LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc cách mạng tri thức với nòng cốt là cách mạng thông tin, cách mạng công nghệ mà loài người đang tạo nên đã mở ra một kỷ nguyên mới nơi Tri thức - Thông tin - Trí tuệ - Nhân lực giữ vai trò chủ đạo trong những bước phát triển nhảy vọt của xã hội - kinh tế. Trong kỷ nguyên ấy, Giáo dục và đào tạo tất yếu càng trở thành mối quan tâm hàng đầu, "quốc sách" của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam - nơi "Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân". Tuy nhiên, đi đôi với tầm quan trọng không thể thay thế là những thách thức đối với mỗi nền giáo dục được dự báo là nền kinh tế tri thức, xu hướng toàn cầu hóa và công nghệ thông tin. Trong guồng quay phát triển kinh tế - xã hội đáp ứng những thách thức đó, GD ĐH là bánh răng quan trọng nhất.
Thực tiễn đã chứng minh, GD ĐH có vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành đội ngũ lao động đã qua đào tạo nói riêng và trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội nói chung, là một trong những đòn bẩy quan trọng đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng kể mà GD ĐH Việt Nam đã đạt được trong thời kỳ Đổi mới, thực trạng chất lượng đào tạo ĐH nước ta vẫn là một sức cản lớn trong quá trình hình thành xã hội thông tin, đón nhận nền kinh tế tri thức, hòa nhập với xu thế phát triển chung của thế giới và khu vực. Theo tính toán của Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục, kiến thức của sinh viên Việt Nam so với các tiêu chí chất lượng có một khoảng tụt hậu ít nhất là 20 năm xét theo mặt bằng tổng thể. Thực tế cũng cho thấy, trong mối lo chung về chất lượng giáo dục, chất lượng GD ĐH đang được quan tâm hàng đầu bởi sự gắn bó mật thiết của vấn đề này đối với sự phát triển bền vững và công cuộc Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa của đất nước.
Chính vì thế, đổi mới GD ĐH để nâng cao chất lượng đào tạo ĐH là nhiệm vụ rất quan trọng đáp ứng yêu cầu Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế. Theo GS TS Bành Tiến Long, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT : "Xác định ý nghĩa, tầm quan trọng của đổi mới, phát triển GD ĐH; đồng thời triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6, QH khóa IX, toàn ngành đang nỗ lực, tập trung sức nhằm đổi mới, thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa giáo dục, mở rộng hợp tác quốc tế, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước và tiếp cận với trình độ giáo dục tiên tiến của khu vực và thế giới."
Là một quy trình diễn ra ở nhiều khâu, nâng cao chất lượng GD ĐH cần được tiến hành đồng bộ trên nhiều phương diện, từ cơ cấu hệ thống, mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, đánh giá kết quả đến chính sách tài chính, tổ chức quản lý và hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, trong vô vàn việc cần làm thì việc đổi mới phương pháp dạy và học có tác động trực tiếp nhất đến chất lượng từng giờ giảng nói riêng cũng như chất lượng GD ĐH nói chung. Trong các bài phát biểu, các tham luận tại nhiều Hội nghị, Hội thảo . và trên các phương tiện truyền thông, những chuyên gia đầu ngành về giáo dục đều đồng tình với quan điểm này, như PGS.TS. Trần Kiều - Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục VN nhận định "Đổi mới giáo dục, trước hết phải đổi mới phương pháp dạy và học."
Thực tế cho thấy, chưa bao giờ yêu cầu về đổi mới phương pháp lại bức thiết như hiện nay và nó đã trở thành một nhu cầu tất yếu của thời đại mới. Trong quá trình cải cách giáo dục - đào tạo ở nước ta, mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục - đào tạo đã thay đổi nhiều lần cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đã đạt được những tiến bộ đáng khích lệ. Tuy nhiên, những thay đổi về PP còn quá ít, quá chậm. Đó là trở ngại lớn cho việc thực hiện mục tiêu giáo dục mà Đảng ta đã đề ra là đào tạo "người lao động tự chủ năng động, sáng tạo." Tuy bao gồm cả phương pháp giảng dạy của người thầy và phương pháp học của trò, việc đổi mới phương pháp giảng dạy của người thầy lại được coi là yếu tố tiên quyết, được bàn đến trong Nghị quyết TƯ 2, Khóa VIII, BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam "Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo cho người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học. Phát triển phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân nhất là trong thanh niên." (Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII Đảng Cộng sản Việt Nam). Trong quá trình này, việc hướng tới một PP giảng dạy mới là PP giảng dạy tích cực đã bắt đầu trở thành một xu hướng chính thức và được vận dụng rộng rãi ở nhiều trường ĐH trên toàn quốc.
Trường ĐH KHXH&NV - ĐHQG HN từ nhiều năm nay cũng là một trong những lá cờ đầu trong việc thực hiện đổi mới phương pháp đào tạo. Việc đầu tư đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính năng động, tư duy sáng tạo và năng lực hoạt động thực tiễn của sinh viên không những được đặt lên hàng đầu trong Các nhiệm vụ trọng tâm năm học 2004-2005 của ĐHQG HN, mà còn được nhấn mạnh trong 6 chương trình hướng tới mục tiêu chuẩn hóa, hiện đại hóa các hoạt động của trường ĐH KHXH&NV - Giai đoạn 2003-2010. Rất nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm, giao lưu bàn về vấn đề này đã được tổ chức thu hút sự quan tâm của đông đảo thầy và trò trong trường. Việc áp dụng PP giảng dạy tích cực ngày càng được nhận thức sâu rộng hơn trong sinh viên và đem đến những luồng gió mới mẻ cho hoạt động dạy và học. Tuy nhiên, từ thực tiễn của việc vận dụng những PP giảng dạy mới một cách tự phát, lẻ tẻ dẫn đến thiếu phù hợp và kém hiệu quả ở một số trường ĐH, cũng như tuy từ trước tới nay trong nhiều văn bản của nhà nước cũng đã nói nhiều đến việc đổi mới PP giảng dạy, nhưng chưa có một thống kê nào nói về hiệu quả và thực tế thực hiện ở các cơ sở như thế nào, "đã đến lúc chúng ta cần tổng kết một cách toàn diện về hiệu quả, tính khả thi của các PP giảng dạy đã được triển khai để trên cơ sở đó vận dụng những PP giảng dạy tích cực một cách hiệu quả hơn cũng như có những quy định nghiêm ngặt về việc triển khai các PP giảng dạy thích hợp." (theo bài báo "Nên nhìn nhận việc đổi mới PP giảng dạy trong thời gian qua như thế nào?" đăng trên Báo Giáo dục&Thời đại số ra ngày 12/7/2003).
Vì lí do đó, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào việc đánh giá hiệu quả của việc áp dụng PP giảng dạy tích cực trong nhà trường bằng việc thu thập những phản hồi của sinh viên, chúng tôi chọn vấn đề "Phản ứng của sinh viên trường ĐHKHXH&NV HN đối với việc áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực trong nhà trường hiện nay" làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình.
2. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
* Ý nghĩa lý luận
- Đề tài nghiên cứu khoa học của chúng tôi vận dụng lý thuyết xã hội học hành vi, hành động xã hội để lý giải cho vấn đề nghiên cứu về "Phản ứng của sinh viên trường ĐH KHXH&NV HN đối với việc áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực trong nhà trường hiện nay". Những kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần phát triển việc vận dụng lý thuyết xã hội học hành vi, hành động xã hội vào lý giải những hiện tượng của đời sống xã hội, mà cụ thể ở đây là nhận thức, thái độ, hành động của SV đối với việc áp dụng một PP giảng dạy mới - PP giảng dạy tích cực trong nhà trường ĐH.
- Ngoài ra, bằng việc lý giải những động thái phản hồi của sinh viên đối với việc áp dụng PP giảng dạy tích cực trong nhà trường thông qua hàng loạt các nhân tố như thực trạng áp dụng PP giảng dạy tích cực trong nhà trường hiện nay, nhận thức, thái độ của SV đối với việc áp dụng PP này ., đề tài nghiên cứu góp phần khẳng định tính đúng đắn của một luận điểm xã hội học : Xã hội học là khoa học về các sự kiện xã hội, và muốn giải thích một sự kiện xã hội này phải dùng những sự kiện xã hội khác.
* Ý nghĩa thực tiễn
- Nghiên cứu cho chúng ta có được cái nhìn nhiều chiều cạnh (khách quan và chủ quan) về thực trạng của việc áp dụng PP giảng dạy tích cực ở các trường ĐH trên cả nước nói chung, cũng như tại trường ĐH KHXH&NV HN nói riêng, về cả hai mặt lượng và chất.
- Nghiên cứu cung cấp cho các cán bộ giảng dạy và quản lý giáo dục những gợi ý về phương hướng và giải pháp đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm góp phần ngày càng nâng cao chất lượng đào tạo bậc đại học từ những phản hồi của SV đối với việc áp dụng một PP giảng dạy mới - PP giảng dạy tích cực trong nhà trường ĐH KHXH&NV HN hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Mô tả thực trạng PP giảng dạy nói chung và việc áp dụng PP giảng dạy tích cực nói riêng trong nhà trường hiện nay.
- Mô tả nhận thức và thái độ của SV về những vấn đề xung quanh PP giảng dạy tích cực và việc áp dụng PP giảng dạy này trong nhà trường.
- Mô tả hành động của SV đối với việc áp dụng PP giảng dạy tích cực trong nhà trường.
- Trên cơ sở tập hợp những ý kiến phản hồi của SV, đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp về việc đổi mới PP giảng dạy.
4. Đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu, phạm vi khảo sát
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là "Phản ứng của sinh viên trường ĐH KHXH&NV đối với việc áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực trong nhà trường hiện nay".
* Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài là SV các khoa : Xã hội học, Quốc tế học, Đông phương học, Tâm lý học, Sử học, Ngôn ngữ học.
* Phạm vi khảo sát
- Phạm vi không gian: 6 khoa kể trên ở trường ĐH KHXH&NV HN.
- Phạm vi thời gian: Từ giữa tháng 2 đến giữa tháng 3 năm 2005
5. Phương pháp nghiên cứu xã hội học của đề tài
* Phương pháp chọn mẫu
- Số lượng mẫu : 128 SV
- Cách chọn mẫu : Chúng tôi tiến hành theo các bước sau
+ Bước 1 : Chọn có chủ định 6 Khoa của Trường ĐHKHXH&NV : Xã hội học, Quốc tế học, Đông phương học, Tâm lý học, Sử học, Ngôn ngữ học.
+ Bước 2 : Chọn có chủ định một lớp ở mỗi Khoa trên.
+ Bước 3 : Chọn thuận tiện 128 SV ở các lớp đã được chọn
- Cơ cấu
+ Cơ cấu theo năm học :
Năm thứ II : 53.2%
Năm thứ III : 46.8%
+ Cơ cấu theo quê quán :
Nông thôn: + Miền núi : 48.4%
+ Thành thị : 51.6%
+ Cơ cấu theo học lực :
Giỏi: 17.2%
Khá: 62.5%
Trung bình: 20.3%
* Phương pháp trưng cầu ý kiến
Là phương pháp nghiên cứu chính của đề tài giúp thu thập khối lượng thông tin chủ yếu, phương pháp trưng cầu ý kiến trước tiên đã giúp chúng tôi tiến hành điều tra thử bằng 10 phiếu câu hỏi nhằm nắm bắt được tình hình thực tế của vấn đề nghiên cứu tại địa bàn, trên cơ sở đó rút ra những giả thuyết nghiên cứu cho đề tài, cũng như bổ sung, hoàn thiện nội dung bảng hỏi. Trong quá trình thu thập thông tin chính thức, nhóm nghiên cứu đã thu được 128 phiếu điều tra về đối tượng của khách thể nghiên cứu đã được xác định là SV hệ chính quy thuộc 6 khoa của trường ĐH KHXH&NV HN. Các câu trả lời phản ánh khách quan nhận thức, thái độ và hành động của 128 SV đó chính là nguồn thông tin chính của đề tài.
* Phương pháp phỏng vấn sâu
Kết quả thu được từ các cuộc phỏng vấn trực tiếp một số SV trong trường góp phần bổ sung, làm sáng tỏ những thông tin định lượng, cung cấp những hiểu biết sâu hơn về một số chiều cạnh của vấn đề nghiên cứu khó làm rõ trong phiếu trưng cầu ý kiến. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn sâu 1 SV nam học năm thứ III, 1 SV nữ học năm thứ II và phỏng vấn nhóm tập trung 5 SV năm thứ I.
* Phương pháp phân tích tài liệu
- Sử dụng số liệu đã được xử lý từ 128 phiếu trưng cầu ý kiến do nhóm nghiên cứu điều tra được tại trường ĐH KHXH&NV HN trong suốt thời gian khảo sát.
- Thu thập và phân tích một số nguồn tài liệu để bổ sung thông tin cho các phương pháp khác, phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
+ Sách, tạp chí chuyên ngành Xã hội học
+ Khóa luận tốt nghiệp của SV khoa Xã hội học
+ Văn kiện Đại hội Đảng, văn bản chính sách giáo dục của Nhà nước
+ Tạp chí Giáo dục và Thời đại, tạp chí Thế giới mới
+ Mạng Internet (www.edu.net )
* Phương pháp quan sát
Những kết quả lý thú và bổ ích thu được từ việc quan sát giờ học tại lớp không chỉ giúp cho việc đưa ra giả thuyết nghiên cứu mà còn bổ sung cho các phương pháp khác trong quá trình thu thập thông tin. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành quan sát (bí mật hoặc tham dự) một số giờ học môn chuyên ngành tại các lớp K48 Xã hội học, K48 Báo chí, K47 Du lịch học .
6. Giả thuyết nghiên cứu
- PP giảng dạy được sử dụng chủ yếu trong nhà trường hiện nay PP truyền thống (PP thuyết trình) và PP kết hợp giữa PP truyền thống và PP tích cực. Tuy nhiên, PP giảng dạy được sử dụng nhiều nhất vẫn là PP truyền thống.
- Phần lớn SV đều chưa hài lòng với việc áp dụng PP giảng dạy hiện tại trong các giờ học ở lớp họ bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.
- Phần lớn SV đều nhận thức khá đúng đắn và đồng tình với việc áp dụng PP giảng dạy tích cực bằng hình thức ban đầu là phối kết hợp lý với PP giảng dạy truyền thống và tin tưởng vào khả năng đổi mới PP giảng dạy của GV trong nhà trường hiện nay.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1. Cơ sở lý luận và phương pháp luận của đề tài
1.2. Cách tiếp cận
1.3. Một vài nét về địa bàn nghiên cứu
1.4. Một số công trình nghiên cứu khác
2. Những khái niệm công cụ
2.1. Đại học, Giáo dục ĐH, Bậc ĐH
2.3. Sinh viên, giới SV
2.3.1. Sinh viên
2.3.2. Giới sinh viên
Chương II
PHẢN ỨNG CỦA SINH VIÊN VỀ VIỆC ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÍCH CỰC TRONG NHÀ TRƯỜNG HIỆN NAY
1. Thực trạng của việc áp dụng PP giảng dạy tích cực ở bậc ĐH hiện nay
1.1. Một vài nét về nhiệm vụ của GD ĐH
1.2. Yêu cầu đối với PP giảng dạy ĐH trong thời đại ngày nay
1.3. Thực trạng áp dụng PP giảng dạy tích cực
1.3.1. Tại Việt Nam
1.3.2. Tại trường ĐHKHXH&NV HN
1.3.2.1. Tình hình áp dụng PP giảng dạy tích cực
1.3.2.2. Hiệu quả
1.3.2.3. Kết luận
2. Nhận thức của SV trường ĐH KHXH&NV đối với việc áp dụng PP giảng dạy tích cực trong nhà trường hiện nay
2.1. Nhận thức của SV về nhiệm vụ đào tạo của GD ĐH
2.2. Nhận thức của SV về các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng GD bậc ĐH
2.3. Nhận thức của SV về tính hiệu quả và phù hợp của các PP giảng dạy đang được áp dụng tại lớp mình
2.4. Nhận thức của SV ĐH KHXH&NV về chương trình đổi mới PP giảng dạy của nhà trường hiện nay
3. Thái độ của SV ĐH KHXH&NV đối với việc áp dụng PP giảng dạy tích cực trong nhà trường hiện nay51
4. Hành động phản hồi của SV đối với việc áp dụng PP giảng dạy tích cực trong nhà trường hiện nay
4.1. Hoạt động áp dụng PP giảng dạy tích cực trong nhà trường và sự tham gia của SV
4.2. Kết luận
5. Giải pháp
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Khuyến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
102 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2054 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phản ứng của sinh viên trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn đối với việc áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực trong nhà trường hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định hướng hoạt động của bản thân dưới sự tổ chức và hoạt động của GV.
Giai đoạn 2 : Lập kế hoạch
SV sử dụng vốn tri thức của mình và thu thập những tài liệu cần thiết có liên quan đến việc giải quyết những mâu thuẫn đã đặt ra. SV tự lực nêu ra những giả thuyết để chuẩn bị giải quyết mâu thuẫn. SV tự xây dựng kế hoạch giải quyết vấn đề dưới dạng các đề cương chi tiết.
Giai đoạn 3 : Thực hiện kế hoạch
Ở giai đoạn này, SV tự thực hiện kế hoạch do mình đề ra dưới sự uốn nắn, giúp đỡ của thầy. Sau đó, SV tự đánh giá bằng cách đối chiếu kết quả với những giả thuyết đặt ra và định hướng mục tiêu ban đầu.
Giai đoạn 4 : Kiểm tra, tổng kết
Để điều khiển quá trình thực hiện lệnh, giáo viên phải tôn trọng nguyên tắc phát huy cao độ tính chủ động của sinh viên, chỉ can thiệp khi sinh viên không thể tự giải quyết vấn đề, nhưng sự can thiệp này cũng chỉ ở mức độ những gợi ý để sinh viên tiếp tục suy nghĩ tìm cách giải quyết vấn đề bằng tri thức cơ bản, hệ thống kỹ năng chuyên ngành của mình để từ đó có thể hình thành năng lực trí tuệ, phương pháp nghiên cứu và phương pháp hoạt động thực tiễn.
Hoạt động nêu vấn đề nghiên cứu&thảo luận là một sự tổng hợp từ những hoạt động nêu vấn đề nghiên cứu ở tầm cá nhân, được nâng lên tầm nhóm SV thông qua hoạt động thảo luận. Nhìn chung, cấu tạo của hoạt động nêu vấn đề&thảo luận nhóm (trong một phần của tiết học, hoặc một tiết, một buổi học) có thể là:
Làm việc chung cả lớp
a.Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức
b.Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ cho các nhóm
c.Hướng dẫn làm việc theo nhóm
Làm việc theo nhóm
a.Phân công trong nhóm. Từng cá nhân làm việc độc lập.
b.Trao đổi ý kiến, thảo luận trong nhóm (xem sơ đồ bên)
c.Cử đại diện (hoặc phân công trước) chịu trách nhiệm trình bày kết quả làm việc của nhóm
Thảo luận tổng kết trước toàn lớp
a.Các nhóm lần lượt trình bày
b.Thảo luận chung
c.Giáo viên tổng kết, đặt vấn đề tiếp theo (nếu có)
4.2 Hoạt động áp dụng PP giảng dạy tích cực trong nhà trường và sự tham gia của SV
Hình 2 : Thảo luận nhóm
Trước hết, bằng phương pháp quan sát bí mật và tự do hoặc có tham gia một số giờ học có tổ chức hoạt động nêu vấn đề&thảo luận, chúng tôi nhận thấy việc tổ chức hoạt động này trong các giờ học đó cũng phần lớn tuân theo cấu trúc trên. Cụ thể là trường hợp một giờ học tích cực tại lớp K48 - XHH nơi mỗi nhóm SV khoảng 10 người đều cử ra một người điều hành (sau này sẽ có nhiệm vụ trình bày trước lớp kết quả thảo luận của nhóm) và một thư ký có nhiệm vụ ghi chép ý kiến của mọi thành viên. Tuy sĩ số lớp đông và điều kiện ghế ngồi không hẳn thuận tiện cho việc chia nhóm để bàn bạc nhưng nhờ có những gợi ý đầy thú vị về vấn đề của GV, SV trong lớp đều có vẻ rất hào hứng với việc thảo luận và khá sôi nổi khi đưa ra quan điểm của mình, đặc biệt khi đại diện của các nhóm nêu lên những ý kiến thật sự độc đáo và mới mẻ. Trong lúc SV đại diện cho từng nhóm trình bày thì GV là người tóm tắt nội dung trình bày đó trên bảng, các nhóm SV còn lại chú ý lắng nghe và ghi chép ngay khi nảy ra những câu hỏi thắc mắc hay phản hồi. Đặc biệt, khi đã có chuông báo hiệu giờ nghỉ - điều mà SV có thể hay mong ngóng trong một số giờ học thuyết trình buồn tẻ, việc tranh luận hỏi&đáp giữa các nhóm SV vẫn tiếp diễn rất sôi nổi. Có thể nói, sau một giờ học như vậy, SV không những tự nhận thấy được những hạn chế trong nhận thức của mình khi lắng nghe quan điểm hay và mới của các bạn, từ đó có thêm niềm hứng thú với việc học mà còn tự mình tích lũy được cả những tri thức chuyên môn và những kỹ năng đáng quý. Nhận định này càng được khẳng định khi chúng tôi thực hiện các cuộc phỏng vấn sâu với nam SV học năm thứ III - người khi được hỏi : "Qua những tiết học áp dụng phương pháp nêu vấn đề&thảo luận bạn nhận thấy mình có tích lũy được kỹ năng gì không?" đã trả lời : "Nhiều lắm. Ví dụ như tính chủ động tích cực, tự học, kỹ năng thuyết trình, thảo luận nhóm, vì khi tổ chức thảo luận các thầy cô sẽ chia sinh viên thành từng nhóm và hướng dẫn từ chọn đề tài cho tới cách tiếp cận rồi trình bày", hay một nữ SV K48 khi được được hỏi một câu tương tự đã cho biết : "Tôi rất thích cách truyền đạt kiến thức như vậy. Bằng phương pháp này những kiến thức trừu tượng trở nên rất dễ hiểu và mình còn có thể hiểu sâu sắc về một vấn đề, do đó dễ thuộc bài và nhớ lâu, hơn nữa còn giúp mình trang bị một số kỹ năng cần thiết như tính chủ động tích cực, tự học, thảo luận nhóm". Ngoài ra, cũng bằng phương pháp quan sát SV năm thứ II tham gia vào giờ học tích cực, chúng tôi không nhận thấy có một sự khác biệt nào về việc hào hứng thảo luận, phản biện giữa SV xuất thân từ nông thôn và thành thị. Sở dĩ chúng tôi quan tâm đến điều này là vì trước đó, trong quá trình thu thập tài liệu, có những nguồn thông tin gợi ý cho nhóm nghiên cứu về một sự chênh lệch có thể có không chỉ về nhận thức, thái độ mà còn cả những động thái phản hồi đối với việc áp dụng một PP giảng dạy mới giữa người học ở thành thị có điều kiện tốt hơn trong việc tiếp cận với công nghệ hiện đại với người học ở nông thôn. Phải chăng những nếp nghĩ, nếp tư duy cũ (nếu có) đã phai nhạt dần sau 2 học kỳ đầu và dần dần, ranh giới nông thôn - thành thị về sự năng động, tích cực và nhạy bén bị xóa mờ? Chúng tôi sẽ phân tích tương quan 2 nhóm SV trong các phần dưới đây để có thể khẳng định hoặc bác bỏ giả định đó.
Như vậy, có thể sớm rút ra một số nhận xét ban đầu về sự tham gia của SV vào những giờ học tích cực. Tuy nhiên, để tìm hiểu sâu hơn nữa về tần số và mức độ tham gia của SV, nhóm nghiên cứu đã tiến hành trưng cầu ý kiến của 128 SV thuộc 6 khoa trong trường và thu được những kết quả như sau
Thứ nhất, khi tìm hiểu ý kiến của cá nhân SV về tỉ lệ SV trong lớp họ tham gia vào giờ học tích cực tại lớp chúng tôi thu được số liệu như sau
Biểu đồ 10 : Quan điểm của SV
về tỉ lệ SV tham gia vào giờ học tích cực tại lớp
Nhìn vào biểu đồ tỉ lệ% trên đây chúng ta có thể thấy rõ tỉ lệ SV tham gia (vào hoạt động nêu vấn đề&thảo luận) khi GV sử dụng PP giảng dạy tích cực tại lớp. Gần 3/4 số SV được hỏi cho rằng tỉ lệ SV tham gia vào giờ học tích cực tại lớp họ dao động trên dưới 50%, tuy nhiên tỉ lệ SV đưa ra quan điểm về sự tham gia trên 50% của SV lớp họ vào hoạt động nêu vấn đề&thảo luận không nhiều hơn đáng kể. Tức là, nhìn một cách tổng quát, mới chỉ có nửa số SV tham gia vào PP giảng dạy tích cực trong lớp. Đây không phải là một con số khả quan bởi vì trong giáo dục theo phương châm lấy người học làm trung tâm, việc đổi mới PP giảng dạy không thể được thực hiện tốt nếu thiếu vai trò của người học - những chủ thể của giáo dục đóng góp 50% vào hiệu quả giáo dục. Với tỉ lệ SV tham gia như trên, khó có thể trông mong vào việc nâng cao chất lượng của giờ dạy. Việc áp dụng một PP không đúng cách - mà ở đây là không có sự tham gia tích cực của đối tượng trung tâm thậm chí còn có thể gây nên những tác động ngược. Có lẽ bởi vậy mà nhiều chuyên gia giáo dục đã sớm cảnh báo rằng : " Đổi mới phương pháp dạy học không hẳn là việc áp dụng những phương pháp hoàn toàn mới, vì lắm khi dùng phương pháp mới, kỹ thuật mới mà vẫn quen theo nếp cũ thì còn tai hại gấp mấy lần không đổi mới. Do đó, việc cần làm là phải có một thái độ mới, tích cực, tự giác và không ngừng học hỏi để tự điều chỉnh. " Tuy nhiên mặt khác, tỉ lệ gần 50% SV tham gia vào giờ dạy sử dụng PP tích cực cũng cho thấy PP này đã được một bộ phận SV còn lại đón nhận và hưởng ứng. Đó có thể là một tín hiệu khích lệ toàn thể GV và SV trong nhà trường không ngừng cải tiến, hợp lý hóa PP dạy&học để đạt được hiệu quả chất lượng đào tạo cao nhất.
Thứ hai, nhóm nghiên cứu tiến hành tìm hiểu tần số và mức độ tham gia của bản thân SV vào những giờ học tích cực tại lớp của họ lần lượt bằng các câu hỏi trưng cầu ý kiến. Kết quả thu được như sau:
Đối với câu hỏi : "Khi GV sử dụng PP giảng dạy tích cực trong giờ học tại lớp, bạn có tham gia không?" chúng tôi đưa ra 4 phương án gợi ý trả lời theo tần suất giảm dần là Thường xuyên - Thỉnh thoảng - Ít khi - Không bao giờ. Câu trả lời của 128 SV được hỏi được biểu thị bằng biểu đồ dưới đây
Biểu đồ 11 : Tỉ lệ sinh viên tham gia vào giờ học tích cực tại lớp
(tần suất tham gia)
Như vậy, gần một nửa số SV được hỏi chỉ thỉnh thoảng tham gia vào hoạt động nêu vấn đề&thảo luận của giờ học theo PP giảng dạy tích cực tại lớp. Cộng với 38% SV thường xuyên tham gia, tỉ lệ SV có tham gia ở một mức độ chấp nhận được lên tới 86%. Chỉ có 12% SV ít khi tham gia và 2% SV cho rằng mình không bao giờ tham gia vào giờ học tích cực. Là những con số khá khả quan, liệu có thể nói đây là một tín hiệu đáng mừng góp phần khích lệ việc tăng cường áp dụng PP giảng dạy tích cực trong giờ học hay không?
Để có thêm những dữ liệu làm cơ sở cho việc phân tích vấn đề hoạt động của SV đối với việc áp dụng PP giảng dạy tích cực, nhóm nghiên cứu tiến hành tìm hiểu sự chênh lệch giữa SV đạt các mức học lực Giỏi - Khá - Trung bình
Bảng 13 : Tương quan giữa học lực của SV với tần suất tham gia vào giờ học sử dụng PP giảng dạy tích cực tại lớp
(tỉ lệ %)
Giỏi
Khá
Trung bình
Thường xuyên
41
33
33
Thỉnh thoảng
41
51
54
Ít khi
10
13
12
Không bao giờ
100
8
100
3
100
1
Nhìn vào bảng số liệu trên, ta nhận thấy giữa các nhóm SV có học lực khác nhau không có sự chênh lệch đáng kể về tần suất tham gia thường xuyên, thỉnh thoảng, ít khi hay không bao giờ vào giờ học tích cực. Xét tương quan giữa các nhóm, tỉ lệ SV tham gia theo tần xuất từ cao xuống thấp khá cân bằng với nhau, cả 3 nhóm đều có trên 80% số SV tham gia vào giờ học tích cực với một mức độ chấp nhận được. Tuy nhiên, tỉ lệ 8% SV ở nhóm giỏi so với chỉ có 3% nhóm Khá và 1% nhóm TB trả lời không bao giờ tham gia vào giờ học sử dụng PP tích cực khiến chúng tôi rất băn khoăn và cố gắng tìm câu trả lời trong các bảng số liệu ở phần trước. Kết quả, nhóm nghiên cứu rút ra được một sự lý giải ban đầu cho hiện tượng này : tỉ lệ 8% đó phần lớn là những SV bảo vệ quan điểm của mình cho rằng PP thuyết trình truyền thống trong điều kiện nhà trường và nội dung chương trình đào tạo hiện nay là PP phù hợp, hiệu quả mà họ đã hài lòng. Có lẽ vì thế mà một bộ phận SV thuộc nhóm Giỏi không sẵn sàng ủng hộ và tham gia vào việc áp dụng một PP giảng dạy nào khác ngoài PP chỉ có thể giúp cho họ lĩnh hội kiến thức một cách thụ động nhưng lại vẫn hiệu quả đủ để đạt được những điểm số cao qua các kỳ thi?
Vậy, liệu có tồn tại một sự chênh lệch về tần suất tham gia giữa nhóm SV nông thôn+miền núi và nhóm SV thành thị hay không?
Bảng 14 : Tương quan giữa quê quán và tần suất tham gia vào giờ học sử dụng PP giảng dạy tích cực tại lớp (tỉ lệ %)
Thành thị
Nông thôn+Miền núi
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Ít khi
Không bao giờ
32
48
16
4
41
48
9
2
Tổng số
100
100
Số liệu thu được quả là không có gì khác biệt so với kết quả quan sát của nhóm nghiên cứu. Thực tế cho thấy, nhóm SV nông thôn+miền núi thậm chí còn tham gia vào giờ học sử dụng PP giảng dạy tích cực nhiều hơn nhóm SV thành thị tới 9%. Như vậy, bước đầu có thể kết luận là yếu tố quê quán không phải là một trở ngại đối với việc lựa chọn và áp dụng một PP giảng dạy mới ngoài PP thuyết trình truyền thống.
Đối với câu hỏi : "Bạn tham gia thảo luận như thế nào?" cùng 3 phương án gợi ý trả lời là Hào hứng, chủ động - Miễn cưỡng (chỉ tham gia nếu được chỉ định) - Hoàn toàn đứng ngoài cuộc thảo luận chúng tôi đã nhận được kết quả như sau
Biểu đồ 12 : Tỉ lệ sinh viên tham gia vào giờ học tích cực tại lớp
(mức độ tham gia)
Từ số liệu trên, ta đã có thể trả lời được nghi vấn đặt ra ở phần trước rằng liệu có nên xem số lượng trên 80% SV được hỏi đồng ý là tham gia thường xuyên hoặc thỉnh thoảng vào giờ học tích cực là một tín hiệu đáng mừng? Thực tế cho thấy với kết quả 51% SV cho rằng họ tham gia một cách miễn cưỡng, nghĩa là chỉ tham gia nếu được chỉ định, bị bắt buộc là một con số không mấy sáng sủa và rất phù hợp với quan điểm của SV về tỉ lệ SV tham gia vào giờ học bắt buộc tại lớp mình. Tuy 46% SV hào hứng, chủ động tham gia nhưng việc hơn 50% SV ngồi thụ động và uể oải trong khi GV tổ chức cho cả lớp một giờ học tích cực có nêu vấn đề và thảo luận nhóm đã phản ánh là sự thụ động, tính ỳ của SV mà nếu không khắc phục được thì GD không thể đổi mới theo phương châm "lấy người học làm trung tâm" được. Bên cạnh đó, mức độ tham gia chủ động hay thụ động khá đồng đều ở cả 3 nhóm học lực Giỏi - Khá - TB của SV. Cũng từ đây, nảy sinh một yêu cầu về việc thăm dò, khảo sát ý kiến và phản ứng của người học về tính phù hợp và hiệu quả của PP giảng dạy. Có người ví quá trình dạy và học như con gà đẻ ra quả trứng, theo đó PP giảng dạy được xem như con gà, phương pháp và thái độ học tập của sinh viên được xem như quả trứng. PP giảng dạy không tốt, không thích hợp sẽ dẫn đến cách học và thái độ học tập không tốt, và do đó chất lượng giáo dục thấp. Thực tế của điều này có thể được minh họa bằng một câu trả lời của SV năm thứ III : "Cũng tuỳ giờ thôi. Thường là có một số bạn gần như được “phân công” là làm các “hoạt náo viên” trong lớp. Các bạn ấy sẽ xung phong trả lời câu hỏi và thảo luận. Còn lại thì tuỳ các sinh viên, ai thích giờ nào, thầy cô nào sẽ tham gia tích cực giờ ấy. Ví dụ như tôi rất thích giờ của thầy Thanh nên tôi tham gia rất nhiệt tình, vừa chuẩn bị bài rồi thảo luận và thuyết trình nữa". Như vậy, không chỉ có những yếu tố chủ quan từ phía người học mà còn có những yếu tố khách quan từ phía người dạy quyết định tính hiệu quả của một giờ dạy tích cực. Chính vì thế, nhóm nghiên cứu bước đầu tìm hiểu một khía cạnh của vấn đề qua câu hỏi thứ ba.
Thứ ba, chúng tôi trưng cầu ý kiến SV về những yếu tố khiến họ có thể ít hứng thú với PP giảng dạy tích cực tại lớp
Biểu đồ 13 : Quan điểm của SV về những yếu tố có thể làm giảm hứng thú
với giờ học tích cực tại lớp
Nhìn vào bảng biểu trên đây chúng ta thấy lần lượt những yếu tố mà SV cho rằng hạn chế sự hứng thú của họ với PP giảng dạy tích cực tại lớp, đó là : Nội dung thảo luận không hấp dẫn (41%) - Khả năng trình bày và diễn thuyết kém (37%) - Lười, e ngại (32%) - Không hiểu biết về vấn đề thảo luận (24%) - Không đồng tình với cách đặt vấn đề hoặc tổ chức thảo luận của GV (20%) và cuối cùng là kết quả thảo luận không có ích (17%). Khi được phỏng vấn trực tiếp, một số SV cũng đưa ra quan điểm của mình về vấn đề này. Bạn nam học năm thứ III cho biết : "Tùy từng môn học và từng thầy cô có cách tổ chức thảo luận khác nhau. Nhưng thường thì cách đưa ra vấn đề thảo luận không được lôi cuốn SV lắm, nên nhiều khi một nhóm chỉ có vài người làm số còn lại ngồi chơi". Còn theo bạn nữ học năm thứ II thì : "Nếu giáo viên mà có cách gợi mở hay, cách nêu vấn đề lôi cuốn chắc chắn sẽ thu hút được đông sinh viên tham gia. Nhiều sinh viên không tham gia phương pháp mới vì lười và ngại nhưng cũng vì cả việc không đồng tình với cách đặt vấn đề thảo luận của giáo viên nữa mà." Nêu ý kiến về vấn đề này, các nhóm SV năm thứ II -năm thứ III cũng như nhóm SV phân theo học lực hay quê quán không có những ý kiến chênh lệch nhau lắm. Hầu như ai cũng "đổ tại" nội dung thảo luận không hấp dẫn là chính (54% SV năm thứ II - 49% SV năm thứ III; 67% SV Giỏi, 60% SV Khá và 55% SV TB; 45% SV nông thôn+miền núi và 51% SV thành thị). Đặc biệt, khá nhiều SV thẳng thắn tự nhận xét về khả năng trình bày và diễn thuyết kém của mình, trong đó có 51% SV năm thứ II và 45% SV năm thứ III; 43% SV Giỏi, 45% SV Khá và 48% SV TB. Được biết, PP dạy và học tích cực phần lớn dựa trên sự chủ động sáng tạo của sinh viên cũng như tương tác tốt giữa người dạy và người học. Trong một môi trường giảng dạy và học tập tương tác như vậy, khả năng trình bày ý tưởng, thuyết phục, diễn thuyết của học viên là rất quan trọng. Nếu thiếu khả năng này, không đủ tự tin để diễn đạt ý tưởng của mình thì không thể tránh khỏi tình trạng e dè, ngại ngần phát biểu, dẫn đến sự tương tác kém giữa giáo viên và học viên. Thực tế đã cho thấy, đây cũng là vấn đề của phần lớn sinh viên mới tốt nghiệp. Các công ty sử dụng họ phải tiêu tốn khá nhiều chi phí vào việc đào tạo từ đầu cho họ về mảng này, nhất là đối với những công việc cần giao tiếp nhiều. Như vậy, để dạy sinh viên cách học tốt thì tiếp sau bước hướng dẫn cho sinh viên cách suy nghĩ, tư duy là cần dạy cho họ cách thể hiện suy nghĩ, trình bày ý tưởng của mình.
Từ những yếu tố chủ quan từ phía người học như khả năng trình bày&diễn thuyết kém và không hiểu biết về vấn đề thảo luận tất yếu sẽ dẫn tới tình trạng lười, e ngại tham gia vào hoạt động thảo luận (41% số SV được hỏi). Thực tế này cản trở rất lớn việc áp dụng hiệu quả PP giảng dạy tích cực trong nhà trường. Vì thế, để khắc phục cần lưu tâm đến những yếu tố xuất phát từ cả người dạy lẫn người học.
Thứ tư, sau khi đã thu thập được những thông tin lý thú về hoạt động của SV trong giờ dạy tích cực, nhóm nghiên cứu còn trưng cầu ý kiến về đề nghị của họ đối với việc giảng dạy trên lớp để dựa trên cơ sở đó có thể đề ra những đề xuất phù hợp và hiệu quả
Biểu đồ 13 : Đề nghị của SV đối với việc giảng dạy
5 phương án gợi ý trả lời thực ra cũng là những gợi ý về đề xuất đã được SV hưởng ứng khá nhiệt tình và đồng đều ở các giải pháp, cũng đồng nghĩa với thực tế là họ đánh giá mức độ cần thiết của những giải pháp ấy ngang nhau và đề nghị chúng cần được tiến hành đồng bộ. Việc giảm thời lượng giảng dạy lý thuyết thu hút sự quan tâm chú ý của đông đảo SV có học lực Khá và Trung Bình vì chỉ có 3 SV có học lực Giỏi đề nghị điều này. Theo nhóm nghiên cứu, việc giảm thời lượng giảng dạy lý thuyết ở đây trong hoàn cảnh hiện nay tốt nhất nên được hiểu là việc thuyết trình nêu vấn đề - đó là cách vận dụng phương pháp giảng dạy tích cực ở mức thấp và ở bước đầu khi cả SV và GV vẫn còn quá quen với nếp tư duy của PP giảng dạy thuyết trình truyền thống. PP thuyết trình nêu vấn đề là một phương pháp tiến bộ và hiệu quả hơn thuyết trình truyền thống ở chỗ nó được GV chuẩn bị theo một chiến thuật trên cơ sở đề xuất những mâu thuẫn để đưa SV vào tình huống nhận thức, tạo ra những khó khăn và cả những điều lôi cuốn SV cùng với mình tháo gỡ từng vấn đề, kích thích sự tích cực tư duy, theo dõi bài giảng một cách chủ động, không còn thụ động như trước nữa. Sử dụng PP này đòi hỏi GV cần có nghệ thuật tạo ra các tình huống có mâu thuẫn được SV chấp nhận và tìm cách giải quyết. Tiếp sau đó là việc tăng cường sử dụng công nghệ hiện đại vào giảng dạy là yêu cầu của đông đảo SV không phân biệt học lực cũng như năm học. Việc tăng cường thảo luận nhóm - hoạt động chính của PP giảng dạy tích cực thì lại chỉ lôi cuốn được 30% SV, có lẽ là bởi việc tổ chức thảo luận trong lớp hiện nay còn chưa đáp ứng được yêu cầu và phát huy tính hiệu quả.
Thứ năm, chúng tôi cũng khảo sát đánh giá của SV về khả năng đổi mới PP giảng dạy của GV trong lớp/trường mình hiện nay và nhận được kết quả khá khả quan.
Biểu đồ 14 : Đánh giá của SV về khả năng đổi mới PP giảng dạy
của GV trong trường hiện nay
Nhìn vào bảng số liệu chúng ta thấy có 55% SV tin tưởng rằng chúng ta có thể đổi mới PP giảng dạy với trình độ, năng lực và tâm huyết của cán bộ giảng dạy trong nhà trường. Nhận được tới 37% câu trả lời là không chắc, chúng tôi cảm thấy khá băn khoăn nên đã thử tìm hiểu, và biết được rằng sở dĩ những SV này có suy nghĩ như vậy là bởi họ nghĩ tới thực trạng trang thiết bị dạy học và nội dung một số môn học quá nặng về lý thuyết khiến dường như việc áp dụng PP thuyết trình truyền thống vẫn là hợp lý nhất trong điều kiện hiện tai. Quả thật, không thể chỉ một sớm một chiều là đổi mới được PP giảng dạy, và cũng không thể chỉ có đổi mới PP giảng dạy mà nâng cao được chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, trong phạm vi hạn hẹp của đề tài nghiên cứu, chúng tôi mong muốn đưa ra những giải pháp trước mắt có tác động trực tiếp đến chất lượng của từng giờ dạy.
4.3 Kết luận
Sau khi tiến hành tìm hiểu và phân tích về hoạt động của SV đối với việc áp dụng PP giảng dạy tích cực, nhóm nghiên cứu rút ra được một số kết luận như sau
Các hoạt động thảo luận trong giờ học sử dụng PP giảng dạy tích cực mới chỉ thu hút một nửa số SV tham gia ở một mức độ chấp nhận được. Có tới hơn một nửa số SV tham gia một cách miễn cưỡng, thụ động chứ chưa hòa nhập chủ động, tích cực vào hoạt động thảo luận.
Có nhiều yếu tố xuất phát từ cả phía người dạy lẫn người học hạn chế sự tham gia hào hứng và tích cực của SV vào hoạt động thảo luận, đặc biệt là nội dung thảo luận và khả năng trình bày, diễn thuyết của SV. Để tăng cường tính hấp dẫn và hiệu quả của hoạt động thảo luận, cần khắc phục những mặt hạn chế của người dạy và người học.
SV tham gia đóng góp nhiều ý kiến đề xuất đối với việc giảng dạy trên lớp, tập trung vào việc giảm thời lượng giảng dạy lý thuyết, tăng cường sử dụng các phương tiện hiện đại và tăng cường đối thoại giữa GV và SV.
Phần lớn SV đều tin tưởng vào khả năng đổi mới PP giảng dạy của GV trong trường.
5. Giải pháp
Áp dụng PP giảng dạy tích cực (nêu vấn đề&thảo luận) trong sự phối kết hợp nhuần nhuyễn với PP thuyết trình truyền thống trên cơ sở GV tạo ra các tình huống có vấn đề, các mâu thuẫn khách quan và hướng dẫn, tổ chức cho SV giải quyết theo nhóm. GV có thể tạo ra các tình huống mâu thuẫn theo một số kiểu thông thường như:
+Tình huống bất ngờ là tình huống phát hiện ra những sự kiện ít/chưa thấy trong thực tế
+Tình huống không phù hợp là tình huống mà sự kiện giải quyết trái với quan niệm thông thường, trái với kinh nghiệm đã có
+Tình huống đột biến là tình huống mà sự kiện không thể giải quyết bằng kiến thức và tư duy kiểu cũ
+Tình huống xung đột là tình huống phải chứng minh để bác bỏ một luận điểm, một quan niệm không đúng nào đó
+Tình huống lựa chọn là tình huống phải tìm ra được một phương án tối ưu trong các phương án đã có
+Tình huống giả thuyết là tình huống giả định về bản chất một sự kiện và cần phải chứng minh giả định đó
Trên cơ sở tạo dựng các tình huống nhận thức, GV dẫn dắt SV cách giải đáp bằng các hình thức khác nhau, tùy theo mức độ vận dụng PP truyền thống và PP tích cực:
GV thuyết trình nêu vấn đề mâu thuẫn, đưa mâu thuẫn tới đỉnh đ iểm và tự mình tháo gỡ giải quyết, được gọi là PP giảng dạy thuyết trình nêu vấn đề. Tuy xét về bản chất vẫn là thuyết trình nhưng PP này tiến bộ, hấp dẫn và hiệu quả hơn ở chỗ nó được GV chuẩn bị công phu theo một chiến thuật đặc biệt nhằm lôi cuốn SV cùng với mình tháo gỡ từng mâu thuẫn, giải quyết vấn đề, đòi hỏi SV cần tích cực tư duy, chủ động theo dõi bài giảng.
GV nêu vấn đề và tổ chức cho các nhóm SV thảo luận theo nhóm. Hình thức này đã được mô tả và phân tích rất kỹ lưỡng trong các phần trước của đề tài
Tăng cường một số hình thức giảng dạy khác với liều lượng phù hợp : viết bài luận, bài tập về nhà, case study, presentation... và cách đánh giá sinh viên cũng nên đa dạng dựa theo các assignments này.
Để tăng cường hiệu quả của việc áp dụng PP giảng dạy tích cực, cần quan tâm tới một số vấn đề sau:
Để có thể lấy trọng tâm vào người học, chuyên chú vào đối tượng ngồi nghe thì kỹ năng giảng dạy của người thầy chính là yếu tố tiên quyết. Theo những chuyên gia của Tổ chức Living Value của Liên Hiệp Quốc, những người đã phối hợp với Trung tâm đào tạo, tư vấn và phát triển các kỹ năng của con người Tâm Việt tổ chức lớp học "Dạy phương pháp giảng dạy" cuối tháng 6-2004, người thầy phải biến buổi giảng của mình thành một buổi diễn với các kỹ năng giảng dạy, kỹ năng thuyết trình thuyết phục vì việc giảng dạy phụ thuộc rất lớn vào cách tiếp nhận cũng như khả năng tiếp nhận của người nghe. Bên cạnh đó không nên đánh giá thấp vai trò của kỹ năng tổ chức lớp học mà nhờ đó người dạy có thể hướng dẫn học viên của mình tự nghiên cứu, trao đổi, thảo luận một cách hiệu quả.
Trong lớp cần dành ra một số thời gian nhất định để sinh viên đặt câu hỏi, phải tìm cách tập cho sinh viên mạnh dạn, khuyến khích họ đặt câu hỏi, không sợ sai, không nên quan tâm đến kết quả của câu hỏi là đúng hay sai, mà nên quan tâm trước hết đến việc tự đặt câu hỏi, tự giải thích vấn đề, tự tiên liệu những khả năng có thể xảy ra, tự nghi ngờ vấn đề... nhằm dần dần phát huy được khả năng tư duy chủ động của người học. Trong một lớp học có thảo luận nhóm và trao đổi ý kiến cá nhân, GV chỉ đóng vai trò là tác nhân kích thích quá trình tự học, giúp đỡ học sinh khi cần thiết... Để tham gia tích cực vào một môi trường như thế, sinh viên cũng phải tự khắc phục những hạn chế của nếp nghĩ, nếp tư duy từ phổ thông.
Cả người dạy và người học đều cần phải cởi mở, tự tin, coi học ĐH là một công việc lao động trí óc. Đặc biệt, là người hướng dẫn sinh viên làm việc, khuyến khích sự chủ động sáng tạo của họ, người thầy cần khuyến khích SV nghe những điều mình giảng để suy ra những điều có thể nghi ngờ, rèn luyện tinh thần phản biện khoa học dân chủ và đúng đắn, kịp thời phản hồi và đánh giá, nhận xét.
Cần nhìn nhận vai trò của thư viện ĐH, như quan điểm của ThS. Lê Ngọc Oánh (Thư viện ĐH Mở - Bán công) trong bài "Thư viện đại học đóng góp gì cho việc cải tiến nội dung chương trình và thay đổi PPGD ở bậc ĐH" : "Sách giáo khoa và giáo trình chỉ là các khung cơ bản của nội dung chương trình đào tạo, tài liệu vô vàn trong thư viện mới thật sự đóng góp cho những tư duy, tri thức được đặt thành vấn đề để đem ra nghiên cứu, thảo luận, so sánh, phê bình, đánh giá để đem đến một nhận định riêng cho người học. Và như vậy, thư viện đại học đương nhiên đã làm thay đổi PPGD và học tập ở trường ĐH". Thay vì thầy lên lớp thuyết trình hàng loạt kiến thức, học trò lắng nghe, ghi chép, cố nhớ, lặp lại và chứng tỏ cái nhớ, hiểu của mình, thì ở đây người thầy trong lớp học chỉ nêu vấn đề mà học trò tìm hiểu và chỉ ra những nguồn tài liệu mà họ có thể dùng để nghiên cứu tham khảo. Sinh viên phải tự đến thư viện tìm tài liệu liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu, thảo luận. Thư viện có đầy đủ sách báo, tài liệu điện tử... về mọi lĩnh vực tri thức trong chương trình đào tạo của nhà trường sẽ cung cấp cho sinh viên nguồn tài liệu phong phú về những tri thức liên quan đến vấn đề được nêu lên. Với những tri thức đó, sinh viên phải làm một cuộc phân tích, so sánh, phê bình, đánh giá, đi đến tổng hợp cho mình một nhận định. Kết quả của sự phân tích, phê bình, đánh giá và nhận định tổng hợp đó sẽ được trình bày trong bài làm hai ba trang giấy và đem ra thảo luận trong giờ học tại lớp.
Cần đưa ra một bảng câu hỏi khảo sát về môn học vào cuối kì, nhất là đối với các môn chuyên ngành, bao gồm các khía cạnh : tính đầy đủ của nội dung môn học, cân đối giữa lý thuyết và thực hành, tài liệu đọc thêm... có đáp ứng được đòi hỏi về kiến thức của người học hay không?, PP giảng dạy như thế đã phù hợp, hiệu quả hay chưa? phần nào cần thêm, bớt...? Trên cơ sở tổng hợp quan điểm của toàn thể SV, cần kịp thời đánh giá một cách toàn diện về hiệu quả của PP giảng dạy đã được áp dụng.
Phần 3: Kết luận và khuyến nghị
1. Kết luận
Những kết quả thu được ủng hộ cho giả thuyết nghiên cứu ban đầu như sau
+PP giảng dạy chủ yếu của GV trong nhà trường là PP thuyết tŕnh truyền thống, PP tích cực mới được áp dụng vào giảng dạy ban đầu dưới h́nh thức kết hợp với PP thuyết tŕnh, chứ chưa được sử dụng một cách độc lập.
+Đa số SV trong trường đều nhận thức rơ về nhiệm vụ đào tạo của GD ĐH và các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng GD bậc ĐH. Từ nhận thức đó cùng những nhu cầu chưa được đáp ứng, phần lớn SV đều chưa hài ḷng với PP giảng dạy chủ yếu trong nhà trường hiện nay.
+Giờ học sử dụng PP giảng dạy tích cực chưa thu hút được đông đảo SV hào hứng, chủ động tham gia v́ nhiều yếu tố xuất phát từ cả phía người dạy và người học.
+Do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, PP giảng dạy kết hợp thuyết tŕnh và thảo luận được coi là phù hợp và hiệu quả nhất trong điều kiện hiện nay.
Khả năng nghiên cứu sâu hơn về đề tài : Thực tế 122/128 SV khi được hỏi đều khẳng định sự cần thiết của việc t́m hiểu ý kiến của SV trong việc đổi mới PP giảng dạy càng khẳng định tính cấp thiết và hữu ích của đề tài. Tuy nhiên, với nguồn thời gian và kinh phí hạn hẹp chúng tôi mới chỉ đưa ra được những phác thảo ban đầu với tính đại diện chưa cao. Để có được cái nh́n tổng quát, toàn diện và đúng đắn rất cần có những nghiên cứu về vấn đề này trên quy mô lớn hơn.
2. Khuyến nghị
Trên cơ sở tìm hiểu, phân tích các khía cạnh thực trạng, nhận thức, thái độ và hành động của SV đối với việc áp dụng PP giảng dạy tích cực, nhóm nghiên cứu xin đưa ra một số kiến nghị:
- Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo:
+Nhân rộng hơn nữa phong trào đổi mới PP giảng dạy cũng như áp dụng những PP giảng dạy mới, tích cực và hiệu quả ở bậc đại học
+Kịp thời tổng kết và đánh giá tính khả thi của các phương pháp đã triển khai để xây dựng một hệ thống những quy định nghiêm ngặt về việc vận dụng các phương pháp giảng dạy thích hợp.
- Đối với trường ĐH KHXH&NV - ĐH Quốc Gia Hà Nội:
+Phổ biến rộng rãi hơn nũa về việc áp dụng PP giảng dạy tích cực một cách phù hợp trong toàn thể GV và SV
+Có những hình thức khen thưởng kịp thời đối với những GV năng động, sáng tạo trong việc đổi mới PP giảng dạy
+Tạo điều kiện cho GV sử dụng các phương tiện hiện đại vào giảng dạy
+Nâng cao hơn nữa Thư viện của nhà trường và phòng Tư liệu các Khoa
- Đối với GV
+ Kết hợp linh hoạt và hiệu quả PP thuyết giảng và PP tích cực (thảo luận và nêu vấn đề)
+ Cập nhật thông tin cho tập bài giảng, biên soạn tập bài giảng theo hướng gợi mở cho người học hơn là theo hướng tóm tắt kiến thức đơn thuần
+ Cung cấp thêm cho SV những cách thức xử lý tình huống thực tế
+ Tăng cường trao đổi với SV trên cơ sở mối quan hệ uy quyền và đối thoại
- Đối với SV:
+ Tích cực hơn nữa trong việc tìm tòi, đọc tài liệu liên quan đến môn học
+ Phát huy năng lực trong việc tiếp thu và ứng dụng các tri thức trong nhà trường vào cuộc sống (ví dụ : tham gia vào hoạt động nghiên cứu khoa học của SV...)
+ Tăng cường trao đổi với GV và các bạn SV của mình
Tài liệu tham khảo
1. Phương pháp nghiên cứu xã hội học (Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh)
2. Lịch sử và Lý thuyết xã hội học (Lê Ngọc Hùng)
3. Từ điển Xã hội học
4. Xã hội học (John J. Macionis)
5. Tạp chí Thế giới mới, Người đưa tin UNESCO, báo Giáo dục&Thời đại
6. Tài liệu trên mạng Internet
www.edu.net
www.vnn.vn
www.ttvnol.com
Trang web của Đại học Quốc gia Hà Nội
Một số trang web về giáo dục của nước ngoài
7. Xã hội học đại cương (Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng)
8. Văn kiện Đại hội Đảng
9. Một số văn bản Chính sách giáo dục của Việt Nam.
Đại học Quốc gia Hà Nội
Trường ĐHKHXH&NV
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
Các bạn thân mến,
Chúng tôi đang tiến hành thu thập thông tin cho nghiên cứu XHH về "Phản ứng của sinh viên trường ĐHKHXH&NV về việc áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực trong nhà trường hiện nay". Những thông tin các bạn cung cấp sẽ giúp ích rất nhiều cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu và được đảm bảo tính khuyết danh.
Hãy đánh dấu X vào phương án trả lời của bạn
1>Phương pháp giảng dạy nào đang được sử dụng ở lớp bạn hiện nay?
Phương pháp truyền thống (phương pháp thuyết trình)
Phương pháp tích cực (phương pháp nêu vấn đề & thảo luận)
Phương pháp kết hợp thuyết trình và thảo luận
2a>Trong số đó, phương pháp nào được sử dụng nhiều nhất?
(chỉ đưa ra 1 phương án trả lời).............................................................................................
2b>Bạn có suy nghĩ gì về phương pháp giảng dạy đó?
Đó là một phương pháp giảng dạy phù hợp và hiệu quả
Đó là một phương pháp giảng dạy chưa phù hợp và chưa hiệu quả lắm
Đó là một phương pháp không phù hợp và không hiệu quả
2c>Bạn có hài lòng với phương pháp giảng dạy đó không?
Rất hài lòng
Hài lòng
Chưa hài lòng lắm
Không hài lòng
3a>Bạn thích nhất phương pháp giảng dạy nào trong những phương án gợi ý trả lời nêu ở câu hỏi 1? Vì sao?........................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
3b>Theo bạn, số đông SV trong lớp thích nhất phương pháp nào?.................................................
4>Theo bạn, những yếu tố quyết định trực tiếp tới chất lượng giáo dục bậc ĐH là gì? (sắp xếp thứ tự ưu tiên từ 1 tới 6)
Trình độ của GV
Phương pháp giảng dạy của GV
Năng lực, ý thức của SV
Cơ sở vật chất, thiết bị dạy&học
Nội dung các môn học
Sách giáo khoa, tài liệu tham khảo
5a>Theo bạn, việc dạy&học ĐH cần tích lũy cho SV những kỹ năng nào dưới đây?
Tư duy sáng tạo và óc phê phán
Tự học, tự nghiên cứu
Thực hành
Giao tiếp, thuyết trình và diễn giải ý tưởng
Giải quyết vấn đề
Làm việc theo nhóm, làm việc tập thể
5b>Trong những kĩ năng trên đây, bạn đang được tích lũy những gì?...........................................
................................................................................................................................................................
6>Theo bạn, tính hấp dẫn và hiệu quả của phương pháp giảng dạy phụ thuộc nhiều nhất vào yếu tố nào dưới đây? (chỉ lựa chọn 1 phương án trả lời)
Chương trình đào tạo (SGK, bài giảng, tài liệu giảng dạy/tham khảo...)
Dụng cụ và phương tiện dạy học (máy vi tính, đèn chiếu, overhead, projector...)
Trình độ, ý thức của người dạy
Trình độ, ý thức của người học
7>Bạn có được những thông tin về việc đổi mới phương pháp giảng dạy ĐH chủ yếu từ những nguồn nào dưới đây? (lựa chọn tối đa 2 phương án trả lời)
GV trong lớp/trường
SV trong lớp/trường
Sách, báo, tạp chí
Các phương tiện thông tin nghe nhìn (đài, truyền hình)
Internet
Khác
8>Bạn có được biết về nội dung đổi mới phương pháp giảng dạy trong Chương trình hoạt động của Trường ĐHKHXH&NV không?
Có
Không
Không rõ
9>Theo bạn, yếu tố nào hạn chế việc áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực trong trường ta hiện nay? (sắp xếp thứ tự ưu tiên từ 1 đến 5)
Năng lực, ý thức của GV
Năng lực, ý thức của SV
Sĩ số lớp học
Cơ sở vật chất
Thời lượng môn học
Còn ý kiến khác, xin bạn nêu rõ.............................................................................................................
10>Ở lớp bạn, tỉ lệ GV sử dụng phương pháp giảng dạy tích cực là bao nhiêu %?
Dưới 25%
Từ 25%-50%
Từ 50%-75%
Trên 75%
11>Khi GV sử dụng phương pháp giảng dạy tích cực trong giờ học tại lớp, theo bạn tỉ lệ sinh viên tham gia là bao nhiêu %?
Dưới 25%
Từ 25%-50%
Từ 50%-75%
Trên 75%
12a>Khi GV sử dụng phương pháp giảng dạy tích cực trong giờ học tại lớp, bạn có tham gia không?
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Ít khi
Không bao giờ
12b>Bạn tham gia thảo luận như thế nào?
Hào hứng, chủ động
Miễn cưỡng (chỉ tham gia nếu được chỉ định)
Hoàn toàn đứng ngoài cuộc thảo luận
12c>Yếu tố nào khiến bạn (có thể) ít hứng thú với phương pháp giảng dạy tích cực trong giờ học tại lớp mình? (lựa chọn tối đa 3 phương án trả lời)
Nội dung thảo luận không hấp dẫn
Kết quả thảo luận không giúp ích cho bạn
Không đồng tình với cách đặt vấn đề hoặc tổ chức thảo luận của GV
Không hiểu biết về vấn đề thảo luận
Khả năng trình bày&diễn thuyết kém
Lười, e ngại
13>Bạn có đề nghị gì đối với việc giảng dạy trên lớp?
(lựa chọn tối đa 3 phương án trả lời)
Giảm thời lượng giảng dạy lý thuyết
Tăng cường đối thoại GV-SV
Tăng cường thảo luận nhóm
Tăng cường thuyết trình tiểu luận, báo cáo của cá nhân/nhóm SV
Tăng cường sử dụng các phương tiện hiện đại vào việc giảng dạy
Còn ý kiến khác, xin bạn nêu rõ.............................................................................................................
14>Đánh giá của cá nhân bạn về khả năng đổi mới phương pháp giảng dạy của GV trong lớp/trường mình hiện nay
Hoàn toàn được
Được
Không chắc
Không thể được
Không rõ
15>sHãy đánh giá mức độ cần thiết của việc tham khảo ý kiến SV về vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy như bảng hỏi bạn vừa thực hiện
Rất cần thiết
Cần thiết
Không cần thiết lắm
Hoàn toàn không cần thiết
Không rõ
Xin bạn cho biết đôi điều về bản thân
Bạn là Nam / Nữ SV Khoa..................................Lớp........................
Hộ khẩu thường trú : Nông thôn / Thành thị / Miền núi
Học lực học kỳ I năm 2004-2005 : Giỏi / Khá / Trung bình / Kém
XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN BẠN!
PHỤ LỤC
Ngày 20 tháng 3 năm 2005
Địa điểm trường ĐHKHXH &NV
Người được hỏi: Nam giới 22 tuổi là sinh viên của trường ĐHKHXH &NV K47
Trước hết, rất cảm ơn bạn đã đồng ý cộng tác để giúp đỡ chúng tôi hoàn thành tốt được nghiên cứu này. Chúng tôi muốn trò chuyện với bạn trong khoảng 15 phút để thu thập thông tin về những vấn đề xung quanh việc đổi mới phương pháp đào tạo ở bậc đại học nói chung và ở trường ta nói riêng. Những ý kiến và nhận xét của bạn sẽ rất có ích cho công việc của chúng tôi. Bây giờ tôi xin phép được bắt đầu:
H: Phương pháp nào đang được sử dụng phổ biến nhất để giảng dạy trên lớp bạn hiện nay. Nếu bạn không thể nhớ được ngay những phương pháp nào, tôi xin được gợi ý cho bạn.
Đ: Bạn có thể gợi ý giúp tôi
H: Vâng, gồm có 3 phương pháp chính sau (1.phương pháp thuyết trình, 2.phương pháp tích cực: nêu và thảo luận vấn đề, 3.Phương pháp kết hợp thuyết trình và thảo luận)
Đ: Thế thì phương pháp phổ biến nhất trong lớp tôi là phương pháp thuyết trình.
H: Vậy thì bạn có thích phương pháp này không và xin cho biết tại sao
Đ: Tôi nói thật là tôi cảm thấy thích và số đông trong lớp tôi cũng thế, vì học theo phương pháp này sinh viên đỡ mệt. Sinh viên chẳng phải làm gì ngoài việc chép bài và nghe giảng một cách thụ động. Thật ra thầy cô giảng theo phương pháp mới thì cũng hay, thế nhưng mà cũng vất lắm, phải thảo luận, tự nghiên cứu tìm tài liện thông tin rồi thuyết trình, vừa tốn nhiều thời gian và công sức.
H: Nhưng tôi nghĩ là với phương pháp mới bạn sẽ vừa củng cố, tích luỹ được kiến thức lại vừa rèn luyện được rất nhiều kỹ năng như là: làm việc theo nhóm, thuyết trình, rồi tự học nữa
Đ: Đúng thế. Tôi nói là chúng tôi cũng thích nhưng vì đây là năm thứ 3, chúng tôi đều rất bận rộn, thế nên để dành nhiều thời gian như vậy đôi khi làm chúng tôi thấy mệt mỏi và áp lực.
H: Vâng tôi hiểu. Thế thầy cô giáo của bạn dạy có nhiệt tình không, có gợi mở cho các bạn nhiều không
Đ: Cũng tuỳ thầy cô thôi bạn ạ. Thường thì phần đại cương thầy cô giảng chán lắm. Nhưng khi vào các môn chuyên ngành thì thầy cô nhiệt tình hơn. Ví dụ như thầy Thanh dạy rất hay và rất nhiệt tình. Thầy thường gợi mở cho chúng tôi rất nhiều điều.
H: Giáo viên lớp bạn có tổ chức thảo luận nhóm không
Đ: Có chứ, nhất là các môn chuyên ngành. Ví dụ thì như thầy Thanh tôi đã nói ở trên, rồi cô Tâm dạy XHH gia đình nữa …
H: Thế bạn thấy lớp bạn có tham gia tích cực vào những giờ có áp dụng phương pháp mới không
Đ: Cũng tuỳ giờ thôi. Thường là có một số bạn gần như được “phân công” là làm các “hoạt náo viên” trong lớp. Các bạn ấy sẽ xung phong trả lời câu hỏi và thảo luận. Còn lại thì tuỳ các sinh viên, ai thích giờ nào, thầy cô nào sẽ tham gia tích cực giờ ấy. Ví dụ như tôi rất thích giờ của thầy Thanh nên tôi tham gia rất nhiệt tình, vừa chuẩn bị bài rồi thảo luận và thuyết trình nữa.
H: Bạn có tham gia không, hình thức như thế nào và bạn có thể nói rõ lý do của nó
Đ: Đương nhiên, vì tất cả lớp cùng tham gia mà. Chúng tôi tự nhân nhóm, thường là ngồi gần nhau, chọn chủ đề rồi cùng thảo luận để sau khoảng 15 phút thì cử người đại diện (nhóm trưởng) lên thuyết trình. Có thể 2 người cùng thuyết trình, cũng có thể người thuyết trình và người trả lời câu hỏi do các bạn đặt ra là hai người khác nhau, miễn là cùng nhóm.
H: Vậy thì qua những tiết học áp dụng phương pháp giảng dạy mới mà bạn đa tham gia, bạn thấy mình đã được giáoviên giúp đỡ tích luỹ nhưng kỹ năng gì và như thế nào
Đ: Nhiều lắm. Ví dụ như tính chủ động tích cực, tự học, kỹ năng thuyết trình, thảo luận nhóm, rồi cả kỹ năng sử dụng các dụng cụ và phương tiện giảng dạy tiên tiến. Vì khi tổ chức thảo luận các thầy cô sẽ chia các sinh viên thành từng nhóm và hướng dẫn từ chọn đề tài cho đến cách tiếp cận rồi trình bày.
H: Bạn nhận xét thế nào về khả năng tổ chức thảo luận của thầy cô giáo
Đ: Cũng tuỳ từng môn học và từng thầy cô, không đánh đồng được. Nhưng thường thì cách đưa ra vấn đề để thảo luận không được lôi cuốn sinh viên lắm, nên thật ra chuyện này cũng khó. Nhiều khi một nhóm chỉ có vài người làm số còn lại ngồi chơi.
H: Vậy à, bạn thấy thái độ của các bạn sinh viên tham gia thảo luận thế nào, có hào hứng không hay là cũng không nhiệt tình lắm.
Đ: Nói chúng là không thích lắm, mà cũng tuỳ chủ đề nữa. Nếu chủ đề hay thì họ tham gia cũng tích cực và hào hứng hơn. Mặt khác nếu người nhóm trưởng có kỹ năng tốt cũng lôi kéo được các thành viên của nhóm tham gia nhiệt tình hơn.
H: Tôi muốn hỏi là bạn biết được thông tin về đổi mới phương pháp giảng dạy ĐH từ đâu?
Đ: Cũng chẳng nhớ rõ nữa. Không biết là tôi nghe được ở đâu nữa. Mà thật ra tôi cũng chẳng biết đổi mới phương pháp nó như thế nào. Thì cũng biết mang máng là tránh việc đọc chép thôi. Thỉnh thoảng thấy thầy cô nào dạy hay và khác với hình thức đọc chép thì biết là mới thôi.
H: Thế còn nội dung đổi mới phương pháp giảng dạy ở trường ta
Đ: Trường mình cũng có chủ trương đổi mới phương pháp à. Tôi không biết. Tôi lại cứ nghĩ là do các giáo viên tự thay đổi để lôi cuốn sinh viên và tăng hiệu quả hơn thôi.
H: Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học ở bậc đại học, vậy theo bạn yếu tố phương pháp giảng dạy của giáo viên liệu có phải là một yếu tố quyết định trực tiếp không
Đ: Theo tôi thì giáo viên cũng chỉ là một phần, còn do sinh viên mới là chủ yếu. Nếu sinh viên không tự muốn vận động thì chỉ một mình giáo viên thôi cũng chẳng làm được gì.
H: Vâng, thế bạn có khuyến nghị gì với giáo viên nhà trường không
Đ: Không, tôi không có khuyến nghị gì cả.
H: Sao vậy, thường thì tôi thấy khi được quyền khuyến nghị người ta hay đưa ra nhiều ý kiến lắm.
Đ: Đơn giản vì kinh nghiệm đã cho tôi thấy khuyến nghị cũng chỉ để đấy mà thôi, chẳng được lợi ích gì mà cũng chẳng có thay đổi gì đâu.
H: Xin cám ơn bạn rất nhiều.
Ngày 20 tháng 3 năm 2005
Địa điểm trường ĐHKHXH &NV
Người được hỏi: Nữ giới 20 tuổi là sinh viên của trường ĐHKHXH &NV K48
Trước hết, rất cảm ơn bạn đã đồng ý cộng tác để giúp đỡ chúng tôi hoàn thành tốt được nghiên cứu này. Chúng tôi muốn trò chuyện với bạn trong khoảng 15 phút để thu thập thông tin về những vấn đề xung quanh việc đổi mới phương pháp đào tạo ở bậc đại học nói chung và ở trường ta nói riêng. Những ý kiến và nhận xét của bạn sẽ rất có ích cho công việc của chúng tôi. Bây giờ tôi xin phép được bắt đầu:
H: Phương pháp nào đang được sử dụng phổ biến nhất để giảng dạy trên lớp bạn hiện nay. Nếu bạn không thể nhớ được ngay những phương pháp nào, tôi xin được gợi ý cho bạn.
Đ: Không cần đâu, tôi chắc chắn rằng phương pháp phổ biến nhất trong lớp tôi hiện nay là phương pháp thuyết trình truyền thống: giáo viên đọc, sinh viên chép. Nhưng (thảo luận nhóm, thuyết trình) ví dụ như môn XHH nông thôn chẳng hạn.
H: Vậy thì bạn có thích phương pháp này không và xin cho biết tại sao
Đ:Có, vì nó rất hiệu quả và dễ học để đi thi, nhưng mà tôi thích phương pháp kết hợp thuyết trình và thảo luận hơn.Vì thật ra chỉ thuyết trình thôi cũng chưa đủ được, mà thi cử điểm trác cũng chỉ là một phần. Điều quan trọng là sinh viên thụ động và học gạo thì khó thuộc và hiểu bài.
H: Bạn có nói là kỳ này có một số bộ môn thầy cô giáo có sử dụng phương pháp khác vậy giáo viên lớp bạn có hay tổ chức thảo luận nhóm không
Đ: Cũng có nhưng mà cũng phụ thuộc vào từng môn và từng giáo viên. Có những môn đòi hỏi phải thảo luận nhiều như môn phương pháp chẳng hạn, thì giáo viên cũng tổ chức thảo luận nhiều hơn.
H: Thế thầy cô giáo của bạn dạy có nhiệt tình không, có gợi mở cho các bạn nhiều không
Đ: Cũng tương đối. Một số môn như phương pháp, XHH nông thôn rất hay, thầy rất nhiệt tình nên gợi mở được cho sinh viên rất nhiều vấn đề. Mặc dù việc học như thế có thể điểm thi sẽ khó cao, nhưng mà cũng phải cố gắng dần dần thôi.
H: Bạn thấy lớp bạn có tham gia tích cực vào những giờ có áp dụng phương pháp mới không
Đ: Mới đầu thì cũng không thích lắm đâu nhưng sau cũng thấy thích vì tính hiệu quả của nó. Bạn thừa biết sinh viên vẫn quen với tác phong cũ rất lười suy nghĩ, tư duy, ngại phát biểu, có những cái biết rồi thì không muốn nói. Cái chưa biết thì ngại thể hiện. Mặt khác nhiều sinh viên cũng không thích bị làm việc trong tình trạng gò bó về mặt thời gian. Như môn nông thôn lúc đầu sinh viên làm việc có vẻ gượng ép, nhưng sau quen dần thấy đây là một cách học rất hay thì lại hưởng ứng.
H: Vậy à, thế bạn có hào hứng tham gia vào các buổi học như thế không (khi áp dụng phương pháp mới) và xin bạn có thể nói rõ lý do của nó
Đ: Có, tất nhiên là thế rồi vì tôi rất thích cách truyền đạt kiến thức như vậy. Bằng phương pháp này những kiến thức trừu tượng trở nên rất dễ hiểu và mình có còn có thể hiểu sâu sắc về một vấn đề, do đó dễ thuộc bài và nhớ lâu. Hơn nữa phương pháp này còn giúp mình trang bị kỹ năng cần thiết.
H: Bạn có nói là phương pháp tích cực đã giúp bạn tự trang bị cho bạn một số kỹ năng, bạn có thể nói rõ hơn được không
Đ: À tất nhiên, các kỹ năng đó như là: tính chủ động tích cực, tự học, kỹ năng thuyết trình, thảo luận nhóm…
H: Vậy à, mà bạn thấy thái độ của các bạn sinh viên tham gia thảo luận thế nào, có hào hứng, nhiệt tình lắm không.
Đ: Nhiều bạn thích lắm, và ngày càng tham gia tích cực hơn vì quen dần với phương pháp này rồi mà.
H: Nói như vậy là theo bạn nghĩ hoàn toàn có thể áp dụng phương pháp này rộng rãi và thường xuyên phải không
Đ: Tuỳ từng môn học và từng thầy cô thôi, nhưng mình nghĩ là tổ chức thảo luận là một phương pháp hay mà cần áp dụng rộng rãi.Thật ra phương pháp này cũng không đòi hỏi gì quá cao ở sinh viên và cũng phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn ở nước ta.
H: Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học ở bậc đại học, vậy theo bạn yếu tố phương pháp giảng dạy của giáo viên liệu có phải là một yếu tố quyết định trực tiếp không
Đ: Thật ra phương pháp của giáo viên là rất quan trọng. Cứ nói là nếu giáo viên thay đổi phương pháp mà sinh viên không đồng tình thì khó, nhưng thật ra sinh viên nào cũng muốn thay đổi phương pháp truyền thống. Chỉ có điều sinh viên còn nghi ngờ liệu phương pháp đấy có phù hợp không. Nếu giáo viên mà có cách gợi mở hay, cách nêu vấn đề lôi cuốn chắc chắn sẽ thu hút được đông sinh viên tham gia. Nhiều sinh viên không tham gia phương pháp mới vì lười và ngại nhưng cũng vì cả việc không đồng tình với cách đặt vấn đề thảo luận của giáo viên nữa mà.
H: Vâng. Bạn có thể cho biết là bạn biết được thông tin về đổi mới phương pháp giảng dạy ĐH từ nguồn thông tin nào, qua thầy cô bạn bè, hay qua sách báo và các phương tiện truyền thông.
Đ: Qua giáo viên và sinh viên thôi. Mình là sinhviên ngoại tỉnh, phải ở trọ, ít có điều kiện tiếp xúc với các phương tiện truyền thông và báo chí lắm
H: Thế còn về nội dung đổi mới phương pháp giảng dạy ở trường ta
Đ: Thông qua bài giảng các thầy cô cũng có giới thiệu và nói qua về phương pháp mới của mình, so sánh phương pháp này với phương pháp truyền thống.
H: Nếu bây giờ bạn được gửi một vài khuyến nghị với giáo viên nhà trường bạn sẽ đưa ra những khuyến nghị gì.
Đ: Tôi muốn giảm bớt lượng thời gian giáo viên thuyết trình xuống, tăng thời lượng thảo luận. Mặt khác áp dụng phương pháp kết hợp thuyết trình và thảo luận. Dù bước đầu có nhiều trở ngại nhưng mình tin là dần dần sẽ thu được những hiệu quả tốt hơn.
Mục lục
Phần I : Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài..........................................................................................2-6
2. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn.......................................................................6-7
2.1 Ý nghĩa lý luận
2.2 Ý nghĩa thực tiễn
3. Mục tiêu nghiên cứu.................................................................................................7
4. Đối tượng, khách thể nghiên cứu, phạm vi khảo sát.............................................8
4.1. Đối tượng nghiên cứu
4.2. Khách thể nghiên cứu
4.3. Phạm vi khảo sát
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................8-10
6. Giả thuyết nghiên cứu&khung lư thuyết................................................................11
6.1. Giả thuyết nghiên cứu
6.2. Khung lý thuyết
Phần II : Nội dung chính
Chương 1 : Cơ sở lư luận và thực tiễn của đề tài
1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu...............................................................................12-18
1.1 Cơ sở lý luận và phương pháp luận của đề tài
1.2 Một vài nét về địa bàn nghiên cứu
1.3 Một số công tŕnh nghiên cứu khác
2. Những khái niệm công cụ......................................................................................19-26
Chương 2 : Phản ứng của SV đối với việc áp dụng PP giảng dạy tích cực trong nhà trường hiện nay
1. Thực trạng việc áp dụng PP giảng dạy tích cực bậc ĐH....................................27-52
1.1 Vài nét về nhiệm vụ của GD ĐH
1.2 Yêu cầu đối với PP giảng dạy ĐH trong thời đại ngày nay
1.3 Thực trạng áp dụng PP giảng dạy tích cực
1.3.1 Tại Việt Nam
1.3.2 Tại trường ĐHKHXH&NV
1.3.2.1 T́nh h́nh áp dụng PP giảng dạy tích cực
1.3.2.2 Hiệu quả
1.3.2.3 Kết luận
2. Nhận thức của SV về việc áp dụng PP giảng dạy tích cực.................................52-66
2.1 Nhận thức của SV về nhiệm vụ đào tạo của GD ĐH
2.2 Nhận thức của SV về các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng GD ĐH
2.3 Nhận thức của SV về các PP giảng dạy đang được sử dụng
2.4 Nhận thức của SV về chương tŕnh đổi mới PP giảng dạy của nhà trường
3. Thái độ của SV đối với việc áp dụng PP giảng dạy tích cực...............................67-77
4. Hành động phản hồi của SV đối với việc áp dụng PP giảng dạy tích cực.........77-96
4.1 Một vài nét về hoạt động giảng dạy tích cực
4.2 Hoạt động áp dụng PP giảng dạy tích cực trong nhà trường và sự tham gia của SV
4.3 Kết luận
5. Giải pháp.............................................................................................................97-101
Phần III : Kết luận và khuyến nghị...........................................................................101-103
1. Kết luận
2. Khuyến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo...................................................................................104
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- XHH04-.doc