Thị trường chứng khoán là một thị trường hoàn toàn mới mẻ đối với quảng đại dân chúng Việt Nam. Cho đến nay thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động được hơn 2 năm nhưng những dấu hiệu bước đầu cho thấy thị trường vẫn chưa có gì là khởi sắc và vẫn chưa chiếm được vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Thị trường chứng khoán Việt Nam là một thị trương chưa hoàn thiện bởi vậy áp dụng các kỹ thuật phân tích để đưa ra quyết định đầu tư chứng khoán là một việc vô cùng khó trong điều kiện hiện nay, điều này đòi hỏi các nhà đầu tư nếu muốn đầu tư trực tiêp vào thị trường mà không qua tư vấn cần phải không ngừng nâng cao trình độ phân tích và đầu tư chứng khoán của mình
Những thành quả và tồn tại của thị trường trong suốt gần 3 năm hoạt động đã đánh dấu những thành công trong chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà Nước. Tuy nhiên sự thiếu am hiểu về thị trường của công chúng đầu tư cũng như những biện pháp muộn màng cuả chính phủ đã tạo cho thị trường một sức ỳ nhất định. Để thị trường hoạt động tôt hơn cần phải có những thay đổi từ phía Nhà Nước cũng như cách nhìn nhận về thị trường của các nhà đầu tư.
Chúng ta hy vọng rằng rồi đây với sự chỉ đạo của Đảng và Nhà Nước thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ hoạt động khởi sắc hơn.
62 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1637 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích và Đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g ty theo giá trị thực của công ty.Trong thực tế điều chú trọng nhất vẫn là vấn đề “ lợi nhuận” vì đó là cơ sở chính để đánh giá khả năng sinh lời của việc sử dụng đồng vốn của công ty.
3.8. Một số điều kiện cần thiết khi tiến hành phân tích và đầu tư chứng khoán.
3.8.1 Dự báo giá chứng khoán trong tương lai.
Các nhà phân tích chứng khoán đã tập trung sức lực để có thể đưa ra các phương pháp hữu hiệu nhất để dự báo giá chứng khoán trong tương lai. Chúng ta có thể mô phỏng mối quan hệ của giá chứng khoán với các yếu tố qua hàm số sau:
P = f( c1,c2,c3...cn;a1,a2,a3...an)
Trong đó: P là giá chứng khoán
f là hàm số chứa giá chứng khoán
c1,c2,c3..cn là các yếu tố định lượng
a1,a2,a3...an là các yếu tố định lượng.
Hiện nay có 3 thuyết đáng lưu ý nhất trong việc dự báo giá chứng khoán:
Thuyết “ firm foundation”
Theo thuyết này thì giá cả chứng khoán sẽ phụ thuộc vào kết quả kinh doanh và tiềm năng sản xuất, khả năng phát triển sản xuất, khả năng lợi nhuận của bản thân công ty niêm yết. Những người theo thuyết này thường tập chung sức lực để thu thập thông tin về công ty niêm yết nhằm phân tích, dự báo tình hình sản xuất và các tình hình khác của công ty niêm yết. Cũng từ thuyết này đã hình thành bộ môn phân tích công ty, đặc biệt là phân tích tài chính công ty.
Thuyết ‘castle in the air “.
Thuyết này trái ngược vời thuyết “ firm foundation” và cho rằng giá của chứng khoán do quan hệ cung cầu của chứng khoán đó trên thị trường chứng khoán quyết định chứ không phụ thuộc gì vào tình hình sản xuất, kinh doanh của công ty niêm yết. Bởi vậy , những người theo thuyết này chỉ chú trong theo dõi giá cả giao dịch chứng khoán và lập nên các đồ thị thể hiện sự biến động của giá cả chứng khoán. Từ các đồ thị đã lập, họ rút ra một số quy luật và dùng nó để dự báo giá chứng khoán trong tương lai. Đây là một trường phái phân tích và đầu tư chứng khoán rất mạnh và nó có tên là phân tích kỹ thuật.
Thuyết thị trường hiệu quả.
Theo thuyết này thì trong thị trường hiệu quả giá cả hình thành một cách ngẫu nhiên. Chúng ta hiểu thị trường hiệu quả là một thị trường hết sức công bằng và đã phát triển. Trong thị trường hiệu quả người đầu tư rất bình đẳng và mọi hoạt động của thị trường hết sức lành mạnh, lợi thế chỉ thuộc về những người có được thông tin. Những người theo thuyết này cho rằng tình hình sản xuất của công ty niêm yết, cũng như sự hình thành của giá cả chứng khoán trên thị trường chứng khoán trong quá khứ không quyết định gì đến việc hình thành giá cả trong tương lai. Họ cho rằng phân tích công ty,cũng như phân tích kỹ thuật không thể đưa lại kết quả chính xác về sự hình thành giá cả chứng khoán và chúng ta không nên tốn công, tốn của vào các loại phân tích này. Quyết sách của những người theo thuyết này là ngồi chờ vận may và nói theo ngôn ngữ Việt Nam là phải cầu chùa, khấn phật, tu tâm tích đức để chờ số phận và may mắn.
Lịch sử hình thành và phát triển chứng khoán quốc tế đã cho thấy rằng không một thuyết nào trên đây đúng hoàn toàn, mà có lúc thuyết này có lý hơn và lúc khác thuyết khác lại có lý hơn. Có những lúc xu thế hình thành giá cả lại ngược lại. Ví dụ doanh nghiệp niêm yết làm ăn tốt hơn thì giá chứng khoán lại giảm; hoặc theo quy luật cũ đã rut ra từ phân tích kỹ thuật thì giá giảm nhưng thực chất giá chứng khoán lại tăng.
Qua việc phân tích như trên, chúng ta có thể kết luận rằng: Giá chứng khoán là một hộp đen và vô phương xác định trước một cách chính xác.
3.8.2 Kiến thức về thị trường chứng khoán.
Muốn đạt được kỹ năng phân tích ở mức trung bình có thể áp dụng được thì người đầu tư phải có những kiến thức tối thiểu về chứng khoán, thị trường chứng khoán và phân tích đầu tư chứng khoán. Chỉ khi bạn có đủ những kiến thức tối thiểu về chứng khoán, các nguyên lý cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, các phương pháp phân tích thì bạn mới có thể nhận định về giá cả chứng khoán một cách tương đối để từ đó đưa ra quyết định đầu tư co lợi cho mình.
Giá cả chứng khoán như trên đã nói: nó là một hộp đen, tuy nhiên nếu chúng ta biết được đầu vào của hộp đen đó, kết hợp với những nguyên lý cơ bản, quy luật cung cầu của thị trường thì chúng ta có thể dự đoán được đầu ra của hộp đen một cách tương đối chính xác. Nếu không có kiến thức cơ bản,chứng khoán đến với bạn như là một chò cờ bạc.
3.8.3. Thông tin.
Trong nền kinh tế thị trường,thông tin là tài sản ,là tiền. Chiến thắng sẽ thuộc về những người nhậy cảm với thông tin. Ví dụ khi phân tích công ty, phân tích cơ bản chúng ta cần cập nhật những thông tin mới nhất về công ty, như tình hình sản xuất kinh doanh, thu nhập , nợ nần, tình hình khách hàng, tình hình nhân sự trong ban lãnh đạo...Thông tin được ví như huyết mạch, là nguồn năng lượng nuôi sống thị trường chứng khoán và hết sức cần thiết đối với các nhà đầu tư. Thông tin chính là đầu vào của hộp đen giá cả chứng khoán, và chỉ khi có đầu vào đó thì chúng ta mới có cơ sở phân tích dự báo gía chứng khoán một cách tương đối.
3.8.4 Điều kiện về vật chất kỹ thuật.
Để phân tích các chỉ số cơ bản về tài chính doanh nghiệp,chúng ta cần có cơ sở vật chất kỹ thuật tối thiểu, ví dụ như để tính nhanh giá cổ phiếu, trái phiếu trong phân tích chứng khoán thì chúng ta nên có máy tính cầm tay về tài chính; để tính nhanh về mức độ rủi ro qua đánh giá phương sai thì máy tính của bạn nên có hàm thống kê; còn nêu để xác định danh mục tối ưu trong lựa chọn phương án tối ưu theo bài toán quy hoạch tuyến tính thì ta phải dùng máy tính kèm theo các phần mềm tương ứng. Hiện nay ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển các phần mềm này khá phổ biến.
Tuy nhiên bạn có thể đặt câu hỏi: “ Nếu bạn không có các điều kiện trên thì bạn có thể tiến hành đầu tư vào chứng khoán được không”. Câu trả lời là có và bạn phải nhờ tư vấn, tất nhiên bạn phải trả một khoản phí tư vấn. Hiện nay các công ty chứng khoán ở Việt Nam và trên thế giới đều có nghiệp vụ này. ở nhiều nước do có sự cạnh tranh thu hút khách hàng,các công ty chứng khoán sẵn sàng cung cấp thông tin và tư vấn đâù tư miễn phí.
3.9 Một số phương pháp thường dùng trong phân tích và đầu tư chứng khoán.
3.9.1. Phương pháp định giá chứng khoán.
Phương pháp này dựa vào lý thuyết giá trị đông tiền trong tương lai. Giá trị của chứng khoán được hiểu là toàn bộ thu nhập của chứng khoán đó trong tương lai quy về hiện tại. Giá trị của chứng khoán là cơ sở quan trong để đánh giá chứng khoán, ở đây quy luật giá trị vẫn có hiệu quả: Về lâu dài, giá trị chứng khoán sẽ quyết định giá chứng khoán. Tuy nhiên tại các thời điểm cụ thể thì giá chứng khoán sẽ tách rời giá trị do quan hệ cung cầu và các yếu tố tâm lý của người đầu tư tại thời điểm đó. Ví dụ giá cổ phiếu ở Trung tâm giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh đã vượt xa giá trị của chúng (tại thời điểm đầu khi thị trường chứng khoán mới được hình thành ở Việt Nam) do quan hệ cung cầu về chứng khoán, cung quá thấp so với cầu.
Giá trị của chứng khoán được tính theo công thức sau đây:
TN1 TN2 TN3 TNn
P = lim (––– + –– + ––– + .......+ ––––)
n→∞ (1+r)ạ ( 1+r)² (1+r)³ (1+r)n
3.9.2.Phương pháp phân tích kỹ thuật và lý thuyết Dow.
Phân tích kỹ thuật là quá trình nghiên cứu xu hướng lên xuống của giá cả thị trường chứng khoán, và khuynh hướng lên xuống của một loại chứng khoán để xem xét thời điểm thích hợp cho việc mua bán chứng khoán. Các nhà phân tích kỹ thuật không phủ nhận giá trị của thông tin cơ bản mà họ tinh rằng, giá cổ phiếu cuối cùng sẽ phù hợp với các giá trị cơ bản của chúng. Tuy nhiên các nhà phân tíchd cũng tin rằng, những thay đổi của thị trường cần được nhận thức rõ ràng, trước khi nó gây ra những biến động cho thị trường. Vì thị trường tự điều chỉnh để đạt đến thế cân bằng mới, những nhà kinh doanh tinh ranh có thể khai thác các xu hướng giá này.
Các nhà phân tích kỹ thuật cũng tin rằng, các nguyên tắc thị trường có thể bị đảo lộn bởi những yếu tố vô lý. Các dao động ngẫu nhiên của giá ít nhiều gắn với một xu hướng cơ bản nào đó. Nếu những dao động này diễn biến chậm, có thể lợi dụng chúng để tạo ra lợi tức bất thường.
Theo các nhà phân tích kỹ thuật thì những mô hình về giá cổ phiếu có thể khai thác, nhưng một khi các nhà đầu tư nhận biết và lợi dụng nó, hoạt động mua bán của họ sẽ tác động đến giá do đó làm thay đổi các mô hình giá. Điều này có nghĩa là các mô hình mô tả đặc điểm của giá sẽ luôn luôn biến hoá và chỉ những nhà phân tích giỏi có thể nhận biết được những mô hình sớm nhất mới được hưởng lợi. Một trong những lý thuyết điển hình của phân tích kỹ thuật là mô hình lý thuyết Dow.
Phương pháp này sử dụng kết quả giao dịch đặc biệt là giá cả chứng khoán trong quá khứ và thể hiện chúng trong các đồ thị nhằm đưa ra một số quy luật hình thành của giá cả chứng khoán trong tương lai. Điển hình của phương pháp này là lý thuyết Dow. Lý thuyết Dow do Charter H. Dow thể hiện qua các bài phân tích thị trường của ông và sau đó William P. Hamiton người kế nghiệp ông phát triển và tổng kết thành lý luận. Lý thuyết nầy cho rằng giá cả chứng khoán do quan hệ cung cầu của thị trường quyết định và sẽ diễn biến qua 3 xu thế:
Xu thế cấp 1: Xu thế biến động giá cả chứng khoán kéo dài từ 1 đến 3 năm và kết quả là sự tăng hoặc giảm giá chứng khoán đến 20%.
Xu thế cấp 2: Trên diễn biến của xu thế cấp 1 có các diễn biến ngắt quãng của xu thế cấp 1, nhưng nó là sự điều chỉnh của xu thế cấp 1. Xu thế này thường kéo dài từ vài tuần đến 3 tháng.
Xu thế cấp 3: Là các xu thế nhỏ trong khoảng vài ngày đến một tuần.
Lý thuyết Dow gắn liền với mức hỗ trợ và đề kháng của cổ phiếu. Mức hỗ trợ là giá trị mà dưới giá trị đó, thị trường không có khă năng rơi rớt nữa, mức đề kháng là giá trị mà trên giá trị đó thị trường khó có thể tăng lên nữa. Các mức đề kháng được xác định bởi lịch sử vừa qua của giá. Các nhà phân tích kỹ thuật xem các mức đề kháng và mức hỗ trợ như là kết quả về mặt tinh thần cuả các nhà đầu tư. Thí dụ, xem xét các mức cổ phiếu X là cổ phiếu đã được mua bán trong vài tháng với giá 72 USD và sau đó giảm xuống còn 65 USD. Nếu cuối cùng cổ phiếu cũng bắt đầu lên giá, thì 72 USD là mức đề kháng tự nhiên vì rất nhiều nhà đầu tư đã mua lúc đầu với giá 72 USD sẽ dễ dàng bán cổ phiếu của họ ngay sau khi họ đạt được đến điểm hoà vốn với khoản đầu tư ban đầu của họ. Bất cứ khi nào giá gần bằng 72 USD, một làn sóng bán ra sẽ phát sinh. Việc tìm kiếm các mô hình của thị giá cổ phiếu là điều kiện hầu như không thể thiếu và khả năng nhận thức của con người về các mô hình dĩ nhiên là lớn. Tuy nhiên cũng khó có thể nhận ra các mô hình không thực sự tồn tại.
Môn phân tích kỹ thuật cũng đã rút ra một số dạng đồ thị của chuyển động giá chứng khoán từ tài liệu lịch sử của thị trường chứng khoán Mỹ như dạng đỉnh - đầu – vai, dạng ngọn cờ, dạng tam giác đều, dạng tam giác cân...
3.9.3.Phương pháp phân tích rủi ro khi đầu tư vào chứng khoán.
Rủi ro được định nghĩa là sự không chắc chắn, hay sự giao động thu nhập. Để đánh giá sự giao động của một biến, môn khoa học thống kê có phương pháp tính phương sai và độ lệch chuẩn. Công thức tích phương sai như sau:
∑ ni * ( Ei – E ( r))
∂ 2 = ―――――――――.
n – 1
Trong đó ∂ 2 là phương sai
n là số lượng tổng thể
ni là quyền số theo số lượng của cá thể i
Ei là số lượng cá thể i( thu nhập)
E (r) là thu nhập bình quân của tổng thể
Độ lệch chuẩn ∂ gọi là đại lượng đo rủi ro trong đầu tư.
Để phân tích rủi ro về mặt định tính, người ta dùng các phương pháp khác nhau như rủi ro khách hàng, rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính v..v..
Phương pháp phân tích rủi ro nhằm mục đích nghiên cứu rủi ro ứng với từng mức lợi nhuận dự kiến để từ đó có thể đưa ra quyết định đầu tư hợp lý phù hợp với khả năng chịu đựng rủi ro của bạn và phần thưởng cho sự chịu đựng rủi ro đó.
Chương II: Phân tích và đầu tư chứng khoán trên Thị trường Chứng Khoán Việt Nam
1.Hoàn cảnh ra đời.
Bối cảnh quốc tế
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay với sự phát triển của kinh tế và khoa học kỹ thuật sẽ dẫn đến xu hướng toàn cầu hoá với những thay đổi to lớn như: sự dịch chuyển hàng hoá giữa các nước và khu vực; sự dịch chuyển về tri thức và công nghệ; sự dịch chuyển về vốn qua các hình thái đầu tư trực tiếp nước ngoài, liên doanh góp vốn, đầu tư thông qua TTCK.
Cũng nhờ sự phát triển của kinh tế và khoa học kỹ thuật, TTCK nói riêng và TTTC nói chung đã trải qua một cuộc cách mạng thực sự trong những năm gần đây làm tính chất toàn cầu hoá về các giao dịch tài chính được nhân rộng. Với sự xuất hiện của tiền điện tử, sự xuất hiện mạnh mẽ của internet vào TTCK dẫn tới sự tham gia càng phổ biến của người dân vào TTCK. Đến năm 1997, trên thế giới có 160 Sở giao dịch chứng khoán trải khắp các Châu lục. Có thể nói rằng TTCK là một định chế tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường và nhất là các nước đang phát triển cần một khối lượng lớn vốn daì hạn cho nền kinh tế quốc dân.
Không một quốc gia nào có thể phát triển hiệu quả khi không chủ động gắn sừ phát triển của mình với sự phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Vì vậy, bối cảnh quốc tế đòi hỏi TTCK Việt Nam ra đời và đi vào hoạt động.
Bối cảnh trong nước
Trong quá trình đổi mới từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có thị trường Tiền Tệ, Thị trường vốn để phục vụ cho sự phát triển của Thị trường hàng hoá - dịch vụ. Sau một thời gian đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đạt được nhịều chỉ tiêu đáng khích lệ như tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao(7-8% GDP/năm-số liệu năm 1991-1997), lạm phát được kiềm chế.
Việc Việt Nam tham gia tổ chức và các hiệp định thương mại như CFPT(Hiệp định chung về ưu đãi Thuế quan), AFTA( Khu vực tự do ASIAN),APEC(Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương) và hiệp định thương mại Việt – Mỹ... kéo theo việc gỡ bỏ dần hàng rào bảo hộ mậu dịch ( thuế quan và phi thuế quan) sẽ làm cho các doanh nghiệp nước ta phải đối mặt cạch tranh gay gắt hơn trong việc chiếm lĩnh thị trường trong nước và nước ngoài.
Để duy trì và tạo ra lợi thế cạnh tranh, các ngành hàng nước ta không còn con đường nào khác là phải đổi mới công nghệ, tổ chức sắp xếp lại và do vậy cũng đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư lớn.Vì năng suất lao động còn thấp, nền kinh tế tuy bước đầu có tích luỹ song mức độ rất hạn chế. Một mặt, do chưa có TTCK nên nguồn vốn chủ yếu huy động thông qua hệ thống ngân hàng và các quỹ hỗ trợ. Thực tiễn cho thấy, hệ thống ngân hàng chủ yếu chỉ cung cấp được nguồn vốn ngắn hạn, các khoản vay nợ từ các quỹ hỗ trợ (FDI hay ODA) cũng ngày càng hẹp lại. Trong khi đó nhu cầu về vốn trung và dài hạn ngày càng tăng, đòi hỏi bức xúc sự ra đời của TTCK.
Mặt khác, ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều hàng hoá Chứng khoán do Chính phủ và các tổ chức tài chính phát hành hay do quá trình đổi mới quản lý doanh nghiệp (cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước) tạo ra. Các chứng khoán này vẫn có nhu cầu mua bán, chuyển nhượng, nếu không có thị trường công khai thì không thể đảm bảo được tính thanh khoản cho các chứng khoán này. Do đó nảy sinh yêu cầu phải xây dựng TTCK.
Nền kinh tế nước ta nhìn chung đã qua được những ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ vừa qua trong khu vực và dần lấy lại được đà phát triển của những năm đầu thập kỷ 90, kinh tế phát triển, lưu thông tiền tệ ổn định. Mức sống dân cư cũng như dân trí được gia tăng một cách đáng kể, do vậy tạo ra áp lực tìm kiếm cơ hội đầu tư cho người dân.
Ngược lại, lịch sử ra đời và phát triển của TTCK cho thấy ban đầu TTCK của các nước ra đời tự phát sau đó mới có sự quản lý của Nhà nước về chứng khoán. Ví dụ: TTCK Thái Lan bắt đầu hoạt động từ năm 1962 thông qua Sở giao dịch chứng khoán của một công ty tư nhân nhưng sau một thời gian hoạt động nảy sinh nhiều bất ổn nên TTCK bị đóng cửa(1970) và phải sau 5 năm TTCK Thái Lan mới hoạt động trở lại khi có mặt của Sở giao dịch chứng khoán Thái Lan do Chính phủ thành lập...
Từ bài học kinh nghiệm trong quá trình hình thành và phát triển TTCK của các nước, Đảng và Nhà nước đã định hướng cho việc hình thành TTCK tại Việt Nam:” Mô hình TTCK ở Việt Nam đước xác định trên cơ sở phối hợp đồng bộ giữa các cấp, ngành, phát triển thân trọng, từng bước và phải được quản lý chặt chẽ”.
Ngay từ ngày đầu xây dựng TTCK Việt Nam đã có cơ quan quản lý cấp nhà nước là UBCKNN được hình thành theo quyết định số 75/CP của Chính phủ ngày 28/11/1996 để đảm bảo cho thị trường hoạt động công bằng, công khai, an toàn và có trật tự thông qua khung pháp lý. Tiếp theo, ngày 11/7/1998 Chính phủ ban hành nghị định số 48/NĐ-CP về chứng khoán và TTCK, tạo nên khung pháp lý căn bản cho việc phát hành chứng khoán ra công chúng( tiền đề cho việc đưa hàng hoá chứng khoán có chất lượng cao vào giao dịch trên TTCK), thành lập các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư, đặc biệt là tổ chức vận hành thị trường giao dịch tập trung ( trung tâm giao dịch chứng khoán).
Mặt khác, Chính phủ chủ trương nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước XHCN, trong đó phải kể đến loại hình công ty cổ phần, sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường và là nơi cung cấp loại “hàng hoá” quan trọng nhất cho TTCK là cổ phiếu.
Đối với loại hàng hoá khác là trái phiếu cũng được Chính phủ quan tâm bằng cách phát hành các đợt trái phiếu Chính phủ giao dịch trên TTCK, cho phép các địa phương và các loại hình doanh nghiêp ( doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn) nếu có đủ điều kiện ( được quy định trong các văn bản về phát hành trái phiếu) được phát hành trái phiếu...
Xuất phát từ thực tiễn nền kinh tế, TTCK Việt Nam được tổ chức từ đơn giản đến hoàn thiện. Bước đầu, để đáp ứng nhu cầu giao dịch các chứng khoán trên thị trương, Việt Nam xây dựng một Trung tâm giao dịch chứng khoán tập trung với quy mô thích hợp bao gồm cả Thị trường sơ cấp và Thị trường thứ cấp.
2.Các chủ thể tham gia TTCK
2.1. Uỷ ban chứng khoán nhà Nước.
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước được thành lập theo Nghị định 75/CP ngày 28/11/1996 là cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK. UBCKNN là cơ quan trực thuộc chính phủ quản lý, giám sát hoạt động của TTCK phát triển theo định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước.
Hoạt đông của UBCKNN nhằm mục đích quản lý hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng và đảm bảo TTCK hoạt động lành mạnh trên cơ sở luật pháp. Ngoài ra UBCKNN còn có chức năng tổ chức và xây dựng trong giai đoạn đầu hoạt động của TTCK Việt Nam.
UBCKNN là cơ quan đề xuất và ứng dụng các phương án kinh tế, kỹ thuật về phát triển, hiện đại hoá công nghệ chứng khoán: xây dựng mối quan hệ giữa TTCK Việt nam và TTCK các nước, trước hết là trong khu vực nhằm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế Việt Nam; cấp, thu hồi giấy phép và giám sát hoạt động của các công ty chứng khoán, các công ty tư vấn đầu tư và các công ty quản lý quỹ đầu tư của người Việt nam và của người nước ngoài hoạt động tại Việt nam.
Hiện tại UBCKNN có Trụ sở chính tại số 21 Lò Sũ, Hoàn Kiếm, Hà Nội và văn phòng đại diện tại TP.HCM tại số 39 Nguyễn Công Trứ, Quận 1,tp.HCM.
2.2 Trung tâm giao dịch chứng khoán
Trong giai đoạn đầu của TTCK ở Việt Nam, để hỗ trợ cho việc triển khai chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và huy động vốn của Chính phủ, trong khi chưa có đủ điều kiện để tạo lập Sở giao dịch chứng khoán nên nhà nước đã thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán là đơn vị sự nghiệp có thu ( hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận), trực thuộc UBCKNN. Đây là kết quả học được từ kinh nghiệm của một số nước như Canađa, Trung Quốc... Thành lập TTGDCK là bước chuẩn bị cho việc thành lập Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam, một đơn vị kinh doanh.
TTGDCK có chức năng và nhiệm vụ tổ chức, quản lý, điều hành việc mua bán chứng khoán; quản lý, điều hành và hoàn thiện hệ thống giao dịch; cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho việc mua, bán và lưu ký chứng khoán, xây dựng và công bố các chỉ số, thông tin về phân tich và dự báo thị trường; theo dõi hoạt động và sử lý vi phạm, thu phí các thành viên tham gia.
Đối tượng tham gia giao dịch tại Sàn của TTGDCK bao gồm các thành viên của TTGDCK là các công ty chứng khoán được UBCKNN cấp giấy phép hoạt động và có đơn đăng ký làm thành viên của Trung tâm. Các công ty chứng khoán thành viên sẽ có đại diện của mình tại Sàn để thực hiện việc nhập các lệnh giao dịch cho khách hàng. Các đại diện này do công ty chứng khoán đề cử và phải được Trung tâm cấp giấy phép.
Như vậy, TTGDCK bao gồm cả Trung tâm lưu ký chứng khoán và hệ thống máy móc phục vụ cho giao dịch chứng khoán tập trung.
Chính phủ đã cho phép thành lập TTGDCK ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng thời gian qua do lượng hàng hoá giao dịch trên thị trường tập trung chưa nhiều nên mới có TTGDCK Tp.HCM đi vào hoạt động. Dự kiến, năm 2003 TTGDCK Hà Nội sẽ chính thức đi vào hoạt động.
2.3 Các tổ chức phát hành.
Để đảm bảo chất lượng chứng khoán giao dịch trên TTGDCK, tại Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ và Thông tư số 01/1998/TT-UBCKNN của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã quy định tổ chức phát hành chứng khoán ra công chúng ( không kể Chính phủ) phải là những doanh nghiệp có quy mô nhất định và sản xuất kinh doanh có hiệu quả theo pháp luật quy định.
Một tổ chức phát hành khi tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung sẽ có những lợi ích:
*Dễ dàng huy động vôn trung và dài hạn
*Tạo nên hình ảnh trong công chúng: Quá trình giao dịch chứng khoán tại Thị trường tập trung được công bố trên TTGDCK và các phương tiện thông tin đại chúng tạo được hình ảnh về công ty và sản phẩm của công ty trong công chúng đầu tư và người tiêu dùng, nhờ vậy công ty thành công hơn trong quảng bá hoạt động của mình.
*Các chứng khoán của công ty niêm yết sẽ có tính thanh khoản cao hơn, từ đó mở rộng khả năng dùng lam thế chấp và dễ dàng được sử dụng cho các mục đích tài chính khác.
Các tổ chức phát hành đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra hàng hoá trên TTCK.
2.4. Các tổ chức trung gian.
*Các công ty chứng khoán
ở Việt Nam có một hệ thống ngân hàng với những kinh nghiệm nhất định trong quá trình hoạt động kinh doanh tiền tệ, có đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên tác nghiệp được đào tạo khá cơ bản, có hệ thống giao dịch bước đầu đã được hiện đại hoá theo hướng công nghệ hiện đại, nên việc NHTM tham gia vào hoạt động kinh doanh là cần thiết. Tuy nhiên, để phòng ngừa rủi ro và tránh những tác động ảnh hưởng của kinh doanh chứng khoán đến hoạt đông tín dụng – tiền tệ ngân hàng, nhằm bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền, nên các ngân hàng hoạt động kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty con dưới dạng doanh nghiệp độc lập. Chính vì vậy, tại điều I, Thông tư 04/1999/TT-NHNN5 ngày 01/11/1999 quy định rõ “ Ngân hàng thương mại là NHTM Nhà Nước, Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Nước và nhân dân ( dưới đây gọi là ngân hàng thương mại.) được thành lập công ty chứng khoán trực thuộc, có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, 100% vốn của Ngân hàng thương mại.”. Như vậy, ở Việt Nam các NHTM chỉ được phép thành lập công ty chứng khoán dưới dạng công ty trách nhiệm hưũ hạn một thành viên.
Bên cạnh đó, UBCKNN cũng cho phép các công ty tài chính, công ty bảo hiểm hoặc tổng công ty lớn thành lập một số công ty chứng khoán cổ phần.
Các nghiệp vụ chủ yếu của công ty chứng khoán là: nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán( tự doanh), nghiệp vụ tư vấn đầu tư, nghiệp vụ môi giới chứng khoán,quản lý danh mục đầu tư và bảo lãnh phát hành. Công ty chứng khoán có thể triển khai từng nghiệp vụ kinh doanh hoặc thực hiện tất cả các nghiệp vụ. Tuy nhiên có 2 nghiệp vụ bắt buộc đối với một công ty chứng khoán là Môi giới và Tư vấn.
Hiện tại ở Việt Nam co 9 Công ty chứng khoán với quy mô Vốn điều lệ như sau:
TT
Tên công ty
Vốn điều lệ(tỷ)
1
Nông nghiệp
60
2
Đầu tư
55
3
Công thương
55
4
Bảo Việt
43
5
Đệ Nhất
43
6
Thăng Long
9
7
ACB
43
8
Sài Gòn
20
9
Ngoại thương
60
Chính phủ Việt Nam cũng quy định các công ty chứng khoán nước ngoài muốn tham gia vào TTCK Việt Nam phải thành lập công ty chứng khoán liên doanh với các đối tác trong nước, trong đó tỷ lệ tham gia góp vốn phía đối tác nước ngoài vào liên doanh tối đa là 30% Vốn điều lệ của tổ chức liên doanh. Khi TTCK phát triển, mức tỷ lệ này có thể sẽ được nâng lên và cho phép công ty chứng khoán nước ngoài được phép mở chi nhánh tại Việt Nam.
Cũng giống như ngành ngân hàng, cơ sở vật chất kỹ thuật chủ yếu của các công ty chứng khoán là sàn giao dịch ( nơi đón tiếp khach tham gia TTCK), hệ thống mạng lưới thông tin và hệ thống mạng lưới hoạt động.
*Ngân hàng thương mại.
Hiện tại các Ngân hàng thương mại được phép tham gia vào TTCK bằng cách thành lập các công ty chứng khoán độc lập như đã nói ở trên. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại được phép tổ chức hoạt động lưu ký và đăng ký chứng khoán cho khách hàng khi đáp ứng đủ điều kiện về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, và trình độ chuyên môn theo quy định của UBCKNN. Tuy nhiên do lĩnh vực lưu ký chứng khoán chưa đem lại thu nhập cho người kinh doanh nên các ngân hàng thương mại hầu như chưa quan tâm đến việc phát triển nghiệp vụ này.
Các ngân hàng thương mại còn đóng vai trò trung gian trong việc quản lý các tài tiền gửi giao dịch chứng khoán của các công ty chứng khoán (bao gồm cả tiền gửi của khách hàng và của công ty ), làm ngân hàng thanh toán hay ngân hàng chỉ định thanh toán (Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.)
*Công ty quản lý quỹ.
Công ty quản lý quỹ ở Việt Nam đước phép thành lập khi đáp ứng được các yêu cầu về vốn, bộ máy tổ chức và trình độ chuyên môn do UBCKNN ban hành.
Mặc dù vậy, trong thời gian đầu thành lập, do chưa đủ niềm tin trong công chúng đầu tư và chưa quen với lĩnh vực hoạt động này, nên chưa có công ty quản lý quỹ của Việt Nam hoạt động trên TTCK, mà chỉ có một số công ty nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư chứng khoán như : Vietnam Frontier Fund (VFF), Vietnam Enterprise Invesments Ltd...
2.5. Khách hàng.
Do TTCK Việt Nam còn nhỏ, nên khách hàng chủ yếu vẫn là các nhà đầu tư cá nhân. Một số nhà đầu tư lớn như các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính và các công ty bảo hiểm mới chỉ tham gia đầu tư vào trái phiếu Chính phủ.
Đa số việc mua bán cổ phiếu diễn ra giữa các nhà đầu tư nhỏ với tâm lý đầu tư “ ngắn hạn “ nhằm mua cổ phiếu theo biến động gía hơn là dựa vào đánh giá tiềm năng phát triển của công ty thông qua việc đánh giá tình trạng tài chính và thị trường một cách toàn diện.
Hiện tại, Nhà nước ưu đãi các nhà đầu tư cá nhân bằng cách không đánh thuế vào thu nhập từ lợi nhuận kinh doanh chứng khoán của họ.
Một số nhà đầu tư nước ngoài cũng bắt đầu quan tâm đến TTCK Việt Nam, nhưng do thị trường còn quá hạn hẹp nên Chính phủ cũng có những quy định hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài ( Quyết định 139/1999/QĐ-TTg ngày 10/6/1999 của Thủ tướng Chính phủ). Đối với trái phiếu, các tổ chức và cá nhân nước ngoài không được nắm giữ quá 40% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức phát hành( một tổ chức nước ngoài không được phép nắm giữ quá 10%, một cá nhân không được phép nắm giữ quá 5%). Đối với cổ phiếu, các tổ chức nước ngoài và cá nhân không được phép nắm giữ quá 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức phát hành ( một tổ chức phát hành không được phép nắm giữ quá 7%,một cá nhân nước ngoài không được phép nắm giữ quá 3%).
Cũng do hạn chế bởi lượng hàng hoá và địa điểm giao dịch nên TTCK chưa phải “sân chơi” cho quảng đại công chúng đầu tư.
Trong thời gian tới, khi TTCK đã thâm nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế thì chắc chắn sẽ thu hút được các nhà đẩu tư có tổ chức và mở rông khả năng tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các tầng lớp dân cư trong nước.
3. Thông tin của thị trường chứng khoán.
Một trong những nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán là nguyên tắc công khai, trong đó công khai thông tin là vấn đề hết sức quan trọng. Mọi người đầu tư đều có quyền bình đẳng trong việc được cung cấp thông tin về thị trường.
Hệ thông thông tin của thị trường chứng khoán là những chỉ tiêu, tư liệu phản ánh bức tranh của thị trường chứng khoán và tình hình kinh tế, chính trị, xã hội liên quan tại những thời điểm hoặc thời kỳ khác nhau.
Hệ thống thông tin của thị trường rất cần thiết cho mọi đối tượng tham gia thị trường.
+ Đối với người đầu tư: Là điều kiện để thành công trong đầu tư chứng khoán; là món ăn tinh thần không thể thiếu được.
+ Đối với người kinh doanh, như công ty chứng khoán thì hệ thống thông tin sẽ là cơ sở để xây dựng chiến lược kinh doanh, kế hoạch phát triển của công ty.
+ Đối với cơ quan quản lý, như UBCKNN, hệ thống thông tin là cơ sở để điều hành và quản lý đảm bảo thị trường công bằng, công khai, và hiệu quả; là cơ sở để hoàn thành quy trình, quy chế.
Hệ thống thông tin của TTCK rất đa dạng và phong phú. Thông thường người ta có thể phân tổ các thông tin thị trường theo các tiêu thức khác nhau.
Phân tổ theo loại chứng khoán
Thông tin về cổ phiếu
Thông tin về trái phiếu
Thông tin về các loại chứng khoán khác.
Phân tổ theo phạm vi bao quát.
- Thông tin đơn lẻ từng loại chứng khoán.
Thông tin ngành.
Thông tin về nhóm ngành.
Thông tin nhóm cổ phiếu đại diện & cả thị trường.
Thông tin của cơ sở giao dịch và cả quốc gia hay quốc tế.
Phân tổ theo thời gian.
- Thông tin quá khứ, thông tin hiện tại và thông tin dự báo cho tương lai.
- Thông tin theo thời gian: Phút, ngày...
Thông tin tổng hợp theo thời gian: Tuần, tháng, quý và năm...
ã Phân tổ theo nguồn thông tin
Thông tin trong nước và ngoài nước.
- Thông tin của các đơn vị tham gia thị trường: UBCKNN, đơn vị niêm yết, Công ty chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán, người đầu tư.
Thông tin tư vấn của các đơn vị tư vấn đầu tư, công ty chứng khoán và công ty định mức tín nhiệm.
Thông tin báo chí...
Cũng có thể có một vài quan điểm khác về phân tổ thông tin chứng khoán, nhưng nhìn chung thông tin xuất phát từ 4 nguồn chính, đó là:
-Tổ chức niêm yết.
- Tổ chức kinh doanh.
- Thực tiễn giao dịch thị trường.
- Từ cơ quan quản lý.
Để có thể đầu tư trên thị trường chứng khoán, người đầu tư phải nắm được một số thông tin cơ bản từ thị trường.Sau đây là một số thông tin do TTĐCK Thành Phố Hồ Chí Minh thông báo:
Mã chứng khoán: Là mã số cổ phiếu của các công ty niêm yết tại TTĐCK Tp. HCM. VD: Sacom: cổ phiếu của công ty cổ phần cáp và vật liệu viễn thông.
Gil Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Thạch v..v..
Số lượng chứng khoán niêm yết: Số chứng khoán đã phát hành ra công chúng của công ty niêm yết.
Cổ tức : là cổ tức trả lần gần nhất.
ESP: Thu nhập thuần năm gần nhất cho một cổ phiếu thường.
P/E : Hệ số giá trên thu nhập.
Giá đóng cửa: giá đóng cửa phiên giao dịch.
Khối lượng giao dịch: số cổ phiếu được mua bán trong phiên giao dịch.
Giá trị giao dịch:giá trị của cổ phiếu đã được giao dịch trong phiên giao dịch bằng khối lượng giao dịch nhân với gia giao dịch .
Tổng khối lượng đặt mua: Tổng số cổ phiếu người mua đã đặt lệnh mua trong phiên giao dịch.
Tổng khối lượng chào bán: Tổng số cổ phiếu người bán đã đặt lệnh bán trong phiên giao dịch.
Tổng khối lượng chào bán thấp nhât: Tổng số cổ phiếu người bán đã đặt lệnh bán với giá thấp nhất cụ thể trong phiên giao dịch. Đối với trái phiếu cũng có thông báo tương tự nhưng giá trái phiếu lấy 100 làm đơn vị yết giá nên giá sẽ giao động xung quanh giá trị 100. Sau đây là một ví dụ về Bảng giao dịch chứng khoán tại Tp.HCM.
Top of Form
CK
Trần
Sàn
Giỏ mở cửa
Lệnh mua
Lệnh bỏn
1
2
3
1
2
3
Giỏ
K.Lg
Giỏ
K.Lg
Giỏ
K.Lg
Giỏ
K.Lg
Giỏ
K.Lg
Giỏ
K.Lg
AGF
27.8
25.2
26.5
27.8
678
27.7
47
27.6
58
26.8
10
27
22
27.5
27
BBC
15.1
13.7
14.4
15.1
137
15
144
14.9
15
13.7
35
14.5
40
14.8
20
BPC
17.3
15.7
16.5
17.3
46
17.1
10
17
164
16.9
55
17
42
17.3
5
BT6
17.8
16.2
17
17.8
129
17.7
24
17.6
41
17.2
10
17.3
15
17.4
30
BTC
22.9
20.9
21.9
22.9
207
22.8
5
22.5
3
22.8
5
22.9
20
0
0
CAN
17.3
15.7
16.5
17.3
135
17
44
16.9
52
16.4
10
16.7
10
17
57
DPC
14.1
12.9
13.5
14.1
158
14
157
13.9
10
13.4
10
13.7
20
13.8
3
GIL
29.1
26.5
27.8
29.1
54
29
5
28.5
9
27.9
1
28.2
20
28.3
10
GMD
36.2
32.8
34.5
36.2
98
36.1
3
36
23
34.8
10
35
12
36.2
2
HAP
34.3
31.1
32.7
34.3
80
34.2
25
33.6
10
34.3
14
0
0
0
0
HAS
21.1
19.1
20.1
21.1
144
21
64
20.9
55
21
5
21.1
39
0
0
KHA
24.3
22.1
23.2
24.3
34
24.2
7
24
17
24.3
15
0
0
0
0
LAF
25
22.8
23.9
25
15
24.8
9
24.5
6
0
0
0
0
0
0
REE
16.8
15.2
16
16.8
289
16.7
59
16.6
4
15.2
20
15.4
1
15.5
23
SAM
30.4
27.6
29
30.4
123
30.3
5
30.2
26
29.1
5
29.5
7
30
10
SAV
17.2
15.6
16.4
17.2
155
17
223
16.9
19
15.6
20
16.6
20
16.7
10
SGH
14.7
13.3
14
14.7
154
14.5
136
14.4
69
14
9
14.2
10
14.3
25
TMS
35.2
32
33.6
35.2
40
35.1
1
35
34
32
25
34.5
1
35.2
16
TRI
23.1
20.9
22
23.1
230
23
47
22.9
12
22.3
10
22.5
2
22.8
9
TS4
18.9
17.1
18
18.9
59
18.7
1
18.6
5
17.5
5
18.2
25
18.5
10
VTC
21.6
19.6
20.6
21.6
86
21.5
20
21.2
25
21
5
21.2
5
21.6
30
4 Phương thức giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
4.1. Điều kiện giao dịch trên TTCK tập trung.
Đối với hàng hoá: Các chứng khoán đã niêm yết phải được lưu ký tại TTGDCK.
Đối với khách hàng: Theo quy định của YBCKNN, tất cả các tổ chức và cá nhân khi tham gia giao dịch chứng khoán qua TTGDCK đều phải mở tài khoản tại Công Ty Chứng Khoán và chỉ được mở một tài khoản tại một công ty chứng khoán.
Điều kiện đảm bảo: Khách hàng phải ký quỹ 100% giá trị lệnh mua trong tài khoản tiền gửi giao dịch chứng khoán, khi bán chứng khoán phải đảm bảo đủ số lượng chứng khoán trong Tài khoản lưu ký.
4.2 Các phương thức giao dịch mua, bán chứng khoán.
Hiện tại, TTCK Việt Nam có 3 phương thức giao dịch: giao dịch lô lẻ, giao dịch thoả thuận và giao dịch khớp lệnh lô chẵn định kỳ.
Phương thức giao dịch lô lẻ: là phương thức giao dịch chỉ được áp dụng cho trường hợp công ty chứng khoán mua chứng khoán số lượng lẻ (lẻ trăm đối với cổ phiếu hoặc lẻ chục đối với trái phiếu) từ người sở hữu chứng khoán. Giá mua có biên độ giao động là 10% xung quanh giá khớp lệnh định kỳ gần nhất của chứng khoán đó trên thị trường tập trung.
Phương thức giao dịch thoả thuận: là giao dịch với khối lượng lớn hay còn gọi là giao dịch lô lớn ( từ 10000 cổ phiếu trở lên hoặc từ 1000 trái phiếu trở lên) dưới hình thức thoả thuận cụ thể về điều kiện giao dịch( giá và khối lượng) giữa người mua và người bán thông qua trung gian là công ty chứng khoán. Hiện nay mức giá của phương thức giao dịch này có biên độ giao động được quy định như phương thức khớp lệnh lô chẵn định kỳ.
Phương thức khớp lệnh định kỳ lô chẵn: là phương thức giao dịch được thực hiện trên sơ sở khớp các lệnh mua và lệnh bán của khách hàng trên Sàn giao dịch theo nguyên tắc định giá như sau:
Là mức giá được thực hiện được với khối lượng giao dịch lớn nhất.
Nếu có nhiều mức giá thoả mãn điều kiện trên thì mức giá gần với giá thực hiện của lần khớp lệnh gần nhất sẽ được chọn.
Nếu vẫn có nhiều mức giá vẫn thoả mãn 2 điều kiện trên thì mức giá cao nhất sẽ được chọn.
Phương thức khớp lệnh định kỳ lô chẵn là phương thức giao dịch chủ yếu hiện nay tại TTCK tập trung ở nước ta và sẽ được trình bầy ở phần dưới đây.
4.3. Phương thức khớp lệnh định kỳ.
Để tiến hành giao dịch theo phương pháp khớp lệnh định kỳ, Khách hàng phải đặt lệnh tại trụ sở, chi nhánh, và đại lý nhận lệnh của Công ty chứng khoán. Thời gian nhận lệnh thường từ đầu giờ làm việc buổi sáng đến trước giờ khớp lệnh giao dịch 15 phút. Hiện tại TTGDCK quy định lệnh giao dịch có mức giá nằm trong biên độ giao động cho phép là 3% đôí với cổ phiếu , 1,5 % đối với trái phiếu và tuân theo đơn vị yết giá. Tên chứng khoán được TTGDCK quy định viết theo mã chứng khoán, ví dụ Cổ phiếu Công ty cổ phần cơ điện lạnh REE, cổ phiếu Công ty cáp và vật liệu viễn thông SAM..
Hiện nay hệ thống giao dịch của Trung tâm giao dịch chứng khoán được thực hiện khớp lệnh ( hiện nay là vào 10h) hoàn toàn tự động bằng hệ thống máy tính.
4.5.Đánh giá vốn cổ phần của công ty niêm yết.
Để có thể đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam chúng ta cần phải thức hiện việc đánh giá vốn cổ phần của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam nhằmmục đích:
Tính toán giá trị thực của một doanh nghiệp.
Tính toán giá trị thực của một cổ phiếu.
Đánh giá viễn cảnh tăng trưởng của một doanh nghiệp từ tỷ suất P/E
4.5.1. Mô hình đánh giá tài sản vốn.
Mô hình đánh gía tài sản vốn, viết tắt là CAPM, là một mô hình được dùng để dự đoán mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận của tài sản có tính rủi ro.
Để phục vụ cho việc nghiên cứu CAPM, người ta có thể đặt ra một số giả định:
Các nhà đ
4.6 Chỉ số chứng khoán Việt Nam.
4.6.1. Khái niệm chỉ số VNIndex
VNIdex là chỉ số gía cổ phiếu được xây dựng căn cứ vào giá thị trường của tất cả các cổ phiếu được niêm yết trên TTCK Việt Nam và được xác định bởi tỷ lệ giữa bình quân gia quyền giá thị trường của tất cả các loại chứng khoán hiện hành trên tổng giá trị tại thời điểm gốc.
Tổng giá trị thị trường của các cổ phiếu niêm yết hiện tại.
VNIdex = ————————————————————
Tổng giá trị ban đầu của các cổ phiếu được niêm yết.
Khi thay đổi cơ số cổ phiếu niêm yết như có thêm hoặc bớt số lượng loại cổ phiếu được đưa vào giao dịch thì mẫu số của công thức trên( Tổng giá trị ban đầu của các cổ phiếu niêm yết) được điều chỉnh nhằm duy trì tính liên tục của chỉ số(VNIdex không thay đổi nếu giá cổ phiếu đã giao dịch trước đó không thay đổi).
4.6.2 Công thức xác định VNIndex.
Theo định nghĩa VNIndex được xác định bởi công thức:
∑ P1i * Q1i
VNIndex = —————
∑ Poi* Q0i
Trong đó:
P1i Giá hiện hành của cổ phiếu i
Q1i Khối lượng đang lưu hành của cổ phiếu i
P0i Giá cổ phiếu i thời kỳ gốc.
Q0i Khối lượng cổ phiếu i thời kỳ gốc.
∑ Poi* Q0i còn được gọi là số chia cũ ( ký hiệu Do).
Khi có chứng khoán mới được bổ sung, giả sử các chứng khoán mới có Tổng giá trị gia tăng là AV, Tổng giá thị trường của các cổ phiếu sau khi bổ sung các chứng khoán mới là V.Đặt hệ số chia mới là D1
V1 V1 - AV
VNIndex mới = ——* 100 = VNIndex cũ = ———— * 100
D1 Do
suy ra hệ số chia mới được chia mới như sau:
Do * V1
D1 = ———
V1 – AV
Tương tự khi tổ chức phát hành huỷ bỏ niêm yết:
Do * V1
D1 = ———
V1 + AV.
Ví dụ:
Thời kỳ gốc của VNIndex được coi là phiên giao dịch đầu tiên là ngày 28/7/2000 như sau:
Tên công ty
Tên cổ phiếu
Giá thực hiện
Số lượng CP niêm yết
Giá thị trường
Cơ điện lạnh
Cáp và vật liệu viễn thông
Tổng
REE
SAM
16000
17000
15000000
12000000
240000000000
204000000000
4440000000000
444.000000000
VNIndex = ————— * 100 = 100( điểm)
444000000000
Kết quả phiên giao dịch ngày 2/8/2000.
Tên công ty
Tên cổ phiếu
Giá thực hiện
Số lượng CP niêm yết
Giá thị trường
Cơ điện lạnh
Cáp và vật liệu viễn thông
Tổng
REE
SAM
16600
17500
15000000
12000000
249000000000
210000000000
4590000000000
459.000000000
VNIndex = ————— * 100 = 103,38 (điểm)
444000000000
Phiên giao dịch ngày 4/8/2000 có thêm 2 loại cổ phiếu (TRANSIMEX và haphaco) tham gia giao dịch , do đó ta có số chia mới:
Tên công ty
Tên cổ phiếu
Giá thực hiện
Số lượng CP niêm yết
Giá thị trường
Cơ điện lạnh
Cáp và vật liệu viễn thông
Giấy Hải Phòng.
Transimex
Tổng
REE
SAM
HAP
TMS
16900
17800
16000
14000
15000000
12000000
1.008.000
2200000
249000000000
210000000000
16.128.000000
30800000000
514.028.000.000
Số chia mới D1
PRee QRee+ P Sam QSam + P Hap QHap + PTms QTms
D1 = Do * ————————————————————
PRee * QRee
= 488.607.219.010.
514.028.000.000
VNIndex = ————————— = 105,2 ( điểm).
467.100.000.000
Chỉ số VNIndex cho biết tình hình giao dịch cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
4.7 Tình hình giao dịch chứng khoán từ khi thành lập SGDCK.
Thị trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu phiên giao dịch đầu tiên là ngày 28/7/2000 chỉ bao gồm 2 cổ phiếu Ree( Cơ điện lạnh) và Sam( Cáp và vật liệu viễn thông). Vào ngày 4/8/2000 có thêm 2 loại cổ phiếu của hai công ty được đưa vào niêm yết là Transimex và Haphaco (HAP và TMS) .
Cho đến ngày 30/4/2003 đã có 21 loại cổ phiếu của 21 công ty đưa vào niêm yết.
Về chỉ số VNIndex thời kỳ đầu của những phiên giao dịch có sự gia tăng mạnh trong những phiên giao dịch đầu tiên( trên 500 điểm) sau đó có sự giảm dần của chỉ số VNIndex, cho đến phiên giao dịch thứ 492 chỉ số VNIndex ở mức 164,02 điểm. Tình hình giao dịch từ đầu năm 2003 cho thấy các cổ phiếu liên tục xuống giá làm cho các nhà đầu tư hoang mang. Tổng giá trị giao dịch không đến 2 triệu đồng, với số lượng cổ phiếu trung bình khoảng xấp xỉ 75 cổ phiếu.
Từ ngày 22/2/2003 Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM bắt đầu tiến hành phiên giao dịch thử nghiệm với một số đặc điểm như: khớp lệnh 2 lần / 1 phiên giao dịch, thực hiện lại lệnh nghỉ giữa 2 lần khớp lệnh..
Tuy nhiên những ghi nhận đầu tiên cho thấy,giới đầu tư không mấy quan tâm đến thay đổi về kỹ thuật tổ chức phiên giao dịch, đại đa số nhà đầu tư không mấy tin tưởng về sự hồi phục của thị trường như hồi thị trường mới thành lập.
4.8 Đánh giá chung về thị trườngchứng khoán Việt Nam.
Từ ngưỡng cửa 2003 nhìn lùi lại, Trung Tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM đã khởi động được hai năm rưỡi. Theo diễn biến về giá, khoảng 1 năm đầu của thời gian đó thị trường được xem là lạc quan, nhưng là sự lạc quan mong manh. Một năm rưỡi còn lại cho đến hiện nay là giai đoạn trượt dốc và bi quan kéo dài. Nếu nhìn từ thực trạng nền kinh tế cho thấy, thì thời gian suy giảm như vậy là không bình thường nếu không muốn nói là đến độ sốt ruột. Theo các nhà đầu tư chứng khoán thị trường chứng khoán Việt Nam còn tồn tại 1 số vấn đề cần quan tâm:
Vai trò của TTCK chưa được khẳng định trong nền kinh tế.
Cơ quan quản lý( uỷ ban Chứng khoán nhà nước) cũng chưa chỉ ra được tầm quan trọng của ngành chứng khoán trong tổng thể các ngành của nền kinh tế quốc dân.:Quan niệm TTCK là ‘ cái chợ để mua đi bán lại cổ phiếu’ vàTTCK hiện thời còn nhỏ nên chưa đáng quan tâm’ vẫn còn phổ biến.
Vai trò của các nhà đầu tư chưa được đánh giá đúng mức trong việc xây dựng và phát triển thị trường.
Sự tham gia của các nhà đầu tư chưa được biết đến như là sự quyết định cho sự thành công của thị trường chứng khoán thể hiện ở chỗ từ trước đến nay, nâhà đầu tư chưa được đặt đúng vị trí trong các hoạt động của UBCKNN và các bộ hữu quan không có sự tham gia của nhà đầu tư. Bản thân UBCKNN cũng chưa tính đến việc kêu gọi thành lập Hiệp hội Các nhà đầu tư.
Hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM còn nghèo nàn đơn điệu, mới chỉ đơn thuần là quản lý giao dịch hàng ngày.
Thị trường chứng khoán là thị trường niềm tin, tuy nhiên niềm tin vào thị trường chứng khoán hiện nay của công chúng đầu tư ngày càng bị xói mòn.
Theo tình trạng chỉ số VNIndex như hiện nay , hầu hết công chúng đầu tư, ngay cả những người lạc quan nhất cũng cho rằng, thị trương chứng khoán hiện nay khó có thể hồi phục được. Giá cổ phiếu của tất cả các công ty liên tục bị xuống giá, làm các nhà đầu tư cảm thấy hoang mang. Hầu hết hiện nay các nhà đầu tư đều đầu tư theo cảm tính, mà không dựa vào phân tích tài chính của doanh nghiệp. Hơn nữa quan niệm đầu tư cổ phiếu là ‘ chọn giờ tốt của cổ phiếu chứ không chú trọng vào lợi tức vẫn còn phổ biến’ do vậy tuy khối lượng giao dịch của các phiên gần đây có tăng tuy nhiên hiệu quả đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán là chưa cao.
Chương III Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
1 Giải pháp từ phía Nhà nước.
Hoàn thành khung pháp lý.
Sau khi đạt được sự thông nhât giữa các bộ các nghành liên quan về việc sửa đổi Nghị định 48/1998/NĐ - CP, UBCKNN đã chính thức trình Chính phủ bản dự thảo Nghị định thay thế nghị định 48.
Bên cạnh đó, UBCKNN cũng đã trình chính phủ Dự thảo Quyết định sửa đổi bổ xung một số điều của Quyết định 79/2000/QĐ -UBCK về quy chế thành viên, niêm yết, công bố thông tin và giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên rất nhiều giải pháp quan trọng khả thi mà UBCKNN đã chấp nhận lại không phụ thuộc vaò hành lang pháp lý của Nghị định bổ xung này : như cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần ở mức 30% vốn điều lệ của công ty niêm yết; cải tiến thủ tục cấp mã số giao dịch cho cá nhân và cá nhân đầu tư nước ngoài. Bản thân việc soạn thảo nghị định thay thế Nghị định 48 cũng tiến hành chậm trễ.
Hơn nữa trong luật đầu tư chứng khoán vào thời điểm hiện tại cũng cấn phải có sự lên sàn, tham gia niêm yết của các NHTM, bởi lẽ NHTM là mạnh máu của nền kinh tế quốc dân, hy vọng rằng các NHTM sẽ điều chỉnh được sự ổn định của thị trường chứng khoán thông qua vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân.
1.2 Tăng khối lượng hàng hoá trên thị trường chứng khoán
Để các giao dịch trên thị trường chứng khoán đạt được hiệu quả đúng như ý nghĩa của nó UBCKNN cần phải nâng cao chất lượng và số lượng hàng hoá trên thị trường chứng khoán. Cụ thể là:
Đối với cổ phiếu.
Thúc đẩy quá trình cổ phần hoá (CPH) DNNN với 2 giai đoạn: giai đoạn 1 từ năm 2001- 2006 sẽ tiến hành cổ phần hoá toàn bộ số DNNN mà Nhà nước không cần giữ tỷ lệ góp vốn là 100%. Giai đoạn 2 từ 2007 –2010, sẽ đưa ra hầu hết các doanh nghiệp có đủ điều kiện vào niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung. Ngoài ra UBCKNN còn đệ trình Chính Phủ phê chuẩn việc chỉ định niêm yết một số doanh nghiệp CPH để tạo hàng hoá cho TTCK và giúp cho việc đánh giá chính xác hơn tài sản của Nhà Nước trong các đơn vị cổ phần.
Đối với trái phiếu.
Trái phiếu Chính Phủ vẫn được coi là hàng hoá chính trên thị trường chứng khoán.Để Trái Phiếu Chính Phủ mau chóng trở thành mặt hàng hấp dẫn với công chúng, Bộ Tài Chính đã có sự điều chỉnh cơ chế phát hành theo hướng bỏ lãi suất chỉ đạo và thức hiện theo lãi suất thị trường.
Kết hợp với hệ thống Ngân hàng đẩy nhanh tốc độ phát triển nghiệp vụ Thị trường mở, đồng thời mặt bằng lãi suất của các công cụ nợ cũng phải theo lãi suất thị trường để làm tham chiếu xác định lãi suất trái phiếu Chính Phủ.
Cho phép các quỹ hỗ trợ phát triển, các quỹ đầu tư được phát hành trái phiếu. thực hiện thí điểm phát hành trái phiếu đầu tư bằng ngoại tệ cho một số công trình, dự án đầu tư trọng điểm hiện đang sử dụng ngoại tệ thay vì phải đi vay nợ nước ngoài.
Tăng cường công tác thanh tra giám sát thị trường và nâng cao chất lượng quản lý của UBCKNN.
Mở rộng khách hàng.
Chứng khoán hiện nay vẫn còn là một ngành mới đối với đại đa số công chúng đầu tư. Măc dù số lượng chứng khoán trên thị trường hiện nay không phải là ít tuy nhiên khối lượng và tổng giá trị giao dịch sau mỗi phiên giao dịch lại không đạt kết quả mong muốn của các nhà đầu tư nếu không muốn nói là đi ngược lại với mong đợi ban đầu. Để có thể nâng cao chất lượng giao dịch chứng khoán, cần thiết phải làm cho công chúng hiểu rõ bản chất và vai trò của việc đầu tư chứng khoán. Chứng khoán là một ngành không thể thiếu đối với những nước có ngành kinh tế phát triển. Chỉ khi nào công chúng hiểu rõ được mục đích đầu tư vào thị trường chứng khoán thì tâm lý đầu tư theo cảm tính mới được hạn chế, và chỉ khi đó các quyết định đầu tư mới có ý nghĩa.
2. Giải pháp từ phía nhà đầu tư.
Như chúng ta đã biết, hiện tại các nhà đầutư đều mất hết hay chí ít là giảm đáng kể lòng tin đối với thị trường chứng khoán. Xu hướng đầu tư chủ yếu là nhằm “vàogiờ tốt ”của cổ phiếu chứ không phải là nhằm vào giá trị nội tại của công ty đó. Bởi vậy khi thị trường xuất hiện giấu hiệu lên giá thì có rất nhiều nhà đầu tư bán vội chứng khoán mà mình đang nắm giữ với hy vọng không bị lỗ nhiều. Hành động này có phản ứng dây chuyền làm cho giá chứng khoán thay vì đi lên lại tiếp tục đi xuống thấp hơn cả mức trước đó. Bởi vậy một lời khuyên cho tất cả những người chơi chứng khoán là hãy thận trọng đối với mỗi hành động mua bán của mình. ở thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, hướng đầu tư tốt nhất là hướng vào giá trị nội tại của cổ phiếu bới lẽ thị trường CK Việt Nam, với một khung pháp lý vừa thưa vừa thiểu như vậy thì sự biến đổi mạnh của chứng khoán là hầu như ít xảy ra hoặc phải chờ đợi mất một thời gian khá dài mới có sự biến đổi đó. Hơn nữa khi đầu tư vào thị trường chứng khoán bạn phải có một trình độ và sự am hiểu nhất định về chứng khoán,nếu không lời khuyên chân thành nhất dành cho bạn là hãy đến các công ty Chứng khoán để đước tư án.
Kết luận
Thị trường chứng khoán là một thị trường hoàn toàn mới mẻ đối với quảng đại dân chúng Việt Nam. Cho đến nay thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động được hơn 2 năm nhưng những dấu hiệu bước đầu cho thấy thị trường vẫn chưa có gì là khởi sắc và vẫn chưa chiếm được vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Thị trường chứng khoán Việt Nam là một thị trương chưa hoàn thiện bởi vậy áp dụng các kỹ thuật phân tích để đưa ra quyết định đầu tư chứng khoán là một việc vô cùng khó trong điều kiện hiện nay, điều này đòi hỏi các nhà đầu tư nếu muốn đầu tư trực tiêp vào thị trường mà không qua tư vấn cần phải không ngừng nâng cao trình độ phân tích và đầu tư chứng khoán của mình
Những thành quả và tồn tại của thị trường trong suốt gần 3 năm hoạt động đã đánh dấu những thành công trong chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà Nước. Tuy nhiên sự thiếu am hiểu về thị trường của công chúng đầu tư cũng như những biện pháp muộn màng cuả chính phủ đã tạo cho thị trường một sức ỳ nhất định. Để thị trường hoạt động tôt hơn cần phải có những thay đổi từ phía Nhà Nước cũng như cách nhìn nhận về thị trường của các nhà đầu tư.
Chúng ta hy vọng rằng rồi đây với sự chỉ đạo của Đảng và Nhà Nước thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ hoạt động khởi sắc hơn.
Tài liệu tham khảo.
1. Chứng khoán và phân tích đầu tư chứng khoán - PTS. Lý Vinh Quang
2. Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán-UBCKNN.
3. Giáo trình thị trường chứng khoán- Trường đại học Ngoại Thương.
4. Tạp chí đầu tư chứng khoán và một số tạp chí khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35458.doc