Đề tài Pháp luật về sở hữu công nghiệp

Các đối tượng của quyền SHCN là tài sản của thương nhân. Thực tiễn đời sống kinh doanh, thương mại cho thấy giá trị của một doanh nghiệp không chỉ biểu hiện thông qua các tài sản hữu hình thể hiện trên sổ kế toán của doanh nghiệp. Bởi các tài sản hữu hình đôi khi chỉ có giá trị rất nhỏ so với các tài sản vô hình- những tài sản không hiện hữu trên sổ kế toán của doanh nghiệp như các đối tượng của quyền SHCN. Nhiều doanh nghiệp có giá trị được định giá từ các đối tượng của quyền SHCN lơn hơn rất nhiều giá trị của các tài sản hữu hình của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh, cung ứng các mặt hàng, dịch vụ cao cấp, thức ăn, nước uống, ô tô, công nghệ thông tin Hàng năm, tuần báo Bussiness Week của Hoa kỳ đều công bố giá trị của 100 nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng trên thế giới, ví dụ như nhãn hiệu Coca-cola được định giá tới 69,6 tỷ $; Microsoft 64 tỷ $; IBM 51,1 tỷ $; Disney 29,2 tỷ $; Mc.Donals 26,3 tỷ $. . Thời gian gần đây, nhiều nhãn hiệu hàng hoá của Việt nam cũng đã được định giá tới hàng triệu USD như kem P/S được công ty Elida định giá 5 triệu $, kem đánh răng Dạ Lan 2,9 triệu $ . Qua đó, chúng ta có thể khẳng định, các đối tượng của quyền SHCN chính là một loại tài sản có giá trị kinh tế vô cùng to lớn của doanh nghiệp.

doc34 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1861 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật về sở hữu công nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội (ví dụ các qui định về nguyên tắc dân sự, về quyền nhân thân, tài sản và các quyền tài sản, sở hữu, giao dịch, các nghĩa vụ). BLDS chỉ qui định những vấn đề mang tính nguyên tắc, thu hút vào các qui định về tài sản, quyền tài sản và giao dịch nói chung. Các luật riêng cần có qui định chi tiết về loại quan hệ xã hội đặc thù mà mình điều chỉnh, phù hợp với các đặc trưng của loại quan hệ đó và các qui định này sẽ được ưu tiên áp dụng so với BLDS. Điều này sẽ giúp cho tình trạng chồng chéo được giải quyết một cách triệt để, hệ thống pháp luật sẽ minh bạch hơn, có thể dự đoán trước và do đó khả năng áp dụng cũng cao hơn. Theo đó, những quan hệ không thuộc đối tượng điều chỉnh của Bộ luật Dân sự sẽ được điều chỉnh trong Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 như:Những qui định về thủ tục hành chính, thủ tục xác lập quyền và thủ tục bảo hộ quyền SHCN bằng biện pháp hành chính , các qui định về trình tự thủ tục tố tụng liên quan đến quyền SHCN ... Việc xác định rõ đối tượng và pham vi điều chỉnh của luật dân sự và Luật sở hữu trí tuệ là thật sự quan trọng và cần thiết, vừa đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật, vừa đảm bảo cho việc triển khai, họat động SHCN và bảo vệ quyền SHCN ở Việt Nam có hiệu quả cao nhất. Có thể nhận định rằng:”Pháp luật về quyền SHCN của Việt Nam chỉ trong một thời gian không dài đã được xây dựng từ con số không đến có và cho đến thời điểm hiện nay là khá đầy đủ và toàn diện”. Những bước tiến của Pháp luật Việt Nam về quyền SHCN trong những năm đổi mới (1986-2006) đã tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh nền kinh tế Việt Nam phát triển, đồng thời cũng tạo ra những cơ hội mới trong quá trình hội nhập quốc tế. II PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT 1. Pháp luật thực định về SHCN Đứng trước chương trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước, Việt Nam đã luôn quan tâm đến những lợi ích ổn định lâu dài, những yếu tố tích cực có ảnh hưởng lớn đến công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong suốt quá trình hội nhập khu vực và quôc tế. Nhu cầu gia nhập WTO của Việt Nam là rất cần thiết, do vậy Việt Nam đã quan tâm và ban hành những văn bản pháp luật về quyền SHCN tính đến thời điểm này là tương đối đầy đủ, đáp ứng được những điều kiện cần và đủ theo yêu cầu của tổ chức này về cơ chế bảo hộ các đối tượng của quyền SHCN ở Việt Nam. . Xuất phát từ bản chất của quyền SHCN là quyền sở hữu đối với các tài sản vô hình – những tài sản được tạo ra từ trí tuệ và tri thức của con người. Chính vì vậy, trong Luật sở hữu trí tuệ đã dành hẳn 5 chương ( từ chương VII đến chương XI) gồm 99 điều ( từ điều 58 đến điều 156) để qui định về quyền SHCN. Theo tinh thần của Bộ luật Dân sự (2005) và Luật Sở hữu trí tuệ (2005), thì đối tượng của quyền SHCN bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế, bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh. Điều 4.4 Luật SHTT 2005 So với Bộ luật dân sự năm 1995 và các văn bản luật về trước đó có đối tượng giải pháp hữu ích nhưng trong Bộ luật dân sự năm 2005 và Luật sở hữu trí tuệ không có đối tượng trên nhưng tinh thần chung vẫn có. Điểm mới trong luật hiện hành đó là việc đưa thêm đối tượng Kiểu dáng công nghiệp vào đối tượng của quyền SHCN đã chứng tỏ sự ngày một hoàn thiện của Pháp luật về SHCN. Để được pháp luật Việt Nam bảo hộ quyền SHCN thì trước hết, các đối tượng của SHCN phải đáp ứng được những điều kiện nhất định, tùy thuộc vào từng loại đối tượng. Điều này được qui đinh rõ trong chương VII của Luật này. Chẳng hạn, theo Điều 58.1 qui định điều kiện chung đối với sáng chế được bảo hộ: “Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế nếu đáp ứng các điều kiện sau đây: Có tính mới Có trình độ sáng tạo Có khả năng áp dụng công nghiệp.” Theo Điều 60:“sáng chế được coi là có tính mới nếu chưa bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất cứ hình thức nào khác ở trong nước và nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên”. Chủ thể của quyền SHCN phải nộp đơn đăng kí quyền SHCN. Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì người có quyền nộp đơn đối với nhãn hiệu hàng hoá chỉ có thể là chủ sở hữu. Người nộp đơn chính là chủ cơ sở sản xuất kinh doanh hợp pháp. Đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, mạch tích hợp bán dẫn, thì người có quyền nộp đơn chính là tác giả. Trong trường hợp tác giả là người tự bỏ kinh phí ra để tạo ra đối tượng đó (có thể là cá nhân, tổ chức, hoặc là người được uỷ quyền, hoặc được chuyển giao một cách hợp pháp); trường hợp tác giả tạo ra đối tượng đó mà do một bên cấp kinh phí thông qua một hợp đồng về nghiên cứu phát triển, nếu hợp đồng không thoả thuận gì khác thì người nộp đơn là người cấp kinh phí; nếu tác giả tạo ra đối tượng đó mà là người lao động làm theo hợp đồng thì người nộp đơn là người sử dụng lao động, nêu không có thoả thuận gi khác. Nội dung đơn phải bao gồm đầy đủ nội dung pháp luật quy định (có tài liệu kèm theo) phù hợp với yêu cầu của đối tượng SHCN. Ví dụ như với sáng chế phải kèm theo bản mô tả về sáng chế và hướng dẫn sử dụng đủ rõ để những nhà chuyên môn trong lĩnh vực đó phải đọc và hiểu được, chứng minh được tính sáng chế, sáng tạo đó; với kiểu dáng công nghiệp, tài liệu phải có ảnh chụp kèm theo... Đơn đăng ký SHCN phải gửi cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đó là Cục SHCN thuộc Bộ Khoa học Công nghệ. Những quy định này được nêu rõ từ điều 100 đến 107 Luật Sở hữu trí tuệ 2005. Các đơn yêu cầu này sẽ được công bố trên công báo SHCN và trong thời hạn 3 tháng, bất kỳ ai có thể có ý kiến, khiếu nại về đơn yêu cầu đó. Trên cơ sở giám định của các nhà chuyên môn đối với từng đối tượng, nếu có đủ điều kiện, Cục SHCN sẽ cấp văn bằng bảo hộ cho đối tượng đó. Vấn đề bảo hộ quyền SHCN bao gồm hai khía cạnh, đó là bảo hộ quyền của chủ sở hữu và bảo hộ quyền của tác giả. Chủ sở hữu có quyền sử dụng đối tượng đó đưa vào khai thác ( đối với sáng chế, mạch tích hợp bán dẫn), áp dụng vào hàng hoá dịch vụ (với kiểu dáng công nghiệp), gắn với tên sản phẩm (đối với nhãn hiệu). Ngoài ra, chủ sở hữu có quyền chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng chỉ có thể với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu hàng hoá. Về nguyên tắc, việc tất cả các nội dung chuyển giao phải thông qua hợp đồng viết phải theo hình thức, nội dung, thủ tục mà pháp luật về SHTT công nhận. Chủ sở hữu có quyền khiếu nại đối với những hành vi xâm phạm để bảo vệ quyền lợi của mình. Xem từ Điều 121 đến Điều 144 Luật SHTT 2005 Việc bảo hộ quyền tác giả se được thưc hiện trong trường hợp tác giả không đồng thời là chủ sở hữu. Theo Điều 122 của Luật sở hữu trí tuệ thì trong mọi trường hợp quyền nhân thân của tác giả không thay đổi , tác giả được ghi tên của mình trên văn bằng bảo hộ, cũng như trên các công trình có liên quan; được bảo hộ quyền tác giả ( được chủ văn bằng trả thù lao có thể theo thoả thuận theo hợp đồng giữa chủ văn bằng và tác giả, nếu không thoả thuận thì sẽ theo qui định của pháp luật có thể trả 1 lần hoặc trả theo định kỳ theo mỗi năm sử dụng. Vấn đề tranh chấp trong lĩnh vực SHCN bao gồm các trường hợp như : Khiếu kiện về việc cấp văn bằng bảo hộ giữa người nộp đơn và cục SHCN, tranh chấp này có bản chất là khiếu kiện hành chính, do đó nó phải được giải quyết theo thủ tục khởi kiện hành chính hoặc có thể theo con đường toà án. Vấn đề trnh chấp giữa người có quyền nộp đơn , thực chất là tranh chấp về quyền sở hữu tài sản , nên giải quyết theo các qui định trong Luật Tố tụng dân sự 2004 có thể khởi kiện lên tòa dân sự nếu đó là tranh chấp dân sự thuần tuý hoặc toà kinh tế nếu có bản chất là kinh doanh thương mại Xem điểu bộ Luật tố tụng dân sự 2004 . Ngoài ra tranh chấp trong lĩnh vực SHCN còn xảy ra khởi kiện về việc cấp văn bằng bảo hộ cho ngưòi không có quyền nộp dơn, tranh chấp về thù lao tác giả, tranh chấp về chuyển giao quyền sở hữu và quyền sử dụng các đối tượng SHCN. Tuỳ theo bản chất của tranh chấp mà nó sẽ được giải quyết theo thủ tục hành chính hay toà án. Trong những năm gần đây, tình trạng vi phạm, xâm phạm về SHCN diễn ra khá phổ biến và ngày càng phức tạp, nhất là trong lĩnh vực sản xuất hàng hoá , vi phạm nhãn hiệu hàng hoá , kiểu dáng công nghiệp.Măc dù pháp luật trao cho các chủ thể quyền khởi kiện và thực tế những vụ vi phạm xảy ra rất nhiều nhưng số vụ kiện của chủ thể bị vi phạm lên toà án là rất ít.Việc xử li xâm phạm quyền SHTT nói chung và xâm phạm quyền SHCN nói riêng cỏ thể bằng biện pháp hành chính và Hình sự. Theo Điều 211 của Luật SHTT năm 2005 các hành vi xử phạt hành chính bao gồm: Thực hiện hành vi xâm phạm quyền SHTT gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội. Không chấm dứt hành vi xâm phạm quyền SHTT mặc dù đã được chủ thể quyền SHTT thông báo bằng văn bằng yêu cầu chấm dứt hành vi đó. Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hoá giả mạo về SHTT theo qui định tại điều 213 của luật này hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này; Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán vật mang nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý trùng hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này; Tuỳ theo mức độ vi phạm mà tỏ chức cá nhân thực hiện hành vi vi phạm có thể vị buộc phải chấm dứt hành vi vi phạm và bị áp dung một trong các hình thức phạt chính sau đây:cảnh cáo; phạt tiền. Xem pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính2./7/2002 Xem nghị định số12/1999/NĐ-CP(6/3/1999) qui định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực SHCN Xem điều 213,214,215 Luật sở hữu trí tuệ Thực tế cho thấy việc đặt ra các qui định trên không có tác dụnglớn bởi vì đây là lĩnh vực vi phạm liên quan đến tài sản có giá trị rất lớn nhưng mức xử phạt rất thấp.Trình độ cán bộ quản lí trong cơ quan xử phạt còn hạn chế trong các việc thẩm định mức độ vi phạm.Bởi vậy, một yêu cầu cấp thiết đặt ra đó là phải đổi mới cả về qui chế pháp lí và cơ quan xử phạt. Mặc dù trong Bộ luật Hình sự năm 1999 dã có những qui định về nhóm tội về SHTT, cụ thể tại Điều 171 qui định về “ Tội xâm phạm quyền SHCN ” 1.Người nào vì mục đích kinh doanh mà chiếm đoạt,sử dụng bất hợp pháp sáng chế, giả pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá,tên gọi, xuất xứ hàng hoá hoặc các đối tượng SHCN khác đang được bảo hộ tại Việt Nam gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt Hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xáo án tích mà còn vi phạm, thì bị vi phạm thì bị phạt tiền từ hai triệu đồng đến hai trăm triệu đồng hợac cải tạo không giam giữ đến hai năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì vbị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm: a. Có tổ chức b. Phạm tội nhiều lần c. Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 3. Ngưòi phạm tội có thể bị phạt từ mười triệu đồng đén một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đén năm năm. Thứ hai, tội vi phạm qui định về cấp văn bằng bảo hộ quyền SHCN là một tội phạm được thực hiện bởi chủ thể là những cán bộ nhà nước có thẩm quyền trong việc cấp văn bằng bảo hộ quyền SHCN và với lỗi cố ý. Đây có thể coi là loại hành vi nguy hiểm cho xã hội tương đương với một só tội phạm khác được qui định trong chương này như: Tội vi phạm các quy định về quản lí đất đai(Điều 174), tội vi phạm các qui định về quản lý rừng(Điều 176)v.v...Dấu hiệu cấu thành tội phạm khi thoả mãn đồng thời cả hai dấu hiệu là đã bị xử lí kỷ luật (hoặc bị xử phạt hành chính )về hành vi này và gây hặu quả nghiêm trọngXem Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 1999 Ngoài ra, còn một loại hành vi nguy hiểm cho xã hội trong lĩnh vực SHCN chưa được pháp luật hình sự ghi nhận cụ thể đó là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Một só dạng biểu hiện của loại hành vi này có thể kể ra ở đây như: tiết lộ bí mật kinh doanh nhằm gây khó khăn hoặc gây thiệt hại cho chủ sở hữu bí mật kinh doanh, sử dụng bất hợp pháp đối tượng quyền SHCN để. sản xuất hàng hoá gây mất uy tín của đối thủ cạnh tranh.v.v... Loại hành vi này có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của chủ sở hữu công nghiệp và nếu dẫn đến hậu quả nghiêm trọng thì nên được xem là hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội. Do đó, cần quy định trong Bộ luật Hình sự một tội phạm nữa trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp là tội cạnh tranh không lành mạnh. Và như vậy, pháp luật hình sự đã có thể bảo vệ quyền SHCN một cách đầy đủ và triệt để. 2. Thực tiễn áp dụng: 2.1 Đóng góp của luật: Từ năm 1995, với việc ban hành BLDS, chúnh ta đã hoàn thành một bước cơ bản của quá trình pháp điển hoá các quy phạm pháp luật về SHCN, tức là đưa các quy định cơ bản của pháp luật về bảo hộ quyền SHCN vào một văn bảncó hiệu lực pháp lí cao là Bộ luật dân sự của nước CHXHCN Việt Nam. Những vấn đề cơ bản của quyền SHCN đã được quy định rõ ràng hơn, đầy đủ hơn và phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, ví dụ như thời hạn của văn bằng bảo hộ sáng chế đã được quy định tăng lên đáng kể so với trước đây, từ 15 năm lên 20 năm, thời hạn đối với văn bằng bảo hộ giải pháp hữu ích tăng từ 6 đến 10 năm,... Thủ tục cấp văn bằng bảo hộ cũng được quy định lại một cách hợp lí hơn, rút bớt được thời gian nhằm đáp ứng nhanh hơn yêu cầu của các tổ chức, cá nhân. Thời gian qua, nhờ có sự ra đời của Luật Sở hữu trí tuệ, tình hình bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đang chuyển biến theo chiều hướng tích cực hơn.Các cơ quan chức năng đã có thái độ cương quyết hơn nhằm chống lại những vi phạm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung và sở hữu công nghiệp nói riêng, từ việc xây dựng cơ chế chính sách đến củng cố năng lực cho các cơ quan thực thi, hay tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cho người dân...Các cơ quan chức năng cũng đẩy mạnh công tác thanh kiểm tra và xử lý vi phạm sở hữu trí tuệ của các cơ quan sản xuất kinh doanh cũng như trong lưu thông xuất nhập khẩu. Việc xây dựng Luật Sở hữu trí tuệ là một động thái nhằm khẳng định quyết tâm của Việt nam trong việc khắc phục tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ. Việc quy định tập trung, thống nhất quyền SHCN trong một văn bản có tính pháp lí rất cao là BLDS, và đặc biệt là sự ra đời của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 thực sự là một bước tiến lớn của quá trình hoàn thiện pháp luật nước ta về bảo hộ quyền SHCN, tạo cơ sở pháp luật ngày càng đầy đủ hơn cho việc xác lập và bảo hộ quyền SHCN của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước. Nhờ có việc đăng ký xác lập quyền đối với các đối tượng SHCN này ngày càng không ngừng gia tăng. Những năm gần đây, số đơn đăng ký bảo hộ các đối tượng SHCN của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài vẫn được nộp đều đặn tại cục SHCN với mức khoảng trên 10000 đơn các loại trong một năm. Ở đa số các tỉnh, thành phố đều có đơn xin đăng ký bảo hộ quyền SHCN, trong đó 10 tỉnh, thành phố có số lượng đơn đăng ký nhiều nhất là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà nội, Đà Nẵng, Bến Tre, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng, Cần Thơ, Tiền Giang, và Long An. Tổ chức, cá nhân của hơn 80 nước trên thế giới có đối tượng SHCN được bảo hộ tại Việt nam, chủ yếu là các nước phát triển như Hoa Kỳ, Nhật, Anh, Italia... và nước trong khu vực có quan hệ kinh tế nhiều với ta như Hàn Quốc, Singapo, Thái Lan, Indonexia... Việc cho ra đời Luật Sở hữu trí tuệ đã khắc phục phần nào những hạn chế của thời kỳ trước đó khi mà những quy định pháp luật về bảo hộ SHTT và SHCN còn nằm rải rác và tản mạn trong rất nhiều văn bản mà phần lớn đều là các văn bản dưới luật, hiệu lực thi hành thấp, gây khó khăn phức tạp cho người vận dụng. Trước đây, việc quy định chất lượng tối thiểu để xác định như thế nào là hàng kém chất lượng,hàng giả? Việc sai phạm quy chế nhãn mác đến mức nào bị coi là hàng giả, nhãn hiệu trùng đến bao nhiêu phần trăm bị coilà hàng nhái? Tất cả đều chưa có quy định rõ ràng. Các nghị định về tên thương mại, xuất xứ địa lý, bảo hộ bí mật thương mại, sáng chế... không có chế tài xử lý nên các vi phạm tuy bị nêu tên nhưng lại không bị xử lý. Có thể nói Lụât SHTT 2005 tuy chưa thể nói là đã hoàn chỉnh nhưng nó cũng đã góp phần thống nhất những quy định rời rạc trong các văn bản dưới luật về một văn bản có giá trị pháp lí cao hơn và được quản lý tập trung hơn, đồng thời các quy định ấy trong quá trình bàn thảo cũng đã được điều chỉnh lại cho phù hợp với xu thế thời đại. Trong những năm gần đây, trị trường chuyển giao các đối tượng SHCN ở Việt Nam đang diễn ra tương đối sôi động. Từ 1997 đến 2001, Cục Sở hữu trí tuệ đã nhận được 1317 đơn đăng ký và cấp 806 Giấy chứng nhận đăng ký hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu các đối tượng SHCN http:// www.noipvietnam.com/vn/transferindproprights.html . Thông qua các hoạt động chuyển giao các đối tượng SHCN, nhiều doanh nghiệp đã thu lợi nhuận hàng tỉ đồng. Sự thành đạt của Café Trung Nguyên, Phở 24, Lụa tơ tằm AQ… thông qua các hợp đồng Franchising (nhượng quyền thương mại - một dạng hợp đồng chuyển giao đối tượng SHCN) là những ví dụ minh chứng 2.2 Những vấn đề còn tồn tại Hiệu quả hoạt động bảo vệ quyền SHCN của chúng ta còn quá nhỏ trong khi các vi phạm SHCN ngày càng biến tướng và tinh vi hơn. Vi phạm SHCN, hàng giả - hàng nhái đang ngày càng trầm trọng.Theo Cục Sở hữu trí tuệ, hàng năm Cục đều thụ lý hàng trăm vụ tranh chấp về các đối tượng SHCN và năm sau lại cao hơn năm trước và có xu hướng lan rộng ra hầu hết các lĩnh vực, ngành hàng của nền kinh tế. Đó là chưa kể đén các vụ vi phạm đối với nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi, xuất xứ hàng hoá do lực lượng công an kinh tế, Quản lý thị trường phát hiện và xử lí. Chỉ tính riêng tại Hà nội năm 2002, lực lượng Công an kinh tế đã phát hiện 143 vụ, Chi Cục quản lý thị trường Hà Nội từ đầu năm 2002 đến cuối năm 2005 đã kiểm tra và xử lý 331 vụ sản xuất và buôn bán hàng giả, trong đó số vụ vi phạm quyền SHCN chiếm tới 60%... Mặc dù như vậy, nhưng theo đánh giá của UBND Thành phố Hà nội thì kết quả phát hiện và xử lý nói trên chỉ bằng 20% thực tế số vụ vi phạm http:// www.vir.com.vn/Client/dautu/dautu. asp?CatID=48&DocID=454 . Tại hội thảo giới thiệu công nghệ phòng chống hàng giả - hàng nhái do Sở Khoa học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức cuối năm 2004, Honda đã công chiếu một bộ hình ảnh của hơn 20 cửa hàng san sát nhau tại khu mua bán đường An Dương Vương-Hùng Vương (Quận 5) và khu Phan Đăng Lưu-Hoàng Văn Thụ (Phú Nhuận) đang bày bán công khai các xe máy có kiểu dáng tương tự kiểu dáng xe Wave của Honda mang số bằng độc quyền Kiểu dáng công nghiệp số 4306. Theo lời ông Nguyễn Thanh Bình, Đại diện Honda Việt Nam thì "Đây chỉ là 20 cửa hàng lớn nhấtvừa được chụp ảnh, còn lại trên đại bàn Thành phố Hồ Chí Minh có hơn 100 cửa hàng vi phạm kiểu dáng công nghiệp, thậm chí có cửa hàng còn gắn luôn nhãn mác Honda vào kiểu xe nhái để bán cho người tiêu dùng". Hàng giả luôn là vấn nạn toàn cầu, gây đau đầu cho các nhà sản xuất lớn trên thế giới. Mặc dù ở đâu cũng có người sản xuất hàng giả, song nó tập trung nhiều ở một số nước, đặc biệt là những nước đang phát triển, với Trung Quốc là nguồn cung cấp hàng giả lớn nhất thế giới. Không đâu xa lạ, cuộc sống quanh ta mỗi ngày đều có sự hiện diện của hàng giả, hàng nhái. Những chiếc xe Dream tàu, Wave tàu, những chiếc mũ có gắn mác Nike, Adidas... tất cả đều vi phạm kiểu dáng công nghiệp, thương hiệu. Chỉ có điều chúng phổ biến đến mức chúng ta xem đó là chuyện bình thường, là một chuyện tất yếu xảy ra thường ngày. Bất cứ một loại hàng nào có khả năng thu hút khách thì chỉ sau một thời gian ngắn xuất hiện trên thị trường, đã xuất hiện hàng giả, hàng nhái. Chuyện về những chiếc xe máy là ví dụ điển hình. Hầu như tất cả các nhãn hiệu xe nổi tiếng đều bị nhái: Dream, Wave, Future, Jupiter... Những chiếc xe làm nhái lấy cái tên na ná như: Dren, Wawe,... Và chúng ta vẫn thường gọi tên những chiếc xe đó bằng cách gắn thêm một chữ "tàu" vào phía sau, và xem nó cũng là một "dòng xe" hợp pháp. Mỗi năm, công ty Honda bị làm giả 500000 chiếc xe và có tới 70% kiểu dáng xe của các doanh nghiệp Việt nam là vi phạm kiểu dáng công nghiệp của các nhãn hiệu khác. Hàng giả như đã nói, không chỉ là vấn nạn ở Việt Nam mà là một vấn đề vô cùng nhức nhối trên toàn thế giới. Cơ quan chống hàng giả Châu Âu (OLAF) ước tính hàng giả chiếm tới 5% - 7% tổng lượng hàng hoá giao dịch trên toàn cầu, gây thiệt hại cho các nền kinh tế Châu Âu khoảng 450 tỷ Euro mỗi năm. Tạp chí ngoại thương số 34 Lợi nhuận cao, khả năng bị xử phạt thấp cộng với sự sẵn có các trang thiết bị sản xuất hiện đại tạo ra một môi trường thuận lợi cho ngành công nghiệp hàng giả quy mô lớn. Nạn làm hàng giả gây tổn thất lớn cho doanh thu về thuế của chính phủ bởi vì chúng hoạt động hoàn toàn trong thị trường ngầm. Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2003 dự tính giá trị hàng giả và hàng nhái hằng năm tới 450tỉ Euro hay 5-7% thương mại thế giới. Theo Tổ chức Hải quan Thế giới, tổng trị giá ước tính từ thị trường hàng nhái lên tới 500 tỷ USD trong năm 2006, tương đương từ 5% đến 7% lượng hàng hóa toàn thế giới. Phòng Thương mại Mỹ cho biết trong vòng 20 năm qua, tổng trị giá hàng tiêu dùng giả trên toàn cầu ước tính là 2.000 tỷ USD, tập trung vào các mặt hàng băng đĩa, thuốc lá, túi xách, quần áo, dược phẩm, hàng điện tử và phụ tùng ô tô. Những loại hàng giả như đồ chơi, dược phẩm, phụ tùng xe không những gây thiệt hại về kinh tế, mà còn ảnh hưởng đến sức khoẻ, thậm chí cả tính mạng của người dân. Ở Việt Nam, từ nguồn nước máy, nước giếng khoan và thậm chí là nước ao hồ, các xưởng đem về lọc rồi đóng chai, dán lên đó những cái tên như Levi, Lavu, Vitales ... để đánh lừa khách hàng. Những chai Henesy sang trọng được các "chuyên gia hàng giả chế bằng rượu nấu, cồn và phẩm màu không hiểu do vô tình hay cố ý cũng được bày bán trong các cửa hàng, siêu thị được coi là rất đáng tin cậy đối với người tiêu dùng. Trong năm 2005, lực lượng quản lý thị trường liên tiếp thu giữ nhiều loại rượu giả, chủ yếu là Rermy Martin, Johney Worker, Hennesy, XO... Bên cạnh đó cũng có một số rượu nội bị làm giả như Vang Đà Lạt, rượu nước cốt ngoại của Công ty rượu Quốc tế (Bình Dương)... Nhiều doanh nghiệp sử dụng các nguyên vật liệu đặc thù, rồi dùng cả đội quân chuyên săn lùng hàng giả nhưng hiệu quả chẳng được là bao, bởi người sản xuất thì quá tinh vi, còn các cơ quan chức năng cơ quan chức năng thì dường như bất lực trong cuộc chiến này. Gần đây, các loại tem chống hàng giả cũng bị làm giả nhan nhản. Tem điện thoại di động của FPT, tem Halogram bảng màu đều được nhân bản y hệt. Nguy hiểm hơn là có những mặt hàng bị làm giả còn có thể gây thiệt mạng cho người tiêu dùng, nhất là trong lĩnh vực dược phẩm. Phần lớn những thuốc rao bán giá rẻ như thuốc an thần, dị ứng, chống thiếu máu, chống cholesterone… đều không được kiểm soát và không ai biết thực sự chúng chứa những thành phần gì. Ngoài ra là các dụng cụ y tế như kim tiêm, dao phẫu thuật, tay chân giả… cũng bị làm nhái nhiều. Không chỉ ở các nước đang phát triển như Việt nam, tại các nước phát triển người ta cũng mua phải thuốc giả như thuốc viêm phế quản giả ở Anh, thuốc chống trầm cảm giả ở Bỉ, thuốc chống ung thư giả ở Hà Lan… Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho biết thuốc giả đang có mặt tại tất cả các nước và chiếm 10% thị trường thuốc trên toàn cầu Không chỉ gặp khó khăn trong việc phát hiện ra các mặt hàng nhái nhãn mác, vi phạm thương hiệu, mà thậm chí khi doanh nghiệp đã tìm ra thủ phạm "đánh cắp" thương hiệu của mình mà vẫn không dễ gì có thể giành lại tên tuổi cho mình. Nhiều doanh nghiệp cho rằng, các cơ quan hữu quan như QLTT, CSKT chưa thật tích cực trong việc triển khai thực thi bảo hộ quyền SHCN. Đơn giản là vì phần lớn các vụ vi phạm đều do chính các doanh nghiệp bị vi phạm phát hiện, nhưng trên thực tế, khi phát hiện hành vi xâm phạm quyền SHCN thì việc xử lý thường kéo dài không có hiệu quả, xử phạt thì quá nhẹ... Khoảng giữa năm 2004, trên thị trường hàng hoá bỗng xuất hiện một cửa hàng kinh doanh thời trang quần áo, giày dép, lấy tên là Đồng Tâm và sử dụng logo của Công ty gạch Đồng Tâm đã đăng ký bảo hộ. Vậy là nhiều khách hàng của công ty khi đi ngang qua nhìn thấy biển hiệu của cửa hàng này đã lập tức gọi điện thoại đến lãnh đạo công ty để chúc mừng Đồng Tâm đã mở rộng thêm lực vực kinh doanh. Tuy nhiên những lời chúc mừng ấy không hề mang lại niềm vui cho ban lãnh đạo công ty, mà ngược lại, họ thấy khó chịu vì cửa hàng thời trang này đã lợi dụng thương hiệu của họ. Vì thế, Công ty đã có ý định kiện cửa hàng thời trang này nhưng lại gặp phải khó khăn vì thiếu cơ sở pháp lí vững chắc để kiện ...Và họ đành ngậm ngùi mà lo ngại rằng nếu như trong tương lai, Công ty có mở rộng kinh doanh sang lĩnh vực khác thì chắc hẳn họ sẽ gặp phải không ít khó khăn trong việc xây dựng và bảo hộ thương hiệu của mình. Từ đó cho thấy thực trạng pháp luật và thực thi quyền sở hữu công nghiệp của nước ta mặc dù đã có nhiều nỗ lực đáng ghi nhận trong việc đáp ứng các yêu cầu về bảo hộ quyền SHCN trong quá trình hội nhập, thế nhưng vẫn còn những điểm chưa tiến kịp so với thực tiễn và kinh nghiệm trên thế giới. Tình trạng vi phạm quyền SHCN đã và đang trở thành vấn nạn đáng lo ngại. Ở nước ta hiện nay, việc xâm phạm quyền SHCN ngày càng nghiêm trọng, tăng cả về số lượng và quy mô. Điều đáng lo ngại nhất là hàng giả không chỉ dừng ở những hàng hóa thông thường mà còn lan rộng đến sản phẩm hàng hóa đặc biệt như thuốc chữa bệnh, xi măng, sắt thép ... Có thể thấy bất cập lớn nhất hiện nay của chúng ta là vấn đề thực thi quyền với hiệu lực, hiệu quả thấp của cơ chế bảo hộ. Tình trạng xâm phạm đối với các quyền SHCN ở nước ta có nhiều nguyên nhân. Trong đó đặc biệt là vấn đề nhận thức của toàn xã hội về tầm quan trọng của bảo hộ quyền SHCN và ý thức tôn trọng pháp luật của người dân; sự thiếu quan tâm của các doanh nghiệp, thiếu hiểu biết của người dân về SHCN. Hầu hết các doanh nghiệp chịu đầu tư vào việc chống hàng giả, hàng nhái chủ yếu là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam thì hầu như chưa quan tâm, chỉ khi bị thiệt hại nặng nề mới bắt tay vào cuộc. Thực tế là nhiều doanh nghiệp không thể lường trước được việc nhãn hiệu hàng hóa uy tín của mình đã có người khác nhanh chân đăng ký bảo hộ "giúp" một cách hợp pháp. Thậm chí nhiều sản phẩm hàng hóa giả và nhái nhãn mác của họ đã được sản xuất và tung ra thị trường với số lượng lớn gây sự nhầm lẫn khó phân biệt cho người tiêu dùng. Nhiều doanh nghiệp phải làm lại từ đầu, bằng cách xây dựng một nhãn hiệu mới, điều này đồng nghĩa với việc họ tự đánh mất mình. "Trước thực tế trên, nhiều doanh nghiệp nhằm tránh những "vết xe đổ" đi trước, vội vàng làm thủ tục đăng ký bảo hộ sở hữu công nghiệp cho cả những sản phẩm/dịch vụ chưa thực sự chiếm lĩnh được thị trường". ví dụ về trường hợp của Vinataba. Sản phẩm của hãng này khó có thể cạnh tranh tại thị trường nước ngoài như Mỹ, Nhật Bản hoặc ở một số nước Đông Nam Á nhưng lại xin đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại các thị trường này. "Đây là một việc làm kiểu "lo bò trắng răng", khi chưa có điều kiện cũng như cơ hội xuất khẩu ra nước ngoài thì doanh nghiệp chưa cần thiết phải làm như vậy". Ngược lại với kiểu "lo xa" như trên, một số doanh nghiệp vẫn thờ ơ và thiếu hiểu biết về bảo hộ sở hữu công nghiệp. Họ cho biết, xây dựng nhãn hiệu không nhất thiết cứ phải bảo hộ cho nhãn hiệu của mình, chỉ cần tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ cũng đủ tạo uy tín đối với người tiêu dùng, như vậy đã thực sự có chỗ đứng trên thương trường. Trong khi đó, không ít doanh nghiệp lại rất mơ hồ về bảo hộ sở hữu công nghiệp, không hiểu mình sẽ được lợi ích gì khi tham gia đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Theo các chuyên gia trong và ngoài nước, các doanh nghiệp Việt Nam thường đánh đồng nhãn hiệu và thương hiệu nên nhiều khi chính mình làm sai mà không biết. Chẳng hạn việc tranh chấp nhãn hiệu RANDO, tuy doanh nghiệp mới chỉ nộp đơn đăng ký nhãn hiệu KANDO nhưng đã vội triển khai việc in ấn, quảng cáo và sau đó nhận được đơn yêu cầu ngừng khai thác nhãn hiệu trên khiến doanh nghiệp tiêu tốn một khoản tiền và công sức khá lớn. Hậu quả vật chất mà doanh nghiệp phải chịu thì đã rõ nhưng điều đáng nói hơn là mọi kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp cũng theo đó mà bị trì hoãn. Bên cạnh đó là thực tế năng lực cán bộ còn thấp và tổ chức hệ thống cơ quan thực thi quyền lực chưa phù hợp. Một số đối tác quan trọng của Việt Nam trong quá trình đàm phán gia nhập WTO đều nhận định vấn đề thực thi là một điểm yếu mà Việt Nam cần sớm khắc phục. Đặc biệt với cơ quan Hải quan, vấn đề khó khăn nhất trong cuộc chiến chống vi phạm SHTT và SHCN là địa hình đất nước quá đa dạng, trong khi lực lượng hải quan chỉ chốt chặn hạn chế tại các hải cảng, sân bay, cửa khẩu; nên việc phát hiện hàng hoá xuất nhập khẩu vi phạm quyền SHTT gặp rất nhiều khó khăn nên hiệu quả hoạt động cũng rất khiêm tốn. Thêm vào đó, phần lớn cán bộ hải quan lại chưa được trang bị kiến thức về SHTT, trình độ hiểu biết và nhận thức về SHTT chưa đáp ứng được yêu cầu... Theo các chuyên gia về quản lý thương mại, hiện nay có 5 cơ quan được Chính phủ giao trách nhiệm thực thi bảo hộ SHTT: UBND các cấp, cơ quan công an (công an kinh tế), Cục quản lý thị trường, Hải quan, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường. Trong các cơ quan này, ngoại trừ Hải quan là lực lượng thực thi bảo hộ SHTT cũng như SHCN tại biên giới, còn lại các cơ quan tập trung thực thi bảo hộ trong thị trường nội địa. Nhưng các cơ quan này lại không có sự phối hợp với nhau, không có cơ quan nào đóng vai trò chủ trì, điều phối chung, chưa có một cơ quan nào được giao trách nhiệm chính về một ngành hàng hay địa giới ngành hàng hay địa giới hành chính khi xảy ra các vi phạm. III- MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ SHCN Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP 1. Quá trình hội nhập và quan điểm hoàn thiện, phát triển của Đảng và Nhà nước về vấn đề SHCN Đường lối phát triển kinh tế của nước ta trong hai mươi năm đầu của thế kỷ XXI được thể hiện một cách toàn diện trong Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng. Tiếp đó, Hội nghị Trung ương 6 khoá IX khẳng định tiếp tục thực hiện những quan điểm đã nêu trong Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII về khoa học và công nghệ. Đồng thời, những quan điểm trong chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2010 cũng liên quan chặt chẽ với vấn đề pháp luật về SHCN. Theo đó, Đại hội đưa ra quan điểm tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ. Để tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế cần tiếp tục tiến hành, bổ sung và hoàn thiện các lĩnh vực pháp luật như: pháp luật về tài chính, ngân hàng, các giao dịch bảo đảm; pháp luật về sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ; pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh và kiểm soát độc quyền,... Phát triển thị trường khoa học công nghệ là điều kiện để phát triển nhanh khoa học và công nghệ, đưa khoa học và công nghệ vào phục vụ cho các hoạt động kinh tế thương mại. Trong đó, quyền SHTT nói chung và quyền SHCN noi riêng chính là nền tảng pháp lý của thịt trường khoa học công nghệ. Trong các văn kiện chính thức, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt nhấn mạnh vấn đề hoàn thiện cơ sở pháp lý và nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật về SHTT. Có chế tài xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật về SHTT; bảo hộ, khuyến khích việc sử dụng những giải pháp, sáng chế mới. Tăng cường năng lực quản lý của Nhà nước và công tác thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực SHTT. Đảng cũng đã nhận định rằng thời đại ngày nay là thời đại của nền kinh tế tri thức. Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra như vũ bão, sự nghiệp đổi mới của chúng ta phải được đặt trên nền tảng vững chắc là nguồn lực trí tuệ của con người Việt nam. Đảng ta khẳng định: lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản để phát triển nhanh và bền vững, đồng thời việc phát triển kinh tế - xã hội phải dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ. Tri thức là yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển bền vững. Muốn "đi tắt đón đầu", "đuổi kịp" các nước khác trên thế giới thì phải có tri thức, có tiềm năng trí tuệ, có năng lực sáng tạo. Quan điểm này khẳng định vảitò của tri thức đối với sự phát triển của nền kinh tế, từ đó khẳng định đòi hỏi phải bảo hộ quyền SHTT với tư cách là nguồn tài nguyên của nền kinh tế tri thức. Trên cơ sở đó, Đảng đặt ra yêu cầu đổi mới pháp luật về SHCN theo hướng tạo thuận lợi cho việc hình thànhvà phát triển thị trường khoa học và công nghệ. Pháp luật về bảo hộ quyền SHCN có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra "hàng hoá" cho thị trường khoa học và công nghệ. Việc bảo hộ và thực thi hiệu quả quyền SHCN có vai trò mở rộng quy mô thị trường khoa học và công nghệ. Sẽ không có thị trường khoa học và công nghệ lành mạnh, nếu không xử lý kịp thời và nghiêm khắc các vi phạm quyền SHCN và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tóm lại, việc tăng cường bảo hộ và thực thi quyền SHCN, chống cạnh tranh không lành mạnh và kiểm soát độc quyền liên quan tới quyền SHCN, cùng với các quy định pháp luật hợp lý về chuyển giao công nghệ sẽ thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường khoa học và công nghệ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việc đổi mới pháp luật về sở hữu công nghiệp cũng cần theo hướng đảm bảo tính đồng bộ của cả hệ thống pháp luật và đảm bảo tính hài hoà với pháp luật Quốc tế. Nó đòi hỏi phải có quá trình nghiên cứu, tập trung trí tuệ của nhiều ngành khoa học, nhằm xây dựng được một hệ thống pháp luật về SHCN hoàn chỉnh, đảm bảo cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, cũng như quá trình tự do hoá thương mại được thực hiện có hiệu quả. 2. Một số khuyến nghị Trong vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, để thực thi luật có hiệu quả cần rất nhiều yếu tố như một hệ thống pháp luật có tính hiệu lực cao và có tính khả thi; ý thức chấp hành pháp luật của các tổ chức, cá nhân phải được nâng lên; hoạt động của các cơ quan chức năng phải đồng bộ và các biện pháp xử phạt phải có tính răn đe cao. Hiện nay, Luật sở hữu trí tuệ khẳng định rõ Bộ Khoa học và công nghệ là cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý chung về Sở hữu trí tuệ, đồng thời trực tiếp quản lý phần sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên, tham gia vào quá trình này không thể nào chỉ có một mình Bộ Khoa học và Công nghệ, bởi Sở hữu công nghiệp liên quan đến rất nhiều lĩnh vực khác nhau thuộc phạm vi quản lý của nhiều Bộ, ngành. Vì thế, tất cả các bộ ngành đều phải tham gia, nếu vấn đề phát sinh thuộc cơ quan nào thì cơ quan đó phải giải quyết, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ chịu trách nhiệm phối hợp và phân công giải quyết hợp lý. Do đó, các cơ quan cần phối hợp thật tốt với nhau để tránh xảy ra tình trạng đùn đẩy nhau hoặc "bỏ trống trận địa". Cùng với việc đẩy mạnh thực thi Luật, Chính phủ cũng nên để tâm xây dựng và tiến hành các Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp phát triển tài sản trí tuệ, trong đó chú ý nâng cao nhận thức cho các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp trong việc tôn trọng pháp luật và bảo vệ tài sản trí tuệ. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển và tự bảo vệ tài sản trí tuệ của mình. Chương trình Hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp nhằm hai mục tiêu: Nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam về bảo hộ sở hữu trí tuệ để các doanh nghiệp chủ động xây dựng, khai thác, phát triển và bảo vệ tài sản trí tuệ Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam thông qua việc hỗ trợ xác lập, khai thác, bảo vệ và phát triển tài sản trí tuệ, trong đó ưu tiên hỗ trợ các doanh nghiệp có các sản phẩm chiến lược, có tiềm năng xuất khẩu. Chương trình có 3 nội dung chính: Tuyên truyền, đào tạo về sở hữu trí tuệ, hỗ trợ doanh nghiệp tổ chức hoạt động sở hữu trí tuệ Hỗ trợ xác lập, khai thác, bảo vệ và phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp ở trong và ngoài nước (trong đó có hỗ trợ doanh nghiệp đăng ký bảo hộ, khai thác và phát triển giá trị của phần mềm máy tính và tác phẩm văn học - nghệ thuật; tư vấn và hướng dẫn doanh nghiệp đăng ký bảo hộ, khai thác và tiến hành các biện pháp chống sao chép hoặc sử dụng trái phép phần mềm máy tính, tác phẩm văn học - nghệ thuật; hỗ trợ hoạt động quảng cáo, giới thiệu phần mềm máy tính và các tác phẩm văn học - nghệ thuật); Hỗ trợ doanh nghiệp khai thác thông tin sở hữu trí tuệ. Chương trình sẽ được thực hiện từ năm 2005 đến năm 2010 dưới sự chủ trì của Bộ Khoa học Công nghệ. Các cơ quan phối hợp gồm: Bộ Tài chính, Bộ Văn hoá Thông tin, Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, Bộ Thuỷ sản, Bộ Y tế, Bộ Thương mại, Bộ Giáo dục & Đào tạo, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các Hội, Hiêp hội ngành nghề liên quan như Hội Tin học Việt Nam.... Việt Nam cũng cần nghiên cứu kinh nghiệm của các nước khác, đặc biệt là các nước trong khu vực vì trong lĩnh vực bảo vệ các quyền Sở hữu trí tuệ, họ đã tiến xa hơn chúng ta rất nhiều. Cụ thể hơn, Việt Nam cần xây dựng một toà án chuyên biệt về sở hữu trí tuệ. Đây là việc mà Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và Xinhgapo đã làm. Tòa án này phải có một hàng ngũ thẩm phán được đào tạo chuyên biệt về sở hữu trí tuệ và giỏi ngoại ngữ. Việc đẩy mạnh công tác bảo hộ quyền SHCN có lẽ cần bắt đầu thực hiện từ vấn đề gây bức xuc nhất hiện nay, đó là vấn đề hàng giả, hàng nhái. Theo ý kiến của các cơ quan làm nhiệm vụ chống hàng giả, hiện nay, công tác chống hàng giả và hàng kém chất lượng vẫn chưa hiệu quả. Vấn đề là các doanh nghiệp cần chủ động trong việc phối hợp với các cơ quan chức năng để chức năng để chống hàng giả mới bảo vệ được uy tín sản phẩm của mình, cũng như bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng. Kinh nghiệm trong việc chống hàng giả của Công ty nước mắm Phú Quốc Thanh Hà là phải đầu tư máy móc, công nghệ để thường xuyên thay đổi mẫu mã sản phẩm, phát tài liệu để hướng dẫn người tiêu dùng biết cách phân biệt hàng thật - hàng giả. Còn biện pháp chống hàng giả của hãng giày Biti's là thông qua hội trợ, triển lãm, trong đó trưng bày cả những mẫu hàng giả, đồng thời gửi tới khách hàng những cẩm nang tiêu dùng kèm theo tư vấn của nhân viên công ty. Như vậy, để bảo hộ quyền SHCN có hiệu quả, trách nhiệm không phải chỉ có các cơ quan nhà nước mà đây còn là trách nhiệm của các chủ sở hữu của các đối tượng SHCN. Sự phối hợp chặt chẽ giữa chủ sở hữu và các cơ quan thực thi sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc xử lý vi phạm. Tuy nhiên còn một hoạt động cần quan tâm trước mắt là làm thế nào nâng cao nhận thức của chính người tiêu dùng, vì suy cho cùng, hàng giả tồn tại và tiêu thụ được chính do sự bất cẩn vô tình hay hữu ý của người tiêu dùng. Trên thực tế, việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá đối với Doanh nghiệp Việt Nam còn khá mới mẻ, vì thế khi triển khai việc đăng ký nhãn hiệu, Doanh nghiệp nên lựa chọn đâu là lãnh thổ doanh nghiệp sẽ xin đăng ký bảo hộ cho nhãn hiệu của mình dựa trên chiến lược phát triển chung của doanh nghiệp. Tại Việt nam, có thể không quá khó khăn khi chuẩn bị hồ sơ để xin đăng ký nhãn hiệu, thậm chí doanh nghiệp có thể tự mình chuẩn bị hồ sơ. Tuy nhiên hiệu quả của công việc này khó có thể liệu trước được, vì thế cách tốt nhất là doanh nghiệp nên mời một luật sư tư vấn để tránh những việc gây tốn kém. Hơn nữa, về lâu dài, sau khi nhãn hiệu đã được đăng ký hoặc bảo hộ, doanh nghiệp càng cần phải nỗ lực triển khai sử dụng nhãn hiệu của mình, có như vậy mới tôn giá trị nhãn hiệu, thương hiệu của mình lên một mức độ cao hơn. Pháp luật Việt Nam về SHCN trong thời gian tới cũng cần lưu tâm đến vấn đề về công nghệ sinh học. Công nghệ sinh học được hiểu ngắn gọn là toàn bộ những phương pháp công nghệ sử dụng các cơ thể sống và quá trình sinh học để sản xuất ra những sản phẩm cần thiết. Nó được thừa nhận là một ngành công nghệ hứa hẹn nhất trong tương lai. Ngành công nghệ này tạo ra những bước đột phá trong y học và đem lại những cơ hội mới trong việc sản xuất thực phẩm và năng lượng cũng như đưa ra những giải pháp cho vấn đề ô nhiễm môi trường.Trong giới khoa học, theo truyền thống, khái niệm về sáng chế thường được giới hạn trong các lĩnh vực vật lý và hoá học vì các cơ thể sống được xem như nằm ngoài phạm vi công nghệ. Tuy nhiên, với khả năng có thể kiểm soát và mô tả các quy trình trong lĩnh vực công nghệ sinh học, khái niệm sáng chế sẽ phải mở rộng hơn để gồm cả các sáng chế về công nghệ sinh học. Nếu có thể kiểm soát một quy trình công nghệ sinh học và mô tả quy trình đó theo cách mà các chuyên gia trong lĩnh vực có thể thực hiện trên sơ sở bản mô tả thì đã tạo ra một sáng chế trong lĩnh vực sinh học. Giống như các lĩnh vực công nghệ khác, việc bảo hộ pháp lí đối với các sáng chế về công nghệ sinh học là hoàn toàn hợp lí. Các sáng chế trong lĩnh vực công nghệ sinh học là sự sáng tạo của con người giống như các sáng chế khác, và đặc biệt các sáng chế đó là kết quả của việc nghiên cứu và những nỗ lực quan trọng cùng với sự đầu tư trong các phòng thí nghiệm. Bởi vậy, nhu cầu bảo hộ các sáng chế về công nghệ sinh học là điều tất yếu Ở rất nhiều nước trên thế giới, công nghệ sinh học đã được công nhận về tầm quan trọng và được pháp luật bảo hộ. Thực tiễn ở những nước đã xây dựng hệ thống pháp luật bảo hộ công nghệ sinh học từ rất sớm như Liên minh Châu Âu và Hoa kỳ cho thấy rằng: bảo hộ sự sáng tạo trong lĩnh vực công nghệ sinh học đem lại nhiều lợi ích to lớn cho nhiều lĩnh vực của đời sống cũng như phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay, việc bảo hộ sáng chế cho các sáng chế về công nghệ sinh học đã được Hiệp định TRIPS và thông tư EC về bảo hộ pháp lí các sáng chế về công nghệ sinh học ghi nhận. Ở Châu Âu, thông tư EC 98/44 có hiệu lực vào ngày 30/07/1998 đã hài hoà các quy định liên quan đến việc bảo hộ sáng chế đối với các sáng chế về công nghệ sinh học. Tuy vậy, cho tới nay, lĩnh vự công nghệ sinh học còn xa lạ và quá mới mẻ ở Việt nam. Việt Nam chưa từng tham gia bất kỳ công ước quốc tế nào trong lĩnh vực công nghệ sinh học và cũng chưa có văn bản pháp luật nào quy định bảo hộ các sáng chế về công nghệ sinh học. Vấn đề công nghệ sinh học hoàn toàn bị lãng quên khỏi pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật SHTT nói riêng. Vì vậy, điều cấp bách là chúng ta phải nhận thức được tầm quan trọng của công nghệ sinh học và phải có cơ sở pháp lý chắc chắn để khuyến khích những sáng tạo trong lĩnh vực công nghệ sinh học của các tổ chức, cá nhân trong nước; đồng thời cũng khuyến khích những sáng tạo trong lĩnh vực này từ nước ngoài được chuyển vào nước ta và sử dụng chúng một cách hiệu quả. Trong xu thế toàn cầu hoá như hiện nay, bên cạnh mặt tích cực của nó là sự hợp kinh tế giữa các quốc gia, các khu vực, hỗ trợ và thúc đẩy nhau cùng phát triển; thì kéo theo nó cũng là những hành vi xâm phạm trên phạm vi toàn cầu. Bất cứ trong một lĩnh vực nào thì ở các quốc gia dù sơm hay muộn cũng sẽ đều xuất hiện những vi phạm như nhau, và vấn đề SHCN cũng không là ngoại lệ. Vì thế, Việt Nam cần tăng cường hợp tác với các quốc gia, các khu vực, các tổ chức quốc tế để cùng nhau trao đổi kinh nghiệm và biện pháp phối hợp chống lại những hành vi vi phạm trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội nói chung và SHCN nói riêng. Ngoài việc nỗ lực tham gia đàm phán và ký kết các công ước Quốc tế về SHCN, Việt Nam cũng đã có những chương trình hợp tác mới, ví dụ như với Liên minh Châu Âu. Gần đây, Việt Nam và Liên Minh Châu Âu đã thực hiện chương trình Hợp tác chống hàng giả và hàng nhái. Ngày 20.3.2006 – Trong nỗ lực nâng cao hợp tác giữa Việt Nam và EU về tăng cường thực thi sở hữu trí tuệ (IP), Chương trình hợp tác về sử hữu trí tuệ EC-ASEAN (ECAP II ECAP II là một sáng kiến do Ủy ban châu Âu tài trợ. Với tổng ngân sách 9 triệu Euro, có một văn phòng khu vực tại Thailand . ECAP II hợp tác với cục sở hữu trí tuệ của Brunei, Cambodia, Indonesia, Laos, Malaysia, Philippines, Singapore Thailand Và Việt Nam nhằm tăng cường bảo vệ sở hữu trí tuệ với phương châm thúc đẩy trao đổi thương mại và kiến thức EU-ASEAN. Việt Nam là nước nhận được hợp phần lớn nhất trong dự án này với số tiền tài trợ là 1,5 triệu euro từ ECAP II. ) và Tổng cục hải quan Việt Nam đồng tổ chức một cuộc hội thảo trong 5 ngày về “Áp dụng Quản lý Rủi ro về Quyền sở hữu Trí tuệ cho Hải quan và Công an Kinh tế” tại khách sạn Sheraton Hà Nội. Các cán bộ hải quan và cảnh sát kinh tế từ Hà Nội và miền bắc Việt Nam đã chia sẻ kinh nghiệm và chuyên môn của mình với các chuyên gia Liên minh châu Âu (EU), các chuyên gia từ các cơ quan hải quan EU và lĩnh vực tư nhân về các biện pháp hiệu quả chống lại việc làm giả và nhái, với phương châm thúc đẩy thương mại giữa EU và Việt Nam. Một mạng lưới sản xuất và thương mại hóa hàng giả phi pháp toàn cầu được tổ chức tinh vi đã trở thành một mối đe dọa vô hình đối với nền kinh tế, danh tiếng, thị trường lao động và khả năng cạnh tranh trong thương mại Việt Nam. Theo điều 69 của Hiệp định WTO về quyền sở hữu trí tuệ liên quan tới thương mại (TRIPs), EU và Việt Nam đã tăng cường hợp tác chống lại việc làm hàng giả và hàng nhái. Hội thảo này, với sự hợp tác của Tổng vụ Thuế và Hải quan EC (TAXUD) và các chuyên gia hải quan EU về các công nghệ hải quan cập nhật được sử dụng tại EU để “Kiểm soát ít hơn mà hiệu quả hơn”. Kiểu dáng công nghiệp, tên thương mại, chỉ dân địa lý, nhãn hiệu hàng hoá… của hàng hoá dịch vụ của mỗi thương nhân đưa ra để phân biệt với hàng trăm, thậm chí hàng nghìn hàng hoá, dịch vụ cùng loại của các thương nhân khác trên thị trường. Các hàng hoá dịch vụ muốn tiêu thụ được phải tạo ra được những điểm khác biệt trong tâm trí của khách hang và đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng, khiến họ phải tin tưởng và chấp nhận sản phẩm. Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, hàng hoá dịch vụ của các thương nhân chỉ có thể trụ vững và chiến thắng trong cuộc cạnh tranh khốc liệt để giành giật thị trường và chiếm lĩnh thị phần nếu hàng hoá, dịch vụ của họ có chứa đựng các đối tượng của quyền SHCN với tính chất là nhân tố đặc trưng của hàng hóa, dịch vụ và là một yếu tố cấu thành của hàng hoá, dịch vụ. Các đối tượng của quyền SHCN là tài sản của thương nhân. Thực tiễn đời sống kinh doanh, thương mại cho thấy giá trị của một doanh nghiệp không chỉ biểu hiện thông qua các tài sản hữu hình thể hiện trên sổ kế toán của doanh nghiệp. Bởi các tài sản hữu hình đôi khi chỉ có giá trị rất nhỏ so với các tài sản vô hình- những tài sản không hiện hữu trên sổ kế toán của doanh nghiệp như các đối tượng của quyền SHCN. Nhiều doanh nghiệp có giá trị được định giá từ các đối tượng của quyền SHCN lơn hơn rất nhiều giá trị của các tài sản hữu hình của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh, cung ứng các mặt hàng, dịch vụ cao cấp, thức ăn, nước uống, ô tô, công nghệ thông tin… Hàng năm, tuần báo Bussiness Week của Hoa kỳ đều công bố giá trị của 100 nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng trên thế giới, ví dụ như nhãn hiệu Coca-cola được định giá tới 69,6 tỷ $; Microsoft 64 tỷ $; IBM 51,1 tỷ $; Disney 29,2 tỷ $; Mc.Donals 26,3 tỷ $... Thương hiệu với nhà quản lí, NXB Chính trị Quốc gia 2004 . Thời gian gần đây, nhiều nhãn hiệu hàng hoá của Việt nam cũng đã được định giá tới hàng triệu USD như kem P/S được công ty Elida định giá 5 triệu $, kem đánh răng Dạ Lan 2,9 triệu $ Thương hiệu với kinh doanh và doanh nghiệp trong quá trình hội nhập, Tạp chí thương mại, Bộ thương mại 12/2003 . Qua đó, chúng ta có thể khẳng định, các đối tượng của quyền SHCN chính là một loại tài sản có giá trị kinh tế vô cùng to lớn của doanh nghiệp. Các đối tượng SHCN là một loại tài sản của doanh nghiệp thì quyền sở hữu các đối tượng SHCN chính là quyền tài sản của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể khai thác quyền tài sản này để thu lợi nhuận và chính trong các quá trình khai thác các đối tượng SHCN sẽ không còn là một tài sản đơn thuần mà là một loại hàng hoá đặc biệt của doanh nghiệp. Vì vậy, vấn đề bảo hộ công nghiệp đang ngày càng trở nên bức thiết hơn khi mà loại hàng hoá đặc biệt này ngày càng đóng góp một tỷ trọng không nhỏ cho doanh thu của doanh nghiệp. Bảo hộ quyền SHCN có hiệu ứng tích cực xét trên mọi bình diện của nền kinh tế. Việc làm này sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế; khuyến khích các hoạt động đầu tư, chuyển giao công nghệ; bảo vệ lợi ích quốc gia trong lĩnh vực SHCN; hỗ trợ tích cực, có hiệu quả cho hoạt động nghiên cứu - triển khai, sản xuất và lưu thông hàng hoá. Là những nhà kinh tế tương lai của đất nước và được tiếp cận với nền kinh tế toàn cầu, mỗi người sinh viên như chúng tôi cần xây dựng cho mình sự hiểu biết tổng quan về tình hình kinh tế thế giới nói chung và tất nhiên chủ yếu vẫn là nền kinh tế Đất nước, và nhất là không thể thờ ơ trước những vấn đề nổi cộm như vấn đề về bảo hộ SHCN. Đặc biệt, chúng tôi không chỉ là một sinh viên kinh tế mà chúng tôi được đào tạo để làm kinh tế trên cơ sở luật pháp và pháp luật về kinh tế. Vì thế mà vấn đề như quyền SHCN được pháp luật bảo hộ như thế nào dĩ nhiên là mối quan tâm rất thiết thực. Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi rất hy vọng có thể cùng những người thuộc thế hệ trẻ như chúng tôi ý thức được đầy đủ hơn về quyền SHCN và bảo hộ quyền SHCN tại Việt Nam cũng như xu hướng phát triển của lĩnh vực này trên toàn thế giới. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I- Các văn bản pháp quy: 1. Bộ Luật dân sự 1995 2. Bộ luật Hình sự năm 1999 3. Bộ Luật dân sự 2005 4. Luật Sở hữu trí tuệ 2005 5. Pháp lệnh bảo hộ quyền SHCN (1989) II- Các tài liệu : 1. Th.S Nguyễn Thái Mai - Khoa Quốc tế Đại học Luật Hà Nội - Bảo hộ quốc tế quyền Sở hữu công nghiệp, Những điểm mới và phát triển. 2. Th.S Lỹ Văn Quyền - Phó trưởng Bộ môn Bổ trợ tư pháp - Đấu tranh chống tội phạm SHCN. 3. TS. Phùng Trung Tập - Giảng viên khoa Luật dân sự, Đại học Luật HN - Những bước tiến của pháp luật Việt Nam về Sở hữu công nghiệp trong 20 năm đổi mới. 4. GS. TS. Lê Minh Tâm - Hiệu trưởng ĐH Luật Hà Nội - Những điểm cơ bản về chính sách phát triển khoa học - công nghệ của Đảng cộng sản Việt Nam và yêu cầu đặt ra đối với việc đổi mới pháp luật về Sở hữu công nghiệp. 5. ThS. Nguyễn Như Quỳnh - Giảng viên Khoa Luật dân sự, ĐH Luật Hà Nội- Quyền Sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực công nghệ sinh học, một số vấn đề pháp lí và thực tiễn. 6. Tạp chí Kinh tế Ngoại thương 7. Báo đời sống và pháp luật 8. Website: 9. Website: MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35805.doc
Tài liệu liên quan