Đề tài Pháp luật về chiết khấu giấy tờ có giá

LỜI MỞ ĐẦU Thị trường tài chính là nơi diễn ra các giao dịch mua bán các loại tài sản tài chính, là một bộ phận quan trọng bậc nhất trong hệ thống tài chính, chi phối toàn bộ hoạt động của nền kinh tế hàng hóa. Thị trường tài chính phát triển góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Trong một nền kinh tế luôn tồn tại hai trạng thái trái ngược nhau giữa một bên là nhu cầu về vốn và một bên là khả năng về vốn. Thị trường tài chính là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường, xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc giải quyết mẫu thuẫn giữa hai trạng thái trái ngược này. Mâu thuẫn này ban đầu được giải quyết thông qua hoạt động của ngân hàng với vai trò trung gian trong quan hệ vay mượn giữa người có vốn và người cần vốn. Và cũng chính sự phát triển của hệ thống trung gian tài chính, bao gồm ngân hàng và các TCTD phi ngân hàng, cùng với các nghiệp vụ của nó, sẽ là điều kiện quan trọng để phát triển thị trường tài chính. Trong số các hoạt động của các trung gian tài chính, hoạt động liên quan đến quan hệ tín dụng là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất, bao gồm các hình thức như cho vay, cho thuê tài chính, bão lãnh, bao thanh toán, , và chiết khấu GTCG. Với việc chiết khấu GTCG cho TCTD, khách hàng được đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn ngay mặc dù GTCG chưa đến hạn thanh toán. Bên cạnh đó, hoạt động chiết khấu GTCG cũng là một hoạt động của NHNN với vai trò là một trong những công cụ giúp NHNN thực hiện chính sách tiền tệ. Nhận thấy tầm quan trọng đó của hoạt động chiết khấu GTCG, nhóm chúng tôi lựa chọn nội dung “ PHÁP LUẬT VỀ CHIẾT KHẤU GIẤY TỜ CÓ GIÁ” làm đề tài nghiên cứu trong môn Luật Ngân Hàng. Mục đích nghiên cứu: từ các quy định của pháp luật hiện hành để phân tích về các vấn đề liên quan đến hoạt động chiết khấu GTCG, đồng thời so sánh với thực tiễn nhằm đánh giá mức độ phù hợp và hiệu quả của pháp luật và đưa ra những dự báo về hoạt động này trong tương lai. Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài, nhóm đã sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh và dự báo. Bố cục của đề tài gồm có ba chương: Chương I: Cơ sở lý luận chung về chiết khấu GTCG Chương II: Pháp luật điều chỉnh về chiết khấu GTCG Chương III: Kết luận MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I 3 CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHIẾT KHẤU GIẤY TỜ CÓ GIÁ I. LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA HOẠT ĐỘNG CHIẾT KHẤU GIẤY TỜ CÓ GIÁ 3 II. GIẤY TỜ CÓ GIÁ 4 1. Công cụ chuyển nhượng 4 2. Các giấy tờ có giá khác 5 III. CHIẾT KHẤU GIẤY TỜ CÓ GIÁ 6 1. Khái niệm chiết khấu giấy tờ có giá 6 1.1. Chiết khấu của NHNN đối với các TCTD 6 1.2. Chiết khấu của TCTD đối với khách hàng là tổ chức, cá nhân .7 2. Quy trình chiết khấu giấy tờ có giá 8 2.1. Chiết khấu của NHNN đối với các TCTD 8 2.2. Chiết khấu của TCTD đối với khách hàng là tổ chức, cá nhân 9 3. Tái chiết khấu 10 CHƯƠNG II 12 PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ CHIẾT KHẤU GIẤY TỜ CÓ GIÁ I. CHIẾT KHẤU GIẤY TỜ CÓ GIÁ CỦA NHNN ĐỐI VỚI CÁC TCTD 12 1. Cơ sở pháp lý 12 2. Chủ thể 12 2.1.Bên nhận chiết khấu: NHNN 12 2.2.Bên được chiết khấu: các ngân hàng thương mại 12 3. Đối tượng chiết khấu 13 4. Hình thức chiết khấu 14 4.1.Chiết khấu toàn bộ thời hạn 14 4.2.Chiết khấu có kỳ hạn 14 5. Hạn mức chiết khấu 15 6. Xử lý vi phạm 16 II. CHIẾT KHẤU GIẤY TỜ CÓ GIÁ CỦA TCTD ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG LÀ TỔ CHỨC, CÁ NHÂN 17 1. Cơ sở pháp lý 17 2. Chủ thể 17 2.1. Bên được chiết khấu 17 2.2. Bên nhận chiết khấu 18 2.3. Quyết định 03/2008/QĐ-NHNN 19 3. Nội dung giao dịch 20 3.1. Hình thức giao dịch 20 3.2. Điều kiện giao dịch 21 3.3. Phương thức chiết khấu 21 3.4. Quyền và nghĩa vụ bên nhận chiết khấu 22 3.5. Quyền và nghĩa vụ bên được chiết khấu 22 4. Xử lý vi phạm 23 CHƯƠNG III 25 KẾT LUẬN I. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CHIẾT KHẤU GTCG 25 1. Chiết khấu của NHNN đối với các TCTD 25 2. Chiết khấu của TCTD đối với khách hàng là tổ chức, cá nhân 25 II. HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA HOẠT ĐỘNG CHIẾT KHẤU GTCG TRONG THỜI GIAN TỚI 28 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 31

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3431 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật về chiết khấu giấy tờ có giá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Thị trường tài chính là nơi diễn ra các giao dịch mua bán các loại tài sản tài chính, là một bộ phận quan trọng bậc nhất trong hệ thống tài chính, chi phối toàn bộ hoạt động của nền kinh tế hàng hóa. Thị trường tài chính phát triển góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Trong một nền kinh tế luôn tồn tại hai trạng thái trái ngược nhau giữa một bên là nhu cầu về vốn và một bên là khả năng về vốn. Thị trường tài chính là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường, xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc giải quyết mẫu thuẫn giữa hai trạng thái trái ngược này. Mâu thuẫn này ban đầu được giải quyết thông qua hoạt động của ngân hàng với vai trò trung gian trong quan hệ vay mượn giữa người có vốn và người cần vốn. Và cũng chính sự phát triển của hệ thống trung gian tài chính, bao gồm ngân hàng và các TCTD phi ngân hàng, cùng với các nghiệp vụ của nó, sẽ là điều kiện quan trọng để phát triển thị trường tài chính. Trong số các hoạt động của các trung gian tài chính, hoạt động liên quan đến quan hệ tín dụng là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất, bao gồm các hình thức như cho vay, cho thuê tài chính, bão lãnh, bao thanh toán, …, và chiết khấu GTCG. Với việc chiết khấu GTCG cho TCTD, khách hàng được đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn ngay mặc dù GTCG chưa đến hạn thanh toán. Bên cạnh đó, hoạt động chiết khấu GTCG cũng là một hoạt động của NHNN với vai trò là một trong những công cụ giúp NHNN thực hiện chính sách tiền tệ. Nhận thấy tầm quan trọng đó của hoạt động chiết khấu GTCG, nhóm chúng tôi lựa chọn nội dung “ PHÁP LUẬT VỀ CHIẾT KHẤU GIẤY TỜ CÓ GIÁ” làm đề tài nghiên cứu trong môn Luật Ngân Hàng. Mục đích nghiên cứu: từ các quy định của pháp luật hiện hành để phân tích về các vấn đề liên quan đến hoạt động chiết khấu GTCG, đồng thời so sánh với thực tiễn nhằm đánh giá mức độ phù hợp và hiệu quả của pháp luật và đưa ra những dự báo về hoạt động này trong tương lai.  Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài, nhóm đã sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh và dự báo. Bố cục của đề tài gồm có ba chương: Chương I: Cơ sở lý luận chung về chiết khấu GTCG Chương II: Pháp luật điều chỉnh về chiết khấu GTCG Chương III: Kết luận CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHIẾT KHẤU GTCG LỊCH SỬ RA ĐỜI HOẠT ĐỘNG CHIẾT KHẤU GIẤY TỜ CÓ GIÁ Ngân hàng ra đời đầu tiên vào khoảng 3500 năm trước công nguyên dưới dạng tiệm cầm đồ. Giai đoạn đó vì tình hình xã hội không ổn định, trộm cắp xảy ra khắp nơi, nên các thương nhân và gia đình giàu có lo lắng. Để giữ gìn của cải họ gửi vào các nhà thờ, nhà giàu có hoặc lãnh chúa. Hoạt động ngân hàng lúc này còn đơn giản, họ gửi của cải rồi chờ đến kì hạn thì rút tiền ra và trả công cất giữ. Đến khoảng 2000 năm trước công nguyên thì hoạt động ngân hàng có bước tiến khi các “ngân hàng sơ khai” này nhận ra nhu cầu cần vốn kinh doanh của những thương nhân trong xã hội rất cao, trong khi họ lại đang giữ một lượng lớn của cải nhàn rỗi. Lúc này hoạt động cho vay lấy lời ra đời, và cứ thế các nghiệp vụ khác cũng dần hình thành. Với sự xuất hiện và và phát triển ngày càng đa dạng các công cụ tài chính, các phương tiện và cách thức chuyển giao các công cụ này cũng ngày càng phong phú. Chiết khấu GTCG tuy là hình thức ra đời sau một số nghiệp khác nhưng với một số ưu điểm như không cần tài sản đảm bảo, quy trình đơn giản và nhanh chóng, đây là một cách hiệu quả để các TCTD có thể tài trợ vốn cho giới thương nhân trong các thương vụ mua bán bằng việc chiết khấu thương phiếu – đối tượng mà khởi thủy, hoạt động chiết khấu của các ngân hàng hướng tới. Đối với NHNN, vai trò thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia đòi hỏi phải có những công cụ nhất định. Hoạt động của các trung gian tài chính, đặc biệt là ngân hàng thương mại, chủ yếu nhận tiền gửi của công chúng và cho vay. Phần lớn số tiền cho vay của ngân hàng này lấy từ nguồn tiền gửi huy động của của dân chúng. Tuy nhiên không phải lúc nào hoạt động của ngân hàng thương mại cũng đều diễn ra một cách trôi chảy thuận lợi. cũng có lúc, nhu cầu rút tiền lớn, ngân hàng thương mại lâm vào tình trạng thiếu vốn. trong tình huống này ngân hàng thương mại có thể giải quyết bằng cách vay NHTW. Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại chủ yếu dưới hai hình thức: cho vay có bảo đảm bằng các giấy tờ có giá, hồ sơ tín dụng và chiết khấu hay tái chiết khấu các giấy tờ có giá. Chiết khấu GTCG là một trong những hình thức của tái cấp vốn, nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho TCTD. GIẤY TỜ CÓ GIÁ GTCG nói chung, được hiểu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, trong đó xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định (tổ chức, cá nhân) xét trong mối quan hệ pháp lý với các chủ thể khác. GTCG có ba thuộc tính: (1) Xác nhận quyền tài sản của một chủ thể xác định; (2) Trị giá được bằng tiền; và (3) Có thể chuyển giao quyền sở hữu cho chủ thể khác trong giao lưu dân sự. Sở dĩ giấy tờ có giá có thể xác nhận quyền tài sản bởi vì nó là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ của một chủ thể đối với người thụ hưởng (chủ thể có quyền sở hữu đối với khoản nợ) trong một thời hạn nhất định theo các điều kiện nhất định (hoặc vô điều kiện). GTCG sử dụng trong nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu bao gồm các công cụ chuyển nhượng và các GTCG khác theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước về chiết khấu, tái chiết khấu GTCG. Công cụ chuyển nhượng Công cụ chuyển nhượng là GTCG ghi nhận lệnh thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định vào một thời điểm nhất định. Khoản 1- Điều 4 Luật các Công cụ chuyển nhượng 2005 Cụm từ “công cụ chuyển nhượng” mới được chính thức đưa vào luật Các công cụ chuyển nhượng 2005, còn trước đó, trong pháp luật Việt Nam có Pháp lệnh Thương phiếu được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua năm 1999 nhưng trên thực tế là Pháp lệnh này vẫn chưa đi vào cuộc sống do cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Thương phiếu là loại GTCG hình thành và phát triển trong hoạt động thương mại giữa các doanh nghiệp, được sử dụng trong khâu thanh toán, giúp doanh nghiệp đòi nợ hoặc nhận nợ, thanh toán cho nhau. Trong quá trình đó, xuất hiện hình thức tín dụng thương mại – tức là việc các doanh nghiệp mua bán chịu với nhau. Các công cụ này cũng chính là các công cụ để giúp tín dụng thương mại thực hiện và phát triển được bên cạnh tín dụng ngân hàng. Vì chúng có thể chuyển nhượng được nên người ta gọi chung là công cụ chuyển nhượng. Các công cụ chuyển nhượng được sử dụng trong nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của TCTD đối với các khách hàng là tổ chức, cá nhân; bao gồm hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và séc. Hối phiếu đòi nợ là giấy GTCG tờ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng Khoản 2- Điều 4 Luật các Công cụ chuyển nhượng 2005 Hối phiếu nhận nợ là GTCG do người phát hành lập, cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng Khoản 3- Điều 4 Luật các Công cụ chuyển nhượng 2005 Séc là GTCG do người ký phát lập, ra lệnh cho người bị ký phát là ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để thanh toán cho người thụ hưởng Khoản 4- Điều 4 Luật các Công cụ chuyển nhượng 2005 . Các GTCG khác Ngoài các công cụ chuyển nhượng, các GTCG khác bao gồm các loại như: trái phiếu, công trái, tín phiếu, các GTCG do các tổ chức được phép phát hành theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước. Trong hoạt động chiết khấu GTCG, Ngân hàng Nhà nước đã có hướng dẫn cụ thể các GTCG được sử dụng đối với mỗi loại nghiệp vụ chiết khấu và đối với từng thời kỳ. Một số loại GTCG thường gặp như: Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành Khoản 3- Điều 6 Luật Chứng khoán 2006 . Có các loại trái phiếu như: trái phiếu Chính phủ (bao gồm: trái phiếu Kho bạc, tín phiếu kho bạc, trái phiếu công trình trung ương, trái phiếu đầu tư, trái phiếu ngoại tê, công trái xây dựng tổ quốc), trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh Điều 4 Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 về việc phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương … Tín phiếu là một loại công cụ vay nợ ngắn hạn. Tín phiếu kho bạc là công cụ vay nợ ngắn hạn của của Chính phủ (không quá 12 tháng) do Kho bạc phát hành để tạm thời bù đắp những thiếu hụt của Ngân sách Nhà nước trong năm ngân sách. Chứng chỉ tiền gửi là một công cụ nợ do các ngân hàng, công ty tài chính, cho thuê tài chính phát hành, cam kết trả lãi định kỳ cho khoản tiền gửi và sẽ hoàn trả vốn gốc (mệnh giá của chứng chỉ) cho người gửi tiền khi đến ngày đáo hạn. Ngoài ra còn có các loại khác như: kỳ phiếu, sổ tiết kiệm…Các loại GTCG càng ngày càng phát triển, giúp đa dạng các công cụ huy động vốn, thanh toán trên thị trường. CHIẾT KHẤU GIẤY TỜ CÓ GIÁ Trong lĩnh vực ngân hàng, hoạt động chiết khấu GTCG thường được biết đến với hai loại hình nghiệp vụ có mục đích khác nhau, do hai loại chủ thể khác nhau tiến hành, đó là: i) nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu GTCG do Ngân hàng trung ương thực hiện đối với khách hàng là TCTD nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia; ii) nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu GTCG do TCTD thực hiện đối với khách hàng là tổ chức, cá nhân nhằm mục tiêu kinh doanh thu lợi nhuận. Định nghĩa chung cho hai loại nghiệp vụ này, có thể hiểu chiết khấu GTCG là việc mua các giấy tờ có giá trước thời hạn thanh toán. Tuy nhiên như trên đã nói, chủ thể và mục đích của hai nghiệp vụ này là khác nhau nên pháp luật cũng có cách điều chỉnh riêng đối với mỗi loại. Khái niệm Chiết khấu của NHNN đối với các TCTD Hoạt động chiết khấu GTCG của NHNN đối với các TCTD là nghiệp vụ NHNN mua ngắn hạn các GTCG còn thời hạn thanh toán, mà các GTCG này đã được các TCTD giao dịch trên thị trường sơ cấp hoặc thị trường thứ cấp Điều 2 – Quyết định 898/2003/QĐ-NHNN ngày 12/8/2003 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước NHNN có thể quyết định sử dụng một số công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia trong đó có công cụ tái cấp vốn, nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho TCTD. Việc NHNN chiết khấu GTCG cho TCTD là một trong những hình thức của tái cấp vốn Điều 11- Luật NHNN 2010 Hoạt động chiết khấu GTCG của NHNN được thực hiện tại Sở Giao dịch NHNN. Trường hợp cần thiết, Sở Giao dịch NHNN có thể trình Thống đốc NHNN uỷ quyền cho chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi là các chi nhánh NHNN được ủy quyền) thực hiện nghiệp vụ chiết khấu đối với các TCTD có trụ sở chính trên địa bàn Điều 9 - Quyết định 898/2003/QĐ-NHNN ngày 12/8/2003 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Chiết khấu của TCTD đối với khách hàng là tổ chức, cá nhân Hoạt động chiết khấu GTCG của TCTD đối với khách hàng là nghiệp vụ mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi các công cụ chuyển nhượng, GTCG khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán Khoản 14 – Điều 9 Luật các TCTD 2010 Ban đầu, đối tượng chiết khấu mà các TCTD, lúc này chủ yếu là các ngân hàng, nhắm vào là các thương phiếu do các thương nhân sở hữu, qua đó ngân hàng cũng có thể tài trợ vốn cho thương nhân trong các vụ mua bán, nhất là mua bán quốc tế. Ngày nay, các ngân hàng chiết khấu hầu hết các loại GTCG còn thời hạn thanh toán ngắn (dưới 1 năm) do các tổ chức, cá nhân hoặc Chính phủ phát hành và đang được phép lưu thông trên thị trường. Vì vậy, hoạt động này đã trở thành một công cụ tín dụng hỗ trợ đắc lực cho các nhà kinh doanh trong quá trình hoạt động nghề nghiệp của mình. Về bản chất kinh tế, chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng, bởi vì khi thực hiện chiết khấu GTCG thì TCTD đã trả ngay một số tiền cho người được chiết khấu trong khi bản thân TCTD phải đợi đến ngày GTCG đó đáo hạn thì mới có thể thu hồi lại vốn thông qua quyền đòi nợ người có nghĩa vụ thanh toán theo GTCG. Lợi nhuận mà ngân hàng thu được chính là khoản chênh lệch giữa số tiền dưới mệnh giá trả cho người chiết khấu và khoản tiền được thanh toán khi GTCG đến hạn, cộng với một khoản chi phí cho việc chiết khấu. Về bản chất pháp lý, quan hệ giữa TCTD với khách hàng trong hoạt động này là quan hệ mua bán giấy tờ có giá thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng. Dù hợp đồng này là hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá nhưng nó mang đầy đủ các yếu tố của một hợp đồng mua bán, theo đó bên bán (khách hàng) thỏa thuận chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá sang cho người mua (TCTD). Quy trình chiết khấu giấy tờ có giá Chiết khấu của NHNN đối với các TCTD Quyết định 898/2003/QĐ-NHNN ngày 12/8/2003 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Bước 1: Khi có nhu cầu chiết khấu GTCG, các ngân hàng căn cứ hạn mức chiết khấu được thông báo và số dư chiết khấu còn lại đến thời điểm xin chiết khấu lập và gửi Giấy đề nghị chiết khấu theo mẫu về Sở Giao dịch NHNN hoặc các chi nhánh NHNN được uỷ quyền. Bước 2: Chậm nhất sau 1 ngày làm việc, kể từ khi nhận được Giấy đề nghị chiết khấu của các ngân hàng, Sở giao dịch NHNN hoặc các chi nhánh NHNN được uỷ quyền lập và gửi Thông báo chấp nhận chiết khấu hoặc không chấp nhận chiết khấu theo mẫu. Bước 3: Sau khi nhận được Thông báo chấp nhận chiết khấu của Sở Giao dịch NHNN hoặc chi nhánh NHNN được uỷ quyền thì: Các ngân hàng thực hiện xác thực Thông báo chấp nhận chiết khấu; Trong trường hợp chiết khấu GTCG có kỳ hạn, chậm nhất 15h00 cùng ngày các ngân hàng phải tạo lập (lập, kiểm soát, duyệt) và gửi Giấy cam kết mua lại GTCG theo mẫu về Sở Giao dịch NHNN hoặc chi nhánh NHNN được ủy quyền. Các ngân hàng thực hiện xác thực Giấy cam kết mua lại GTCG (xác thực mã chữ ký điện tử của NHNN) Bước 4: Sở giao dịch NHNN hoặc chi nhánh NHNN được ủy quyền thực hiện xác thực, kiểm soát và duyệt Giấy cam kết mua lại GTCG đối với chiết khấu có kỳ hạn (mã chữ ký điện tử của NHNN và xác thực mã chữ ký của ngân hàng được chiết khấu). Trường hợp NHNN đã gửi thông báo chấp nhận chiết khấu nhưng đến 15h00 cùng ngày, ngân hàng được chấp nhận chiết khấu không thực hiện việc gửi Giấy cam kết mua lại GTCG (đối với chiết khấu có kỳ hạn) thì Thông báo chấp nhận chiết khấu đó không có giá trị. Căn cứ Thông báo chấp nhận chiết khấu, Giấy cam kết mua lại GTCG của các ngân hàng, NHNN thực hiện chuyển tiền cho các ngân hàng được chấp nhận chiết khấu và hạch toán GTCG theo quy định. Chiết khấu của các TCTD đối với khách hàng là tổ chức, cá nhân Quy trình chiết khấu áp dụng đối với loại GTCG là công cụ chuyển nhượng và các GTCG khác là tương tự như nhau Điều 11 - Quyết định 63/ Quyết định số 63/2006/QĐ-NHNN ngày 29/12/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và Điều 11 - Quyết định 1325/2004/QĐ-NHNN ngày 15/10/2004 của Thống đốc NHNN . NHNN đưa ra những quy chế chung về thủ tục chiết khấu, các TCTD sẽ căn cứ vào quy chế này và các quy định khác của pháp luật có liên quan để ban hành quy trình thực hiện nghiệp vụ chiết khấu phù hợp với điều kiện, đặc điểm và điều lệ của tổ chức mình Điều 15 - Quyết định 63/ Quyết định số 63/2006/QĐ-NHNN ngày 29/12/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và Điều 14- Quyết định 1325/2004/QĐ-NHNN ngày 15/10/2004 của Thống đốc NHNN . Vì hoạt động chiết khấu GTCG của TCTD vừa là một quan hệ hợp đồng mua bán GTCG, vừa là một nghiệp vụ tín dụng nên thủ tục chiết khấu GTCG ở TCTD có tính đặc thù, thể hiện cả hai bản chất này. Có thể sơ lược về quy trình chiết khấu gồm các bước như sau: Bước 1: Lập hồ sơ Khách hàng có nhu cầu chiết khấu lập hồ sơ đề nghị chiết khấu và gửi cho TCTD. Hồ sơ này có thường bao gồm các tài liệu như: giấy đề nghị chiết khấu, bản kê các giấy tờ để nghị chiết khấu kèm theo bản gốc các giấy tờ đó, hồ sơ pháp lý chứng minh năng lực chủ thể của khách hàng, và hồ sơ kinh tế của khách hàng nếu là chiết khấu công cụ chuyển nhượng. Khách hàng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp, hợp lê của GTCG chiết khấu tại TCTD. Bước 2: Thẩm định TCTD nơi nhận hồ sơ chiết khấu tiến hành thẩm định các điều kiện chiết khấu đối với mỗi GTCG do khách hàng đề nghị chiết khấu. Việc thẩm định này bao gồm thẩm tra tính hợp lệ và chính xác của các GTCG, đảm bảo điều kiện về hình thức và nội dung theo quy chế chiết khấu; đồng thời là thẩm tra các bên tham gia trong quan hệ GTCG được đề nghị chiết khấu, bao gồm tính pháp lý và khả năng tài chính. Trong trương hợp cần thiết có thể yêu cầu khách hàng chứng minh các điều kiện trên. Bước 3: Lập thủ tục chấp thuận chiết khấu Nếu TCTD chấp thuận việc chiết khấu thì khách hàng làm thủ tục chuyển giao quyền sở hữu các GTCG được chấp thuận cho TCTD theo quy định của pháp luật về chuyển nhượng đối với mỗi loại GTCG. Bước 4: Thanh toán Trên cở sở các GTCG đã được chuyển giao quyền sở hữu, TCTD thanh toán cho khách hàng giá trị chiết khấu ròng, sau khi đã khấu trừ đi phần lợi tức chiết khấu và các khoản phí. Bước 5: Thu tiền Đến hạn thanh toán của GTCG, TCTD chuyển đến người có thụ lệnh theo GTCG để đòi tiền. Trong trường hợp nếu người thụ lệnh không thanh toán thì TCTD có quyền khởi kiện chính người mắc nợ đó tại một cơ quan tài phán có thẩm quyền. Riêng đối với trường hợp chiết khấu GTCG là công cụ chuyển nhượng và TCTD không thu từ người thụ lệnh do mất khả năng thanh toán thì TCTD có quyền truy đòi khách hàng đã chiết khấu (kể cả những người khác đã đứng tên sở hữu hoặc bảo lãnh công cụ chuyển nhượng đó). Tái chiết khấu Tái chiết khấu thực chất là nghiệp vụ chiết khấu các GTCG đã được chiết khấu. Như vậy về bản chất kinh tế và bản chất pháp lý thì tái chiết khấu thực chất cũng là chiết khấu. Do vậy các quy định của pháp luật đều áp dụng chung cho cả chiết khấu và tái chiết khấu. Điểm khác nhau cơ bản giữa chiết khấu và tái chiết khấu là ở chỗ: nghiệp vụ chiết khấu chính là giao dịch mua bán lần đầu các giấy tờ có giá còn nghiệp vụ tái chiết khấu chính là giao dịch mua bán lại các GTCG đã được chiết khấu một lần theo phương thức mua hẳn tại TCTD và giao dịch này chỉ phát sinh giữa các TCTD với nhau hoặc giữa TCTD với NHNN. Mục đích của việc tái chiết khấu là: Tăng cường tính thanh khoản cho các GTCG Giúp các TCTD có thể hỗ trợ nhau nhằm hạn chế, chia sẻ rủi ro NHNN trợ giúp các TCTD …. CHƯƠNG II PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ CHIẾT KHẤU GIẤY TỜ CÓ GIÁ CHIẾT KHẤU GTCG CỦA NHNN ĐỐI VỚI CÁC TCTD: Cơ sở pháp lý Nhằm điều hành chính sách tiền tệ NHNN thường sử dụng một số các công cụ chính trong đó nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu các GTCG trên thị trường mở là một trong những công cụ cơ bản. Nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết của NHNN đối với các TCTD là ngân hàng được điều chỉnh theo các văn bản sau: Quyết định số 898/2003/QĐ-NHNN ngày 12/8/2003 của Thống đốc NHNN về việc ban hành Quy chế nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của NHNN đối với các ngân hàng. Quyết định này được sửa đổi ngày 29/4/2008 tại quyết định số 12/2008/QĐ-NHNN Quyết định 11/QĐ-NHNN về danh mục các giấy tờ có giá được sử dụng trong giao dịch với NHNN ngày 6/1/2010 của Thống đốc ngân hàng nhà nước. Quy trình nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của NHNN đối với các ngân hàng số 7129/QT-NHNN ngày 6/8/2008 của Ngân hàng Nhà nước. Chủ thể Bên nhận chiết khấu: NHNN Cơ quan trực tiếp thực hiện là Sở Giao dịch NHNN hoặc chi nhánh NHNN được ủy quyền. Bên được chiết khấu: các ngân hàng thương mại Các ngân hàng này được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng và phải đáp ứng đủ các điều kiện sau: Có tài khoản tiền gửi và lưu ký GTCG tại Sở Giao dịch NHNN; Có đăng ký chữ ký của lãnh đạo và giới thiệu các cán bộ thực hiện nghiệp vụ chiết khấu với NHNN. Đối tượng chiết khấu Các giấy tờ có giá được sử dụng trong các giao dịch với Ngân hàng Nhà nước bao gồm: Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước; các loại Trái phiếu Chính phủ ; Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh; Trái phiếu Chính quyền địa phương do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phát hành Khoản 1- Điều 1- Quyết định 11/2010/QĐ-NHNN GTCG được NHNN sử dụng trong nghiệp vụ chiết khấu là loại GTCG ghi sổ, phát hành bằng đồng Việt Nam và có thể chuyển nhượng được. Trong từng thời kỳ, NHNN sẽ xác định và công bố Lãi suất chiết khấu. Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng 7% 2620/QĐNHNN 05/11/2010 05/11/2010 6% 402/TB-NHNN 27/10/2010 01/11/2010 6% 352/TB-NHNN 27/9/2010 01/10/2010 6% 316/TB-NHNN 25/08/2010 01/09/2010 6% 259/TB-NHNN 27/7/2010 01/08/2010 6% 316/TB-NHNN 25/8/2010 01/09/2010 6% 220/TB-NHNN 24/06/2010 10/08/2010 6% 189/TB-NHNN 31/5/2010 01/06/2010 6% 26/TB-NHNN 26/01/2010 01/02/2010 6%/năm 2664/QĐ-NHNN 25/11/2009 01/12/2009 5,0%/năm 2232/QĐ-NHNN 01/10/2009 Quy định lãi suất chiết khấu là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ nhằm điều tiết lượng cung tiền. Với một tiền cơ sở nhất định, bằng cách quy định lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường, NHNN có thể buộc các ngân hàng thương mại phải dự trữ tiền mặt bổ sung khiến cho số nhân tiền tệ giảm xuống (vì bội số của tiền gửi so với tiền mặt giảm) để làm giảm lượng cung tiền. Ngược lại, khi lãi suất chiết khấu giảm xuống thì các ngân hàng thương mại có thể giảm tỷ lệ dự trữ tiền mặt và do vậy số nhân tiền tệ tăng lên dẫn đến tăng lượng cung tiền. Hình thức chiết khấu Có hai hình thức chiết khấu là Chiết khấu toàn bộ thời hạn và Chiết khấu có kỳ hạn: Chiết khấu toàn bộ thời hạn Là hình thức chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của GTCG, tuy nhiên thời hạn tối đa là 91 ngày. Hình thức chiết khấu toàn bộ thời hạn của NHNN dành cho các ngân hàng có ý nghĩa như một hình thức nhận chuyển giao rủi ro (GTCG có nguy cơ bị mất giá, bên phát hành mất khả năng thanh toán khi đến hạn …) giúp các ngân hàng, hỗ trợ các ngân hàng trong quá trình hoạt động. Chiết khấu có kỳ hạn Với hình thức này thì yêu cầu thời hạn còn lại của giấy tờ có giá phải dài hơn thời hạn NHNN chiết khấu, và ngân hàng phải mua lại GTCG đó trước khi hết hạn. Khi nhận được Thông báo chấp nhận chiết khấu có kỳ hạn của NHNN, ngân hàng phải gửi hồ sơ có kèm theo cam kết mua lại GTCG trước khi hết hạn. Hình thức này có ý nghĩa như một khoản cho vay của NHNN đối với các ngân hàng. Các ngân hàng có thể đem “Giấy đề nghị chiết khấu GTCG” trực tiếp đến Sở Giao dịch NHNN (Phương thức trực tiếp); hoặc giao dịch thông qua mạng vi tính hoặc fax đến Sở Giao dịch NHNN (Phương thức gián tiếp). Dù thực hiện phương thức nào thì cũng phải gửi bản chính của “Giấy đề nghị chiết khấu GTCG” về Sở giao dịch NHNN, trực tiếp hoặc qua đường bưu điện. Quyết định 898/2003/NĐ-NHNN không quy định rõ khi ngân hàng dùng phương thức gián tiếp thì Sở giao dịch NHNN sẽ lập và gửi Thông chấp nhận/ không chấp nhận chiết khấu khi nhận được bản fax hay bản chính (qua đường bưu điện). Theo quan điểm cá nhân, NHNN nên thực hiện nghiệp vụ chiết khấu khi nhận được bản fax, như vậy sẽ giúp tiết kiệm được thời gian hơn. Hạn mức chiết khấu Như đã đề cập, chiết khấu GTCG được NHNN sử dụng như một công cụ thực hiện chính sách tiền tệ, như một hình thức tái cấp vốn cho TCTD là ngân hàng, không phải là một hoạt động kinh doanh thu lơi nhuận. Vì vậy, NHNN quy định cho mỗi ngân hàng có một hạn mức chiết khấu nhất định. Hạn mức chiết khấu là mức chiết khấu tối đa, tính theo số dư, của NHNN cho một ngân hàng tại mọi thời điểm trong quý. Căn cứ vào mục tiêu của chính sách tiền tệ và tổng khối lượng tiền cung ứng đã được phê duyệt, Thống đốc NHNN quyết định tổng hạn mức dành cho nghiệp vụ chiết khấu trong từng thời kỳ, và dựa trên tổng hạn mức chiết khấu, NHNN phân bổ hạn mức chiết khấu cho từng ngân hàng. Công thức tính hạn mức chiết khấu như sau: H = V x S x k Trong đó: H: Hạn mức chiết khấu của ngân hàng V: Vốn tự có của ngân hàn S: Tỷ trọng giữa dư nợ tín dụng bằng VNĐ so với tổng tài sản có và được tính bằng công thức: S = Tổng dư nợ tín dụng ngắn, trung, dài hạn bằng VNĐ Tổng tài sản có k: Hệ số chiết khấu, được tính theo công thức sau: K = Tổng hạn mức chiết khấu n å Vi x Si i=1 i=1 Trong đó, Vi và Si là vốn tự có và tỷ trọng giữa dư nợ tín dụng so với tổng tài sản có của ngân hàng thứ i Theo công thức trên, ta có thể thấy hạn mức chiết khấu của ngân hàng tỷ lệ với số vốn tự có của ngân hàng, ngân hàng có vốn lớn thì hạn mức chiết khấu cũng cao hơn. Đồng thời, tỷ trọng giữa dư nợ tín dụng bằng VNĐ so với tổng tài sản có của ngân hàng cũng có ảnh hưởng nhất định. Chậm nhất là vào ngày 25 của tháng cuối quý, các ngân hàng gửi NHNN (Vụ Tín dụng) giấy đề nghị thông báo hạn mức chiết khấu kèm theo bảng cân đối tài khoản kế toán của tháng gần nhất và bảng kê GTCG đủ điều kiện chiết khấu mà ngân hàng nắm giữ. Hàng quý, trên cơ sở hạn mức chiết khấu chung trong quý, NHNN phân bổ hạn mức và thông báo cho các ngân hàng có yêu cầu và cho Sở Giao dịch (đơn vị thực hiện nghiệp vụ chiết khấu) biết và thực hiện. Xử lý vi phạm: Khi hết thời hạn chiết khấu (trường hợp chiết khấu có kỳ hạn), các ngân hàng thanh toán tiền mua lại GTCG cho NHNN và nhận lại GTCG theo cam kết. Nếu sau 01 ngày làm việc kể từ ngày hết thời hạn chiết khấu mà ngân hàng thanh toán cho NHNN để nhận lại GTCG thì NHNN sẽ trích tiền gửi của NHNN để thanh toán. Trường hợp tài khoản của ngân hàng không đủ tiền thì NHNN sẽ chuyển số tiền còn thiếu của ngân hàng sang nợ quá hạn và ngân hàng phải chịu lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất chiết khấu. Mức lãi suất quá hạn này đã được giảm từ 200% (trong Quyết định số 898/2003/QĐ-NHNN) xuống còn 150% (Quyết định số 12/2008/QĐ-NHNN). Có lẽ vì mục đích chính là hỗ trợ tái cấp vốn cho các ngân hàng, NHNN đã điều chỉnh lại mức độ chế tài. NHNN sẽ xem xét bán các GTCG mà Ngân hàng Nhà nước đang nắm giữ trên thị trường tiền tệ để thu hồi số tiền còn thiếu. CHIẾT KHẤU GIẤY TỜ CÓ GIÁ CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG Cơ sở pháp lý: Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng đối với khách hàng (ban hành kèm theo Quyết định số 1325/2004/QĐ-NHNN ngày 15/10/2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ) Quyết định 17/2006/QĐ-NHNN ngày 20/4/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhàn nước về việc sửa đổi, bổ sung Điều 10 và Điều 12 Quy chế chiết khấu , tái chiết khấu giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1325/2004/QĐ-NHNN ngày 15/10/2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Quyết định 63/2006/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Quyết định 03/2008/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư và kinh doanh chứng khoán. Nghị định 202/2004/NĐ-CP ngày 10/12/2004 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Chủ thể : Bên được chiết khấu : Khách hàng của TCTD Khách hàng chiết khấu GTCG tại tổ chức tín dụng là chủ sở hữu GTCG, bao gồm : Tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức cá nhân nước ngoài đang sinh sống, hoạt động hợp pháp tại Việt Nam; TCTD. Khách hàng tái chiết khấu GTCG tại TCTD là TCTD sở hữu GTCG đó Khoản 2,3 Điều 2 quyết định số 1325/2004/QĐ-NHNN Khách hàng chiết khấu công cụ chuyển nhượng là người thụ hưởng công cụ chuyển nhượng và có nhu cầu chiết khấu công cụ chuyển nhượng đó tại TCTD, bao gồm: tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài. Tổ chức quy định tại khoản này bao gồm cả TCTD Quyết định số 63/2006/QĐ-NHNN về Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng của tổ chức tín dụng đối với khách hàng Như vậy, khách hàng trong giao dịch chiết khấu GTCG tại TCTD chính là cá nhân tổ chức có nhu cầu xin chiết khấu GTCG. Tuy nhiên, để thực hiện được nghiệp vụ này thì khách hàng phải thỏa mãn những yêu cầu nhất định, đó là: chủ thể xin chiết khấu phải có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Bên nhận chiết khấu: TCTD TCTD bao gồm ngân hàng, TCTD phi ngân hàng (công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các TCTD phi ngân hàng khác.), tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân và TCTD nước ngoài được hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới hình thức văn phòng đại diện, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn nước ngoài, công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài Luật các tổ chức tín dụng 2010 Tuy nhiên chỉ có hai chủ thể là có thể thực hiện hoạt động chiết khấu và tái chiết khấu GTCG theo điều 98 và điều 108 luật các tổ chức tín dụng 2010. Ngoài ra theo quyết định số 1325/2004/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, chi nhánh của ngân hàng nước ngoài cũng được thực hiện việc chiết khấu Các TCTD được thành lập, hoạt động và được thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu GTCG theo quy định của Luật Các TCTD, đáp ứng được các điều kiện : Có giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng do ngân hàng nhà nước cấp, trong đo ghi rõ nghiệp vụ chiết khấu tái chiết khấu GTCG; Có giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh nghiệp vụ chiết khấy GTCG; Có điều lệ được ngân hàng nhà nước chuẩn y; Có người đại diện hợp pháp, dủ năng lực và thẩm quyền để kí kết hợp đồng chiết khấu GTCG. Trường hợp chiết khấu, tái chiết khấu GTCG bằng ngoại tệ, các tổ chức tín dụng phải được phép hoạt động ngoại hối Quyết định 03/2008/QĐ-NHNN Trường hợp các tổ chức tín dụng chiết khấu GTCG để đầu tư kinh doanh chứng khoán còn phải đáp ứng các điều kiện sau: Ban hành quy định về nghiệp vụ chiết khấu GTCG để đầu tư kinh doanh chứng khoán, trong đó có : giới hạn chiết khấu với một khách hàng; giới hạn chiết khấu đối với nhóm khách hàng lien quan; tỉ lệ chiết khấu so với tổng dư nợ tín dụng; thời hạn chiết khấu có kì hạn tối đa; biện pháp kiểm soát phòng ngừa rủi ro tín dụng. Gửi quy định trên cho Thanh tra NHNN ngay sau khi ban hành để làm cơ sở cho việc thanh tra, giám sát hoạt động chiết khấu GTCG để đầu tư kinh doanh chứng khoán. Đảm bảo các tỉ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD theo quy định của NHNN Việt Nam. Có tỉ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ tín dụng dưới 5% Thực hiện việc hạch toán, thống kê chính xác các khoản chiết khấu GTCG để đầu tư kinh doanh chúng khoán; gửi báo cáo cho NHNN đúng thời hạn theo mẫu biểu. Ngoài ra còn có một số yêu cầu khác về vốn , yêu cầu kỹ thuật nghiệp vụ chiết khấu, hệ thống phương tiện kỹ thuật công nghệ hiện đại … Nội dung giao dịch: Hoạt động chiết khấu, tái chiết khấu được xem là hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại Điều 98 luật các tổ chức tín dụng 2010 . Do đó, chiết khấu phải tuân theo các quy định của cấp tín dụng như các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng: các trường hợp không được cấp tín dụng, các hạn chế cấp tín dụng, giới hạn cấp tín dụng, tỷ lệ đảm bảo an toàn, dự phòng rủi ro Điều 126, 127, 128, 130, 131 Luật các TCTD 2010 … Đây là một giao dịch dân sự nên cũng dựa vào các nguyên tắc cơ bản như tự nguyện, tự do thỏa thuận. các bên có thể thỏa thuận về phương thức thanh toán, lãi suất thanh toán cụ thể, thời hạn chiết khấu (nhưng không vượt quá thời hạn thanh toán còn lại của giấy tờ có giá), giá chiết khấu… theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên do chủ thể tham gia trong hoạt động này là những chủ thể đặc biệt : TCTD, các chủ thể này có tiềm lực kinh tế và có nhiều kinh nghiệm hơn và có ưu thế hơn so với khách hàng của họ nên sự tự do thỏa thuận bị hạn chế phần nào. Giao dịch thực hiện theo các quy tắc do tổ chức tín dụng đưa ra. Mặc dù vậy, vì họat động tín dụng có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế và nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng nên giao dịch chiết khấu còn tuân theo các quy chế do NHNN ban hành. Ví dụ : Mức chiết khấu, tái chiết khấu đối với một khách hàng tối đa bằng 15% vốn tự có của TCTD. Trường hợp chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam thì mức chiết khấu, tái chiết khấu đối với một khách hàng tối đa bằng 15% vốn tự có của ngân hàng mẹ Điều 10, Quyết định 17/2006/QĐ-NHNN Hình thức pháp lý Hình thức pháp lý của giao dịch chiết khấu là hợp đồng chiết khấu GTCG, theo đó tổ chức tín dụng cam kết mua lại GTCG của khách hàng trước thời hạn với điều kiện khấu trừ một khoản tiền nhất định tính theo tỉ lệ phần trăm trên mệnh giá GTCG được chiết khấu trong thời gian được chiết khấu.. Các thoả thuận về việc chiết khấu, tái chiết khấu giữa TCTD và khách hàng phải được lập thành văn bản. Văn bản thoả thuận về việc chiết khấu phải có các nội dung phù hợp với quy định của Quy chế này, các quy định của pháp luật khác có liên quan và hợp đồng mẫu do Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam ban hành. Điều kiện của giao dịch Thời điểm của giao dịch phải trước khi giấy tờ có giá tới hạn thanh toán. Thời hạn thanh toán cụ thể của từng GTCG do người ký phát, người phát hành xác định và ghi trên giấy tờ có giá. Thuộc quyền sở hữu hợp pháp của khách hàng; Giấy tờ có giá được phép giao dịch (mua, bán, tặng cho, chuyển đổi, chuyển nhượng, cầm cố, bảo lãnh và các giao dịch hợp pháp khác). Trên công cụ chuyển nhượng không ghi cụm từ "Không được chuyển nhượng", "Cấm chuyển nhượng", "Không trả theo lệnh" hoặc cụm từ khác có ý nghĩa tương tự. Được thanh toán theo quy định của tổ chức phát hành. Phương thức chiết khấu Chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của GTCG Đây là phương thức mua hẳn GTCG theo giá chiết khấu và khách hàng chuyển giao ngay quyền sở hữu GTCG đó cho TCTD. Khi GTCG đó đến hạn thanh toán, TCTD xuất trình GTCG để thanh toán với tổ chức phát hành. 3.3.2. Chiết khấu có thời hạn Các tổ chức tín dụng mua GTCG theo thời hạn và giá chiết khấu, tái chiết khấu, đồng thời kèm theo cam kết của khách hàng về việc mua lại GTCG đó vào ngày đến hạn chiết khấu, tái chiết khấu. TCTD là chủ sở hữu của GTCG trong khoản thời gian từ lúc chiết khấu tới khi khách hàng mua lại GTCG. Trường hợp hết thời hạn chiết khấu mà khách hàng không thực hiện việc mua lại GTCG, thì TCTD là chủ sở hữu hợp pháp và được hưởng toàn bộ quyền lợi phát sinh từ TCTD đó. Khách hàng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp, hợp lệ của GTCG chiết khấu, tái chiết khấu TCTD. Còn TCTD có quyền xem xét, quyết định việc chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng phù hợp với quy định của pháp luật nhằm đảm bảo an toàn và hiệu quả; tổ chức tín dụng tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình Theo điều 7,Quyết định số 63/2006/QĐ-NHNN về Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, đồng tiền chiết khấu được quy định như sau: Nếu GTCG ghi trả bằng đồng Việt Nam, thì đồng tiền chiết khấu là đồng Việt Nam. Nếu GTCG ghi trả bằng ngoại tệ, các TCTD thực hiện như sau: Chiết khấu bằng ngoại tệ ghi trả trên giấy tờ đối với khách hàng được phép thu ngoại tệ; hoặc chiết khấu bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng không được phép thu ngoại tệ và khách hàng được phép thu ngoại tệ nhưng có nhu cầu chiết khấu, tái chiết khấu bằng đồng Việt Nam. Khi tổ chức tín dụng nhận chiết khấu, khách hàng chuyển giao ngay GTCG, đồng thời làm thủ tục chuyển quyền sở hữu GTCG cho tổ chức tín dụng theo đúng quy định của pháp luật đối với mỗi loại GTCG Quyền và nghĩa vụ của bên nhận chiết khấu Yêu cầu khách hàng chuyển giao quyền sở hữu GTCG cho mình Khấu trừ khoản lợi tức chiết khấu từ mệnh giá của GTCG Truy đòi khoản nợ đối với người xin chiết khấu nếu không đuợc thanh toán bởi người mắc nợ vào ngày đáo hạn. Thanh toán cho khách hàng số tiền chiết khấu Bồi thường cho khách hàng thiệt hại do hành vi của mình gây ra Quyền và nghĩa vụ của bên được chiết khấu: Chuyển giao quyền sở hữu GTCG cho bên nhận chiết khấu Yêu cầu bên nhận chiết khấu thanh toán theo thỏa thuận Khiếu nại, khởi kiện bên nhận chiết khấu trong trường hợp bên nhận chiết khấu vi phạm hợp đồng Thực hiện các yêu cầu hợp pháp khác liên quan đến GTCG theo thỏa thuận trong hợp đồng Xử lý vi phạm : Căn cứ Điều 13 Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu GTCG của tổ chức tín dụng đối với khách hàng : “ TCTD và khách hàng thực hiện phạt bồi thường thiệt hại, quyền truy đòi, khiếu nại, khởi kiện đối với bên vi phạm, nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.” Cụ thể là: Khách hàng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp, hợp lệ của GTCG chiết khấu tại TCTD. Nếu khách hàng vi phạm thì có thể bị TCTD khiếu nại,khởi kiện và phải bồi thường thiệt hại cho TCTD. TCTD có quyền xem xét, quyết định việc chiết khấu GTCG phù hợp với quy định của pháp luật nhằm đảm bảo an toàn và hiệu quả; TCTD tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. TCTD sẽ tuân theo những thỏa thuận trong văn bản thỏa thuận với khách hàng, nếu không tuân thủ thì có thể bị khách hàng khởi kiện và nếu gây ra thiệt hại thì phải bồi thường cho khách hàng. Ngoài ra, TCTD có quyền truy đòi đối với khách hàng và những người có liên quan về số tiền không được thanh toán đối với GTCG, tiền lãi trên số tiền chậm trả kể từ ngày giấy tờ có giá đến hạn thanh toán, chi phí truy đòi và các chi phí hợp lý khác theo quy định của Luật Các công cụ chuyển nhượng, quy định của pháp luật có liên quan và thoả thuận của các bên Căn cứ theo Điều 15 Nghị định 202/2004/NĐ-CP ngày 10/12/2004 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng : “Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng đối với hành vi cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các GTCG khác không đúng quy định của pháp luật.” CHƯƠNG III KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CHIẾT KHẤU GTCG CHIẾT KHẤU CỦA NHNN ĐỐI VỚI CÁC TCTD Thực tế, thời gian qua, công cụ tái cấp vốn của NHNN đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Hoạt động tái cấp vốn của NHNN đã đóng góp không nhỏ trong việc đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản và hỗ trợ đảm bảo khả năng thanh toán của các TCTD, qua đó duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ. Chủng loại giấy tờ có giá chấp thuận sử dụng trong quan hệ giao dịch với NHNN ngày càng được mở rộng, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD. CHIẾT KHẤU CỦA TCTD ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG LÀ TỔ CHỨC, CÁ NHÂN Những lợi ích trong hoạt động chiết khấu GTCD Từ khi hoạt động chiết khấu GTCG ra đời, đã mang lại những lợi ích nhất định mà chúng ta không thể phủ nhận được: Đối với Ngân hàng: Đây là một nghiệp vụ khá an toàn do tính thanh khoản của GTCG cao (ngắn hạn, dễ chuyển đổi), nên ngân hàng có thể chủ động sử dụng khi nắm giữ thương phiếu, không bị ứ đọng vốn lâu bằng cách tái chiết khấu; theo luật thì ngân hàng có quyền truy đòi tất cả các đối tượng có mặt trên tấm giấy tờ có giá (kể cả người đã chuyển nhượng thương phiếu đó) chứ không riêng gì người có trách nhiệm chi trả ghi trong thương phiếu (nếu là chiết khấu có truy đòi). Do đó rủi ro tín dụng sẽ thấp đi do có nhiều người phải chịu trách nhiệm trả nợ hơn. Là một dạng dự trữ thứ cấp khá tốt vừa đảm bảo thanh khoản lại vừa sinh lãi ở mức chấp nhận được (Ngân hàng trong trạng thái chủ động chứ không phải bị động) Đối với doanh nghiệp: Đảm bảo nguồn vốn kết hợp kinh doanh diễn ra bình thường do giấy tờ có giá không phải là tiền vì cần phải chờ tới ngày đáo hạn người thụ hưởng mới nhận được tiền, trong khi đó tiền bán chịu chính là doanh thu của doanh nghiệp cho nên nó cần phải quay vòng nhanh để doanh nghiệp trang trải chi phí và hoạt động bình thường. Khi doanh nghiệp cần vốn mà giấy tờ có giá đó lại chưa đến hạn thanh toán thì doanh nghiệp có thể nhờ ngân hàng chiết khấu giấy tờ đó để có tiền sử dụng vào sản xuất Nghiệp vụ chiết khấu giúp gia tăng quan hệ tín dụng thương mại giữa các doanh nghiệp vì với nghiệp vụ chiết khấu của ngân hàng doanh nghiệp sẵn lòng bán chịu hơn do có thể chiết khấu nhận được tiền trước ngày đáo hạn tờ thương phiếu khi cần tiền, chứ không cần giữ mãi tờ thương phiếu đó, quan hệ thương mại ngày càng mở rộng, quay vòng vốn nhanh, linh hoạt, hàng hóa sản xuất nhiều, lợi nhuận càng cao. Đối với nền kinh tế: Cấp tín dụng bằng chiết khấu giấy tờ có giá là một hình thức cấp tín dụng an toàn cho nền kinh tế vì khi cấp tín dụng bằng chiết khấu thương phiếu sẽ đảm bảo nguyên tắc hàng - tiền do khi tiền tung ra từ ngân hàng thì trong nền kinh tế cũng đã có sẵn một lượng hàng hoá tương ứng đang luân chuyển, do đó giảm thiểu áp lực lạm phát. Cũng cần chú ý rằng hàng hoá mua chịu của doanh nghiệp chủ yếu là nguyên vật liệu phục vụ sản xuất cho nên, cấp tín dụng bằng hình thức CKTP tạo điều kiện tốt cho sản xuất phát triển gia tăng hàng hoá cho nền kinh tế. Hoạt động chiết khấu tạo điều kiện cho Ngân hàng Trung Ương thực hiện tốt công tác điều hoà khối tiền trong lưu thông Những rủi ro Tuy nhiên bên cạnh những lợi ích đó thì vẫn còn những rủi ro mà ta không thể lường trước được: Rủi ro do “chứng từ làm giả”: điều này sẽ có nguy cơ làm cho Ngân hàng mất tiền cả gốc lẫn lãi. Có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chủ yếu và phổ biến nhất là do bên kí phát và bên bị ký phát đã cố tình thông đồng với nhau trước để cố tình lừa đảo ngân hàng. Tuy nhiên, quyền lợi của Ngân hàng sẽ được pháp luật bảo vệ (hình sự, hành chính…). Nhưng Ngân hàng vẫn có thể chủ động bằng cách kiểm tra thật kỹ chứng từ, cần có những nghiệp vụ chuyên môn và có kinh nghiệm trong việc xem xét các chứng từ vì hành vi làm giả các chứng từ rất tinh vi, khó phát hiện… Rủi ro do mất khả năng thanh toán: có thể đến hạn thanh toán người trả tiền do những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan mà không có khả năng thanh toán, nếu chiết khấu dưới hình thức miễn truy đòi thì coi như Ngân hàng đứng trước nguy cơ mất tiền mà không có một sự đảm bảo nào. Chính vì điều này mà các Ngân hàng thường xem xét rất kỹ năng lực tài chính của người trả tiền chứ không phải của người đi chiết khấu, và hơn thế nữa nên chọn hình thức chiết khấu truy đồi để an toàn hơn. Rủi ro do tỷ giá hối đoái: nhất là khi quan hệ thương mại quốc tế ngày càng phát triển cũng như ngày càng có nhiều ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam thì rủi ro này càng dễ xảy ra theo nguyên tắc “nếu lúc thanh toán, đồng tiền mà ngân hàng đã trả tăng giá thì ngân hàng có lợi và ngược lại”. Rủi ro do lạm phát: lạm phát làm cho đồng tiền mất giá, tùy theo mức độ mất giá của đồng tiền cao hay thấp hơn lãi suất mà ngân hàng sẽ lỗ nhiều hay ít. Nhận xét: hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá bên cạnh những rủi ro có nó nhưng lại mang đến những lợi ích rõ rệt cho cả 3 bên: Ngân hàng, người đi chiết khấu và người trả tiền. Tuy nhiên hoạt động này ở Việt Nam còn đơn giản và không phổ biến lắm. Do ngân hàng nhìn vào khả năng tài chính của người trả tiền mà ngại không chiết khấu sợ rủi ro, do các doanh nghiệp chưa quen với loại hình này, ngại tiếp nhận cái mới, và còn do cả pháp luật Việt Nam chưa có những quy định cụ thể cho hoạt động này…. Do đó, cần có những thay đổi tích cực từ 2 phía: cơ quan có thẩm quyền và các doanh nghiệp, ngân hàng . HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA HOẠT ĐỘNG CHIẾT KHẤU GTCG TRONG THỜI GIAN TỚI Với những phân tích ở trên, ở tầm vĩ mô, nghiệp vụ chiết khấu GTCG là công cụ để nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia; còn ở tầm vi mô, nghiệp vụ này là công cụ đắc lực cho các thương nhân trong hoạt động kinh doanh của mình, đặc biệt trong các giao dịch mua bán quốc tế. Vậy trong những năm sắp tới, nghiệp vụ này còn có thể được duy trì và phát triển ở Việt Nam? Một là, vốn là nhu cầu tất yếu trong hoạt động kinh doanh của các thương nhân. Và các ngân hàng là địa chỉ đáng tin cậy đáp ứng nhu cầu về vốn của các thương nhân. Nhưng bằng cách nào để có thể “ lấy” được tiền từ ngân hàng nhanh chóng, ít thủ tục nhất. So với nghiệp vụ cho vay, bên chiết khấu không cần tài sản thế chấp mà sử dụng ngay chứng từ nhận chiết khấu làm đảm bảo tín dụng, quy trình xem xét cấp tín dụng đơn giản và nhanh chóng hơn. Do đó, thiết nghĩ nghiệp vụ này đã, đang và sẽ được các thương nhân sử dụng là một trong những kênh huy động vốn hiệu quả của mình. Hai là, trong các giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế, phương thức thanh toán phổ biến và đáng tin cậy nhất hiện nay là phương thức tín dụng chứng từ. Một trong những ưu điểm của phương thức này đó là tính linh hoạt, nhà xuất khẩu có thể chiết khấu bộ chứng từ phù hợp tại một trong các ngân hàng. Tại khoản 2 của UCP 600 có định nghĩa về chiết khấu và các điều khoản khác cũng quy định về nghiệp vụ này. Tương lai gần, phương thức thanh toán này vẫn được sử dụng phổ biến và đi kèm là hoạt động chiết khấu của ngân hàng. Ba là, những năm gần đây, thị trường Việt Nam là điểm đến tiềm năng của các ngân hàng. Theo số liệu của Tổng cục thống kê thì hiện Việt nam có: 5 Ngân hàng thương mại lớn (Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Công Thương, Ngân hàng Đầu tư Phát triển, Ngân hàng Xuất nhập khẩu), Ngân hàng chính sách, Ngân hàng phát triển; 6 Ngân hàng liên doanh; 36 Ngân hàng thương mại cổ phần; 46 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài; 10 Công ty tài chính; 13 Công ty cho thuê tài chính; 998 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Các ngân hàng ngày càng đa dạng dịch vụ của mình và không thể bỏ qua dịch vụ truyền thống chiết khấu giấy tờ có giá. Bốn là, nghiệp vụ chiết khấu GTCG ở Việt Nam còn khá non trẻ, một trong những nguyên nhân là giá trị các loại giấy tờ có giá như hối phiếu, kỳ phiếu, séc, ... thời gian trước đó chưa được xem xét một cách thích đáng. Pháp lệnh thương phiếu ra đời năm 1999 nhưng đã không thể thực thi hiệu lực thực tế. Tuy nhiên, khi giao thương quốc tế, nhận thức về tầm quan trọng của các loại giấy tờ có giá của các thương nhân đã thay đổi, cùng với đó là sự đa dạng của các loại giấy tờ này cũng như hoạt động chiết khấu chúng. Với những lí do trên, có thể đánh giá trong tương lai gần thị trường chiết khấu GTCG sẽ còn phát triển. Còn tương lai xa? Tốc độ phát triển công nghệ thông tin như hiện nay cho phép chúng ta dự báo về các hình thức mới của các loại GTCG cũng như phương thức giao dịch mới thông qua các phương tiện điện tử. Khi đó, sẽ phải cần hàng loạt các công cụ pháp lý điều chỉnh lĩnh vực này ví dụ công nhận giá trị pháp lý của GTCG dưới hình thức mới, quyền và nghĩa vụ các bên trong giao dịch, ..... DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Luật Dân Sự 2005 Luật Ngân hàng Nhà nước 2010 Luật các TCTD 2010 Luật chứng khoán 2006 Luật các Công cụ chuyển nhượng 2005 Quyết định số 898/2003/QĐ-NHNN ngày 12/8/2003 của Thống đốc NHNN về việc ban hành Quy chế nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của NHNN đối với các ngân hàng. Quyết định số 12/2008/QĐ-NHNN sửa đổi Quyết định 898/2003 Quyết định số 11/2010/QĐ-NHNN ngày 06/01/2010 của Thống đốc NHNN về  việc danh mục các giấy tờ có giá sử dụng trong giao dịch của NHNN. Quy trình nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của NHNN đối với các ngân hàng số 7129/QT-NHNN ngày 6/8/2008 của Ngân hàng Nhà nước Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng đối với khách hàng (ban hành kèm theo Quyết định số 1325/2004/QĐ-NHNN ngày 15/10/2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ) Quyết định 17/2006/QĐ-NHNN ngày 20/4/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhàn nước về việc sửa đổi, bổ sung Điều 10 và Điều 12 Quy chế chiết khấu , tái chiết khấu giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1325/2004/QĐ-NHNN ngày 15/10/2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Quyết định 63/2006/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Quyết định 03/2008/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư và kinh doanh chứng khoán. Nghị định 202/2004/NĐ-CP ngày 10/12/2004 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Nghị định của Chính phủ số 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 về việc phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương. Và các website về nghiệp vụ ngân hàng khác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchiết khấu GTCG.doc
  • docBÌA.doc
  • pptchiết khấu GTCG.ppt
  • docMỤC LỤC2.doc
Tài liệu liên quan