Công ty chứng khoán trên OTC tương tự như công ty môi giới hoạt động trên một Sở giao dịch chứng khoán, do đó nó có tên gọi khác nữa là công ty giao dịch – môi giới. Công ty CK OTC luôn bán các loại CK phi tập trung cho các khách hàng của mình.
Nhà môi giới trung gian là một loại công ty môi giới nhất định mà khách hàng của nó là các nhà giao dịch và môi giới trên thị trường. Các công ty thông báo cho nhà môi giới trung gian loại CK mà họ muốn mua hoặc muốn bán. Sau đó, nhà môi giới trung gian thông báo các yêu cầu này qua mạng lưới thông tin cho các thành viên khác biết.
Thị trường OTC thực hiện vai trò của thị trường thứ cấp, tức là thực hiện vai trò điều hoà, lưu thông các nguồn vốn, đảm bảo chuyển hoá các nguồn vốn ngắn hạn thành dài hạn để đưa vào đầu tư phát triển kinh tế. Nhờ có thị trường OTC, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời có thể yên tâm đầu tư vào CK vì khi cần tiền họ có thể bán lại các CK của mình cho các nhà đầu tư khác trên TTCK. Có tiền, thấy có lợi, hoặc thích là mua. Kẹt tiền, thấy không hấp dẫn nữa hoặc không thích thì bán. Nếu không có thị trường thứ cấp, có lẽ người đầu tư mua cổ phần, trái phiếu sẽ còn bị kẹt dài dài.
62 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 904 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát huy vai trò của Ngân hàng thương mại đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c lại gặp phải những trở ngại về mặt kiến thức và kinh nghiệm. Trong 2 năm, từ 2001-2003, đã có nhiều đợt biến động giá cổ phiếu trên TTCK theo chiều hướng xấu trong khi tình hình hoạt động của nền kinh tế và các doanh nghiệp niêm yết vẫn đang trên đà phát triển. Nghịch lý này tồn tại chủ yếu là do nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm và hiểu biết về đầu tư tài chính nói chung và trên TTCK nói riêng. Đa số quyết định đầu tư của công chúng mang tính chất đầu cơ giá lên và tâm lý hơn là dựa trên cơ sở đánh giá tình hình tài chính và hoạt động của cá công ty niêm yết. Tuy nhiên, từ cuối năm 2003, chính các nhà đầu tư nước ngoài với những quyết định đầu tư chuyên nghiệp hơn đã góp phần định hướng cho nhà đầu tư trong nước và giúp TTCK quay trở lại với nhịp độ phát triển phù hợp với quy luật thị trường. Điều này lại càng cho thấy tầm quan trọng của việc thiết lập song song cơ sở nhà đầu tư trong nước và nước ngoài trong quá trình phát triển TTCK.
Vấn đề là thế nào để thị trường chứng khoán trở thành, một kênh huy động vốn trong nước và nước ngoài một cách hiệu quả cho đầu tư, phát triển theo đúng chức năng của một TTCK là một nhiệm vụ cấp thiết đặt ra cho chính phủ và các cơ quan lý thị trường. Một TTCK chỉ có thể tồn tại và phát triển nếu có thể thu hút được các nguồn đầu tư trong nước và nước ngoài. Ngược lại, các nguồn vốn tiết kiệm dân cư, các luồng tiền nhàn rỗi trong nước và những nguồn vốn nước ngoài đang ngày càng gia tăng trong xu thế hội hập và trào lưu tìm kiếm những thị trường mới của các nhà đầu tư quốc tế chỉ có thể được phân bổ và sử dụng một cáh hiệu quả thông qua một TTCK được vận hành an toàn, minh bạch và cạnh tranh lành mạnh.
2.2 Sự tham gia của NHTM trên thị trường chứng khoán.
2.2.1 NHTM tham gia với tư cách tổ chức cung cấp dịch vụ thông qua các công ty chứng khoán của mình
Tại Việt Nam, việc tham gia TTCK của các định chế tài chính trung gian hiện nay còn rất khiêm tốn. Trong khi đây là những định chế gần gũi và có khả năng tiếp cận với các hoạt động CK một cách hiệu quả nhất. Hiện Việt Nam có vài chục NHTM và các định chế trung gian phi ngân hàng khác có khả năng thành lập công ty CK theo kiểu công ty con trực thuộc làm nhiệm vụ kinh doanh chứng khoán và môi giới chứng khoán, nhưng mới chỉ có chưa đầy 10 công ty chứng khoán được thành lập và tham gia làm thành viên của TTGDCK. Hơn nữa, hiện nay chúng ta chưa có công ty đầu tư Nhà nước để bình ổn thị trường thì vai trò của các công ty chứng khoán có nguồn gốc từ các định chế ngân hàng và tài chính là rất lớn. Công ty CK có thể tham gia vào hoạt động giao dich cả trên thị trường sơ cấp lẫn thứ cấp, có thể hoạt động theo mô hình đa năng hoặc chuyên doanh nhưng nói chung hiện nay, ở nước ta công ty CK hoạt động với các nghiệp vụ chính là: môi giới CK, bảo lãnh phát hành, tự kinh doanh. Kỳ vọng đối với hoạt động của các công ty chứng khoán là lớn nhưng kết quả hoạt động thực tế của các công ty chứng khoán trong bốn năm qua còn rất nhỏ bé. Nhìn chung, trong giai đoạn tăng trưởng của TTCK, các công ty chứng khoán đều kinh doanh có lãi. Song đến thời kỳ suy thoái thì ngược lại, các tài khoản khách hàng lần lượt bị đóng, cá công ty chứng khoán bị giảm cơ hội kinh doanh. Sở dĩ như vậy là vì các công ty chúng khoán mặc dầu có vốn không nhiều nhưng chỉ mới triển khai một số nghiệp vụ đơn giản không cần vốn nhiều như tư vấn, môi giới CK còn các nghiệp vụ khác như tự doanh, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư, v.v là những nghiệp vụ có ý nghĩa lớn trong việc bình ổn thị trường, điều tiết quan hệ cung cầu thì các công ty chứng khoán chưa triển khai được nhiều, thậm chí các công ty chứng khoán phải đem nguồn vốn của mình gửi vào ngân hàng để hưởng lãi tiền gửi. Như vậy, việc tham gia TTCK của các định chế trung gian tài chính thông qua các công ty chứng khoán của mình là rất quan trọng và cần thiết. Nhưng để cho các công ty chứng khoán hoạt động có hiệu quả, bước đầu các chủ sở hữu phải hỗ trợ công ty chứng khoán của mình không những về vốn, về cung cấp và đào tạo cán bộ mà cả việc sử dụng những dịch vụ và tiện ích sẵn có của mình phục vụ cho hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán, đặc biệt là mạng lưới thông tin và hệ thống các chi nhánh, nhằm mở rộng các đối tượng khách hàng và phát triển thêm nhiều loại hình dịch vụ mới. Chẳng hạn, công ty chứng khoán của Ngân hàng á Châu đã sử dụng mạng thông tin nhanh có sẵn của ACB để giúp khách hàng của mình trên khắp cả nước có thể giao dịch tức thời với sàn giao dịch tại trung tâm. Những khách hàng ở xa vẫn có thể biết được thời giá và đặt lệnh mua bán rất thuận lợi. Công ty chứng khoán ACB cũng đã giúp các khách hàng của mình mở một tài khoản đặc biệt tại Ngân hàng ACB, gọi là “ tài khoản giao dịch CK’. Bằng tài khoản này, khách hàng vừa có thể sử dụng như một tài khoản tiền gửi thanh toán bình thường, vừa có thể sử dụng để giao dịch CK. Do đó, khách hàng chỉ cần gửi tiền tại một nơi duy nhất, nhưng có thể chủ động chi tiêu theo nhu cầu của mình, vừa có quyền đặt lệnh mua- bán CK bất kỳ lúc nào có phiên giao dịch mà không cần phải làm thủ tục ký quỹ trước.
Đến nay, TTCK Việt Nam đã có một số công ty chứng khoán thuộc NHTM như : Công ty trách nhiệm hữu hạn chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Công ty trách nhiệm hữu hạn chứng khoán ACB, công ty trách nhiệm hữu hạn chứng khoán Ngân hàng Công thương ( cấp phép năm 2000 ), công ty trách nhiệm hữu hạn chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ( cấp phép năm 2001), Công ty trách nhiệm hữu hạn chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương ( cấp phép năm 2002 ), Công ty chứng khoán Ngân hàng Đông á
Từ khi được cấp phép hoạt động, các công ty chứng khoán không ngừng củng cố, hoàn thiện bộ máy tổ chức của mình, mở rộng địa bàn hoạt động bằng việc mở rộng đại bàn hoạt động bằng việc mở thêm chi nhánh tại Hà Nội, Tp. HCM, phòng giao dịch, đại lý nhận lệnh tại Hà Nội, Vũng Tàu, Hải Phòng, Đồng Nai, Cần Thơ... Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động kinh doanh cũng được cá công ty từng bước hoàn thiện qua việc mở rộng sàn giao dịch, trang bị thêm các thiết bị công bố thông tin, thiết lập trang Web riêng của công ty tạo điều kiện cho người đầu tư có thể tiếp cận được với công ty ở mọi nơi. Một số công ty chứng khoán sau một thời gian hoạt động đã xin tăng vốn để thực hiện thêm nghiệp vụ như công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển và công ty chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tăng vốn lên 100 tỷ để gia tăng tiềm lực tài chính, có điều kiện mở rộng các loại hình kinh doanh chứng khoán.
Về nhân lực, các công ty chứng khoán đã chú trọng tuyển chọn, những người có kinh nghiệm quản lý ở những ngành có liên quan, những người được đào tạo cơ bản ở nước ngoài về làm việc cho công ty với chính sách đãi ngộ thoả đáng. Mặt bằng trình độ chuyên môn ở các công ty chứng khoán hiện nay đều từ trình độ cử nhân trở lên, nhiều vị trí chủ chốt trong cong ty được sự đảm nhận bởi những người có học vị cao. Việc tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức, nhân sự, đầu tư thêm cơ sở vật chất, tăng vốn đã cho phép các công ty mở rộng triển khai các nghiệp vụ của mình. Chúng ta có thể điểm qua một số nét về tình hình hoạt động của các công ty chứng khoán qua các nghiệp vụ kinh doanh của công ty
Đến nay, nghiệp vụ môi giới vẫn là một trong các nghiệp vụ được cá công ty triển khai tích cực nhất. Nếu như ngày đầu thị trường mới đi vào hoạt động chỉ có khoảng 500 tài khoản người đầu tư mở tại các công ty chứng khoán thì đến đầu tháng 4/ 2008 đã có hơn 200.000 tài khoản. Các công ty chứng khoán đã thực hiện khá chính xác cá lệnh giao dịch của kháchhàng. Khi có sai sót trong việc thực hiện lệnh, các công ty chứng khoán cùng hợp tác, trợ giúp nhau khắc phục. Hình thức nhận lệnh giao dịch của khách hàng cũng đã phong phú hơn trước với các hình thức như qua điện thoại, qua fax, qua Internet. Nhờ đó góp phần giúp công ty chứng khoán mở rộng đối tượng khách hàng.
Ngoài ra, các công ty chứng khoán cũng đã thực hiện tốt các dịch vụ phụ trợ cho hoạt động môi giới như cung cấp miễn phí các báo cáo giao dịch cho nhà đầu tư, tổ chức các buổi phân tích hiễn biến tình hình thị trường cho nhà đầu tư, phối hợp các NHTM thực hiện dịch vụ cầm cố chứng khoán, ứng trước tiền bán chứng khoán. Nhờ đó khách hàng có thể đưa ra cá quyết định đúng đắn, kịp thời và gia tăng khoản đầu tư của mình, công ty chứng khoán cũng gia tăng giá trị giao dịch. Chính sách phí môi giới cũng được các công ty chứng khoán áp dụng linh hoạt trên cơ sở mức trần do pháp luật quy định. Mức phí thường được ưu đãi đối với những lệnh giao dịch lớn và với khác hàng có gái trị giao dịch lớn tính trong một thời gian nhất định ( hàng tuần, hàng tháng). Mức phí môi giới hiện nay cũng là một công cụ để các công ty chứng khoán cạnh tranh nhau. Tình hình thực hiện các nghiệp vụ của các công ty chứng khoán thuộc NHTM cụ thể như sau:
2.2.1.1 Về nghiệp vụ tự doanh chứng khoán
Tự doanh chứng khoán là nghiệp vụ kinh doanh do công ty chứng khoán thực hiện vì lợi ích của chính mình. Như vậy, khi thực hiện nghiệp vụ này, công ty chứng khoán đóng vai trò là người đầu tư có tổ chức trên thị trường. Nghiệp vụ tụ doanh cũng được các công ty chú trọng thực hiện, nhiều công ty tăng vốn điều lệ để được thực hiện nghiệp vụ này.
2.2.1.2 Về nghiệp vụ tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán:
Những ngày đầu thị trường mới đi vào hoạt động, các công ty chúng khoán cũng là những chủ thể góp phần tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK cho công chúng đầu tư. Đến nay, ngoài việc tư vấn đầu tư trực tiếp cho khác hàng, cung cấp miễn phí các báo cáo giao dịch định kỳ có phân tích, khuyến cáo, giúp cho người đầu tư nhìn nhận diễn biến thị trường, lựa chọn chứng khoán đầu tư dưới con mắt của người đầu tư chuyên nghiệp, công ty chứng khoán đã mở rộng hình thức tư vấn có tính chất lượng chuyên môn sâu hơn như tư vấn phát hành cho một số công ty niêm yết trên TTGDCK có ý định phát hành thêm, tư vấn tái cấu trúc tái chính, tư vấn dự án cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài.
Đặc biệt trong thời gian qua, các công ty chứng khoán đã tích cực tham gia mạnh mẽ vào tiến trình cổ phần hoá bằng việc tư vấn cổ phần hoá, định giá doanh nghiệp, tổ chức bán đấu giá cổ phần cho công ty cổ phần. Có thể nói đây là nghiệp vụ có tính chuyển biến rõ rệt nhất trong số các nghiệp vụ mà các công ty chứng khoán đã thực hiện.
Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế trong việc thực hiện nghiệp vụ này, đó là: nghiệp vụ tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán đã xuất hiện tình trạng cạnh tranh không lành mạnh khi tham gia đấu thầu các hợp đồng tư vấn, đặc biệt là giữa các công ty chứng khoán trên cùng địa bàn. Trong việc tư vấn phát hành, tư vấn niêm yết, các công ty chứng khoán mới chỉ thể hiện vai trò qua việc chuẩn bị hồ sơ xin niêm yết nhưng kể cả việc làm này vẫn chưa được tốt. Vai trò tư vấn sau niêm yết chưa được thể hiện, bằng chứng là đa phần các công ty niêm yết chưa thực hiện tốt quy định về công bố thông tin và một số công ty niêm yết còn lúng túng trong việc xử lý tình huống bất lợi phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh.
2.2.1.3 Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư:
Đây thực chất là hoạt động quản lý vốn cho khách, vì quyền lợi củakhách hàng trên cơ sở hợp đồng ký kết. Trong những năm đầu, nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư đều chưa triển khai tại hầu hết các công ty chứng khoán được cấp phép nghiệp vụ này.
Tuy nhiên , theo đánh giá một cách khách quan và tổng thể, nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư vẫn tiếp tục dậm chân tại chỗ, doanh số giao dịch của nghiệp vụ này không cao, còn dè dặt, mang tính tập dượt. Điều này một phần là do xu hướng của người đầu tư trong giai đoạn đầu thường thích tự đầu tư hơn là uỷ thác cho người khác quản lý, đầu tư hộ mình. Thêm vào nữa, đây là nghiệp vụ đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao trong khi khả năng đáp ứng của công ty chứng khoán trong giai đoạn này còn rất khiêm tốn. Ngoài ra, do hàng hoá trên thị trường chưa nhiều, số lượng cổ phiếu được giao dịch thấp hơn nhiều so với số lượng chứng khoán phát hành do tỷ lệ cổ phần của Nhà nước ở các doanh nghiệp này còn lớn, chưa đa dạng nên không có điều kiện triển khai.
2.2.1.4 Về nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán
Ngiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán của NHTM là việc NHTM tiến hành nhứng hoạt động cần thiết nhằm giúp cho tổ chức phát hành thực hiện thành công việc chào bán cổ phiếu ra công chúng. Đối với thị trường chứng khoán Việt Nam, bảo lãnh phát hành chứng khoán được coi là một nghiệp vụ quan trọng và là một trong số 5 nghiệp vụ được cấo giấy phép cho hoạt động của các công ty chứng khoán thuộc NHTM. Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán trong đó quan trọng nhất là mang lại tính chuyên nghiệp cho thị trường. Thực tế thì các NHTM mới chỉ triển khai hoạt động nhiều trong việc bảo lãnh trái phiếu chính phủ có độ rui ro rất thấp, còn việc triển khai các nghiệp vụ bảo lãnh phát hành cổ phiếu của các công ty cổ phần thì còn rất nhiều hạn chế.
Nguyên nhân khiến việc bảo lãnh cổ phiếu của các công ty cổ phần còn hạn chế bên cạnh những lý do từ phía thị trường và các công ty cổ phần, thi còn xuất phát từ những hạn chế của những công ty chứng khoán của các NHTM. Các công ty chứng khoán hiện nay yếu cả về tiềm lực vốn và nghiệp vụ chuyên môn để có thể đảm đương được vai trò của đơn vị bảo lãnh phát hành. Với mức vốn đáp ứng ở mức yêu cầu tối thiểu khi đăng ký như hiện nay, các công ty chứng khoán chỉ dám tham gia với vai trò làm đại lý phân phối cho tổ chức phát hành. Có thể nói nghiệp vụ này cũng chỉ được áp dụng tại một số NHTM có quy mô lớn, chủ yếu là các NHTMNN. Các NHTM cổ phần chưa mạnh dạn áp dụng nghiệp vụ này. Tuy nhiên, đối với những đợt phát hành có giá trị vài chục tỷ đồng thì bản thân các công ty chứng khoán này cũng sẽ gặp khó khăn về vốn nhất là trong diều kiện các công ty chứng khoán chưa có thói quen liên kết thành tổ hợp bảo lãnh phát hành. Đội ngũ cán bộ của các công ty chứng khoán hiện nay còn có những hạn chế khi triển khai nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. Hầu hết các cán bộ hoạt động tỏng các công ty chứng khoán là những cán bộ trẻ được đào tạo bài bản nhưng còn thiếu kinh nghiệm thực tế. Trong khi đó, nghiệp vụ bảo lãnh phát hành đòi hỏi những cán bộ không chỉ có kiến thức chuyên môn mà còn phải có những kinh nghiệm về ngành hay lĩnh vực hoạt động của tổ chức phát hành. Kinh nghiệm từ các thị trường khác cho thấy, tổ chức bảo lãnh phát hành thường phải tổ chức thành những nhóm hay có những cá nhân chuyên trách thực hiện nghiên cứu, phân tích và thường xuyên công bố các nghiên cứu của mình theo từng loại cổ phiếu mà đơn vị tham gia bảo lãnh phát hành. Công việc này tốn kém nhưng cần thiết để hướng dẫn đầu tư cho thị trường.
2.2.1.5. Hoạt động lưu ký chứng khoán
Hoạt động lưu ký chứng khoán là hoạt động mà các công ty chứng khoán đặc biệt là các công ty thuộc các NHTM rất quan tâm. Nhìn chung, các thanh viên luôn tìm cách thu hút số khách hàng vào lưu ký tại công ty mình ngày càng nhiều, song do ngày càng nhiều các thành viên được cấp phép hoạt động lưu ký nên đã diễn ra sự cạnh tranh giữa các thanh viên.
Tính đến đâu năm 2008 đã có khoảng 250 loại cổ phiếu,hơn 200 loại trái phiếu, 03 loại chứng chỉ quỹ đầu tư niêm yết tại TTGDCK T.p Hồ Chí Minh và Hà Nội. Đối vơi nghiệp vụ này, có thể nói các NHTM đã tham gia rất tích cực sử dụng những kỹ thuật vốn có và những kinh nghiệm quý báu của mình trên lĩnh vực hoạt động chủ yếu của mình là tín dụng để đẩy mạnh hơn nũa nghiệp vụ này, hỗ trợ rất lớn cho sự phát triển thuận lợi của thị trường.
2.2.1.6 Hoạt động thanh toán bù trừ qua Ngân hàng chỉ định thanh toán
Hoạt động thanh toán tiền cho các giao dịch chứng khoán của Ngân hàng chỉ định thanh toán cho đến nay được thực hiện tốt, không có hiện tượng vi phạm nguyên tắc thanh toán
Hoạt động thanh toán các giao dịch chứng khoán được thực hiện đúng quy định kịp thời dảm bảo thời gian thanh toán chứng khoán, góp phần tăng tính thanh khoản của các chứng khoán được niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán tập trung, Ngân hàng chỉ định thanh toán đã mở rộng cung cấp dịch vụ như dịch vụ cho vay tiền thực hiện các giao dịch chứng khoán, ứng trước tiền thanh toán giao dịch chứngkhoán cho khách hàng..
Một đặc điểm dễ nhận thấy hệ thống bù trừ thanh toán ở Việt Nam hoạt động theo 2 cấp, TTGDCK chỉ mở tài khoản cho thanh viên lưu ký, quản lý và thực hiện lưu ký, bù trừ thanh toán theo thanh viên lưu ký, còn các thành viên lưu ký quản lý và cung cấp dịch vụ lưu ký, bù trừ và thanh toán chi tiêt cho các nhà đầu tư. Trong hoạt động thanh toán, việc chyển giao chứng khoán diễn ra tại TTGDCK, còn thanh toán tiền do ngân hàng chỉ định thanh toán do ngân hàng chỉ định thanh toán thực hiện dực trên kết quả bù trừ của TTGDCK. Hệ thống thanh toán bù TTCKừ chứng khoán có những hạn chế như sau: thứ nhất, đó là chưa đạt tính đồng bộ và hoàn thiện về mặt pháp lý, và chưa tạo dựng được các yếu tố thị trường đồng bộ. Thứ hai, là thiếu một cơ chế quản lý việc in ấn và lưu ký chứng khoán thống nhất và phù hợp với thông lệ quốc tế. Thứ ba là các biện pháp khắc phục lỗi giao dịch chưa chủ động và hiệu quả. Thứ ba là năng lực của hệ thống phần mềm phục vụ cho các hoạt động bù trừ thanh toán chứng khoán chưa cao. Thưa tư, khả năng khắc phục rủi ro thanh toán của quỹ hỗ trợ thanh toán chưa cao. Và cuối cùng là các biện pháp phòng ngừa và khắc phục rủi ro chưa hoàn hảo. Đó là những mặt được và hạn chế của hệ thống ngân hàng trong hoạt động thanh toán bù trừ chứng khoán.
2.2.2. Sự tham gia vào TTCK của các NHTM với tư cách là chủ thể phát hành chứng khoán.
2.2.2.1 Tình hình hoạt động của các NHTM cổ phần.
NHTM cổ phần là loại hình tổ chức tín dụng được hình thành từ trước khi có Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính . Sau khi điều chỉnh theo các Pháp lệnh ở nước ta,đến nay có 34 NHTM cổ phần, trong đó có 33 NHTM cổ phần đô thị và 01 NHTM cổ phần nông thôn được phân bố ở các thành phố lớn và một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long là những vùng có nên kinh tế hàng hoá tương đối phát triển.
Với tư cách là doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, NHTM cổ phần có thể phát hành cổ phiếu lần đầu để thành lập ngân hàng hoặc phát hành các lần tiếp theo để tăng vốn điều lệ. Tuy nhiên do các NHTM cổ phần chưa thực sự lớn mạnh, số lượng vốn huy động còn nhỏ nên hiện nay, các NHTM cổ phần Việt Nam mới chỉ thực hiện phương thực hiện phát hành riêng lẻ, nghĩa là huy động vốn cổ phần dưới hình thức kêu gọi các cổ đông hoặc nhóm cổ đông quen biết lẫn nhau cùng góp vốn. Hiện nay chỉ 2 có ngân hàng niêm yết giao dịch cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán là NHTMCP á Châu và NHTM Sài gòn thương tín. Thường thì các ngân hàng mới chỉ có duy nhất loại cổ phiếu phổ thông có ghi tên, mỗi ngân hàng phát hành với một mệnh giá khác nhau: nếu ngân hàng có các cổ đông với tiềm lực vốn lớn thì mệnh giá thường cao ( 5 triệu đến 10 triệu đồng/ 1 cổ phiếu), những ngân hàng có cổ đông đại chúng thì mệnh giá thấp ( ngoài NHTM cổ phần Sài Gòn thương tín phát hành mệnh giá 0,2 triệu đồng/ 1 cổ phiếu, đa số các ngân hàng phát hành với mệnh giá 1 triệu đồng / cổ phiếu). Việc các NHTM cổ phần được phát hành cổ phiếu ra công chúng, được niêm yết và giao dịch cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ giúp các ngân hàng có cơ hội nâng quy mô về vốn, gia tăng một khối lượng hàng hoá đáng kể cho thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, để thực hiện được thực hiện điều này, không phải điều dễ dàng đặc biệt là những trở ngại về cơ sở pháp lý.
2.2.2.2 Vấn đề cổ phần hoá NHTMNN.
Trong chỉ thị 11/2004/CT-TTG để đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới DNNN theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 9 và tổ chức triển khai thực hiện Luật Doanh nghiệp nhà nước, Thủ tướng chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với Bộ tài chính và cá cơ quan có liên quan xây dựng đề án CPH Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB), Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định trước ngày 30/6/2004. Cho đến nay,cả 2 ngân hàng đã được CPH.
Trong bối cảnh hiện nay, chủ trương CPH các NHTM nhà nước có ý nghĩa rất lớn không chỉ đối với ngành ngân hàng , mà còn tác động tích cực đến các doanh nghiệp là khách hàng truyền thống của hệ thống ngân hàng này và có thể tạo “ đòn bẩy kép” cho sự phát triển của TTCK. Trên thực tế, các NHTM đều đang có nhu cầu về vốn cấp bách phải nâng cao năng lực về vốn, về quản trị điều hành và hiệu quả kinh doanh để có thể đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Trong khi nguồn lực của Nhà nước có hạn, việc CPH NHTM nhà nước la điều tất yếu và sẽ mang lại lợi ích nhiều mặt đối với Nhà nước, xã hội và bản thân ngân hàng. CPH NHTM nhà nước , nếu được thực hiện thông qua chào bán cổ phiếu ra công chúng, chính là tạo điều kiện cho công chúng đầu tư được cùng Nhà nước tham gia trực tiếp vào việc kiểm soát ngân hàng. Bên cạnh đó, cơ chế sở hữu cổ phiếu của cán bộ nhân viên Ngân hàng được xác lập thông qua CPH là nguồn động lực mạnh mẽ tạo nên đội ngũ nhân viên năng động và tích cực cho ngân hàng, đồng thời góp phần tăng cường công tác kiểm soát nội bộ. Là những doanh nghiệp có uy tín, ngân hàng thực hiện CPH thường gắn liền với việc niêm yết cổ phiếu trên TTCK có tổ chức. Sự tham gia của ngân hàng vào TTCK không những làm tăng uy tín, hình ảnh của ngân hàng, mà còn làm tăng giá trị và tính thanh khoản cho cổ phiếu của ngân hàng; từ đó mở ra khả năng huy động những nguồn vốn lớn một cách thường xuyên và chủ động để đáp ứng yêu cầu phát triển của từng giai đoạn. Như vậy, CPH NHTM nhà nước không những thúc đẩy quá trình xã hội hoá đầu tư, tạo điều kiện cho những ngân hàng này tăng, giảm vốn một cách linh hoạt cùng với quy mô hoạt động mà còn tăng cường tính đại chúng của ngân hàng và sự giám sát của xã hội đối với hoạt động của ngân hàng. Khi đó, ngân hàng không thể cho vay dễ dãi và không chờ Nhà nước khoanh nợ, xoá nợ cho các khoản tín dụng xấu. Các doanh nghiệp là khách hàng của ngân hàng do đó cũng sẽ phải tìm kiếm các nguồn vốn khác trên thị trường để bổ sung cho tín dụng ngân hàng, nhất là nguồn vố trùng và dài hạn. Vì những lợi ích to lớn đó, CPH hay đại chúng hoá chính là con đường phát triển của nhiều tập đoàn, công ty lớn trên thế giới trong đó có ngân hàng.
2.2.3 Ngân Hàng giám sát.
Ngõn hàng giỏm sỏt là ngõn hàng do cụng ty quản lý quỹ lựa chọn và được đại hội nhà đầu tư thụng qua với chức năng và nhiệm vụ chủ yếu là theo dừi, giỏm sỏt và đảm bảo hoạt động quản lý quỹ của cụng ty quản lý quỹ phự hợp với những quy định của phỏp luật và điều lệ quỹ, với mục tiờu là phục vụ và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Cụng ty quản lý quỹ ra cỏc quyết định đầu tư theo cỏc tiờu chớ quy định trong Điều lệ quỹ. Tuy nhiờn, mọi tài sản của quỹ được lưu giữ, bảo quản tại ngõn hàng giỏm sỏt, một ngõn hàng độc lập với cụng ty quản lý quỹ.
Cụng ty quản lý quỹ cú nghĩa vụ cung cấp kịp thời, đầy đủ cỏc thụng tin cần thiết về quỹ, cụng ty đầu tư chứng khoỏn, tài sản ủy thỏc cho ngõn hàng giỏm sỏt, để đảm bảo ngõn hàng giỏm sỏt cú đủ thụng tin nhằm thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ đối với quỹ, cụng ty đầu tư chứng khoỏn, nhà đầu tư ủy thỏc theo cỏc quy định của phỏp luật. Tối thiểu 1 thỏng 1 lần, cụng ty quản lý quỹ cú nghĩa vụ thực hiện việc đối chiếu và xỏc nhận tài sản của từng quỹ, từng cụng ty đầu tư chứng khoỏn với ngõn hàng giỏm sỏt.
Trong trường hợp ngõn hàng giỏm sỏt phỏt hiện cỏc giao dịch tài sản quỹ, cụng ty đầu tư chứng khoỏn khụng phự hợp với quy định của phỏp luật, điều lệ quỹ, điều lệ cụng ty đầu tư chứng khoỏn hoặc vượt quỏ thẩm quyền của cụng ty quản lý quỹ và đó thụng bỏo cho cụng ty quản lý quỹ thỡ cụng ty quản lý quỹ phải huỷ bỏ giao dịch đú hoặc thực hiện mua hoặc bỏn tài sản của quỹ, cụng ty đầu tư chứng khoỏn nhằm phục hồi vị thế quỹ, cụng ty đầu tư chứng khoỏn như trước khi cú giao dịch trong thời gian sớm nhất. Việc khụi phục vị thế phải được thực hiện trong vũng 3 thỏng kể từ khi phỏt sinh giao dịch khụng phự hợp.
2.2.4 Ngõn Hàng chỉ định thanh toỏn
Theo quy trỡnh đấu giỏ cổ phần mà Ủy ban Chứng khoỏn ban hành ngày 4//1/2005, để tham gia đấu giỏ cổ phần ở cỏc Trung tõm Giao dịch Chứng khoỏn, nhà đầu tư phải nộp tiền đặt cọc (bằng 10% giỏ trị cổ phần đăng ký mua tớnh theo giỏ khởi điểm) về tài khoản của đại lý đấu giỏ (là cỏc cụng ty chứng khoỏn tham gia vào việc tổ chức đấu giỏ). Chậm nhất 2 ngày làm việc trước ngày tổ chức đấu giỏ, đại lý phải chuyển toàn bộ tiền đặt cọc của nhà đầu tư về tài khoản của Trung tõm Giao dịch Chứng khoỏn mở tại ngõn hàng chỉ định thanh toỏn.
Ngõn hàng Đầu tư và Phỏt triển Việt Nam (BIDV) là đơn vị duy nhất được chọn là ngõn hàng chỉ định thanh toỏn ở Việt Nam, chịu trỏch nhiệm phục vụ thanh toỏn cỏc giao dịch chứng khoỏn tại Trung tõm Giao dịch Chứng khoỏn. Với quy trỡnh đấu giỏ cổ phần kể trờn, đương nhiờn Trung tõm Giao dịch Chứng khoỏn phải mở tài khoản đặt cọc đấu giỏ cổ phần tại BIDV.
Mới đõy, Trung tõm giao dịch chứng khoỏn TP.HCM (HoSTC) đó đột ngột yờu cầu cỏc đại lý tham gia đấu giỏ cổ phần phải chuyển tiền cọc, tiền mua cổ phần sang Ngõn hàng Sacombank thay vỡ Ngõn hàng Đầu tư và phỏt triển Việt Nam (BIDV)
HoSTC cho rằng đó trở thành Sở giao dịch chứng khoỏn, hoạt động độc lập và tỏch khỏi Ủy ban Chứng khoỏn nhà nước nờn cú quyền chọn ngõn hàng để mở tài khoản. Trong khi đú, BIDV kịch liệt phản đối khi cho đõy là một việc làm thiếu tớnh hợp tỏc, khụng minh bạch, cú dụng ý khụng tốt.
Ngõn hàng nào được chọn để mở tài khoản nhận tiền đặt cọc trong cỏc đợt đấu giỏ cổ phần cũng sẽ thu về cỏc khoản siờu lợi nhuận. Những đợt đấu giỏ cổ phần, doanh nghiệp nhà nước sẽ cú hàng chục ngàn tỷ đồng được lưu giữ tại ngõn hàng cú khi kộo dài hàng thỏng trời. Ngõn hàng sẽ kiếm lợi nhuận cao khi lấy tiền đú cho vay ngắn hạn. Do sự hấp dẫn của những khoản lợi nhuận này nờn bất cứ một ngõn hàng nào cũng muốn với tới.
Do đú, việc xõy dựng một quy chế rừ ràng về ngõn hàng chỉ định thanh toỏn là việc cần làm cấp bỏch để đảm bảo an toàn tài sản nhà đầu tư cũng như tài sản nhà nước. Đồng thời, những khoản lợi nhuận cú được từ những tài sản đặt cọc của nhà đầu tư và nhà nước phải được minh bạch. Cú vậy mới trỏnh được việc chỉ định thanh toỏn theo kiểu tựy hứng. Quan trọng hơn, việc đú sẽ tạo ra một mụi trường cạnh tranh sũng phẳng cho cỏc ngõn hàng. Cứ ngõn hàng nào cú đủ điều kiện, chứng minh được tớnh khả thi cao sẽ bước vào cuộc chơi
2.2.5 Ngõn Hàng lưu ký
Ngày 27/7/2005, Thủ tướng Chớnh phủ ban hành Quyết định số 189/2005/QĐ-TTg về việc thành lập Trung tõm Lưu Ký Chứng khoỏn (TTLKCK), cú nhiệm vụ thực hiện đăng ký, lưu ký, bự trừ, thanh toỏn chứng khoỏn và cung cấp cỏc dịch vụ hỗ trợ việc giao dịch, mua bỏn chứng khoỏn. Để chuẩn bị cho việc khai trương và đưa TTLKCK đi vào hoạt động trong quý 2/2006, mọi cụng tỏc chuẩn bị đang được khẩn trương thực hiện.
Núi đến đăng ký chứng khoỏn, lưu ký chứng khoỏn, bự trừ và thanh toỏn cỏc giao dịch chứng khoỏn là núi đến dịch vụ hỗ trợ giao dịch chứng khoỏn trờn cỏc thị trường chứng khoỏn (TTCK) bao gồm cả cỏc thị trường chớnh thức và thị trường phi tập trung. Người đầu tư cú thể đặt cõu hỏi tại sao lại phải cần đến dịch vụ đăng ký, lưu ký chứng khoỏn, bự trừ và thanh toỏn trong khi họ cú thể tự bảo quản lấy tài sản của mỡnh, tỡm gặp nhau để thực hiện giao dịch mua bỏn chứng khoỏn, sau đú tự thanh toỏn chứng khoỏn và tiền với nhau?
Cõu trả lời ở đõy là “hỡnh thức giao dịch chứng khoỏn” đó quyết định đến vấn đề này. Việc giao dịch và thanh toỏn như trờn chỉ thực hiện được đối với cỏc giao dịch tự phỏt, chủ yếu là trực tiếp giữa một bờn mua với một bờn bỏn, tớnh an toàn trong giao dịch thấp, luụn tiềm ẩn nguy cơ khụng thực hiện nghĩa vụ giao dịch của hoặc bờn mua, hoặc bờn bỏn, đặc biệt là khi giỏ cả thị trường cú nhiều biến động. Trong khi đú, giao dịch chứng khoỏn tại cỏc sở giao dịch chứng khoỏn (thị trường tập trung), thị trường giao dịch điện tử (thị trường phi tập trung), thị trường cỏc cụng cụ phỏi sinh đều là hỡnh thức giao dịch cú tổ chức giữa nhiều bờn mua bỏn với nhau. Để luụn đảm bảo nghĩa vụ thực hiện hợp đồng cũng như sự an toàn cho tất cả cỏc bờn tham gia mua bỏn, giảm thiểu chi phớ giao dịch, hỡnh thức giao dịch cú tổ chức, đũi hỏi việc thanh toỏn tiền và chuyển giao chứng khoỏn cũng phải được thực hiện một cỏch cú tổ chức. Khi giao dịch chứng khoỏn đó được xỏc nhận thực hiện, việc chuyển giao chứng khoỏn và thanh toỏn tiền sẽ được thực hiện bằng hỡnh thức chuyển khoản trờn cỏc tài khoản chứng khoỏn và tiền thụng qua cỏc bỳt toỏn ghi sổ, thay vỡ chuyển giao vật chất trực tiếp như trong hỡnh thức giao dịch tự phỏt. Để làm được điều này, chứng khoỏn niờm yết hay đăng ký giao dịch trờn TTCK cần phải được lưu giữ tập trung và bất động húa tại một nơi. Chớnh đũi hỏi này đó dẫn đến sự ra đời của loại hỡnh dịch vụ là đăng ký, lưu ký chứng khoỏn, bự trừ và thanh toỏn cỏc giao dịch chứng khoỏn để hỗ trợ cho việc thực hiện và hoàn tất cỏc giao dịch chứng khoỏn trờn cỏc thị trường giao dịch chứng khoỏn cú tổ chức. Sự xuất hiện của cỏc loại hỡnh dịch vụ này cũng đó kộo theo sự ra đời của cỏc tổ chức cung ứng cỏc dịch vụ đú và hệ thống văn bản phỏp quy để quản lý cỏc tổ chức cung ứng dịch vụ đăng ký, lưu ký chứng khoỏn, bự trừ và thanh toỏn cỏc giao dịch chứng khoỏn.
Cỏc tổ chức cung ứng dịch vụ đăng ký, lưu ký chứng khoỏn, bự trừ và thanh toỏn cỏc giao dịch chứng khoỏn thường là cỏc ngõn hàng lưu ký (ngõn hàng thương mại được phộp hoạt động lưu ký chứng khoỏn), cỏc cụng ty chứng khoỏn, được gọi chung là cỏc tổ chức lưu ký. Cỏc tổ chức thanh toỏn tiền cho cỏc giao dịch chứng khoỏn là cỏc ngõn hàng thanh toỏn. Hoạt động của thị trường giao dịch cú tổ chức cần một nơi để lưu giữ và quản lý tập trung cỏc chứng khoỏn, đồng thời sự hỡnh thành nhiều tổ chức lưu ký cũng đũi hỏi phải cú một tổ chức đúng vai trũ là tổ chức lưu ký trung tõm, làm trung gian kết nối cỏc tổ chức lưu ký này với nhau, tạo cơ sở cho việc thực hiện thanh toỏn bằng hỡnh thức ghi sổ. Những đũi hỏi đú đó dẫn đến sự hỡnh thành của TTLKCK, cỏc tổ chức lưu ký cũn lại trở thành thành viờn của trung tõm lưu ký, hay cũn gọi là cỏc thành viờn lưu ký. Đối với cỏc ngõn hàng thanh toỏn cũng vậy, cần phải cú một ngõn hàng đúng vai trũ là ngõn hàng thanh toỏn trung tõm, thực hiện thanh toỏn tiền cho tất cả cỏc giao dịch chứng khoỏn, thường là Ngõn hàng Trung ương (NHTW) hay Ngõn hàng chỉ định thanh toỏn.
Hệ thống cở sở vật chất kỹ thuật, cụng nghệ thụng tin của trung tõm lưu ký, của cỏc thành viờn lưu ký và của cỏc ngõn hàng thanh toỏn, NHTW cựng với hệ thống phỏp lý về lưu ký được gọi chung là hệ thống đăng ký, lưu ký chứng khoỏn, bự trừ và thanh toỏn cỏc giao dịch chứng khoỏn, hay cũn gọi tắt là hệ thống lưu ký chứng khoỏn. Hệ thống lưu ký chứng khoỏn đảm bảo việc đăng ký, lưu ký chứng khoỏn được hoàn tất trước khi chứng khoỏn được đưa vào giao dịch và sau khi giao dịch kết thỳc cỏc bờn tham gia giao dịch sẽ lần lượt nhận được tiền và chứng khoỏn thụng qua việc bự trừ và thanh toỏn chứng khoỏn và tiền do hệ thống thực hiện. Như vậy, cựng với sự hỡnh thành của TTCK cú tổ chức, hệ thống lưu ký chứng khoỏn đó trở thành một thành yếu tố khụng thể thiếu, cấu thành nờn hạ tầng của TTCK.
2.2.6 Ngõn Hàng thực hiện cho vay, cầm cố, ứng trước tiền bỏn chứng khoỏn.
Cho vay cầm cố CK là một loại hỡnh tớn dụng tiềm năng mới được khai thỏc ở VN nờn cũn nhiều cơ hội cho NH. Tuy nhiờn, nếu khụng cẩn trọng và cú cỏc biện phỏp hạn chế sẽ rất rủi ro cho cả hệ thống NH lẫn TTCK.
Thực tế, trong thời gian qua, TTCK sụt giảm mạnh, giỏ CP luụn trong tỡnh trạng mất tớnh thanh khoản, nhất là CK trờn sàn OTC và NH muốn kết thỳc hợp đồng repo cũng khụng phải dễ. NĐT mất khả năng trả nợ đành phải phú thỏc cho NH. NH lo ngại về nợ xấu nờn đó nhanh chúng bỏn thỏo thu hồi vốn khiến thị trường càng tồi tệ hơn.
Tuy nhiờn, cũng phải nhỡn nhận hoạt động tớn dụng này được khụng ớt cỏc NH chỳ ý vỡ thị phần cũn rất lớn, dễ khai thỏc. Đõy cũng là mục tiờu của nhiều NH nhỏ trong khi chưa cạnh tranh nổi trờn cỏc lĩnh vực khỏc với cỏc tờn tuổi lớn.
Chẳng hạn với Western Bank, NH này vừa hoàn tất tăng VĐL từ 200 tỷ đồng lờn 1.000 tỷ đồng, đồng nghĩa với tăng dư nợ cho vay CK tối đa lờn 200 tỷ đồng so với mức 40 tỷ đồng trước đú. Hiện Western Bank đang đẩy mạnh cho vay CK, tập trung vào cỏc sản phẩm như cho vay cầm cố, ứng trước.
Kế hoạch tương tự cũng được Pacific Bank hướng tới khi đặt mục tiờu tăng vốn từ 566,5 tỷ đồng hiện tại lờn 2.000 tỷ đồng trong năm 2008 nếu đại hội cổ đụng thụng qua. Đa số cỏc NH đều thực hiện ký hợp tỏc với nhiều CTCK nhằm cung cấp cỏc dịch vụ mở và quản lý tài khoản lưu ký, thu chi hộ đối với cỏc giao dịch CK, cho vay tiền để thực hiện quyền mua cổ phiếu, cho vay ứng trước tiền bỏn CK.
Cú thế núi, tham vọng của cỏc NH tăng vốn điều lệ lờn cao trong năm nay phần lớn nhằm đẩy mạnh lĩnh vực cho vay, trong đú cú cầm cố CK vỡ dư nợ cho vay bị giới hạn 20% trờn tổng VĐL.
Giới hạn này cũng là một trong những "van" nhằm giảm thiểu rủi ro của hoạt động cho vay cầm cố CK vỡ mức cho vay sẽ tăng dần theo quy mụ của NH. Tuy nhiờn, cỏi khú nhất của cỏc NH hiện nay là mức tăng trưởng tớn dụng bị khống chế dưới mức 30% trong năm 2008, thay vỡ thả lỏng như những năm trước.
Phần 3:
Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò
của NNTM đối với thị trường chứng khoán
3.1 Mục tiêu chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
Quan điểm chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam là đi từ quy mô nhỏ đến lớn, theo định hướng XHCN, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế; xây dựng thị trường hoạt động ổn định, an toàn, hiệu quả, bảo vệ người đầu tư, và có thể linh hoạt thích ứng thực tế, đồng thời tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với thị trường.
Mục tiêu tổng quát của chiến lược là “củng cố, ổn định và nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường, từng bước mở rộng phạm vi, quy mô thị trường, tăng cường hiệu quả quản lý giám sát thị trường, bảo vệ người đầu tư. Góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam, đảm bảo ổn định và an ninh tài chính, tiền tệ quốc gia; nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Tạo ra một môi trường nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá và huy động nguồn vốn cho đầu tư phát triển”
Mục tiêu gia đoạn 2006- 2010 là tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng hoạt động cung cấp dịc vụ của TTCK. Nhiệm vụ chủ yếu là mở rộng và tăng cường năng lực của thị trường, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ; khuyến khích, tăng cường khả năng cạnh tranh; thúc đẩy hội nhập quốc tế
Đó là mục tiêu chính trong chiến lược phát triển ngành chứng khoán. Dựa vào đó ta có thể đưa ra những giải pháp phù hợp để phát triển thị trường mà ở trong phần nghiên cứu này em chỉ dám đua ra một vài những ý kiến nhằm phát huy vai trò của Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán.
3.2. Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của NNTM trên TTCK
Để phát triển TTCk hiện nay, cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giã hoạt động của các trung gian tài chính với sự điều tiết nhanh nhạy của cá nhà quản lý thị trường, cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước về luật pháp, chính sách và cũng không loại trừ cả những giải pháp mạnh ở tầm vĩ mô lúc cần thiết. Trong tình hình hiện nay, ở Việt Nam nếu không có sự kết hợp đồng các tổ chức nói trên thì khó có thể phát huy được hết vai trò của các NNTM cũng như sự phát triển hơn nữa của TTCK
3.2.1 Đối với Nhà nước và các cơ quan quản lý thị trường
3.2.1.1 Hoàn thiện khung pháp lý cho TTCK Việt Nam và công tác pháp chế của UBCKNN
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK hiện nay với văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất là Nghị Định số 144/2003/NDD-CP tuy đã khắc phục được nhiều mặt hạn chế, thiếu sót của Nghị định số 48/1998/NDD-CP nhưng do là văn bản dưới luật nên tính pháp lý của hệ thông pháp luật về chứng khoán và TTCK chua cao, chưa đồng bộ, không thể giải quyết được một cách triệt những mâu thuẫn xung đột với các văn bản pháp luật khác có liên quan, chưa tạo được môi trường pháp lý đầy đủ, ổn định để điều chỉnh mọi hoạt động trên TTCK phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay và phù hợp với định hướng, chiến lược phát triển TTCK Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong việc hoàn thiện khung pháp lý về chứng khoán và TTCK Việt Nam hiện nay là chính là xây dựng Luật Chứng khoán. Đây cũng là chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc tăng cường hoàn thiện hệ thống pháp luật về chứng khoán và TTCK. Luật Chứng khoán với những ưu thế rất lớn sẽ tạo ra một môi trường pháp luý ổn định, vững chắc, bảo vệ quyền, lợi ích của cá chủ thể tham gia thị trường. Góp phần xây dựng và phát triển TTCK Việt nam trở thành một kênh huy động vốn quan trọng và thiết yếu đáp ứng cho công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Hoàn thiện khung pháp lý TTCK Việt nam là một trong những giải pháp nhằm bình ổn và phát triển TTCK, mở rộng phạm vi, quy mô của thị trường, đảm bảo xây dựng một TTCK hoạt động có tổ chức, an toàn, hệu quả, được quản lý một cách chặt chẽ. Qua đó cũng tạo điều kiên thuận lợi, khuyến khích và thúc đẩy sự tham gia của các NHTM trên TTCK.
3.2.1.2 Hiện đại hoá các hệ thống và nâng cấp hoạt động của TTCK
Hoàn thiện hệ thống giao dịch theo hướng đảm bảo sự kết hợp giữa các điều kiện sẵn có của môi trường kinh tế với nhu cầu của các đối tượng tiềm năng tham gia TTCK, trong đó tập trung vào các yêu tố như: Tính ổn định của thị trường; tính đơn giản; tính thích nghi; tính bảo mật. Trong thời gian qua, mặc dù hệ thống giao dịch của TTGDCK được xây dựng từ các nguồn cung cấp khác nhau nhưng bước đầu đã đáp ứng được các nhu câu giao dich chứng khoán trên thị trường. Tuy nhiên, hệ thống giao dịch hiện tại sẽ khó có thể đáp ứng được yêu cầu cho giao dịch sắp tới, đòi hỏi chúng ta cần phải thiết kế, xây dựng hệ thống mang tính đồng bộ, có công suất lớn và đảm bảo được sự tương thích giữa các hệ thống và có tính mở để có thể nâng cấp và khả năng kết nối với các hệ thống khác từ công ty chứng khoán, trung tâm lưu ký, trung tâm thanh toán ..., từng bước cho phép ứng dụng các giao dịch trực tuyến trên TTCK, tạo điều kiện dễ dàng và thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc tiếp cận các phòng giao dịch thông qua mạng Internet; Mobile phone; fax; telex v.v..
Hiện đại hoá hệ thống giám sát thị trường, xây dựng hệ thống giám sát tự động kết nối với các hệ thống giao dịch, công bố thông tin, lưu ký, thanh toán
Nâng cấp hệ thống công bố thông tin, đảm bảo có một hệ thống công bố thông tin có thể truyền phát rộng và truy cập dễ dàng cho các đối tượng tham gia thị trường, đặc biệt là các nhà đầu tư. Mở rộng phạm vi thông tin cần công bố trên cơ sở xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin đầy dủ bao gồm thông tin giao dịch trên thị trường, thông tin về các công ty niêm yết, thông tin về các tổ chức trung gian thị trường và thông tin quản lý thị trường.
Tự động hoá một bước hệ thống lưu ký, và thanh toán bù trư chứng khoán. Thực hiện dịch vụ lưu ký cho các chứng khoán chưa niêm yết.; giảm thời gian thanh toán; tự động hoá tứng bước hệ thống lưu ký, thanh toán bù trừ; thực hiện nối mạng giữa các thành viên lưu ký và TTGDCK
3.2.1.3 Hoàn thiện thể chế TTCK va tăng cường năng lực cho các định chế trung gian khác
Để đảm bảo một môi trường đầu tư ổn định, giảm thiểu rủi ro thị trường, hấp dẫn nhà đầu tư trong và ngoài nước, thể chế TTCK cần được hoàn thiện thông qua một số các hoạt động sau đây: Củng cố và hiện đại hoá các định chế thị trường đã có như các TTGDCK, các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ.Bên cạnh đó, cũng cần phải phát triển và hoàn thiện hơn nữa những thể chế khác cho TTCK. Các quỹ đầu tư chứng khoán với quy mô tài chính lớn và kỹ năng chuyên nghiệp cần được khuyến khích hoạt động mạnh mẽ hơn nhằm chuyên môn hoá hoạt động đầu tư chứng khoán và tạo định hướng cho nhà đầu tư nhỏ lẻ. Việc phát triển các định chế quỹ đầu tư chứng khoán sẽ tạo ra một đội ngũ các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp định hướng đầu tư cho thị trường.
Bên cạnh đó các định chế mang tính chất thiết yếu trong cấu trúc thị trường như tổ chức định mức tín nhiệm, trung tâm lưu ký, đăng ký và thanh toán bù trừ chứng khoán độc lập cần được đi vào hoạt động có hiệu quả. Việc thành lập các tổ chức tín nhiệm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát hành trái phiếu cũng như tổ chức tốt một thị trường trái phiếu thứ cấp. Có thể thành lập một tổ chức định mức tín nhiệm dưới hình thức một công ty cổ phần với sự tham gia của các định chế ngân hàng, tài chính và có sự tham gia quản lý của Nhà nước. Hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm Việt Nam cần phải đáp ứng được các tiêu chí xếp hạng và nguyên tắc hoạt động cơ bản của một tổ chức định mức tín nhiệm trên thế giới, nhưng cần phải phù hợp với bối cảnh hiện tại ở Việt Nam.
Ngoài ra vai trò của những tổ chức tự quản như Hiệp hội ngành chứng khoán và Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính cần được phát huy để có thể thực hện được các chức năng tự quản đối với các thành viên tham gia thị trường, giảm nhẹ gánh nặng quản lý cho cơ quan quản lý nhà nước, và tăng cường hiệu quả quản lý thị trường thông qua cơ chế kiểm tra và điều chỉnh.
3.2.2 Các giải pháp đối với các NHTM
3.2.2.1 Nâng cao vai trò cầu nối của các Công ty chứng khoán của các NHTM
Hiện nay, các hoạt động của NHTM tham gia vào TTCk mới chỉ chủ yếu là thông qua các công ty chứng khoán giống như nhiều các công ty chứng khoán khác không thuộc ngân hàng. Như vây, các NHTM chưa thưc sự phát huy được vai trò của mình, thế mạnh của mình trên TTCK. Các công ty chứng khoán của các NNTM cần phải phát huy hơn nữa vai trò cầu nối trung gian của mình giữa các nhà đầu tư với các doanh nghiệp, góp phần tạo kênh huy động vốn mới thực sự hiệu quả cho nền kinh tế thông qua việc đẩy mạnh hơn nữa nghiệp vụ môi giới và bảo lãnh phát hành chứng khoán; nâng cao chất lượng và mở rộng hơn nữa tư vấn đầu tư chứng khoán, tăng cường tiếp xúc với cá doanh nghiệp dưới mọi hình thức nhằm giới thiệu khả năng huy động vốn qua kênh TTCK cho các doanh nghiệp; nâng khả năng và tính chuyên nghiệp cho các công ty chứng khoán là một đòi hỏi rất quan trọng. Bên cạnh đó, bằng cách cung cấp dịch vụ tư vấn CPH, tư vấn niêm yết thực hiện BLPH chứng khoán, các công ty chứng khoán sẽ phát huy vai trò tạo cơ chế giá, giúp các doanh nghiệp đánh giá phát hành hợp lý đối với các chứng khoán trong đợt phát hành và giúp nhà đầu tư đánh giá đúng và chính xác về giá trị các khoản đầu tư của mình bắng cách đó công ty chứng khoán sẽ phát huy được vai trò tạo sản phẩm mới cho thị trường. Cuối cùng, công ty chứng khoán cần quan tâm hơn nữa tới việc tăng cường cầu nối trung gian trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, tăng cường tiếp cận với khách hàng tiềm năng, góp phần tạo nên văn hoá đầu tư, tạo thói quen đầu tư trên TTCK cho nhà đầu tư, tạo thói quen và kỹ năng sử dụng dịch vụ tư vấn đầu tư thông qua việc xây dựng hình ảnh của công ty, tạo niềm tin và sự tín nhiệm của khách hàng đối với cá nhân người hành nghề kinh doanh chứng khoán và đối với chính công ty.
3.2.2.2 Tăng cường đào tạo đội ngũ nhân viên chứng khoán của các NHTM
Thứ nhất, đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên tác nghiệp tại các công ty chứng khoán và công tác đào tạo cấp giấy phép hành nghề chứng khoán có trình độ và kỹ năng nghề nghiệp ngang tầm với cá nước trong khu vực; đảm bảo chất lượng đào tạo và thi tuyển cấp phép hành nghề ngang tầm khu vực.
Nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ tư vấn đầu tư chứng khoán: Ngoài những kiến thức nền tảng về kinh tế tài chính, đội ngũ này cần có hiểu biết sấu sắc về kỹ năng phân tích chứng khoán và lựa chọn danh mục đầu tư chứng khoán, có khả năng tìm tòi, khai thác, phân tích tổng hợp thông tin.
Các công ty chứng khoán nên phối hợp với TTNCKH & ĐTCK cử các chuyên gia giảng dạy đối với từng nghiệp vụ chuyên sâu, cũng như thông tin tình hình của thị trường.
3.2.2.3 Hiện đại hoá trang thiết bị cho các NHTM
Hoạt động chứng khoán là hoạt động hết sức phức tạp, đòi hỏi những công nghệ và thiết bị hiện đại. Để phát huy được vai trò của mình trên thị trường chứng khoán, cùng với sự đổi mới toàn ngành, hệ thống ngân hàng không thể không đổi mới công nghệ của mình nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng cường khả năng cạnh tranh. Các NHTM cần đầu tư đổi mới các cơ sở vật chất nhằm phục vụ cho các hoạt động giao dịch và thanh toán được nhanh chóng và hiệu quả, áp dụng công nghệ thông tin tiên tiến vào trong mọi lĩnh vực, mọi hoạt động của NHTM. Hiện đại hoá hệ thống thông tin, nối mạng giữa các công ty chứng khoán với TTGDCK và người đầu tư , phát triển hệ thống tác nghiệp tập trung cho các công ty chứng khoán để hiện đại hoá hệ thống tác nghiệp trên cơ sở tiết kiệm chi phí, dễ dàng chia sẻ thông tin giúp cho việc quản lý được thuận tiện , nâng cao chất lượng xử lý giao dịch và dễ dàng nâng cấp trong tương lai.
3.2.2.4 Cổ phần hoá NHTMNN nhằm nâng cao tiêm lực về vốn
Có thể thấy, cổ phần hoá NHTMNN là một nhu cầu cần thiết và thực tế, một xu hướng tất yếu khi mà định hướng chung của kinh tế nước ta là hội nhập với kinh tế thế giới. Tuy nhiên, cần phải quan tâm đến những yêu cầu sau đây:
Một là, CPH các NHTMNN phải nằm trong kế hoạch tổng thể cơ cấu lại và phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam. Một trong những trọng tâm của nó là việc nâng vốn của các NHTMNN lên càng sớm càng tốt, để khi tiến hành CPH xong thì tỷ lệ an toàn vốn phải đạt chuẩn mực quốc tế
Hai là, CPH các NHTMNN cần phải tiền hành từng bước thận trọng. Do tính chất tương đối đặc thù, ngân hàng vốn được coi là một ngành nhạy cảm, hoạt động ngân hàng có ảnh hưởng rất to lớn đến hầu hết các ngành khác trong nền kinh tế. Do đó, CPH các NHTMNN cần hết sức thận trọng để đảm bảo độ an toàn và bên vững của không những hệ thống ngân hàng mà còn của toàn bộ nền kinh tế.
Ba là, CPH các NHTMNN phải gắn liền với việc nâng cao điều hành, quản trị, ứng dụng các công nghệ ngân hàng hiện đại, tạo ra cá sản phẩm ngân hàng mới, có sức cạnh tranh cao
Bốn là, CPH các NHTMNN phải gắn liền với trình xử lý các yếu kém tồn tại, lành mạnh hoá tài chính, giảm thiểu tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn.
Năm là, CPH các NHTMNN phải được tiến hành theo hướng công khai, minh bạch theo hướng đa sở hữu trong đó Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối. Tránh hiện tượng CPH khép kín. Hơn nữa, CPH NHTMNN không phải là bán tài sản hiện tại của Nhà nước cho khu vực tư nhân mà là giữ nguyên tài sản Nhà nước với mức tăng hàng năm do tái đầu tư bình thường, đồng thời huy động thêm vốn mới từ công chúng, nhằm nâng cao tiềm lực tài chính và quy mô hoạt dộng của các NHTMNN. Ngoài việc đảm bảo an toàn cho hoạt động cho cả hệ thống ngân hàng , cơ sở vốn bền vững còn là điều kiện cần thiết và là cơ hội để hiện đại hoá công nghệ và quản lý, nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện vai trong, vị thế và uy tín quốc tế của hệ thống tài chính, ngân hàng Việt Nam, đồng thời có thể hỗ trợ đặc lực cho phát triển thị trường chứng khoán của nước ta.
3.2.2.5 Tạo điều kiện cho phép các NHTM cổ phần mở rộng quy mô vốn
Một trong những vấn đề đang thời sự hiện nay là cho phép các NHTM cổ phần niêm yết phát hành cổ phiếu trên TTGDCK để huy đông vốn, tăng thêm vốn điều lệ cho các ngân hàng này.Đó là một trong những giải pháp quan trọng được đưa ra bàn bạc sôi nổi trong thời gian qua. Được biết UBCKNN cũng mong muốn triển khai vấn đề này vì nó sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của TTCK Việt nam lên tầm cao mới , trước mắt là tăng thêm số lượng cổ phần giao dịch trên TTGDCK Tp.HCM. Đồng thời cho đến nay, Thống đốc NHNN cũng ủng hộ chủ trương nói trên. Hiện nay, trên thực tế, nhiều NHTM cổ phần trong nước làm ăn có bài bản, lãi lớn, hoạt động ổn định, hạch toán rõ ràng, được kiểm toán quốc tế hay kiểm toán độc lập, có uy tín trong nước và quốc tế, tạo được lòng tin trong dân chúng, nên chắc chắn việc niêm yết và phát hành cổ phiếu trên TTGDCK sẽ thành công.
Kết luận
Thị trường chứng khoán là thể chế tài chính bậc cao với sự tham gia của các tổ chức trung gian, trong đó có vai trò quan trọng của các tổ chức trung gian đặc biệt là các ngân hàng thương mại.
Thị trường chứng khoán đang dần đi vào ổn định, và đã thu được một số kết quả đáng khích lệ nhưng bên cạnh đó cũng không ít những hạn chế và tồn tại. Có thể nói, ở Việt Nam, các Ngân hàng thương mại có nhiều lợi thế nhất trong việc trở thành trung gian, hỗ trợ cho sự phát triển thị trường. Nhưng trên thực tế, việc tham gia của các ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán là rất hạn chế, còn dè dặt, chưa phát huy được hết vai trò của các ngân hàng làm cầu nối trung gian trên thị trường chứng khoán.
Bằng việc vận dụng những kiến thức đã học và sự tìm tòi tham khảo các tài liệu thực tiễn, em đã nghiên cứu được một số vấn đề sau:
Thứ nhất, nêu được những lý luận cơ bản về thị trường chứng khoán và vai trò của ngân hàng thương mại đối với thị trường này.
Thứ hai, phân tích thực trạng việc các ngân hàng thương mại thực hiện các vai trò của mình trên thị trường chứng khoán
Thứ ba, đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại để thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề mới, rất đa dạng và phức tạp cả về lý luận lẫn thực tiến. Qua bài nghiên cứu nay, em chỉ hi vọng đóng góp một cái nhìn nhỏ bé của mình về vấn đề này, và mong rằng thì trường chứng khoán Việt Nam sẽ phát triển trong một tương lai không xa với sự tham gia tích cực của các ngân hàng thương mại. Đồng thời, em rất mong muốn nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của các độc giả để có thể lĩnh hội và có hiểu biết sâu sắc hơn về lĩnh vực mà em đã quan tâm nghiên cứu.
Em xin chân thành cảm ơn.
MụC LụC
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Gs. Ts Lê Văn Tư, “Ngân hàng thương mại” Nhà xuất bản thống kê
2. Gs. Ts Lê Văn Tư, “Thị trường chứng khoán”, Nhà xuất bản thống kê
3. Gs. Ts Lê Văn Tư, “ Các nghiệp vụ ngân hàng thương mại”, Nhà xuất bản thống kê.
4. Ts. Phan Thị Thu Hà, “Giáo trình Ngân hàng thương mại- Quản trị và nghiệp vụ.
5. Ts Phan Đình Nam (chủ biên), “Giáo trình Thị trưòng chứng khoán, Nhà xuất bản thống kê
6. Trần Thị Minh Châu, “ Thị trường chứng khoán và những điều kiện kinh tế- xã hội nhình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam”, Nhà xuất bản chính trị quốc gia
7. Tạp chí Ngân hàng
8. Tạp chí Chứng khoán Việt Nam
9. Một số tạp chí khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5946.doc