Đề tài Phật học và Vật Lý học

Lời tựa Phật giáo là một tôn giáo có đông đảo tín đồ phật tử từ các nước phương đông tới các nước phương tây[1]. Ở Việt Nam Phật giáo từng là quốc giáo của nhà nước phong kiến trong lịch sử. Thời hiện đại phật giáo cũng ảnh hưởng sâu sắc tới thế giới quan người của người Việt Nam. Vì sao Phật giáo lại đạt được như thế? Có rất nhiều lý do, nhưng tôi xin đưa ra ý kiến chủ quan của mình về một khía cạnh nhỏ trong những lý do đó: Phật giáo và vật lí vũ trụ, nhằm giải thích một phần nhỏ nào đó sự hợp lý trong học thuyết phật giáo với vũ trụ. Chúng ta đã và đang trải qua một thời kỳ dài đầy những biến đổi sâu sắc, toàn diện và nhanh chóng trong mọi lĩnh vực khoa học - công nghệ. Các ngành khoa học tự nhiên, mà trước hết là vật lý vũ trụ hiện đại đã và đang phát triển mạnh mẽ. Những tôn giáo cũng tự thân vận động và biến đổi theo sự biến đổi của tự nhiên, Phật giáo là một trong những tôn giáo vận động phát triển tương đối cùng nhịp với tự nhiên. Phật giáo khuyến khích tu tại gia, đưa ra thêm những phương pháp tu để đạt đến trạng thái tịnh và tuệ[5]. Phật giáo được phổ biến tại nhiều nước trên thế giới, một phần là nhờ tinh thần cởi mở ít tính giáo điều của Phật giáo, một phần là triết lí nhân sinh cao đẹp, trong đó nổi bật là sự tương đối tương đồng, hợp lý với tự nhiên, với vũ trụ. Phật giáo được coi là một ngành triết học, ngành Triết học về đạo đức, về tâm linh con người. Vật lý - thiên văn nghiên cứu sự vận hành của vũ trụ, sự tiến hóa của vũ trụ, sự sinh tử của những vì sao và nguồn gốc của sinh vật trên trái đất, thậm chí cả khả năng có sự sống trên những hành tinh khác. Phật giáo thì nghiên cứu cái “vũ trụ” bên trong thể xác con người. Nghiên cứu về cái thế giới bên trong tâm linh con người, một thế giới cũng có đầy đủ âm thanh (Quán âm), sắc màu và đầy đủ vạn vật, cái trạng thái Niết bàn là một vũ trụ tồn tại bên trong không gian tâm trí của con người, một thế giới trong suốt về tâm linh, không còn ranh giới giữa các giá trị, một thế giới vĩnh cửu, nó nằm trong tâm linh con người,[5] con người thì nằm trong vũ trụ. Do đó vật lý - thiên văn là một đối tượng hấp dẫn đối với các nhà Phật giáo, các nhà siêu hình học và Triết học NỘI DUNG I. Thuyết Big Bang và quan niệm không tồn tại Đấng Sáng tạo của Phật giáo Những lý thuyết của ngành vật lý hiện đại cùng những kết quả quan sát bầu trời bằng những kính thiên văn ngày càng lớn giúp các nhà thiên văn đi ngược dòng thời gian để phỏng đoán những sự kiện xẩy ra từ khi vũ trụ mới ra đời từ vụ nổ Big Bang, cách đây đã khoảng 14 tỷ năm. Những nhà khoa học của trường phái chống thuyết Big Bang cho rằng sự khai sinh vũ trụ qua một vụ nổ ám chỉ sự can thiệp của một Đấng Sáng tạo Tối cao nên đối với họ, thuyết Big Bang có xu hướng thiên về tôn giáo, thiên về duy tâm. Bởi vì theo Kinh thánh của đạo Thiên Chúa, thế giới muôn loài đều do Thượng Đế tạo ra chỉ một lần cho mãi mãi. Còn các nhà khoa học của thuyết Big Bang nhận định là nếu những hằng số cơ bản trong vũ trụ nguyên thủy (hằng số hấp dẫn, bán kính Schwarzschild, vận tốc ánh sáng, hằng số Plăng), hiện vẫn được dùng trong ngành vật lý, chỉ thay đổi đôi chút, thì quá trình tiến hóa của vũ trụ có thể đã dẫn đến một thế giới khác hẳn[2][3], có khả năng không có loài người chúng ta ở trong. Đã có những nhà thiên văn nêu lên vấn đề, “Ai” đã điều chỉnh vũ trụ một cách tinh tế như vậy, nếu không phải là một Đấng Sáng tạo? Quan niệm này không tương hợp với vũ trụ quan cuả Đạo Phật, bởi vì Phật giáo không cho rằng có “bàn tay” của Thượng Đế tạo ra vũ trụ[5]. Trên phương diện khoa học, hiện nay hầu hết các nhà thiên văn đều tin vào thuyết Big Bang, vì thuyết này giải thích được nhiều hiện tượng trong vũ trụ. Theo thuyết Big Bang, vũ trụ bắt nguồn từ một trạng thái vô cùng đặc và vô cùng nóng (điểm dưới cùng). Từ đó, không gian đã mở rộng cùng với thời gian và làm cho các thiên hà di chuyển xa nhau hơn. Big Bang là một lý thuyết khoa học về nguồn gốc của vũ trụ. Lý thuyết đó phát biểu rằng vũ trụ được bắt đầu từ một điểm kỳ dị có mật độ vật chất và nhiệt độ lớn vô hạn tại một thời điểm hữu hạn trong quá khứ. Từ đó, không gian đã mở rộng cùng với thời gian và làm cho các thiên hà di chuyển xa nhau hơn, tạo ra một vũ trụ giãn nở như chúng ta thấy ngày nay. Ý tưởng trung tâm của lý thuyết này là quá trình vũ trụ đang giãn nở. Nó được minh chứng bằng các thí nghiệm về dịch chuyển đỏ của các thiên hà (định luật Hubble). Điều đó có nghĩa là các thiên hà đang rời xa nhau và cũng có nghĩa là chúng đã từng ở rất gần nhau trong quá khứ và quá khứ xa xưa nhất, cách đây khoảng 13,3-13,9 tỷ (13,3-13,9 × 109) năm), là một điểm kỳ dị[1]. Từ "vụ nổ lớn" được sử dụng trong một nghĩa hẹp, đó là một thời điểm trong thời gian khi sự mở rộng của vũ trụ bắt đầu xuất hiện, và theo nghĩa rộng, đó là quá trình tiến hóa, giải thích nguồn gốc và sự phát triển của vũ trụ. Lịch sử lý thuyết Big Bang được đưa ra dựa trên cơ sở các thành tựu của lý thuyết và thực nghiệm. Về mặt thực nghiệm, năm 1912, nhà khoa học Vesto Slipher và sau này là Carl Wilhelm Wirtz đã xác định rằng hầu hết các tinh vân hình xoáy ốc đang rời xa Trái Đất, nhưng họ không nhận ra ý nghĩa của việc này, họ cũng không nhận ra được là các tinh vân đó là các thiên hà ở ngoài Ngân Hà của chúng ra.

doc11 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1743 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phật học và Vật Lý học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời tựa Phật giáo là một tôn giáo có đông đảo tín đồ phật tử từ các nước phương đông tới các nước phương tây[1]. Ở Việt Nam Phật giáo từng là quốc giáo của nhà nước phong kiến trong lịch sử. Thời hiện đại phật giáo cũng ảnh hưởng sâu sắc tới thế giới quan người của người Việt Nam. Vì sao Phật giáo lại đạt được như thế? Có rất nhiều lý do, nhưng tôi xin đưa ra ý kiến chủ quan của mình về một khía cạnh nhỏ trong những lý do đó: Phật giáo và vật lí vũ trụ, nhằm giải thích một phần nhỏ nào đó sự hợp lý trong học thuyết phật giáo với vũ trụ. Chúng ta đã và đang trải qua một thời kỳ dài đầy những biến đổi sâu sắc, toàn diện và nhanh chóng trong mọi lĩnh vực khoa học - công nghệ. Các ngành khoa học tự nhiên, mà trước hết là vật lý vũ trụ hiện đại đã và đang phát triển mạnh mẽ. Những tôn giáo cũng tự thân vận động và biến đổi theo sự biến đổi của tự nhiên, Phật giáo là một trong những tôn giáo vận động phát triển tương đối cùng nhịp với tự nhiên. Phật giáo khuyến khích tu tại gia, đưa ra thêm những phương pháp tu để đạt đến trạng thái tịnh và tuệ[5]. Phật giáo được phổ biến tại nhiều nước trên thế giới, một phần là nhờ tinh thần cởi mở ít tính giáo điều của Phật giáo, một phần là triết lí nhân sinh cao đẹp, trong đó nổi bật là sự tương đối tương đồng, hợp lý với tự nhiên, với vũ trụ. Phật giáo được coi là một ngành triết học, ngành Triết học về đạo đức, về tâm linh con người. Vật lý - thiên văn nghiên cứu sự vận hành của vũ trụ, sự tiến hóa của vũ trụ, sự sinh tử của những vì sao và nguồn gốc của sinh vật trên trái đất, thậm chí cả khả năng có sự sống trên những hành tinh khác. Phật giáo thì nghiên cứu cái “vũ trụ” bên trong thể xác con người. Nghiên cứu về cái thế giới bên trong tâm linh con người, một thế giới cũng có đầy đủ âm thanh (Quán âm), sắc màu và đầy đủ vạn vật, cái trạng thái Niết bàn là một vũ trụ tồn tại bên trong không gian tâm trí của con người, một thế giới trong suốt về tâm linh, không còn ranh giới giữa các giá trị, một thế giới vĩnh cửu, nó nằm trong tâm linh con người,[5] con người thì nằm trong vũ trụ. Do đó vật lý - thiên văn là một đối tượng hấp dẫn đối với các nhà Phật giáo, các nhà siêu hình học và Triết học NỘI DUNG Thuyết Big Bang và quan niệm không tồn tại Đấng Sáng tạo của Phật giáo Những lý thuyết của ngành vật lý hiện đại cùng những kết quả quan sát bầu trời bằng những kính thiên văn ngày càng lớn giúp các nhà thiên văn đi ngược dòng thời gian để phỏng đoán những sự kiện xẩy ra từ khi vũ trụ mới ra đời từ vụ nổ Big Bang, cách đây đã khoảng 14 tỷ năm. Những nhà khoa học của trường phái chống thuyết Big Bang cho rằng sự khai sinh vũ trụ qua một vụ nổ ám chỉ sự can thiệp của một Đấng Sáng tạo Tối cao nên đối với họ, thuyết Big Bang có xu hướng thiên về tôn giáo, thiên về duy tâm. Bởi vì theo Kinh thánh của đạo Thiên Chúa, thế giới muôn loài đều do Thượng Đế tạo ra chỉ một lần cho mãi mãi. Còn các nhà khoa học của thuyết Big Bang nhận định là nếu những hằng số cơ bản trong vũ trụ nguyên thủy (hằng số hấp dẫn, bán kính Schwarzschild, vận tốc ánh sáng, hằng số Plăng), hiện vẫn được dùng trong ngành vật lý, chỉ thay đổi đôi chút, thì quá trình tiến hóa của vũ trụ có thể đã dẫn đến một thế giới khác hẳn[2][3], có khả năng không có loài người chúng ta ở trong. Đã có những nhà thiên văn nêu lên vấn đề, “Ai” đã điều chỉnh vũ trụ một cách tinh tế như vậy, nếu không phải là một Đấng Sáng tạo? Quan niệm này không tương hợp với vũ trụ quan cuả Đạo Phật, bởi vì Phật giáo không cho rằng có “bàn tay” của Thượng Đế tạo ra vũ trụ[5]. Trên phương diện khoa học, hiện nay hầu hết các nhà thiên văn đều tin vào thuyết Big Bang, vì thuyết này giải thích được nhiều hiện tượng trong vũ trụ. Theo thuyết Big Bang, vũ trụ bắt nguồn từ một trạng thái vô cùng đặc và vô cùng nóng (điểm dưới cùng). Từ đó, không gian đã mở rộng cùng với thời gian và làm cho các thiên hà di chuyển xa nhau hơn. Big Bang là một lý thuyết khoa học về nguồn gốc của vũ trụ. Lý thuyết đó phát biểu rằng vũ trụ được bắt đầu từ một điểm kỳ dị có mật độ vật chất và nhiệt độ lớn vô hạn tại một thời điểm hữu hạn trong quá khứ. Từ đó, không gian đã mở rộng cùng với thời gian và làm cho các thiên hà di chuyển xa nhau hơn, tạo ra một vũ trụ giãn nở như chúng ta thấy ngày nay. Ý tưởng trung tâm của lý thuyết này là quá trình vũ trụ đang giãn nở. Nó được minh chứng bằng các thí nghiệm về dịch chuyển đỏ của các thiên hà (định luật Hubble). Điều đó có nghĩa là các thiên hà đang rời xa nhau và cũng có nghĩa là chúng đã từng ở rất gần nhau trong quá khứ và quá khứ xa xưa nhất, cách đây khoảng 13,3-13,9 tỷ (13,3-13,9 × 109) năm), là một điểm kỳ dị[1]. Từ "vụ nổ lớn" được sử dụng trong một nghĩa hẹp, đó là một thời điểm trong thời gian khi sự mở rộng của vũ trụ bắt đầu xuất hiện, và theo nghĩa rộng, đó là quá trình tiến hóa, giải thích nguồn gốc và sự phát triển của vũ trụ. Lịch sử lý thuyết Big Bang được đưa ra dựa trên cơ sở các thành tựu của lý thuyết và thực nghiệm. Về mặt thực nghiệm, năm 1912, nhà khoa học Vesto Slipher và sau này là Carl Wilhelm Wirtz đã xác định rằng hầu hết các tinh vân hình xoáy ốc đang rời xa Trái Đất, nhưng họ không nhận ra ý nghĩa của việc này, họ cũng không nhận ra được là các tinh vân đó là các thiên hà ở ngoài Ngân Hà của chúng ra. Phật giáo không cho rằng có Đấng sáng tạo, thuyết Big Bang cũng cho rằng tự nhiên là do tự nhiên sinh ra, không tồn tại cái ngoài tự nhiên mà sinh ra tự nhiên. Từ đó ta nhận thấy sự tương đồng khách quan của học thuyết Phật giáo và lý thuyết Big Bang ở nguồn gốc vũ trụ. Khả năng về nền văn minh ngoài trái đất và phản thế giới trong vật lý vũ trụ với quan niệm đa vũ trụ trong học thuyết Phật giáo Ngày xưa ở phương Tây, người ta coi thế giới của loài người là duy nhất và nhân loại là độc nhất trong vũ trụ thể hiện qua thuyết địa tâm. Khoa học ngày nay đã chứng minh hệ mặt trời, các thiên hà, vũ trụ giãn nở ... phá vở thuyết địa tâm của thời kỳ mông muội. Quan niệm của Phật giáo là có nhiều thế giới, con người là những tiểu vũ trụ của một đại vũ trụ trong hằng hà sa số những đại vũ trụ[5]. Các nhà khoa học hiện nay cũng cho rằng, về mặt lý thuyết, trong vũ trụ với hằng hà sa số các thiên hà, các hệ giống với hệ mặt trời. Thiên hà là một tập hợp từ khoảng 10 triệu (107) đến nghìn tỷ (1012) các ngôi sao khác nhau xen lẫn bụi, khí và có thể cả các vật chất tối xoay chung quay một khối tâm. Đường kính trung bình của thiên hà là từ 1.500 đến 300.000 năm ánh sáng. Ở dạng đĩa dẹt, thiên hà có các hình dạng khác nhau như thiên hà xoắn ốc hay thiên hà bầu dục. Khu vực gần tâm của thiên hà có kích thước ước chừng 1.000 năm ánh sáng, và có mật độ sao cao nhất cũng như kích thước các sao lớn nhất.[4] Dù vật chất tối lý thuyết dường như chiếm khoảng 90% khối lượng đa số thiên hà, tình trạng của những thành phần không nhìn thấy được này vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ. Có một số bằng chứng cho thấy rằng những hố đen khối lượng siêu lớn có thể tồn tại tại trung tâm của đa số, nếu không phải là toàn bộ, các thiên hà.[4] Không gian liên thiên hà, khoảng không nằm giữa các thiên hà, được lấp đầy plasma loãng với mật độ trung bình chưa tới một nguyên tử trên mỗi mét khối. Có lẽ có hơn một trăm tỷ (1011) thiên hà trong khoảng không gian vũ trụ có thể quan sát được của chúng ta.[4] Trái Đất nằm trong một hệ mặt trời thuộc một thiên hà có tên là Ngân Hà; Hệ Mặt Trời của chúng ta nằm ở phía ngoài rìa của đĩa thiên hà Ngân Hà, trên nhánh Tráng Sĩ. Vào các buổi tối mùa hè, từ Trái Đất nhìn vào tâm sẽ thấy một dải các sao thường được gọi là dải Ngân Hà. Tuổi của Ngân Hà được ước lượng vào khoảng 13 tỷ năm[4], ngoài ra tuổi đời còn được tính bằng số vòng quay của nó. Thiên hà gần Ngân Hà nhất có tên là thiên hà Andromeda. Các thiên hà ở gần nhau có xu hướng tiến lại gần và sát nhập vào nhau, tạo thành một thiên hà lớn hơn. Các thiên hà cũng giống như các hành tinh và các hệ hành tinh, chúng cũng tập hợp thành những nhóm gọi là Quần tụ thiên hà. Các Quần tụ thiên hà lại họp lại trở thành Siêu thiên hà... Từ đó ta khẳng định rằng có rất nhiều hành tinh, và không có lý do gì bát bỏ rằng trên các hành tinh đó tồn tại một vài hành tinh có sự sống như trái đất, chúng ta trên trái đất chưa phát hiện được do điều kiện chủ quan của con người. Khả năng tồn tại nền văn minh khác trái đất là rất cao. Hiện nay con người đã tạo ra được phản vật chất trong các máy gia tốc[1], điều đó chứng tỏ có khả năng rất lớn là tồn tại một phản thế giới của thế giới ta đang sống, vấn đề là cách thức và thời gian để tìm ra thế giới ấy. Sự phát hiện những nền văn minh siêu việt trong vũ trụ là một vấn đề rất khó khăn, bởi vì khoảng cách của những hệ sao có khả năng chứa những nền văn minh đó quá lớn, nên ánh sáng và tín hiệu vô tuyến phải mất hàng vạn năm mới truyền tới trái đất. Nhà bác học Fermi khi đến thăm Trung tâm Nguyên tử Los Alamos (bang New Mexico, Hoa Kỳ) và đàm thoại với các nhà vật lý có đặt một câu hỏi: trong vũ trụ bao la có hằng hà sa số những hệ sao và hành tinh, hẳn phải có những nền văn minh siêu việt có khả năng kỹ thuật đủ cao để đến thăm nhân loại trên trái đất hay liên lạc với chúng ta bằng tín hiệu vô tuyến. Nhưng bởi vì chưa ai nhìn thấy mặt họ và chưa ai bắt được tín hiệu của họ, thế thì họ ở đâu? Sau này, câu hỏi có vẻ ngây thơ cuả nhà vật lý Fermi được đặt tên là “nghịch lý Fermi”. Hiện nay, săn tìm trong Ngân hà các hành tinh tương tự như trái đất, có khả năng có sự sống, là một đề tài ưa thích đối với các nhà thiên văn. Phật giáo quan niệm tất cả những gì trên thế gian này đều vận hành, biến dịch liên tục và liên hệ với nhau, không có gì là độc lập, không có gì là thực tại[5]. Quan niệm này cũng được phổ biến trong khoa học. Những nghiên cứu thiên văn cho rằng mặt trời, trái đất và các hành tinh đều được sinh ra từ một đám mây đầy khí và bụi, cách đây 4,6 tỷ năm. Các thiên thể trong vũ trụ chuyển động không ngừng. Trái đất quay xung quanh mặt trời với tốc độ mười vạn kilômét/giờ. Mặt trời, trái đất và các hành tinh cũng bị lôi cuốn quay xung quanh tâm của Ngân hà với tốc độ một triệu kilômet/giờ. Ngân hà cũng đang lùi ra xa các thiên hà láng giềng với tốc độ hàng chục vạn kilômet/giờ. Trong vũ trụ, không có gì ở trạng thái tĩnh cả[4]. Cả khoa học hiện đại cũng chấp nhận về khả năng tồn tại những nền văn minh khác trái đất và phản vật chất. Những dự đoán trên đã tồn tại trong học thuyết Phật giáo hơn 2000 năm bằng quan niệm là có nhiều thế giới, con người là những tiểu vũ trụ của một đại vũ trụ trong hằng hà sa số những đại vũ trụ. Vật chất trong vật lí và quan niệm vạn vật của Phật giáo Các nhà vật lý quan niệm thành phần cơ bản nhất của vật chất là những hạt nhỏ li ti, gọi là những hạt cơ bản. Có rất nhiều loại hạt cơ bản, có cả một ngành của vật lý chuyên nghiên cứu về những hạt cơ bản này gọi là vật lý hạt cơ bản. Khái niệm hạt cơ bản (còn gọi là hạt sơ cấp) liên quan đến tính rời rạc trong cấu trúc vật chất ở mức độ vi mô, có thể nói là bậc thang tiếp theo sau của chuỗi các đối tượng phân tử, nguyên tử, hạt nhân. Do “kích thước” của đối tượng nghiên cứu cũng như do điều kiện năng lượng để tiến hành nghiên cứu, môn vật lý hạt cơ bản còn gọi là vật lý năng lượng cao, hay vật lý dưới hạt nhân. Năng lượng đặc trưng hiện nay là Giga-electron-volt = 109eV, tương đương với khoảng cách 10-14cm = 10-1fermi. Trong tương lai không xa năng lượng được nâng lên cỡ TeV = 103GeV, trong khi liên kết trong hạt nhân cỡ 8 MeV.[2] Hạt cơ bản đầu tiên được tìm thấy là electron (Thomson, 1897), sau khi nghiên cứu tính chất của tia âm cực. Hạt cơ bản tiếp theo là photon (lượng tử ánh sang) do Plăng phát hiện khi nghiên cứu hiện tượng bức xạ của vật đen tuyệt đối. Năm 1911 Rutherford đã khám phá ra hạt nhân nguyên tử và sau đó (1919) đã thấy trong hạt nhân có Proton p và nơtron n. Năm 1930 Pauli thiết lập sự tồn tại của hạt nơtrino Năm 1932 Anderson đã phát hiện ra hạt positron, là phản hạt của electron. Và sau đó khi nghiên cứu các tia vũ và sử dụng máy gia tốc các nhà vật lý đã tìm ra rất nhiều hạt cơ bản khác, cho tới ngày nay có thể tổng kết có khoảng 400 hạt cơ bản chia thành nhiều loại.[2] Những “hạt cơ bản” vi mô này không nhìn thấy bằng mắt thường và tràn ngập trong vũ trụ nguyên thủy. Trên trái đất chúng xuất hiện trong giây lát trong các tia vũ trụ, trong phòng thí nghiệm và trong những máy gia tốc, khi những hạt electron hay proton va chạm vào nhau với tốc độ cao xấp xỉ tốc độ ánh sáng. Trong những năm gần đây, những lý thuyết vật lý đề nghị trong vũ trụ còn có những “dây” vật chất nhỏ hơn cả hạt cơ bản, gọi là lý thuyết dây. Khi dây vũ trụ rung như những dây đàn thì tạo ra những loại hạt vật chất khác nhau. Có thể nói đối với “phàm nhân” thì những hạt và dây vật chất như vậy chỉ là những vật chất ảo, là phương tiện để con người hiểu về tự nhiên, lý giải tự nhiên. Sự ảo đó vẫn tồn tại ít nhất là đến bây giờ, vì lý do cho tới bây giờ không có một thiết bị nào, không có nhà vật lý nào dám khẳng định về sự tồn tại 100% những dạng vật chất trên. Ta không khỏi không nghĩ tới khái niệm “vô thường”, “vô ngã” trong đạo Phật, coi sự vật trên thế gian chỉ là ảo.[5] Mọi vật trên thế gian này đều như trăng dưới nước, có thể nhìn thấy nhưng không thể sờ, nhưng nó là phương tiện để đạt đến sự vĩnh hằng tương ứng với vật chất ảo là phương tiện để hiểu tự nhiên trong vật lý học. Những hiện tượng và sự vật không phải là những thực thể độc lập, nó phụ thuộc vào nhau theo luật “nhân duyên”. Cái sự hợp lý khi các nhà khoa học chấp nhận những dạng vật chất ảo nói trên để giải thích tự nhiên, để hiểu tự nhiên cũng gần tương đồng với quan niệm về “vô thường”, “vô ngã” trong Phật giáo, coi sự vật trên thế gian chỉ là ảo, là phương tiện để đạt tới cái vĩnh hằng, cái chân thật. Hố đen, Hố trắng, sinh sao, hủy sao và thuyết nhân quả, luân hồi, nghiệp báo, quá khứ, hiện tại, tương lai trong Phật giáo. Trong vật lý thiên văn, một hố trắng là một thiên thể giả định phóng ra vật chất, ngược với hố đen vốn hút mọi vật chất. Nó có thể được coi là nghịch đảo thời gian của hố đen, tức là giống một hố đen quan sát với thời gian đi ngược lại quá khứ. Thuyết tương đối rộng là đối xứng theo thời gian. Các phương trình về trạng thái cân bằng trong lý thuyết này đều có hai nghiệm tương ứng với hai chiều thời gian. Nếu áp dụng quy luật này cho phương trình cho ra nghiệm miêu tả hố đen với chiều thời gian dương, kết quả thu được khi nghịch đảo thời gian là hố trắng. Bởi vì một hố đen là một vùng không gian mà không một vật nào có thể thoát khỏi nó, đối nghịch theo thời gian của một hố đen là hố trắng một vùng không gian mà không một vật nào có thể rơi vào đó. Một hố đen chỉ có thể nuốt vật khác vào, một hố trắng chỉ có thể phun vật khác ra. Các hố trắng hoàn toàn tồn tại trên lý thuyết toán học nhờ sự đối xứng của thuyết tương đối rộng, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng không hiện đang tồn tại trong tự nhiên. Trên thực tế chúng có thể tồn tại mặt dù rất nhỏ, bởi vì nếu có cách nào đó đảo ngược thời gian thì sẽ tạo ra một hố như thế. Có quan niệm cho rằng, Big Bang chính là một dạng của lỗ trắng, vì ở không-thời gian đó, chỉ có vật chất và năng lượng được phun ra . Hố đen, hay còn gọi là lỗ đen, là một vật thể có mật độ khối lượng rất lớn, đến nỗi lực hấp dẫn của nó làm cho mọi vật không thể nào thoát ra khỏi nó được, trừ việc thoát ra nhờ hiệu ứng đường ngầm lượng tử, vùng này được gọi là chân trời sự kiện (event horizon) của hố đen. Hố đen thường được hình thành từ sự suy sụp của các ngôi sao lớn. Truờng hấp dẫn mà hố đen tạo ra rất lớn, vì vậy, tốc độ thoát của vật chất trong chân trời sự kiện của nó lớn hơn tốc độ ánh sáng trong chân không. Điều này dẫn đến việc không có vật thể nào, kể cả ánh sáng, có thể thoát ra khỏi hố đen. Từ "hố đen" không chỉ dừng lại ở khái niệm "hố" mà còn là một vùng không gian ảnh hưởng bởi nó, nhờ có ảnh hưởng này mà người ta có thể nhận biết được sự tồn tại của các hố đen. Gần đây người ta cũng chứng minh được rằng tại tâm mỗi thiên hà đều tồn tại một hố đen có khối lượng rất lớn. Hố đen tại tâm thiên hà của chúng ta (Milky Way) nặng khoảng 4 triệu lần khối lượng mặt trời (Europhysics News (2004) Vol. 35 No. 5). Lý thuyết về hố đen là một trong số ít các lý thuyết trong vật lý bao trùm mọi thang đo khoảng cách, từ kích thước cực nhỏ (thang Planck) đến kích thước quan sát vũ trụ, do vậy có thể kiểm chứng cùng lúc thuyết lượng tử (cho thang nhỏ) và thuyết tương đối (cho thang lớn). Vật chất muốn thoát khỏi lỗ đen phải có vận tốc thoát lớn hơn vận tốc ánh sáng trong chân không, mà điều đó không thể xảy ra trong khuôn khổ của lý thuyết tương đối, ở đó vận tốc ánh sáng trong chân không là vận tốc giới hạn lớn nhất có thể đạt được của mọi dạng vật chất. Hố đen không biểu hiện như những ngôi sao sáng bình thường, mà chúng chỉ được quan sát gián tiếp qua sự tương tác trường hấp dẫn của hố đen đối với không gian xung quanh. Sự tồn tại của hố đen được dự đoán bởi lý thuyết tương đối rộng. Theo mô hình thuyết tương đối rộng cổ điển, không một vật chất hay thông tin nào có thể thoát ra khỏi hố đen để tới tầm quan sát bên ngoài được. Tuy nhiên, các hiệu ứng của cơ học lượng tử, không có trong thuyết tương đối rộng cổ điển, có thể cho phép vật chất và năng lượng bức xạ ra khỏi hố đen. Một số lý thuyết cho rằng bản chất tự nhiên của bức xạ không phụ thuộc vào những thứ đã rơi vào trong hố đen trong quá khứ, nói cách khác hố đen xóa sạch mọi thông tin quá khứ, hiện tượng này được gọi là nghịch lý thông tin hố đen. Nghịch lý này dần bị các lý thuyết mới đây loại bỏ và cho rằng thông tin vẫn được bảo toàn trong hố đen. Từ năm 1964, khi ngôi sao "tàng hình" Cygnus X-1 của một hệ sao đôi nằm cách Trái Đất 8.000 ly trong chòm sao Thiên Nga được coi là ứng cử viên đầu tiên, chứng minh cho sự tồn tại của hố đen, các hố đen khác không chỉ được phát hiện trong Ngân Hà mà còn ở nhiều thiên thể khác. Hố đen không chỉ là những "xác chết" của những sao có khối lượng lớn hơn 1,4 M, khi chúng bùng nổ thành các siêu tân tinh trong phạm vi các thiên hà, mà hiện nay nhiều ý kiến cho rằng, tất cả các thiên hà đều chứa một hố đen siêu lớn trong vùng nhân. Lý thuyết tương đối rộng (cũng như các lý thuyết hấp dẫn khác) không chỉ nói rằng các hố đen có thể tồn tại mà còn tiên đoán rằng chúng sẽ được hình thành trong tự nhiên khi có đủ khối lượng trong một vùng không gian nào đó và trải qua một quá trình gọi là suy sập hấp dẫn. Vì khối lượng bên trong vùng đó tăng lên, nên hấp dẫn của nó cũng mạnh lên, hay nói theo ngôn ngữ của thuyết tương đối, không gian xung quanh bị biến dạng. Khi vận tốc thoát tại một khoảng cách nhất định từ tâm đạt đến vận tốc ánh sáng, thì một chân trời sự kiện được hình thành mà trong đó vật chất chắc chắn bị suy sập vào một điểm duy nhất, tạo nên một điểm kỳ dị. Các phân tích định lượng về điều này dẫn đến việc tiên đoán một ngôi sao có khối lượng khoảng ba lần khối lượng Mặt Trời, tại thời điểm cuối cùng trong quá trình tiến hóa hầu như chắc chắn sẽ co lại tới một kích thước tới hạn cần thiết để xảy ra suy sập hấp dẫn (thông thường các ngôi sao co lại chỉ dừng ở trạng thái sao neutron). Khi điều này xảy ra, không có bất kỳ lực vật lý nào có thể ngăn cản sự suy sập đó, và một hố đen được tạo thành. Sự suy sập của các ngôi sao sẽ tạo nên các hố đen có khối lượng ít nhất gấp ba lần khối lượng Mặt Trời. Các hố đen nhỏ hơn giới hạn này chỉ có thể được hình thành nếu vật chất chịu tác động của các áp lực khác ngoài lực hấp dẫn của chính ngôi sao. Áp lực vô cùng lớn cần thiết để có thể gây ra điều này có thể tồn tại vào những giai đoạn rất sớm của vũ trụ, có thể đã tạo nên các hố đen nguyên thủy có khối lượng nhỏ hơn nhiều lần khối lượng Mặt Trời[1]. Các hố đen siêu lớn có thể có khối lượng gấp hàng triệu, hàng tỷ lần khối lượng Mặt Trời có thể được hình thành khi có một số lớn các ngôi sao bị nén chặt trong một vùng không gian tương đối nhỏ, hoặc khi có một số lượng lớn các ngôi sao rơi vào một hố đen ban đầu, hoặc khi có sự hợp nhất của các hố đen nhỏ hơn. Người ta tin rằng điều kiện để các hiện tượng trên có thể xảy ra ở một số (nếu không muốn nói là hầu hết) tâm của các thiên hà, bao gồm cả Ngân Hà của chúng ta. Cũng giống như trong Phật giáo có quá khứ, hiện tại và tương lai, thời gian có chiều âm và chiều dương. Hố đen là hiện tại theo chiều dương của thời gian, hố trắng là quá khứ theo trục âm của thời gian. Con người cũng có kiếp trước, có kiếp hiện tại và kiếp sau. Kiếp trước quyết định kiếp hiện tại, kiếp hiện tại quyết định kiếp tương lai. Những ngôi sao là kiếp trước của hố đen, sao nhỏ khi chết chỉ còn các xác trong vũ trụ linh hồn giải thoát khỏi vòng “luân hồi” xem như là được sống vĩnh hằng, ngôi sao lớn khi chết sẽ trở thành hố đen vẫn tồn tại trong sự “luân hồi” của vũ trụ. Có thể nói hố đen là “địa ngục” đi vào hố đen thì không thể trở ra, biến cái có thành cái không. Hố trắng là “thiên đường” biến cái không thành cái có cái vô cùng đẹp thuận theo thuyết “luân hồi” có sinh có tử. cũng giống như trong học thuyết phật giáo khi chết ở hiện tại không phải là hết mà đang bắt đầu một cuộc sống khác ở kiếp sau, được quy định bởi thiên đường và địa ngục . Vũ trụ cũng vậy khi một vật chết sẽ sản sinh ra vật khác, thuyết Big Bang từ cái chết của “quả trứng” mà sinh ra không – thời gian, những ngôi sao lớn chết thì chuyển thành hố đen vậy, những ngôi sao nhỏ chết sẽ có cuộc sống vĩnh hằng thoát khỏi “luân hồi” Lời kết Tuy nhiên, sự tương đồng giữa Phật giáo và khoa học phải được hạn chế trong phạm vi tư tưởng triết học đối với thế giới tự nhiên. Còn những kết quả khoa học liên quan đến vũ trụ phải được dựa trên những định luật vật lý và sự quan sát bằng những công cụ thiên văn hiện đại. Cách tiếp cận những hiện tượng trong vũ trụ đối với Phật giáo và khoa học có thể song song với nhau, nhưng không nhất thiết trùng hợp với nhau. Khoa học dùng những lý luận duy lý để tìm chân lý còn Phật giáo dùng tư duy đạo đức và triết học để đạt giác ngộ và giúp nhân loại diệt khổ. Tuy nhiên, Phật giáo và khoa học không phải là không tương hợp với nhau, một Phật tử có thể là một nhà khoa học chân chính. Nhưng nếu muốn dựa vào khoa học để giải thích những hiện tượng siêu hình có lẽ là không thực tế. Lòng nhân ái, đạo đức, sự tạm bợ ở trần gian trong học thuyết Phật giáo ẩn trong lời của nhà vật lí học vĩ đại Einstein: “Tình cảnh của những đứa con trái đất chúng ta mới kỳ lạ làm sao! Mỗi chúng ta đến đây như một chuyến viếng thăm ngắn ngủi. Ta không biết để làm gì, nhưng đôi khi ta tin rằng ta cảm nhận được điều đó. Song, nhìn từ cuộc sống thường nhật mà không đi sâu hơn, ta biết rằng: ta đến đây vì người khác - trước hết vì những người mà hạnh phúc của riêng ta phụ thuộc hoàn toàn vào nụ cười và sự yên ấm của họ, kế đến là vì bao người không quen mà số phận của họ nối với ta bằng sợi dây của lòng cảm thông”. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Wikipedia. [2] Nguyễn Ngọc Giao (2001), Hạt cơ bản, Giáo trình giảng dạy học viên sau đại học chuyên ngành vật lí lý thuyết, Trường đại học khoa học tự nhiên Tp. Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Đại học quốc gia. [3] Nguyễn Ngọc Giao (2003), Lí thuyết Trường hấp dẫn, Giáo trình giảng dạy học viên sau đại học chuyên ngành vật lí lý thuyết, Trường đại học khoa học tự nhiên Tp. Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Đại học quốc gia. [4] Nguyễn Ngọc Giao (2009), Vũ trụ được hình thành như thế nào, NXB Giáo dục. [5] Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông ba quyển bìa dầy.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTieu luan Tran Thao Phat Giao va Vu tru 2.doc