Đề tài Pháp luật vi phạm hành chính ở Việt Nam hiện nay : thực trạng và giải pháp

PHẦN MỞ ĐẦU 1) Tính cấp thiết của đề tài, ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Trong bối cảnh Việt nam đang không ngừng nỗ lực thực hiện công cuộc cải cách thủ tục hành chính và nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước thì tình trạng vi phạm pháp luật hành chính diễn ra ngày càng phổ biến và trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau, nó đặt ra yêu cầu cần phải có những hoạt động hữu ích cụ thể của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, các cá nhân nhằm cải thiện tình, xử lý tốt các hành vi vi phạm hành chính của những cá nhân, tổ chức, để thúc đẩy công cuộc cải cách hành chính nhanh chóng và hiệu quả. Vấn đề xử lý vi phạm hành chính đã thu hút được nhiều nhà khoa học, các cán bộ trong nghành cùng nhiều học giả tham gia nghiên cứu, và cũng đã có ít nhiều các công trình về vấn đề này: Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính của Hoàng Xuân Hoan- Nguyễn Trí Hoà (1993); Hỏi đáp về Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính của Đặng Thanh Sơn - Hà Thị Nga (1996); Tìm hiểu về xử phạt vi phạm hành chính của hai tác giả Phạm Dũng - Hoàng Sao (1998) . Tất cả đều mong muốn cung cấp các kiến thức pháp luật về xử lý vi phạm hành chính cho đông đảo độc giả, đồng thời cũng nêu ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói riêng. 2) Mục đích nghiên cứu. Vi phạm hành chính là một vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm, nó ảnh hưởng sâu rộng đến trật tự quản lý nhà nước, sự ổn định xã hội, đến quyền và lợi ích hợp pháp của quần chúng nhân dân. Nhận thức được tầm quan trọng, ý nghiã lý luận và ý nghĩa thực tiễn của vấn đề tôi mong mốn việc tham gia nghiên cứu đề tài này sẽ làm rõ phần nào những mặt hạn chế còn tồn tại trong công tác xử lý vi phạm hành chính ở nước ta hiện nay, để từ đó đưa ra những kiến nghị, phương hướng cải thiện thực trạng, nâng cao chất lượng quản lý nhà nước. Với vai trò là một cá nhân và một sinh viên luật trong xã hội, nhận thức được nghĩa vụ cơ bản của mình đối với cộng đồng nói chung, và ngành khoa học pháp lý nói riêng, tôi thực hiện đề tài cũng mong góp phần nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật xử lý vi phạm hành chính cho bản thân và đông đảo quần chúng nhân, từ đó hình thành một nếp sống văn minh, tiến bộ, tuân thủ những quy định của Hiến pháp và pháp luật. 3) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và công tác xử lý vi phạm hành chính của các cơ quan có thẩm quyền ở việt Nam hiện nay. Đề tài này tập trung nghiên cứu thực trạng vi phạm pháp luật hành chính và công tác xử lý vi phạm hành chính của các cơ quan quản lý hành chính, đồng thời cũng nêu lên những quy định hiện hành về xử lý vi phạm hành chính. 4) Phương pháp nghiên cứu. Tôi chọn phương pháp duy vật biện chứng làm phương pháp nghiên cứu trong quá trình thực hiện đề tài này, đồng thời tôi cũng sử dụng nhiều phương pháp hỗ trợ khác: phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp phân tích; tổng hợp; tư duy lịch sử . ĐỀ TÀI: Pháp luật vi phạm hành chính ở Việt Nam hiện nay : thực trạng và giải pháp 5) Bố cục. Đề tài gồm ba phần: 5.1 Phần mở đầu. -Tính cấp thiết của đề tài, ý nghĩa khoa học và thực tiễn. -Mục đích nghiên cứu. -Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. -Phương pháp nghiên cứu. -Bố cục. 5.2 Phần nội dung. Gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và những quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.Chương 2: Thực trạng xử lý vi phạm hành chính ở Việt Nam hiện nay.Chương 3: Những đề xuất, kiến nghị. 5.3 Phần kết luận

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2845 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật vi phạm hành chính ở Việt Nam hiện nay : thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phạm hành chính (2002) thì thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính chủ yếu thuộc về các cơ quan hành chính Nhà nước, trong đó cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền chung ở địa phương (Ủy ban nhân dân các cấp) có thẩm quyền xử phạt đối với mọi vi phạm hành chính xảy ra trên địa bàn quản lý của mình. Còn các cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực có thẩm quyền xử phạt đối với các vi phạm hành chính xảy ra trong ngành, lĩnh vực mình phụ trách. Cụ thể: 1.6.1 Cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính. Không phải mọi cơ quan thuộc bộ máy nhà nước có thực hiện các chức năng quản lý nhà nước đều có thẩm quyền xử lý ci phạm hành chính. - Uỷ ban nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã). - Công an nhân dân. - Bộ đội biên phòng. - Cảnh sát biển. - Hải quan. - Kiểm lâm. - Cơ quan thuế. - Quản lý thị trường. - Thanh tra chuyên nghành. - Giám đốc cảng vụ ( hàng hải, thuỷ nội địa, hàng không). - Toà án nhân dân. - Cơ quan thi hành án dân sự. 1.6.2 Người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính. Trong các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm nói trên thì những người được quy định có thẩm quyền được xử lý vi phạm hành chính lại khá nhiều (68 người), cụ thể là: - Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp xã(xã, phường, thị trấn). - Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp huyện ( quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh). - Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh (tỉnh , thành phố trực thuộc trung ương). - Chiến sĩ công an nhân đang thi hành công vụ. - Trạm trưởng, đội trưởng của chiến sĩ công an nhân dân đang thi hành công vụ. - Trưởng công an cấp xã. - Trưởng công an cấp huyện. - Trưởng phòng cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội. - Trưởng phòn cảnh sát giao thông. - Trưởng phòng cảnh sát phòng cháy, chữa cháy. - Trưởng phòng cảnh sát kinh tế. - Trưởng phòng cảnh sát phòng chống ma tuý. - Trưởng phòng cảnh sát hình sự. -Trưởng phòng quản lý xuất, nhập cảnh. - Thủ trưởng đơn vị cảnh sát cơ động từ cấp Đại đội trở lên, hoạt động có tính chất độc lập. - Trạm trưởng Trạm công an cửa khẩu khu chết xuất. - Chiến sĩ bộ đội biên phòng đang thi hành công vụ. - Đội trưởng của chiến sĩ Bộ đội biên phòng đang thi hành công vụ. - Chỉ huy trưởng Tiểu khu biên phòng. - Chỉ huy trưởng Hải đội biên phòng. - Trưởng đồn biên phòng. - Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng cấp tỉnh. - Chỉ huy trưởng Hải đoàn biên phòng trực thuộc bộ tư lệnh Bộ đội biên phòng. - Giám đốc Công an cấp tỉnh. - Cục trưởng Cục Cảnh sát kinh tế. - Cục trưởng Cục Cảnh sát phòng cháy chữa cháy. - Cục trưởng Cục Cảnh sát hình sự. - Cục trưởng Cục Cảnh sát hình sự. - Cục trưởng Cục Quản lý xuất, nhập cảnh. - Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông trật tự. - Cục trưởng Cục quản lý hành chính về trật tự xã hội. - Cục trưởng Cục Cảnh sát phòng chống ma tuý. - Cảnh sát viên Đội nghiệp vụ Cảnh sát biển đang thi hành công vụ. - Tổ trưởng Tổ Nghiệp vụ Cảnh sát biển. - Đội trưởng Đội Nghiệp vụ Cảnh sát biển. - Hải đội trưởng Hải đội cảnh sát biển. - Hải đoàn trưởng Hải đoàn Cảnh sát biển. - Chỉ huy trưởng Vùng Cảnh sat biển. - Cục trưởng Cục Cảnh sát biển. -Đội trưởng nghiệp vụ thuộc Chi cục Hải quan. - Chi cục trưởng Chi cục Hải quan. - Đội trưởng Đội Kiểm soát Hải quan cấp tỉnh, liên tỉnh. - Đội trưởng Đội Kiểm soát chống buôn lậu và Hải đội trưởng Hải đội kiểm soát trên biển ( thuộc cục điều tra chống buôn lậu thuộc Tổng cục Hải quan). - Cục trưởng Cục Hải quan (cấp tỉnh). - Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu, thuộc Tổng cục Hải quan. - Kiểm lâm viên đang thi hành công vụ. - Trạm trưởng trạm kiểm lâm. - Hạt trưởng Hạt kiểm lâm, Hạt trưởng Hạt phúc kiểm lâm sản. - Đội trưởng đội kiểm lâm lưu động. - chi cục trưởng chi cục kiểm lâm. - cục trưởng cục kiểm lâm( cấp tỉnh). - Nhân viên thuế vụ đang thi hành công vụ. - trạm trưởng trạm thuế, Đội trưởng Đội thuế. - Chi cục trưởng chi cục thuế (cấp huyện). - Cục trưởng cục thuế (cấp tỉnh). - kiểm soát viên thi trường đang thi hành công vụ. - Đội trưởng Đội quản lý thị trường. - Chi cục trưởng chi cục quản lý thị trường ( cấp huyện). - Cục trưởng Cục quản lý thị trường( cấp tỉnh) - thanh tra viên chuyên nghành đang thi hành công vụ. - Chánh thanh tra chuyên nghành cấp Sở. - chánh thanh tra chuyên nghành, Bộ, Cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ. - Giám đốc cảng vụ hải quan. - Giám đốc cảng vụ thuỷ nội địa. - Giám đốc cảng vụ hàng không. - Thẩm phán toà án được phân công làm chủ toạ phiên toà. - Chấp hành viên thi hành án dân sự. - Đội trưởng Đội thi hành án dân sự. - Trưởng phòng Thi hành án dân sự cấp tỉnh, phòng thi hành án cấp quân khu và cấp tương đương. 1.7Các văn bản pháp luật quy định về xử lý vi phạm hành chính. 1) Pháp lệnh xử lý các vi phạm hành chính 2002 . 2) Các văn bản pháp luật quy định trong từng lĩnh vực cụ thể như: + Nghị định 99/2009/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. +Nghị định 111/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. +Thông tư 193/2009/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định chi tiết thi hành Nghị định số 97/2007/NĐ-CP ngày 07/06/2007 của Chính phủ quy định việc xử lý vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan và Nghị định số 18/2009/NĐ-CP. +Thông tư 26/2010/TT-BCA của Bộ Công an về việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn, nội dung, trình tự kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông đường sắt. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. Xử lý vi phạm hành chính là một trong các lĩnh vực cấu thành nên bốn trách nhiệm pháp lý quan trọng trong hệ thống pháp luật của đất nước. Do đó, xây dựng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc hoàn thiện hệ thống pháp luật. Từ lâu, QH đã quan tâm và đánh giá đúng vai trò, tầm quan trọng của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong quản lý nhà nước, trong việc bảo đảm duy trì và nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành chính. Năm 1989, UBTVQH ban hành Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính, đánh dấu mốc cho quá trình xây dựng pháp luật trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính. Qua các năm 1995, 2002 và 2008, UBTVQH đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh, nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống các vi phạm hành chính cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Qua mỗi lần sửa đổi, bổ sung, thay thế, Pháp lệnh đã được hoàn thiện thêm một bước.  Báo cáo của Bộ Tư pháp tổng kết tình hình thực hiện 8 năm Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 – được các đại biểu tham dự Hội thảo Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đánh giá cao. Theo Báo cáo, các văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính do Trung ương và các địa phương ban hành đã quy định rõ đối tượng áp dụng, nguyên tắc xử lý, các hình thức xử phạt và các biện pháp xử lý vi phạm hành chính khác, thẩm quyền áp dụng... Nhìn chung, các văn bản này đã bảo đảm tính khả thi và đáp ứng kịp thời yêu cầu đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm trong lĩnh vực hành chính. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về xử lý vi phạm hành chính cũng luôn được các cấp, ngành, các địa phương quan tâm triển khai thực hiện. Kết quả của nhiều cuộc khảo sát thực tế của Bộ Tư pháp tại một số địa phương trên cả nước cho thấy, công tác đấu tranh, phòng chống vi phạm hành chính tại các địa phương về cơ bản đã đạt được những kết quả tích cực. Pháp luật trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính đã từng bước được hoàn thiện, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác xử lý vi phạm hành chính, tăng cường tính răn đe, giáo dục người vi phạm, thiết lập trật tự, kỷ cương xã hội. Tuy nhiên, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đã bộc lộ một số điểm bất cập như: nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính chưa đầy đủ; các quy định về hình thức xử phạt hiện hành chưa phong phú, không đáp ứng được đòi hỏi của công tác đấu tranh, phòng chống các vi phạm hành chính trong tình hình mới; các văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong nhiều lĩnh vực chưa được bổ sung, thay thế kịp thời dẫn tới tình trạng không thể triển khai trong thi hành. Nhiều quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính không còn phù hợp với tình hình xử lý vi phạm hành chính hiện nay; các quy định về thẩm quyền xử lý vi phạm, hình thức xử phạt vi phạm hành chính mâu thuẫn, chồng chéo, trùng lắp giữa các văn bản. Xuất phát từ vấn đề đó Chính phủ đã ban hành Nghị định 128/2008/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2008 cho phù hợp với các quy định mới đã được sửa đổi. Mặc dù mới ban hành nhưng Nghị định 128/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/01/2009 và thay thế Nghị định 134 đã thể hiện một số bất cập, vướng mắc khi cơ quan có thẩm quyền áp dụng xử lý vi phạm hành chính. Nghị định 128 có những điểm mới cơ bản so với Nghị định 134 như Nghị định 128 hướng dẫn cụ thể hơn việc tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo Điều 16 của Pháp lệnh theo đó thời hạn áp dụng đối với hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn tối đa không quá 12 tháng; đối với hình thức tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề không thời hạn thì thời hạn áp dụng từ 12 tháng trở lên. Thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề được tính từ thời điểm tạm giữ giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Trường hợp một người cùng một lúc thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính mà các hành vi này bị tước quyền sử dụng cùng một loại giấy phép, chứng chỉ hành nghề thì chỉ áp dụng tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn dài nhất quy định đối với các hành vi vi phạm; nếu không cùng một loại giấy phép, chứng chỉ hành nghề thì áp dụng riêng đối với từng hành vi. Vấn đề ủy quyền xử lý vi phạm hành chính cũng được Nghị định 128 hướng dẫn cụ thể, chặt chẽ hơn so với Nghị định 134 như trước đây việc ủy quyền xử lý vi phạm hành chính chỉ được thực hiện trong trường hợp cấp trưởng vắng mặt nhưng theo quy định của Nghị định 128 thì cấp trưởng có thể ủy quyền bất cứ thời gian nào mặc dù có vắng mặt hay không. Ngoài ra việc ủy quyền xử lý vi phạm hành chính phải xác định rõ phạm vi, nội dung, thời hạn ủy quyền và đối với trường hợp quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính thì ủy quyền chỉ được thực hiện khi cấp trưởng vắng mặt. Mức xử phạt vi phạm hành chính theo thủ tục xử phạt đơn giản so với Nghị định 134 cũng được nâng lên theo những quy định mới của Pháp lệnh. Trước đây, mức phạt tối đa của Nghị định 134 theo thủ tục xử phạt đơn giản là 100.000 đồng thì nay Nghị định 128 mức phạt tối thiểu là 10.000 đồng đến mức tối đa là 200.000 đồng. Ngoài ra, trường hợp nộp tiền phạt nhiều lần cũng được Nghị định 128 hướng dẫn cụ thể theo đó trong trường hợp bị phạt tiền từ 10.000 đồng trở lên đối với cá nhân và từ 100.000 đồng trở lên đối với tổ chức và đang gặp khó khăn đặc biệt về kinh tế và có đơn đề nghị nộp tiền phạt nhiều lần. Đơn đề nghị của cá nhân phải được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc tổ chức nơi người đó làm việc xác nhận hoàn cảnh khó khăn đặc biệt về kinh tế; đối với đơn đề nghị của tổ chức phải được xác nhận của cơ quan thuế (hoặc cơ quan chịu trách nhiệm quản lý nhà nước) thì sẽ được nộp tiền phạt nhiều lần. Thời hạn nộp tiền phạt nhiều lần không quá 12 tháng kể từ ngày quyết định xử phạt có hiệu lực… Tuy mới được bàn hành nhưng các quy định mới của Nghị định 128 thể hiện một số bất cập, vướng mắc khi áp dụng cụ thể qua các biểu mẫu sử dụng trong xử lý vi phạm hành chính. Điều 38 Nghị định 128 quy định các mẫu biên bản và quyết định để sử dụng trong xử phạt vi phạm hành chính được ban hành kèm theo các nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước căn cứ vào các Điều 46, 47, 48, 49, 54, 55, 55a, 56, 61, 71, 78, 87, 96 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính. Trước đây, Nghị định 134 ban hành đầy đủ các biểu mẫu biên bản, quyết định xử lý vi phạm hành chính, cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính chỉ cần áp dụng các mẫu thống nhất này để thực hiện việc xử lý vi phạm hành chính. Nhưng khi Nghị định 128 thay thế Nghị định 134 hướng dẫn các mẫu biên bản và quyết định để sử dụng trong xử phạt vi phạm hành chính được ban hành kèm theo các nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính căn cứ vào các Điều 46, 47, 48, 49, 54, 55, 55a, 56, 61, 71, 78, 87, 96 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính. Thực tiễn áp dụng xử lý vi phạm hành chính sẽ gặp nhiều vướng mắc vì trên thực tế không phải tất cả các nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính đều có kèm theo các biểu mẫu này. Ví dụ đối với Nghị định 74/2003/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực đều có ban hành các biểu mẫu biên bản, quyết định xử lý vi phạm hành chính để áp dụng… Hầu hết các Nghị định xử lý vi phạm hành chính sau này đều căn cứ vào các biểu mẫu ban hành kèm theo Nghị định 134. Như vậy, trong khoảng thời gian từ ngày 01/01/2009 (ngày có hiệu lực của Nghị định 128) thì các biểu mẫu áp dụng cho việc xử lý vi phạm hành chính chưa được quy định cụ thể và nếu căn cứ vào các điều, khoản trong Pháp lệnh thì các biểu mẫu xử lý vi phạm hành chính sẽ không thống nhất về hình thức gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính. Do đó hiện nay hầu hết các cơ quan có thẩm quyền đều “chữa cháy” bằng cách sử dụng các biểu mẫu của Nghị định 134 mặc dù Nghị định này đã được thay thế và bãi bỏ.     Thiết nghĩ, công tác xử lý vi phạm hành chính là một trong những công việc quan trọng nhằm đảm bảo trật tự xã hội, giáo dục ý thức cá nhân, tổ chức trong việc tuân thủ pháp luật. Do đó việc ban hành các quy định cũng như các thủ tục áp dụng xử lý vi phạm hành chính cần rõ ràng, cụ thể hơn tạo điều kiện cho các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính áp dụng và thực hiện đúng luật. Tuy mức độ của các vụ vi phạm hành chính không mang tính nguy hiểm đối với xã hội như các vụ phạm tội hình sự, song trong thực tế, số lượng vi phạm hành chính diễn ra gấp nhiều lần so với phạm tội hình sự. Các vụ vi phạm hành chính diễn ra đa dạng, phong phú về hình thức, về biểu hiện, có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả quản lý Nhà nước, tới an ninh trật tự, an toàn xã hội và môi trường kinh doanh đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cụ thể: Trong hoạt động thi hành án dân sự việc xử lý vi phạm hành chính vẫn chưa thực sự đi vào đời sống xã hội, chưa đáp ứng được mục tiêu đặt ra là răn đe, phòng ngừa vi phạm để từ đó nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước. Cho đến nay, số lượng chấp hành viên, Trưởng thi hành án của các địa phương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động tư pháp chưa nhiều; cơ quan thanh tra chuyên ngành tư pháp còn rất ít khi thực hiện thẩm quyền đó. Thực tiễn, khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự, một số người có thẩm quyền còn nhiều lúng túng khi vận dụng các quy định của pháp luật để xử phạt. Trong khi đó, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận lớn những người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các hoạt động thi hành án dân sự còn chưa cao; tại nhiều địa  phương, đã để xảy ra tình trạng chống đối cơ quan thi hành án bằng nhiều hình thức từ những việc như cố tình không nhận giấy báo, giấy triệu tập của cơ quan thi hành án ... đến những hành vi nghiêm trọng hơn như phân tán hoặc làm hư hỏng tài sản thuộc diện kê biên để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án, thậm chí là phá huỷ niêm niêm phong, huỷ hoại tài sản đã kê biên... Thực tế đó đã chứng tỏ vi phạm hành chính trong lĩnh vực này không những chưa giảm mà còn có xu hướng ngày càng nhiều hơn và phức tạp hơn. Trong lĩnh vực giao thông cũng còn nhiều bất cập trong các quy định mới của pháp luật về xử phạt giao thông. Ví dụ như: Nghị định số 146/2007/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ vừa mới ban hành đã bộc lộ bảy bất cập. Một là, Điều 15, Khoản 2 ( mục b) Khoản 3 ( mục a, Nghị định 46) quy định xử phạt việc xây dựng lều, quán,nhà ở, công trình kiên cố... vi phạm đất dành cho đường bộ không có trong Luật Giao thông. Như vậy, đất dành cho đường bộ - là thuật ngữ "ngoại đạo", không thể bao gồm cả đất của đường bộ và hành lang an toàn đường bộ. Điều 15 quy định như thế sẽ không xử lý, dỡ bỏ được lều quán, nhà ở, công trình kiên cố... xây dựng vi phạm hành lang an toàn đường bộ (một trong những khâu đang yếu kém nhất về quản lý hạ tầng giao thông hiện nay). Hai là, điều 19, khoản 4 (mục d) chỉ quy định xử phạt người lái ôtô "không có giấy chứng nhận hoặc tem kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường". Chứ không có quy định xử phạt người lái ôtô xả khí thải không đạt tiêu chuẩn cho phép. Dẫn đến thực tế, ôtô có xả khói đen ngòm như khói lò gạch di động, cảnh sát giao thông (CSGT) trông thấy cũng chỉ biết "chào thua" - khi lái xe xuất trình đầy đủ giấy hoặc tem kiểm định đang còn hạn sử dụng; mặc dù tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện nay đã chế tạo được loại máy xách tay kiểm tra khí thải ôtô để trang bị cho CSGT tuần tra kiểm soát cơ động trên đường. Về khí thải ôtô đã vậy, còn khí thải môtô, xe gắn máy thì Nghị định 146 thả nổi hoàn toàn. Trong khi Luật Giao thông đường bộ (Điều 48) quy định ôtô, môtô, xe gắn máy phải đảm bảo tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường (có đủ bộ phận giảm khói). Ba là, phanh (thắng), gương chiếu hậu... là những thiết bị an toàn hết sức cần thiết - bắt buộc đối với môtô, xe gắn máy, vì nó liên quan trực tiếp đến tai nạn giao thông (TNGT). Thế nhưng, điều 20 (NĐ 146) quy định chế tài phạt quá nhẹ (mức phạt tiền từ 50.000 đến 100.000 đồng). Trong khi đó, người đi môtô không đội mũ bảo hiểm thì điều 9 quy định phạt tiền tới 200.000 đồng. Bốn là, tình trạng môtô, xe gắn máy từ tỉnh nọ mua bán, chuyển vùng về tỉnh kia, từ người này bán cho người khác mà không làm thủ tục chuyển vùng, sang tên đổi chủ còn tương đối phổ biến, gây khó khăn cho công tác điều tra TNGT (khi lái xe gây tai nạn bỏ chạy). Song về tình trạng lỗi vi phạm này, điều 34 chỉ quy định phạt tiền từ 100.000 - 200.000 đồng là chưa thoả đáng. Năm là, người đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi điều khiển môtô - vi phạm Luật Giao thông đường bộ; theo điều 24 (Nghị định 146) chỉ bị phạt tiền từ 40.000 đến 60.000 đồng, không đủ sức răn đe đối với những học sinh THPT chưa đủ 18 tuổi. Sáu là, người đi môtô, xe gắn máy đội mũ bảo hiểm rởm cũng "vô tư" như người đội mũ bảo hiểm thật. Vì điều 9 chỉ quy định phạt tiền người đi môtô, xe gắn máy không đội mũ bảo hiểm, chứ không quy định cấu tạo và tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn (TCVN) của mũ. Hậu quả, sẽ rất hạn chế tác dụng của việc bắt buộc người đi môtô, xe gắn máy đội mũ bảo hiểm. Bảy là, phương tiện ôtô sẽ rất phát triển ở nước ta trong tương lai gần. Đó là xu thế tất yếu và là tiến bộ xã hội. Vì vậy, Luật Giao thông đường bộ (Điều 9) đã quy định xe ôtô có trang bị dây an toàn thì người lái xe và người ngồi hàng ghế phía trước trong xe ôtô phải thắt dây an toàn. Nhưng điều 8 (NĐ 146) quy định phạt tiền người không thắt dây an toàn ôtô chỉ từ 40.000 đồng đến 60.000 đồng, so với phạt tiền người đi môtô không đội mũ bảo hiểm (tới 200.000 đồng) là còn... "nhất bên trọng, nhất bên khinh". Ngày 2/4, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị định số 34/2010/NĐ-CP (NĐ 34) quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ để thay thế Nghị định số 146/2007/NĐ-CP. Tuy nhiên cũng bộc lộ bất cập: Thứ nhất, NĐ 34 mới ban hành vẫn còn một số điểm chưa hợp lý, tại Điều 15 quy định về việc “xử phạt cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ”. Trong khi thuật ngữ “đất dành cho đường bộ” lại không có trong Luật Giao thông. Luật Giao thông chỉ quy định: Đất của đường bộ (là phần đất trên đó công trình đường bộ được xây dựng) lẫn hành lang an toàn đường bộ (là dải đất dọc hai bên đường để bảo đảm an toàn giao thông, vẫn có thể cấy lúa, trồng khoai). Như vậy, đất dành cho đường bộ là thuật ngữ “ngoại đạo”, không thể bao gồm cả đất của đường bộ và hành lang an toàn đường bộ. Điều 15 quy định như thế sẽ không thể xử lý các trường hợp vi phạm hành lang an toàn đường bộ, một trong những khâu đang yếu kém nhất về quản lý hạ tầng giao thông hiện nay. Thứ hai, Điều 19, khoản 4, phần c chỉ quy định xử phạt người lái ô-tô “không có giấy chứng nhận hoặc tem kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường” chứ không quy định xử phạt người lái ô-tô không có bộ phận giảm khói và xả khí thải không đạt tiêu chuẩn giới hạn. Như vậy, nếu thực tế ô-tô có xả khói đen ngòm, cảnh sát giao thông (CSGT) trông thấy nhưng cũng không thể làm gì khi lái xe xuất trình đầy đủ giấy hoặc tem kiểm định đang còn hạn sử dụng. Thứ ba, phanh (thắng), đèn chiếu gần (đèn cốt), gương chiếu hậu… là những thiết bị an toàn hết sức cần thiết - bắt buộc đối với xe mô-tô, gắn máy, vì nó liên quan trực tiếp đến tai nạn giao thông (TNGT). Thế nhưng Điều 20 quy định chế tài phạt quá nhẹ, chỉ từ 80.000 - 200.000 đồng, trong khi, quy định không đội mũ bảo hiểm (không liên quan trực tiếp đến TNGT mà chỉ có thể hạn chế chấn thương sọ não khi xảy ra TNGT) thì Điều 9 quy định phạt tiền tới 200.000 đồng! Và ở Điều 9 này, Nghị định cũng “bỏ qua” quy định về chất lượng của mũ bảo hiểm mà điều này đáng ra phải được đề cập để hạn chế tình trạng mũ rởm tràn lan hiện nay. Thứ tư, về lỗi vi phạm xe mô-tô, xe gắn máy từ tỉnh nọ mua bán, chuyển vùng về tỉnh kia; từ người này bán cho người kia mà không làm thủ tục chuyển vùng, sang tên đổi chủ ở Điều 33 chỉ quy định phạt tiền từ 100.000 – 200.000 đồng là chưa thỏa đáng, làm khó cho CSGT khi xử lý TNGT; đồng thời dễ tiếp tay cho nạn trộm cắp xe diễn ra khá phổ biến hiện nay. Thứ năm, việc quy định khu vực nội thành đô thị để nhân dân chấp hành mức phạt sẽ liên quan đến nhiều lĩnh vực khác như: địa giới hành chính, quy hoạch kiến trúc xây dựng, giá cả đền bù đất đai… Do đó, không nên chỉ giao UBND hai thành phố là Hà Nội và  TP HCM như tại Điều 57, khoản 6, mà nên giao Bộ Nội vụ chủ trì phối hợp cùng UBND hai thành phố này với các bộ Xây dựng, Tư pháp… trình Thủ tướng ký - ban hành quy định (khu vực nội thành) Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, nhiều vụ vi phạm hành chính được phát hiện với mức độ nghiêm trọng ở nhiều tỉnh, thành khác nhau trong cả nước, thể hiện tình hình vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ngày càng gia tăng, diễn biến phức tạp. Vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền đã thể hiện quyết tâm trong việc xử lý đối với các hành vi vi phạm. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng xuất hiện nhiều vướng mắc và bất cập của pháp luật trong việc xử lý đối với các vi phạm xảy ra. Điều này càng khẳng định thêm tính bức thiết của việc nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (BVMT) hiện hành thể hiện chủ yếu bằng Nghị định số 81/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 về xử phạt VPHC trong lĩnh vực BVMT do đó, ở đây chúng tôi giới hạn nhận xét về một số hạn chế của Nghị định này. Định nghĩa VPHC là một trong những nội dung quan trọng không thể thiếu trong các nghị định xử phạt VPHC trong các lĩnh vực cụ thể. Việc định nghĩa đúng thể hiện đầy đủ các yếu tố pháp lý của VPHC có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho việc áp dụng pháp luật. Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 81/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực BVMT (sau đây viết tắt là Nghị định 81/2006/NĐ-CP) định nghĩa: “VPHC trong lĩnh vực BVMT là những hành vi vi phạm các quy định QLNN trong lĩnh vực BVMT do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm và theo quy định của Pháp lệnh Xử lý VPHC và Nghị định này phải bị xử lý VPHC”. Định nghĩa về VPHC trong lĩnh vực BVMT nêu trên được cấu trúc theo công thức tương tự như định nghĩa về VPHC tại Điều 1 Pháp lệnh Xử phạt VPHC do Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 30/11/1989 và có hiệu lực ngày 01/01/1990 (viết tắt là Pháp lệnh 1989). Chỉ có sự thay đổi “xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước” thành “vi phạm các quy định quản lý nhà nước” đồng thời nêu cụ thể lĩnh vực quản lý nhà nước (QLNN) là lĩnh vực BVMT. Tuy nhiên, theo nhiều ý kiến thì định nghĩa VPHC tại Pháp lệnh 1989 vẫn còn một số hạn chế nhất định như: vẫn còn thiếu dấu hiệu về năng lực trách nhiệm hành chính của chủ thể và không chính xác khi cho rằng quy tắc QLNN là khách thể của vi phạm1; việc xác định khách thể của VPHC là các quy tắc QLNN dẫn tới chỗ có thể được hiểu đó là khách thể của cả vi phạm kỷ luật và không bao gồm được các quan hệ xã hội liên quan tới sở hữu nhà nước, các quyền tự do và lợi ích hợp pháp của công dân. Theo Giáo trình Luật hành chính Việt Nam của Đại học Quốc gia Hà Nội thì định nghĩa trên vẫn cần phải được chính xác hóa thêm ở một số khía cạnh: Một là, yếu tố khách thể của VPHC (những quan hệ xã hội bị VPHC xâm hại) không được thể hiện trong định nghĩa, tuy rằng điều này rất quan trọng. Công thức “xâm phạm quy tắc QLNN” không phải chỉ khách thể vi phạm, mà là chỉ tính trái pháp luật của hành vi, vì khách thể VPPL là quan hệ xã hội, chứ không phải là “quy tắc”, mà quy tắc chính là nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hai là, công thức “mà không phải là tội phạm hình sự” rất dễ làm cho chủ thể có thẩm quyền xử phạt VPHC hiểu lầm, dẫn đến chỗ tự cho mình có quyền đánh giá hành vi nào là vi phạm hình sự, hành vi nào là VPHC, mà xem nhẹ việc dựa vào những quy định của Bộ luật Hình sự. Tôi hoàn toàn thống nhất với các quan điểm trên về định nghĩa VPHC. Vì khách thể VPHC (những quan hệ xã hội bị VPHC xâm hại) là một yếu tố rất quan trọng, thể hiện tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi VPHC, nên cần phải thể hiện trong định nghĩa về VPHC. Năng lực chịu trách nhiệm hành chính của chủ thể vi phạm là dấu hiệu bắt buộc của VPPL nói chung và VPHC nói riêng. Do đó, các dấu hiệu này cần phải được khẳng định ngay trong định nghĩa về VPHC. Ngoài ra, việc thay công thức “mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt VPHC” thành “mà theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm hành chính”4 vừa ngắn gọn, vừa đầy đủ ý nghĩa hơn, thể hiện được sự phân biệt giữa VPHC với tội phạm vì chỉ có VPHC mới chịu trách nhiệm hành chính còn tội phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự, đồng thời cụm từ “chịu trách nhiệm hành chính” bao hàm được cả “phải bị xử phạt VPHC” và bị áp dụng các biện pháp khôi phục. Vì thế, định nghĩa về VPHC trong lĩnh vực BVMT nêu tại Nghị định 81/2006/N-CP cũng có những hạn chế như định nghĩa về VPHC trong Pháp lệnh 1989. Trên cơ sở nghiên cứu các dấu hiệu và yếu tố pháp lý của VPHC trong lĩnh vực BVMT (chủ thể, khách thể, mặt chủ quan, mặt khách quan) và những phân tích như trên, theo chúng tôi, VPHC trong lĩnh vực BVMT có thể được định nghĩa như sau: VPHC trong lĩnh vực BVMT là hành vi (hành động hoặc không hành động) vi phạm các quy định QLNN trong lĩnh vực BVMT, có lỗi (cố ý hoặc vô ý) do cá nhân có năng lực trách nhiệm hành vi hành chính hoặc tổ chức thực hiện, xâm hại đến những quan hệ pháp luật BVMT phát sinh trong quá trình khai thác, sử dụng hoặc tác động đến một hoặc một vài yếu tố của môi trường mà theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm hành chính. Nghị định 81/2006/NĐ-CP quy định 25 hành vi VPHC trong lĩnh vực BVMT từ Điều 8 đến Điều 32 bao gồm các hành vi vi phạm (HVVP) các quy định về cam kết BVMT; đánh giá tác động môi trường và đánh giá môi trường chiến lược; về BVMT trong hoạt động sản xuất kinh doanh (ví dụ như: hành vi xả nước thải, khí thải, bụi vượt tiêu chuẩn); về quản lý chất thải; về bảo tồn thiên nhiên; phòng, chống sự cố môi trường; hoạt động QLNN về BVMT... Mặc dù khách thể của VPHC là các quan hệ xã hội bị xâm hại nhưng HVVP trong các văn bản thường không nêu quan hệ xã hội bị xâm hại mà được mô tả thông qua các quy định của pháp luật mà hành vi đó xâm phạm (ví dụ: HVVP các quy định về cam kết BVMT). Đồng thời, thông thường các HVVP được xác định dựa theo hệ thống quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đó (mặc dù, về nguyên tắc việc xác định này phải căn cứ vào yêu cầu đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật và thực tiễn vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đó). Do đó, việc đánh giá mức độ đầy đủ của hành vi VPHC trong một lĩnh vực thường được đối chiếu giữa số HVVP đã được quy định với hệ thống các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đó. So với hệ thống các quy phạm pháp luật trong lĩnh vệ BVMT thì 25 hành vi được quy định nêu trên, theo chúng tôi, là chưa đầy đủ. Vì vậy, để bảo đảm cho các quy định của pháp luật được thực hiện và đáp ứng yêu cầu phòng chống VPHC trong lĩnh vực BVMT cần phải quy định bổ sung các hành vi VPHC vào Nghị định xử lý VPHC trong lĩnh vực này. Điều này cũng giống như hình sự hóa trong lĩnh vực hình sự, dĩ nhiên ở mức độ đơn giản hơn nhiều. Bên cạnh đó, việc quy định hành vi nào, hình thức xử phạt ra sao đối với hành vi đó cần phải có những đánh giá cụ thể mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi (ví dụ một số hành vi: vi phạm quy định về lập, thực hiện đề án BVMT; vi phạm các quy định về BVMT đối với cơ sở thuộc danh mục các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; vi phạm các quy định về BVMT đối với chất thải nguy hại như: các quy định đối với chủ nguồn thải chất thải nguy hại; vận chuyển; xử lý, tiêu hủy, chôn lấp; vi phạm các quy định về BVMT trong hoạt động chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản; vi phạm các quy định về BVMT biển; vi phạm các quy định về BVMT nơi công cộng; vi phạm về BVMT đối với khu đô thị, khu dân cư tập trung...). Hình thức “tạm đình chỉ hoạt động cho đến khi thực hiện xong biện pháp BVMT cần thiết” và “cấm hoạt động, buộc di dời” không được Nghị định 81/2006/NĐ-CP quy định cụ thể là hình thức phạt bổ sung hay biện pháp khắc phục hậu quả. Nếu căn cứ vào khoản 2 Điều 12 Pháp lệnh Xử lý VPHC năm 2002 và Điều 7 Nghị định 81/2006/NĐ-CP thì cả hai hình thức nêu trên đều không được xem là hình thức phạt bổ sung, vì các quy định này chỉ quy định hai hình thức phạt bổ sung là tước quyền sử dụng giấy phép và tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm. Theo chúng tôi, hình thức “tạm đình chỉ hoạt động cho đến khi thực hiện xong biện pháp BVMT cần thiết”, xét về nội dung thì phải được xem là biện pháp ngăn chặn. Bởi vì: thứ nhất, về thời gian, đây là biện pháp tạm thời thực hiện trong thời hạn nhất định phải có lúc kết thúc. Thứ hai, việc tạm thời đình chỉ hoạt động tức là tạm ngưng hoạt động của cơ sở sản xuất vi phạm, bản thân của việc tạm ngưng này hoàn toàn không phát sinh một sự phục hồi nào cho tình trạng hiện tại, mà chỉ là sự chấm dứt nguyên nhân dẫn đến việc vi phạm và có ý nghĩa để đảm bảo cho việc thực hiện các biện pháp khắc phục khác. Thực tế, việc xử lý VPHC Công ty Vedan (tại tỉnh Đồng Nai) vào tháng 10/2008 vừa qua của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cho thấy những vướng mắc từ việc xác định không rõ ràng nêu trên. Khi ban hành quyết định xử lý đối với Công ty Vedan, Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường không áp dụng hình thức tạm đình chỉ hoạt động Công ty Vedan mà có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai ban hành quyết định tạm đình chỉ hoạt động Công ty Vedan. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai thì cho rằng, tạm đình chỉ là hình thức phạt bổ sung nên  không thể ban hành quyết định vì Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành quyết định xử phạt rồi mà nguyên tắc xử phạt VPHC thì chỉ xử phạt một lần đối với một HVVP. Vướng mắc này lẽ ra đã không xảy ra nếu như trong Nghị định 81/2006/NĐ-CP cụ thể hóa Điều 18 của Nghị định số 134/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 về Quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý VPHC năm 2002: “Khi phát hiện VPHC, người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định đình chỉ ngay HVVP. Quyết định đình chỉ có thể là quyết định bằng văn bản hoặc quyết định thể hiện bằng lời nói, còi, tín hiệu hoặc các hình thức khác tuỳ từng trường hợp vi phạm cụ thể”. Điều này của Nghị định là cụ thể hóa Điều 53 của Pháp lệnh. Thực chất, đây là biện pháp ngăn chặn VPHC. Khi “tạm đình chỉ hoạt động” được xem là biện pháp ngăn chặn thì nó được áp dụng theo thủ tục riêng độc lập với việc ban hành quyết định xử lý. Lúc này thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai có quyền ban hành quyết định tạm đình chỉ hoạt động đối với Công ty Vedan mà không phải lo việc vi phạm nguyên tắc một HVVP chỉ xử phạt một lần, vì quyết định tạm đình chỉ hoạt động là quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn VPHC. Riêng “cấm hoạt động, buộc di dời”, xét về nội dung, là hai hình thức có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau: “cấm hoạt động” mang ý nghĩa là hình thức phạt bổ sung, mang tính xử phạt vì tước bỏ quyền vốn có của đương sự; còn “buộc di dời” về tính chất rõ ràng là biện pháp khắc phục hậu quả. Việc phân định cụ thể như vậy là rất có ý nghĩa trong thủ tục áp dụng. Cũng cần nói thêm một hạn chế nữa là trong phần quy định về thẩm quyền, thủ tục xử lý của Nghị định cũng không có quy định về biện pháp “tạm đình chỉ hoạt động cho đến khi thực hiện xong biện pháp BVMT cần thiết” và hình thức “cấm hoạt động, buộc di dời”. Vì vậy, theo chúng tôi, cần quy định cụ thể, rõ hình thức “buộc đình chỉ hoạt động trong một thời gian nhất định để thực hiện các biện pháp BVMT theo quy định” là biện pháp “ngăn chặn VPHC và đảm bảo việc xử phạt”. Nội dung đình chỉ là chỉ đình chỉ đối với công đoạn phát sinh ô nhiễm chứ không phải đình chỉ toàn bộ hoạt động của đơn vị. Điều này sẽ khắc phục được những vướng mắc về thẩm quyền áp dụng, dẫn đến tình trạng đùn đẩy như đã diễn ra đối với vi phạm của Công ty Vedan. Đồng thời quy định rõ “cấm hoạt động” là hình thức phạt bổ sung và “buộc di dời” là biện pháp khắc phục hậu quả. Kèm theo đó, cần quy định cả thủ tục áp dụng cả ba biện pháp này. Nhiều vi phạm đòi hỏi phải có kết quả phân tích mẫu chất thải như các hành vi xả nước thải, khí thải vượt tiêu chuẩn môi trường. Trong khi tiêu chuẩn môi trường quy định cho từng loại thường có rất nhiều chỉ tiêu như tiêu chuẩn nước thải công nghiệp (37 chỉ tiêu)5; tiêu chuẩn chất vô cơ trong khí thải công nghiệp (19 chỉ tiêu)6; tiêu chuẩn chất hữu cơ trong khí thải công nghiệp (109 chỉ tiêu)7. Vì vậy, về nguyên tắc, để xác định một trường hợp nước thải hay khí thải cụ thể có vượt tiêu chuẩn cho phép không thì phải có kết quả phân tích của tất cả các chỉ tiêu, mà việc phân tích này rất tốn kém (mỗi chỉ tiêu phân tích có giá trung bình hiện nay khoảng 50.000 đồng đến 60.000 đồng) và thực tế là không cần thiết vì mỗi ngành sản xuất khác nhau có những đặc điểm khác nhau về các chỉ tiêu đặc trưng. Do vậy, trong thực tế, cơ quan kiểm tra, thanh tra thường căn cứ vào đặc điểm của từng ngành sản xuất cụ thể để quyết định yêu cầu phân tích một số chỉ tiêu nhất định (ví dụ như nước thải của ngành công nghiệp thực phẩm thì các chỉ tiêu được quan tâm là BOD, COD, DO, pH, chất rắn lơ lửng và Ecolifom; ngành công nghiệp điện, điện tử thì quan tâm các chỉ tiêu kim loại nặng (Hg, Pb, Cr(VI), Cr(III) và một số hóa chất đặc trưng khác như chất phóng xạ; với công nghiệp dệt nhuộm thì quan tâm các chỉ tiêu màu, pH, COD, tổng Clo hữu cơ và một số hóa chất khác được sử dụng trong quá trình sản xuất…). Việc quyết định yêu cầu phân tích chỉ tiêu nào hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cán bộ kiểm tra, thanh tra (trình độ chuyên môn hoặc do cố ý của người cán bộ) nên dễ dẫn đến yêu cầu phân tích chỉ tiêu không phù hợp với ngành đang kiểm tra, hoặc đưa ra một kết quả phân tích nước thải, khí thải đạt yêu cầu cho phép trong khi thực chất kết quả đó vượt tiêu chuẩn cho phép. Điều này làm cho vi phạm bị bỏ sót. Do vậy, đòi hỏi cần phải pháp lý hóa các yêu cầu về chỉ tiêu các chất gây ô nhiễm cần quan tâm trong từng ngành cụ thể để tránh tình trạng như đã nêu, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra, kiểm tra được thực hiện một cách thống nhất. Ngoài những hạn chế như đã phân tích nêu trên, theo tôi, Nghị định hiện hành về xử phạt VPHC trong lĩnh vực BVMT cần điều chỉnh, bổ sung một số nội dung sau: Một là, điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với Pháp lệnh Xử lý VPHC năm 2008 để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật. Pháp lệnh Xử lý VPHC năm 2008 đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01/8/2008. Nội dung các quy định sửa đổi, bổ sung đã giải quyết được cơ bản một số bất cập trong lĩnh vực xử lý VPHC nói chung và về xử lý VPHC trong lĩnh vực BVMT nói riêng, thể hiện tinh thần xử lý kiên quyết các hành vi VPHC. Để các nội dung quy định này được thực hiện trong lĩnh vực BVMT cần phải điều chỉnh bổ sung hoặc thay thế Nghị định 81/2006/NĐ-CP cho phù hợp. Hai là, quy định cơ chế truy cứu trách nhiệm các cá nhân trong trường hợp xử lý VPHC của các tổ chức. Hiện nay, với những công ty vi phạm nghiêm trọng luật BVMT, vi phạm nhiều lần, hậu quả lớn, mức độ nguy hiểm cho xã hội cao phải bị xử lý trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, pháp luật hình sự không xử lý hình sự các tổ chức, mà xử lý VPHC lại không tương xứng với tính chất và mức độ vi phạm. Do vậy, để tạo cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân trong trường hợp xử lý VPHC các tổ chức, cần phải quy định cụ thể về việc tiếp tục truy cứu trách nhiệm hành chính những cá nhân trong tổ chức có lỗi trong việc để xảy ra VPPL. Sau khi ban hành quyết định xử lý đối với tổ chức cần phải tiếp tục làm rõ trách nhiệm của các cá nhân liên quan để có hình thức xử lý thích hợp làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự khi tiếp tục vi phạm nghiêm trọng hơn. Theo tôi, như vậy vẫn đảm bảo nguyên tắc mỗi hành vi vi phạm chỉ bị xử lý một lần, vì hành vi và lỗi của tổ chức là hành vi và lỗi tổng hợp, bao hàm hành vi và lỗi của nhiều cá nhân. Trong đó, có những cá nhân có hành vi và lỗi rõ ràng có thể cấu thành hành vi và lỗi riêng, độc lập, nên có thể xử lý VPHC đối với những cá nhân đó. Như vậy các lĩnh quản lý hành chính nhà nước có phạm vi rất rộng, bao gồm nhiều chuyên ngành khác nhau, nên trong phạm vi hạn hẹp của đề tài tôi chỉ nêu thực trạng công tác xử lý hành chính và các quy định của pháp luật trong một số lĩnh vực tiêu biểu như quản lý trật tự an toàn giao thông, quản lý môi trường, công tác xử lý vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự...để có thể khái quát những nét chung nhất về thực trạng xử lý vi phạm hành chính ở Việt Nam hiện nay. Và chúng ta cũng thấy rằng, bên cạnh những kết quả tích cực, thì cũng còn rất nhiều những bất cập trong quy định của pháp luật hiện hành về công tác xử lý vi phạm hành chính, cũng như tình trạng vi phạm hành chính ngày một gia tăng. Trước những mặt hạn chế còn tồn tại, chúng ta cần đưa ra những giải pháp hữu ích nhằm khắc phục những thiếu sót trong quy định của pháp luật hiện hành, nâng cao chất lượng xử lý vi phạm hành chính, đồng thời làm giảm các vụ vị phạm hành chính đang ngày càng có xu hướng gia tăng. CHƯƠNG 3 NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH. Trước hết, cần phải hoàn thiện các quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính, pháp điển hoá các văn bản, nâng lên thành luật để tăng cường giá trị pháp lý cho các quy định pháp luật. Trong khi các hình thức trách nhiệm pháp lý khác đã được QH ban hành dưới hình thức bộ luật, luật- thì lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính mới chỉ được ban hành dưới hình thức văn bản pháp lý cao nhất là Pháp lệnh. Điều này dẫn tới tình trạng thiếu thống nhất, đồng bộ và nảy sinh nhiều vấn đề bất cập trong hệ thống pháp luật. Đòi hỏi của thực tiễn là phải khẩn trương xây dựng và ban hành một văn bản luật để ghi nhận đầy đủ, toàn diện những vấn đề cơ bản, chủ yếu nhất về xử lý vi phạm hành chính, đáp ứng nhu cầu thực tiễn về thi hành pháp luật, nhu cầu của đất nước trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đó, QH đã đưa dự án Luật Xử lý vi phạm hành chính vào Chương trình Xây dựng luật, pháp lệnh năm 2010 và bổ sung dự án Luật này vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của QH Khóa XII 2007 – 2011), giao cho Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp cùng với các cơ quan ban, ngành có liên quan tổ chức xây dựng dự án Luật Xử lý vi phạm hành chính. Yêu cầu đặt ra đối với Ban Soạn thảo là trước khi bắt tay soạn thảo phải có Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện lĩnh vực trong phạm vi điều chỉnh của dự án luật. Với dự án Luật Xử lý vi phạm hành chính, Ban Soạn thảo đã xây dựng được Báo cáo Tổng kết tình hình 8 năm thực hiện Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm. Báo cáo tổng kết để có cái nhìn tổng quan nhất vào sự thật, vào những tồn tại và hạn chế của công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính để xây dựng dự án Luật Xử lý vi phạm hành chính toàn diện hơn, giải quyết được những vướng mắc trong thực tiễn xử lý vi phạm hành chính hiện nay. Luật Xử lý vi phạm hành chính cần quy định đầy đủ, toàn diện các vấn đề về xử lý vi phạm hành chính, nhằm giải quyết cơ bản những tồn tại, hạn chế bất cập của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính hiện hành. Có một thực trạng tồn tại trong việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của nước ta hiện nay là các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính luôn ở thế bị động trong xử lý vi phạm, các địa phương còn quá phụ thuộc vào văn bản hướng dẫn của Trung ương, dẫn tới tình trạng không triển khai thực hiện văn bản, cá biệt có trường hợp không triển khai xử lý vi phạm hành chính với lý do không có. Thông tư hướng dẫn trong khi Nghị định quy định rất chi tiết và rõ ràng. Để khắc phục thực trạng trên, dự thảo Luật Xử lý vi phạm hành chính cần pháp điển hóa một bước các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm, thẩm quyền và thủ tục xử phạt hành chính để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật; pháp điển hóa một bước trong việc quy định về xử phạt vi phạm. Muốn vậy, trước hết, dự thảo Luật phải quy định cụ thể các hành vi vi phạm, xác định rõ ranh giới giữa xử phạt hành chính và xử phạt hình sự, tránh gây lúng túng trong quá trình xử phạt vi phạm. Dự thảo luật phải quy định rõ hơn, cụ thể hơn chức danh và thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của một số cơ quan cấp bộ và bảo đảm được tính phù hợp so với cơ cấu tổ chức của các cơ quan. Nhưng quan tâm lớn nhất là khi ban hành một đạo luật là liệu đạo luật ấy có đi vào cuộc sống hay không, có phát huy được hiệu quả tối đa không. Cần quy định cụ thể về nguyên tắc xử phạt, hình thức xử phạt và các biện pháp xử lý vi phạm hành chính khác, có như vậy, việc thực thi pháp luật trong lĩnh vực này mới trở nên thực tiễn và hiệu quả, trật tự xã hội và hiệu quả trong công tác quản lý Nhà nước mới được bảo đảm. Tiếp đó, phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, đây là một vấn đề hết sức quan trọng, bởi dù cho các quy định của pháp luật có hoàn chỉnh đến đâu, bộ máy quản lý hành chính có gọn nhẹ đến đâu mà không có một đội ngũ các cán bộ công chức nhiệt tình với công việc, có trình đội chuyên môn cao, am hiểu sâu sắc pháp luật về lĩnh vực mình quản lý thì không thể xử lý tốt các vi phạm hành chính, không thể ngăn chặn và phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật hành chính. Vì vậy cần phải đầu tư đào tạo và sàng lọc những cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn cao để đưa vào các các lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Mạnh tay loại bỏ những cán bộ phẩm chất đạo đức kém, năng lực quản lý yếu, thoái hoá biến chất ra khỏi bộ máy quản lý hành chính nhà nước, xây dựng các tổ chức trog sạch, vững mạnh, tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền vận động các cán bộ, công chức sống, lao động, học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Mình. Đồng thời cũng phải quan tâm đầu tư đúng mức đến đời sống của các cán bộ công chức, trong đó chú trọng đến cả đời sống vật chất và tinh thần cho họ. Bởi thực tế hiện nay có nhiều cán bộ thoái hoá, biến chất, tham ô, nhận hối lộ cũng xuất phát từ nhu cầu vật chất, tiền bạc, trong khi đời sống của họ còn thấp kém, mức thu nhập không cao so với nhiều ngành nghề thuộc các lĩnh vực khác. Vì vậy cần phải nâng cao chất lượng cuộc sống của cán bộ công chức bằng việc nâng cao chế độ lương, thưởng cho các cán bộ có thành tích cao trong công tác, thực hiện các chế độ đãi ngộ trong công tác cũng như khi đã nghỉ hưu để cho các cán bộ công chức yên tâm làm việc và tận tuỵ cống hiến, xây dựng một bộ máy quản lý hành chính nhà nước gọn nhẹ, tiến bộ nhưng hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, cũng phải chú tâm đến quần chúng nhân dân, phần lớn những vi phạm pháp luật trong quản lý hành chính nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung đều xuất phát từ sự thiếu hiểu biết về các quy định pháp luật của đại bộ phận nhân dân, và tâm lý coi thường các quy định của pháp luật, dẫn đến tình trạng không biết, không hiểu đầy đủ các quy định của pháp luật hiện hành, không tuân thủ sự chỉ dẫn của các biển báo pháp lý, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý trật tự an toàn giao thông, một bộ phận vẫn còn coi thường các quy định của pháp luật về nhiều lĩnh vực, trong đó có các quy định của pháp luật bảo vệ môi trường, trong quản lý đất đai và xây dựng nhà ở, quản lý và bảo vệ rừng... Vì vậy cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, và phổ biến quy định của pháp luật đến mọi vùng miền trên cả nước, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, những nơi có đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống, phương tiện giao thông đi lại khó khăn, điện, đường, trường, trạm yếu kém, bà con không có điều kiện tiếp cận các kênh thông tin văn hoá cũng như tuyên truyền pháp luật của nhà nước. Xây dựng các chính sách phổ biến pháp luật đến các cơ sở giáo dục ở mọi tỉnh thành, mọi cấp giáo dục, nên bắt đầu giáo dục, tuyên truyền pháp luật từ bậc tiểu học về vai trò và tầm quan trọng của pháp luật, để hình thành trong tâm trí các em sớm có ý thức sống, lao động và học tập theo Hiến pháp và pháp luật. Thực hiện tuyên truyền nêu gương những người tốt, việc tốt, khích lệ ý thức cộng đồng, tận dụng mọi kênh thông tin như truyền thanh, truyền hình, các ấn phẩm sách, báo, tạp chí truyền thống, báo điện tử, xây dựng các trang wed mở cung cấp các văn bản pháp luật, các văn bản hướng dẫn thi hành miễn phí. Xây dựng một cộng đồng trẻ có ý thức tôn trọng pháp luật. Làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật sẽ góp phần phòng chống tình trạng vi phạm pháp luật, xây dựng nếp sống lành mạnh cho cộng đồng nhân dân, góp phần giảm bớt áp lực cho các cơ quan quản lý hành chính trong công tác xử lý vi phạm hành chính. Thúc đẩy công cuộc xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Như vậy, với những kiến nghị mang tính đóng góp, xây dựng giải pháp giải quyết các hạn chế, bất cập còn tồn tại trong công tác xử lý vi phạm hành chính, mong muốn các cấp chính quyền sẽ thực nghiệm, áp dụng để góp phần nâng cao chất lượng công tác xử lý vi phạm hành chính ở từng nghành, từng địa phương và trên phạm vi cả nước, xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, với đội ngũ cán bộ công chức có đầy đủ phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn cao, hình thành một xã hội vưn minh, lành mạnh, ở đó ai ai cũng sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. PHẦN KẾT LUẬN Thông qua việc đánh giá tổng quát thực trạng công tác xử lý vi phạm hành chính và các văn bản pháp luật hiện hành về lĩnh vực này, chúng ta thấy rằng công tác xử lý vi phạm hành chính hiện nay mặc dù đã đạt được ít nhiều kết quả khả quan, nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật, cũng như việc tổ chức thực hiện của các cơ quan quản lý nhà nước, tình trạng vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước ngày một gia tăng và có diễn biến ngày càng phức tạp, nó đặt ra cho các cơ quan chức năng có thẩm quyền phải giải quyết dứt điểm những hạn chế, bất cập, còn tồn tại. Để thực hiện tốt các giải pháp, phương hướng giải quyết, yêu cấu các cơ quan chức năng có liên quan như Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan chuyên ngành phải phối hợp xây dựng các văn bản pháp lý nhằm đáp ứng yêu cầu mới của công tác xử lý vi phạm hành chính hiện nay. Đồng thời Đảng và Nhà nước cũng cần đưa ra những chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật tích cực hơn nữa, nhằm xây dựng mặt bằng tri thức pháp luật chung cho toàn xã hội. Tôi hy vọng, với những nghiên cứu và kiến nghị, giải pháp của mình sẽ góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật cho bản thân nói riêng và cộng đồng xã hội nói chung. Mong muốn các cơ quan quản lý nhà nước sớm xây dựng được một bộ máy quản lý gọn nhẹ, hiểu quả, giải quyết dứt điểm các bất cập trong công tác xử lý vi phạm hành chính, thúc đẩy công cuộc cải cách hành chính diễn ra nhanh chóng và hiệu quả. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1) Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002.(sửa đổi, bổ sung 2008). 2) Nghị định 128/2008/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2008. 3Nghi định 146/2007/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. 4) Nghị định 81/2006/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo về môi trường. 5) Hội đồng nhà nước, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 1989. 6) các văn bản pháp luật khác: - Thông tư 26/2010/TT-BCA của Bộ Công an về việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn, nội dung, trình tự kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông đường sắt. - Công văn 3988/TCHQ-PC của Tổng cục Hải quan về việc trả lời Công văn 41/ĐT-CV ngày 30/06/2010 về việc áp dụng văn bản xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan - Công văn 3364/TCHQ-PC của Tổng cục Hải quan về việc vướng mắc xử lý vi phạm hành chính Nghị định 111/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử - Công văn 6599/TCHQ-PC của Tổng cục Hải quan về việc triển khai thực hiện Thông tư 193/2009/TT-BTC quy định chi tiết thi hành Nghị định 97/2007/NĐ-CP ngày 07/06/2007 của Chính phủ quy định việc xử lý vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan và Nghị định số 18/2009/NĐ-CP ngày 18/02/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 97/2007/NĐ-CP - Nghị định 99/2009/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNiên luận Sông.doc