền tảng, là cơ sở để người lao động có khả năng tiếp thu khoa học - kỹ thuật và phát triển các ngành nghề theo nhu cầu, năng lực của mỗi cá nhân và sự phân công của xã hội. Mặt khác, thể chất của nguồn lao động nói chung, ở khu vực Hà Nội nói riêng còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Những điều kiện cơ sở hạ tầng khu vực Thủ đô, điều kiện giao thông, khả năng cung cấp điện, thông tin, nước sạch và các dịch vụ xã hội khác: y tế - văn hoá - thể thao.
Sự tác động của cơ chế chính sách cũng có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến khả năng vươn lên, nâng cao chất lượng của lao động. Như vậy để nâng cao chất lượng nguồn lao động khu vực Thủ đô, cần tác động vào nhiều mặt trong mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau cả về kinh tế - khoa học kỹ thuật và xã hội.
* Theo quan điểm lịch sử khách quan:
Nước ta đã và đang chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường, để sớm hoà nhập với khu vực thế giới. Nền kinh tế phải có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, điều đó phải đòi hỏi nhanh chóng tạo ra lực lượng lao động có chất lượng cao với cơ cấu ngành nghề phù hợp. Tuy nhiên quan điểm chủ trương đào tạo của chúng ta phải xuất phát từ tình hình thực tế do lịch sử để lại: Với cơ chế tập trung, bao cấp, không xuất phát từ nhu cầu của thị trường lao động, lại trải qua cuộc đấu tranh kéo dài, nên đại bộ phận của khu vực Thủ đô lao động không có điều kiện học tập và đào tạo trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Điều kiện kinh tế ở Thủ đô, đặc biệt là vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn hơn. Đời sống kinh tế thấp, trình độ dân trí kém, các cơ sở hạ tầng kém phát triển.
Tình hình đó, đòi hỏi phải có những giải pháp, phương thức và bước đi phù hợp đặc biệt có những biện pháp đặc thù nhằm đáp ứng nhu cầu của sự chuyển dịch kinh tế theo hướng CNH - HĐH. Nhưng bảo đảm mối quan hệ hài hoà giữa kinh tế và những vấn đề xã hội. Một mặt phải đào tạo đội ngũ trí thức, lao động chất xám để có khả năng tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại đáp ứng yêu cầu liên doanh hợp tác giữa các nước trong khu vực và thế giới. Song phải hết sức xoá mù chữ và hạn chế tại tái mù chữ ở những khu vực vùng sâu vùng xa trong công tác và đào tạo dạy nghề cũng phải có những hình thức thích hợp với những đối tượng ở khu Thủ đô.
* Nâng cao chất lượng lao động ở Thủ đô nhằm tạo điều kiện để người Thủ đô nâng cao chất lượng cuộc sống, thích nghi dần với nền sản xuất hàng hoá, vận động theo cơ chế thị trường.
Ngoài yêu cầu nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để nông dân có khả năng tự tạo việc làm, tìm kiếm thu nhập, cần phải đáp ứng những yêu cầu toàn diện về cuộc sống của người lao động, mà nền kinh tế thị trường với những điều kiện tự nhiên - xã hội - kinh tế khác nhau. Tính năng động không giống nhau đã tạo ra sự phân cực giàu, nghèo. Sự tách biệt giữa thành thị và nông thôn. Những năm tới, bên cạnh việc cải thiện đời sống xã hội, sinh hoạt, vật chất, cần tăng mức hưởng thụ về sinh hoạt văn hoá, tinh thần cho con người bằng cách tăng cường các dịch vụ phục vụ sinh hoạt, giành thời gian cho họ (nhất là lao động nữ) được nghỉ ngơi, giải trí hoặc học tập nâng cao kiến thức, những điều kiện về nhà ở, đi lại được cải thiện, việc mua bán hàng hoá cũng được đảm bảo thuận lợi hơn.
Để đáp ứng được nhu cầu của thị trường, người lao động phải tạo cho mình năng lực nhạy cảm với nhu cầu của cuộc sống, sản xuất hàng hoá có chất lượng gì? mẫu mã ra sao, giá cả thế nào luôn luôn là vấn đề cần phải quan tâm và thích ứng được với mỗi người lao động, mỗi đơn vị sản xuất - kinh doanh, dịch vụ. Điều này hoàn toàn khác với suy nghĩ trước đây của người lao động trong cơ chế bao cấp. Để làm được điều đó, đòi hỏi người lao động có nhận thức, nắm bắt thông tin kịp thời cả về đầu vào cũng như đầu ra và công nghệ kỹ thuật sản xuất.
* Nâng cao chất lượng lao động Thủ đô gắn với chiến lược phát triển.
Mục tiêu phát triển nguồn lực là nhằm nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực, làm cho toàn thể dân cư đều phát huy được các nhân tố tích cực của mình vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Để mỗi người lao động có việc làm và việc làm với chất lượng cao nhằm nâng cao đời sống của bản thân, gia đình và xã hội.
Thủ đô là khu vực chiếm phần lớn dân số, là lực lượng lao động xã hội - nâng cao chất lượng lao động ở Thủ đô không chỉ có ý nghĩa trong khu vực mà còn nhằm tạo nguồn lao động có chuyên môn kỹ thuật, có tay nghề cho các ngành kinh tế ở Thủ đô. Vì vậy cần phát triển toàn diện chất lượng lao động, tăng cường thể lực, nâng cao trình độ học vấn chuyên môn nghề nghiệp của người lao động, nâng cao tỷ trọng lao động được đào tạo, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để người lao động có thể phát huy hết tiềm năng, sức lực để nâng cao hiệu quả, năng suất lao động.
* Nâng cao chất lượng lao động nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường lao động trong khu vực.
Bộ luật lao động ra đời cùng các cơ chế và chính sách khác đã tạo điều kiện cho thị trường lao động hình thành và phát triển. Tuy nhiên tình hình này chỉ chủ yếu diễn ra ở thành phố, ở nông thôn do sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phân công lao động chưa đáng kể nên thị trường lao động chưa phát triển. Một khi chất lượng lao động được nâng lên tạo điều kiện khả năng tìm việc mới cho người lao động. Sự di chuyển lao động trong một ngành nông nghiệp, giữa nông nghiệp và công nghiệp - và buôn bán dịch vụ cũng sẽ hình thành, những hoạt động phi kết cấu, nơi thu hút khá nhiều lao động sẽ phát triển, đồng thời có sự di chuyển những lao động kỹ thuật từ nông thôn ra thành phố và các khu công nghiệp tập trung.
Như vậy việc nâng cao chất lượng lao động Thủ đô với phát triển thị trường lao động với mối quan hệ tương tác lẫn nhau. Một khi chất lượng lao động được nâng cao sẽ là điều kiện cho sự hình thành và phát triển thị trường lao động. Song thị trường lao động luôn biến động cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, đòi hỏi chất lượng nguồn lao động ngày càng cao và phải thích ứng với yêu cầu của thị trường lao động.
3.1.2. Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả nguồn lao động ở Hà Nội đến năm 2010.
3.1.2.1. Mục tiêu chiến lược.
Xuất phát từ những nghiên cứu và đánh giá cơ bản về chất lượng nguồn lao động ở Thủ đô và vai trò của việc nâng cao chất lượng nguồn lao động trong sự phát triển nền kinh tế - xã hội nói chung và thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động Thủ đô nói riêng, xuất phát từ những quan điểm về nâng cao chất lượng nguồn lao động ở Thủ đô trong giai đoạn phát triển mới, căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển nguồn nhân lực, Đảng và Nhà nước, đề tài xác định mục tiêu chiến lược nâng cao chất lượng nguồn lao động Thủ đô đến năm 2010 nhằm đáp ứng về nguồn nhân lực có chất lượng cho sự nghiệp tiếp tục đổi mới nói chung theo hướng CNH - HĐH cụ thể là:
* Tạo lập một lực lượng lao động ở Thủ đô có chất lượng đủ sức đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô theo hướng CNH - HĐH
Đây là yêu cầu hết sức to lớn và bức xúc, có ý nghĩa chiến lược cả về mặt kinh tế - xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng. Yêu cầu này bắt nguồn từ nghị quyết Trung ương 5 và 7 của Ban Chấp hành Trung ương khoá VII đồng thời đến đầu khả năng mới: Mỹ và ASEAN đổ vốn vào khu vực này để hòng nắm lấy người dân, chiếm lĩnh địa bàn chiến lược. Để tiếp tục phát triển, nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, giữ vững an ninh chính trị quốc phòng, trong giai đoạn mới, phải chuẩn bị ngay 1 lực lượng lao động có chất lượng tốt cả về chính trị lẫn chuyên môn.
Mặt khác khi chuyển sang giai đoạn phát triển theo hướng công nghiệp hoá các điểm công nghiệp Thủ đô đã ra đời và phát triển rất mạnh, kéo theo sự xuất hiện của hàng loạt các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Như đã phân tích ở trên vấn đề thất nghiệp ở nước ta trong những năm gần đây đang ở mức báo động và có nguy cơ tạo sự ổn định về kinh tế cũng như chính trị, đòi hỏi phải có những giải pháp tinh tế và cấp bách để giảm sự gia tăng tình trạng thất nghiệp của người lao động. Điều này đã đưa đến một nghịch lý là trong khi tỷ lệ thất nghiệp của chúng ta là rất cao thì nhu cầu lao động có kỹ thuật, có tay nghề cao lại càng tăng trong hầu hết các cơ sở kinh doanh. Đặc biệt là các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao.
Hà Nội hiện có 10 khu công nghiệp và 4 khu chế xuất với tổng diện tích 1.26 ha. Tổng vốn xây dựng hạ tầng đăng ký là gần 1.860 triệu USD. Trong đó 1 khu công nghiệp do các doanh nghiệp Việt Nam tự đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng. Nhu cầu lao động cho các khu công nghiệp và khu chế xuất từ 66.000 (năm 1997) lên 120.000 (năm 2001) và 470.000 (năm 2010), trong đó phần lớn là CNKT với yêu cầu kỹ thuật và công nghệ cao, riêng khu công nghệ cao Hoà Lạc năm 2005 cần 30.000 CNKT, đến 2010 nhu cầu cần tới 41.000 người trong đó phần lớn là CNKT.
Sự phát triển và mở rộng các ngành dịch vụ có hàm lượng lao động chất xám cao trong khu vực dịch vụ đây cũng là một đòi hỏi cần thiết cho quá trình phát triển của khu vực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Có thể nói, để thực hiện được các mục tiêu kinh tế - văn hoá - xã hội trong giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi người dân Thủ đô phải tạo lập được đội ngũ lao động có trình độ quản lý, trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, có đủ khả năng nắm bắt và xử lý các thông tin cần thiết do đòi hỏi phát triển của nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường. Lực lượng này sẽ luôn luôn là nhân tố nội dinh, đóng vai trò lòng cốt trong sự nghiệp phát triển Thủ đô là quá trình chuyển dịch cơ cấu, sản xuất nông nghiệp, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động Thủ đô theo hướng CNH - HĐH.
* Bổ xung đội ngũ lao động có chất lượng cao, phục vụ CNH - HĐH đất nước.
Nhu cầu về lực lượng lao động có chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế lao động với các nước trong khu vực và trên thế giới ngày càng lớn. Thủ đô lại là nơi tập trung phần lớn dân số và lực lượng lao động của cả nước. Do vậy việc khai thác và phát huy hiệu quả tiềm năng con người và các vấn đề xã hội ở khu vực này là vấn đề có ý nghĩa chiến lược mang tính thực tiễn rõ rệt đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển chung của cả nước. Đặc biệt là khi trình độ phát triển đô thị hoá còn đang ở mức thấp, lực lượng lao động chuyên môn, kỹ thuật, đội ngũ lao động có tay nghề còn rất thiếu về số lượng và chất lượng.
Để đáp ứng phần bổ sung ngày càng nhiều lực lượng lao động có chất lượng cho sự nghiệp phát triển của Thủ đô trong giai đoạn phát triển mới, đi đôi với việc đáp ứng mục tiêu chiến lược, nhu cầu của ngành công nghiệp và dịch vụ mũi nhọn như: Tin học, điện tử, dầu khí du lịch, liên lạc viễn thông, ngân hàng, giáo dục và đào tạo... phục vụ các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung và các liên doanh có vốn nước ngoài trong khu vực để xuất khẩu lao động tại chỗ. Phục vụ công tác nghiên cứu, áp dụng các công nghệ kỹ thuật trong quốc phòng, an ninh biên giới và hải đảo...
Ngoài ra, Thủ đô cũng là khu vực có nhiệm vụ phải cung cấp ngày càng nhiều lao động có tay nghề, có chuyên môn kỹ thuật đáp ứng nhu cầu hợp tác quốc tế và lao động với các nước trong khu vực và trên thế giới.
3.1.2.2. Các mục tiêu phát triển cụ thể về chất lượng nguồn lao động Thủ đô đến năm 2010.
Với phương châm xã hội hoá công tác giáo dục và đào tạo với "cầu" của xã hội. Các mục tiêu phát triển cụ thể về nâng cao chất lượng nguồn lao động Thủ đô đến 2010 rất đa dạng và bao gồm nhiều mặt, nhiều mức độ khác nhau tuỳ theo mức độ yêu cầu của đối tượng sử dụng cũng như khả năng tạo nguồn và xã hội trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo và đào tạo lại.
Do vậy trong phạm vi của đề tài này, chúng tôi chỉ hoá một số mục tiêu cụ thể có liên quan, dùng làm cơ sở cho công tác nghiên cứu hoạch định và xây dựng các chính sách giải quyết về mặt xã hội của lĩnh vực giáo dục, đào tạo và đào tạo lại cho nguồn lao động Thủ đô của cả nước đến 2010.
Tuy nhiên đây là vấn đề rất mới về cả lý luận và thực tiễn. Chưa có một tài liệu nghiên cứu khoa học cũng như mộ văn kiện của Đảng hoặc 1 chương trình của Chính phủ của ngành lượng hoá các chỉ tiêu chất lượng nguồn lao động Thủ đô trong những năm tới.
Dựa vào một số mục tiêu đã nêu trong nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong các chương trình trọng điểm của Chính phủ, của ngành về phát triển về kinh tế - xã hội, phát triển nguồn nhân lực ở Thủ đô theo hướng CNH - HĐH, căn cứ vào khả năng về nguồn dữ liệu ban đầu sử dụng các mô hình biểu hiện mối tương quan giữa các chỉ tiêu cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động với chỉ tiêu chất lượng nguồn lao động. Tham khảo thực tiễn phát triển ở một số nước trong khu vực, trên giác độ một đề tài nghiên cứu ứng dụng, chúng tôi mạnh dạn lượng hoá một số chỉ tiêu cơ bản về mục tiêu phát triển chất lượng nguồn lao động ở Thủ đô đến năm 2010 (xem bảng 7).
Bảng 7. Dự tính nhu cầu chất lượng nguồn lao động Thủ đô
đến năm 2010
Chỉ tiêu
Năm 1997
Năm 2010
Tốc độ tăng giảm bình quân hàng năm
A
1
2
3
1. Cơ cấu GDP khu vực Thủ đô chia theo nhóm ngành (%)
- Nông nghiệp
51,4
44,4
-
- Công nghiệp
18,9
20,3
-
- Dịch vụ
29,7
35,3
-
2. Dân số 1000 (người)
- Cả nước
71025,6
82200
2,1
- Hà Nội
56318,0
57540
0,3
- Hệ số đô thị hoá (%)
21
30
-
3. Lao động, việc làm:
3.1. Lao động trong độ tuổi (1000 người)
27.600
33.500
2,8
3.2. Lao động trong tuổi có nhu cầu làm việc (1000 người)
23.460
27.470
2,3
3.3. Lao động trong tuổi có nhu cầu làm việc nhưng chưa có việc làm (1000 người)
820
824
0,4
3.4. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi (%)
(3.4) = x 100
3,5
3,0
-
3.5. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi tham gia HĐKT (%)
35-40
20-25
-
3.6. Lao động và cơ cấu lao động trong độ tuổi tham gia HĐKT chia theo nhóm ngành)
- (Xác định theo các hoạt động chính)
Tổng số lao động làm việc (1000 người)
22.640
26.646
2,35
* Trong đó: + Nông nghiệp (1000 người)
16.935
15.987,6
-0,87
% so với tổng số
74,8
60,0
-
+ Công nghiệp (1000 người)
3034
6661,5
11,40
% so với tổng số
13,4
20,3
-
+ Dịch vụ (1000 người)
2671
3996,9
5,33
% so với tổng số
11,8
35,3
-
4. Chất lượng nguồn lao động:
4.1. Tỷ lệ biết chữ từ 15 tuổi trở lên (%)
78,1
99,2
-
4.2. Tổng số lao động đã qua đào tạo (1000 người)
1876
3484
9,25
* Trong đó:
4.2.1. Chia theo trình độ đào tạo:
- Cao đẳng, đại học
264.516
290,333
1,34
- THCN
859,258
871,00
1,36
- CNKT - Sơ cấp
752,276
2.322,667
17,47
* Cấu trúc đào tạo
1-3,3-2,8
1-3-8
-
4.2.1. Số lao động KT tham gia HĐKT chia theo nhóm ngành hoạt động
- Nông nghiệp (1000 người)
990
1.600
7,4
% so tổng số LĐLV trong nhóm
5,8
10,0
-
- Công nghiệp (1000 người)
560
1340
13,27
% so tổng số LĐLV trong nhóm
18,5
20,1
-
- Dịch vụ:
270
480
8,57
% so tổng số LĐLV trong nhóm
10,1
12,0
-
* Nói chung (1000 người)
1820
3420
9,43
% so với tổng số LĐLV ở Thủ đô
8,0
12,8
-
4.3. Số cán bộ KHKT và CNKT tính bình quân trên 1000 người trong độ tuổi lao động (người)
68
104
6,26
* Chú thích:
Số liệu năm 1997: Nguồn của TCTK, Uỷ ban kế hoạch nhà nước (Vụ Lao động văn xã và việc chiến lược dài hạn).
Kết luận
Toàn bộ nội dung đề tài: Nâng cao sử dụng nguồn nhân lực ở Hà Nội trong thời kỳ CNH - HĐH giai đoạn đến năm 2010 được đề cập trong các chương được thực hiện bằng phương pháp phân tích, tổng hợp. Cơ sở lý luận được gắn liền với thực tiễn trong việc nâng cao nguồn nhân lực của Thủ đô Hà Nội trong những năm qua...
Những năm gần đây chất lượng lao động ở Hà Nội được thay đổi: trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ người lao động được nâng lên, lao động Thủ đô từng bước thích ứng với sự phát triển các ngành nghề, dịch vụ, sự phân công lao động đã có sự chuyển biến, góp phần cải thiện đời sống từng bước thay đổi bộ mặt của Thủ đô.
Nâng cao chất lượng lao động Thủ đô là nội dung quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực của nước ta trong những năm tới là điều kiện tiền đề để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế - cơ cấu lao động ở Thủ đô. Đồng thời có ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phân công lao động trong phạm vi cả nước, để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững theo hướng CNH - HĐH. Ngoài những yếu tố về vốn đầu tư, cơ chế, chính sách... cần chuẩn bị lực lượng lao động có chất lượng đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế tăng tỷ lệ lao động ở khu vực thành thị, lao động trong các ngành công nghiệp dịch vụ.
Cần nhận thức rằng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nói chung ở Thủ đô nói riêng là cả một quá trình, với sự phối hợp của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Một mặt phải nâng cao dân trí, trình độ văn hoá, thể lực cho người lao động thực hiện đào tạo, đào tạo lại để mọi người lao động có thêm chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng tìm kiếm việc làm, tạo thu nhập. Mặt khác, Nhà nước cần đầu tư thích đáng để nâng cao chất lượng lao động (bảo vệ sức khoẻ, giáo dục, đào tạo tay nghề) đồng thời có cơ chế chính sách nhằm tăng nhanh đội ngũ lao động có chất lượng cao là cơ sở cho việc thúc đẩy sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội.
Đề tài cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót khác. Kính mong sự quan tâm chỉ giáo, góp ý, giúp đỡ của thầy. Em xin chân thành cảm ơn.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Đề tài cấp bộ năm 1996: của Viện Khoa học lao động và chính sách xã hội.
2. Chuyên đề khoa học (đề tài cấp bộ năm 1995)
Nâng cao chất lượng nguồn lao động nông thôn nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong khu vực theo hướng CNH - HĐH.
3. Tạp chí kinh tế và phát triển của trường ĐH KTQD
PGS.TS Phạm Đức Thành
Một số vấn đề về NNL Thủ đô
4. Tạp chí lao động xã hội số 171 (tháng 02/2001)
5. Tạp chí lao động và xã hội số 161 (tháng 04/2000)
6. Vũ Ngọc Hải: Giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp CNH - HĐH. NXB Giáo dục 1995.
7. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 272 (tháng 1-2001).
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
.............................................................................................................................
..............................................................................................................................
.............................................................................................................................
..............................................................................................................................
.............................................................................................................................
..............................................................................................................................
.............................................................................................................................
..............................................................................................................................
Nhận xét của cơ quan thực tập
.............................................................................................................................
..............................................................................................................................
.............................................................................................................................
..............................................................................................................................
.............................................................................................................................
..............................................................................................................................
.............................................................................................................................
..............................................................................................................................
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3584.doc