Thanh toán quốc tế phát triển giúp quá trình lưu thông hàng hoá - tiền tệ giữa người mua và người bán diễn ra trôi chảy và hiệu quả hơn. Luồng vốn được quay vòng nhanh hơn, được sử dụng hiệu quả hơn và giảm rủi ro cho các doanh nghiệp tham gia vào quá trình thanh toán. Mỗi doanh nghiệp là một chủ thể của nền kinh tế, sự phát triển của doanh nghiệp đóng góp vào tăng trưởng GDP của nền kinh tế.
Thanh toán quốc tế cũng làm gia tăng thu nhập của các Ngân hàng thương mại thông qua các khoản phí thu được khi thực hiện các dịch vụ thanh toán quốc tế, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Do vậy hoạt động thanh toán quốc tế phát triển góp phần vào tăng trưởng GDP của nền kinh tế
144 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 914 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển bền vững hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Đông Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng.
3.3.Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ
3.3.1.1. Duy trì môi trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định
Về kinh tế: Nhà nước cần xây dựng chính sách kinh tế vĩ mô ổn định và hợp lý. Việc xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, hợp lý tạo môi trường cho toàn bộ nền kinh tế phát triển bền vững. Đặc biêt có ý nghĩa phát huy những thế mạnh của Việt Nam trong quá trình hội nhập. Sự sai lầm trong chính sách vĩ mô của một nước có thể gây sụp đổ nền kinh tế. Bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á đã chỉ ra rằng, bước vào nền kinh tế thị trường muốn thực hiện mục tiêu tăng trưởng cao cần thiết phải có một hệ thống tài chính lành mạnh, đủ sức tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài, phát huy nội lực để phát triển.
Duy trì môi trường kinh tế vĩ mô ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của mọi hoạt động kinh tế trong đó có hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Nông nghiệp Đông Hà Nội nói riêng. Hoạt động thanh toán quốc tế phát triển tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam, thúc đẩy quá trình hội kinh tế quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập
Về chính trị: Duy trì môi trường xã hội ổn định nhằm duy trì tốt niềm tin của doanh nghiệp trong nước, các doanh nghiệp nước ngoài. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các quan hệ thương mại của Việt Nam và các nước phát triển, thúc đẩy hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại phát triển.
3.3.1.2. Xây dựng đồng bộ khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của ngân hàng thương mại và cho hoạt động thanh toán quốc tế
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của thị trường tiền tệ: Rà soát và hoàn thiện các quy định hiện hành liên quan đến hoạt động của thị trường tài chính tiền tệ
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động của thị trường ngoại hối.
3.3.1.3. Hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường ngoại hối theo chiều sâu
Thị trường tài chính nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng của Việt Nam chưa phát triển. Sự chưa phát triển của thị trường tiền tệ Việt Nam thể hiện ở chỗ: Các công cụ giao dịch trên thị trường còn nghèo nàn và khối lượng giao dịch còn hạn chế, thị trường chưa thu hút các được đông đảo các thành viên tham gia và chưa thể hiện được tính chuyên nghiệp của thị trường.
Để các ngân hàng hoạt động một cách linh hoạt và phát triển bền vững, phòng ngừa rủi ro thì thị trường tài chính tiền tệ ở Việt Nam cần hoàn thiện và phát triển hơn.
Phát triển thị trường ngoại hối nhằm giảm thiểu rủi ro ngoại hối trong kinh doanh ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại. Đảm bảo đủ nguồn cung ngoại tệ cho hoạt động thanh toán quốc tế.
3.3.1.4. Nhà nước nên có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các ngân hàng thương mại trong quá trình hiện đại hoá công nghệ.
Hiện đại hoá công nghệ là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại và phát triển bền vững trong quá trình hội nhập hiện nay. Đặc biệt đối với hoạt động thanh toán quốc tế lại càng đòi hỏi phải đầu tư công nghệ cao. Tuy nhiên khoảng cách công nghệ ngân hàng của Việt Nam so với các nước trong khu vực còn khá xa. Nguyên nhân là do cơ sở hạ tầng của đất nước, nguồn lực tài chính hạn hẹp của các ngân hàng thương mại. Để giải quyết vấn đề này thì sự khuyến khích hỗ trợ của nhà nước đối với ngành ngân hàng là hết sức cần thiết. Nhà nước nên tạo điều kiện để các ngân hàng thương mại tăng cường hợp tác quốc tế qua đó đưa công nghệ thông tin vào hoạt động của ngân hàng.
Nhà nước có chính sách khuyến khích đối với các ngân hàng thương mại mạnh dạn đi đầu trong đổi mới khoa học công nghệ
Đặc điểm của công nghệ áp dụng trong thanh toán quốc tế là dựa nhiều vào hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin. Do vậy, muốn phát triển hoạt động thanh toán quốc tế thì phải có một hạ tầng viễn thông tốt, chi phí thấp và hệ thống công nghệ thông tin hiện đại
3.3.3. Kiến nghị với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam
Để đảm bảo thực hiện tốt chiến lược phát triển của chi nhánh nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng, với điều kiện đặc thù của chi nhánh. Chi nhánh Đông Hà nội có một số kiến nghị sau với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam:
Hoàn thiện việc kết nối hệ thống thông tin từ trụ sở chính tới chi nhánh, giảm bớt ách tắc trong quá trình thực hiện giao dịch của chi nhánh, tạo điều kiện tối đa cho khách hàng. Có biện pháp hỗ trợ đối với ngân hàng Nông nghiệp Đông Hà Nội trong việc đầu tư đổi mới công nghệ ngân hàng.
Tiếp tục hỗ trợ Ngân hàng Nông nghiệp Đông Hà Nội trong việc đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ thanh toán quốc tế nói riêng bằng việc mở các lớp đào tạo hoặc hỗ trợ kinh phí cho chi nhánh nếu chi nhánh có kế hoạch mở các lớp đào tạo.
KẾT LUẬN
Kinh tế hội nhập tạo điều kiện cho thanh toán quốc tế phát triển nhưng nó cũng tạo ra mức cạnh tranh ngày càng cao, các ngân hàng thương mại Việt Nam không chỉ cạnh tranh với các ngân hàng trong nước mà phải cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài có tiềm lực mạnh hơn rất nhiều lần. Đòi hỏi, các ngân hàng thương mại phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua cung cấp chất lượng dịch vụ ngày một tốt hơn. Điều này phải được khẳng định trong một thời gian dài bằng uy tín của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Vì vậy, phát triển bền vững là tất yếu với mọi hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại trong điều kiện cạnh tranh ngày càng cao hiện nay.
Ngân hàng Nông nghiệp Đông Hà Nội là một ngân hàng thương mại nhà nước tuy còn đang trong giai đoạn đầu phát triển. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc. Song ngân hàng đã rất quan tâm đến sự phát triển bền vững mọi hoạt động ngân hàng trong đó có hoạt động thanh toán quốc tế. Sự quan tâm này được thể hiện rất rõ trong chính sách, mục tiêu phát triển của ngân hàng. Nó cũng thể hiện quyết tâm của ban lãnh đạo chi nhánh trong việc thực hiện các yêu cầu phát triển bền vững. Ngân hàng Nông nghiệp Đông Hà Nội đã luôn lấy các yêu cầu của phát triển bền vững làm trung tâm trong việc hoạch định chiến lược, chính sách và mục tiêu phát triển của ngân hàng. Tuy nhiên, do những hạn chế khách quan và chủ quan, việc thực hiện các yếu cầu của phát triển bền vững vẫn còn nhiều tồn tại, vướng mắc. Do đó, hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng nói riêng vẫn tồn tại những yếu tố bất ổn.
Thông qua việc tìm hiểu các yêu cầu phát triển bền vững, trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng phát triển hoạt động thanh toán quốc tế, tình hình thực hiện các yêu cầu phát triển bền vững hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Nông nghiệp Đông Hà Nội. Đề tài đề xuất các giải pháp nhằm phát triển bền vững hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng. Phát triển bền vững là tất yếu mà tất cả các ngân hàng thương mại phải hướng tới trong tất cả các hoạt động của mình để tồn tại và phát triển trong điều kiện hiện nay. Vì vậy, trong thời gian tới Ngân hàng Nông nghiệp Đông Hà Nội cần thực hiện tốt hơn nữa các yêu cầu của phát triển bền vững. Các yêu cầu đó phải trở thành các chuẩn mực để ngân hàng soi rọi hoạt động của mình vào đó và tìm ra các biện pháp phát triển phù hợp nhằm hướng tới sự phát triển bền vững trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
David Cox, năm 1997, Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
GS.TS. Lê Văn Tư, năm 2005, Nghiệp vụ Ngân hàng Thương mại, Nhà xuất bản Tài chính
PGS. Đinh Xuân Trình, năm 2002, Giáo trình Thanh toán quốc tế trong ngoại thương, Nhà xuất bản Giáo dục
Trung tâm đào tạo Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, năm 2003, 2004, Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ
T.S. Nguyễn Minh Kiều (dịch và hiệu đính), năm 1995, Những tình huống đặc biệt trong thanh toán quốc tế, Nhà xuất bản Thống kê
PGS.TS. Nguyễn Thị Hường, TS. Tạ Lợi, năm 2007, Giáo trình nghiệp vụ ngoại thương – Lý thuyết và thực hành, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân
Đỗ Tất Ngọc, năm 2005, Hoàn thiện môi trường pháp luật đối với hoạt động thanh toán quốc tế ở nước ta, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
GS.TS Lê Văn Tư, năm 2005, Quản trị ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản thống kê
GVC. Nguyễn Đăng Dậu, Nguyễn Xuân Tài, Giáo trình Quản lý công nghệ, Nhà xuất bản Thống kê.
TS. Âu Văn Trường, Luận án Tiến sĩ, Vận dụng công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại vào hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, năm 1999.
Ths. Mai Thuý Phương, Luận văn Thạc sĩ, Hoàn thiện cơ chế tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam theo hướng ngân hàng phát triển bền vững (lấy ngân hàng Công thương Việt Nam làm ví dụ), năm 2005.
TS. Tạ Đình Thi, Luận án tiến sĩ, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm phát triển bền vững của vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ Việt Nam, năm 2007.
Ths. Vũ Thị Ngọc Dung, Luận văn thạc sỹ, Hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, năm 1999.
Nguyễn Văn Giàu, Các ngân hàng Việt Nam cần phải ứng dụng nhanh công nghệ mới trong hoạt động để có thể đứng vững và phát triển trước những thách thức mới,Tạp chí Tin học ngân hàng tháng 12/2007.
Nguyễn Thị Quy, Cái mới trong lý luận kinh tế hiện đại, Tạp chí khoa học xã hội năm 1996.
Xuất khẩu 2007: ba thành tựu, bảy hạn chế, ngày 02/01/2008, theo thời báo kinh tế Việt Nam,
Binh pháp mặc công để xây dựng và phát triển đổi ngũ bán hàng - Chiến lược marketing, ngày 13/12/2007, theo Saga,
Chiến lược marketing cho ngân hàng bán lẻ Việt Nam, ngày 20/12/2007,
Xây dựng chiến lược phát triển phù hợp cho ngành ngân hàng, ngày 14/06/2007,
Sôi động cửa khẩu quốc tế ở Móng cái, ngày 30/04/2008,
PHỤ LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ
Bảng biểu
Bảng 2.2: Tình hình đầu tư vốn của NHNo&PTNT- chi nhánh Đông Hà Nội (giai đoạn 2004 – 2007). 43
Bảng 2.3: Doanh số thanh toán xuất khẩu NHNNo Đông Hà Nội giai đoạn 2004 – 2007 45
Bảng 2.4: Tình hình thanh toán nhập khẩu – NHNNo Đông Hà Nội 2004-2007. 49
Bảng 2.5. Doanh số mua bán ngoại tệ Ngân hàng Nông nghiệp Đông Hà Nội giai đoạn 2004 – 2007. Đơn vị: ngàn USD, Ngoại tệ khác quy đổi USD. 56
Bảng 2.6: Doanh thu từ phí và lãi kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng Nông nghiệp Đông Hà Nội 2004 – 2007. Đơn vị: Triệu đồng 68
Biểu đồ
Biểu đồ 2.1: Doanh số thanh toán xuất khẩu – NHNNo Đông Hà Nội 2004 – 2007 47
Biểu đồ 2.2. Doanh số thanh toán nhập khẩu – NHNNo Đông Hà Nội 2004 - 2007 50
Biểu đồ 2.3. Tỷ trọng về giá trị theo các phương thức thanh toán nhập khẩu năm 2004 - 2007 tại Ngân hàng Nông nghiệp Đông Hà Nội. (đơn vị %) 52
Biểu đồ 2.4: Số món theo các phương thức thanh toán nhập khẩu Ngân hàng Nông nghiệp Đông Hà Nội giai đoạn 2004 – 2007. Đơn vị: món 53
Biểu đồ 2.5: Tỷ trọng theo số món thực hiện các phương thức thanh toán nhập khẩu tại Ngân hàng Nông nghiệp Đông Hà Nội giai đoạn 2004 – 2007. Đơn vị: % 54
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
Chữ viết tắt
Nội dung tiếng anh
Nội dung tiếng việt
1
Ngân hàng Nông nghiệp Đông Hà Nội
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Đông Hà Nội
2
Ngân hàng Nông nghiệp
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
3
NHNo&PTNT
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
4
TTQT&KDNT
Thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ
5
L/C
Letter of credit
Thư tín dụng chứng từ
6
TT
Telegraphic transfer
Chuyển tiền
7
XK
Xuất khẩu
8
NK
Nhập khẩu
PHỤ LỤC 1
CÁC PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN QUỐC TẾ
1. Phương thức chuyển tiền
1.1. Khái niệm
Thanh toán bằng phương thức thanh toán trong đó khách hàng (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền cho khách hàng yêu cầu.
1.2. Các bên tham gia thanh toán
Người yêu cầu chuyển tiền:
Là người yêu cầu ngân hàng thay mình thực hiện chuyển tiền ra nước ngoài. Thường là người mua, người trả nợ hoặc nhà đầu tư yêu cầu chuyển bốn, kinh phí ra nước ngoài.
Người thụ hưởng
Là người được nhận số tiền chuyển tới thông qua ngân hàng, thường là người xuất khẩu, chủ nợ hoặc người tiếp nhận đầu tư do người chuyển tiền chỉ định
Ngân hàng nhận uỷ nhiệm chuyển tiền: Là ngân hàng phục vụ người chuyển tiền, ở nước người yêu cầu chuyển tiền.
Ngân hàng trả tiền: Là ngân hàng trực tiếp trả tiền cho người thụ hưởng, thông thường là ngân hàng đại lý, chi nhánh của ngân hàng chuyển tiền ở nước người thụ hưởng.
Phương thức chuyển tiền được sử dụng trong hai trường hợp: Thanh toán tiền hàng trước; Thanh toán sau.
Thanh toán trước thì lợi cho người bán nhưng lại bất lợi cho người mua vì người mua phải có một số lượng vốn lưu động khá lớn bị ghìm giữ trong một thời gian dài. Hơn nữa, nếu nhà sản xuất bị phá sản không còn khả năng giao hàng, hàng hoá kém chất lượng dẫn đến phương thức chuyển tiền trước gặp rủi ro. Nếu buộc phải thanh toán theo phương thức này, người mua nên yêu cầu ngân hàng của người bán phát hành cho mình một thư bảo lãnh về số tiền ứng trước đó để tránh rủi ro khi người bán không thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết
Thanh toán sau thì thuận lợi cho người mua và bất lợi cho người bán
Sơ đồ quy trình chuyển tiền
Người yêu cầu chuyển tiền (người mua)
Người thụ hưởng (người bán)
Ngân hàng nhận chuyển tiền
Người thụ hưởng (người bán)
1
2
3
4
(1)- Người xuất khẩu giao hàng hoá và chuyển bộ chứng từ cho người nhập khẩu
(2)- Người nhập khẩu kiểm tra hàng hoá - bộ chứng từ. Nếu phù hợp lập thủ tục chuyển tiền
(3) - Ngân hàng nhận chuyển tiền lập thủ tục chuyển tiền qua ngân hàng đại lý (hoặc chi nhánh) nhận trả tiền
(4) – Ngân hàng trả tiền thanh toán tiền cho người thụ hưởng
1.3. Các hình thức chuyển tiền
Chuyển tiền bằng thư
Là hình thức chuyển tiền trong đó lệnh thanh toán của Ngân hàng chuyển tiền được thể hiện trong nội dung một bức thư mà ngân hàng này gửi yêu cầu ngân hàng thanh toán thực hiện.
Chuyển tiền bằng điện
Là hình thức chuyển tiền trong đó lệnh thanh toán của ngân hàng chuyển tiền được thể hiện trong nội dung một bức điện mà ngân hàng này gửi cho ngân hàng thanh toán thông qua truyền tin của mạng viễn thông như: SWIFT
1.4. Những rủi ro có thể xảy ra đối với phương thức thanh toán chuyển tiền
Trong phương thức chuyển tiền Ngân hàng đóng vai trò trung gian thanh toán phục vụ khách hàng, với vị trí trung gian giữa người chuyển trả tiền và người thụ hưởng, thực hiện lện của các bên liên quan. VÌ vậy, Ngân hàng không thể can thiệp vào thiện chí của bên chi trả cho bên thụ hưởng
Rủi ro đối với người mua: Trong trường hợp người mua áp dụng thanh toán trả tiền trước cho người bán, mà không nhận được hàng như hợp đồng đã ký hoặc người bán bị phá sản, khiến người mua chịu rủi ro không có hàng.
Rủi ro đối với người bán: Khi người mua nhận hàng rồi nhưng cố tình không chịu thanh toán hoặc từ chối thanh toán khi không muốn nhận hàng vì nhiều lý do khác nhau: sự biến động về giá bất lợi cho người mua, hàng lỗi mốt
Rủi ro đối với ngân hàng phục vụ người mua: Khi ngân hàng cho vay thanh toán để người mua nhập hàng, khi hàng về không đúng phẩm chất, quy cách, thương vụ thua lỗ, người mua mất khả năng thanh toán, gây tổn thất, rủi ro cho ngân hàng không thu hồi được nợ.
Rủi ro đối với ngân hàng phục vụ người bán: Trong trường hợp ngân hàng cho vay thu mua, sản xuất hàng xuất khẩu, người bán không thu hồi được tiền ảnh hưởng đến thu nợ của ngân hàng.
Phương thức chuyển tiền là phương thức đơn giản, nhanh gọn nhưng ngân hàng chỉ đóng vai trò trung gian. Do đó, việc có nhận được tiền hay không hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí thanh toán của người mua.
2. Phương thức thanh toán bằng thư tín dụng chứng từ (L/C)
2.1. Khái niệm
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là sự thoả thuận, trong đó ngân hàng mở thư tín dụng (ngân hàng bên nước mua hàng) theo yêu cầu của người mua hàng, sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi hoặc người bán hàng) hoặc chấp nhận hối phiếu người bán ký phát khi người bán xuất trình cho ngân hàng một số chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng.
2.2. Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ
Người yêu cầu mở thư tín dụng: Là người mua hàng, người nhập khẩu hàng hoá hoặc người do người mua uỷ thác.
Ngân hàng mở thư tín dụng: Là ngân hàng đại diện cho người mua hàng, ngân hàng này cấp tín dụng cho người mua hàng. Ngân hàng nhận đơn của nhà nhập khẩu, tiến hành mở L/C theo yêu cầu mở của nhà nhập khẩu và có trách nhiệm thông báo cho nhà xuất khẩu. Ngân hàng có trách nhiệm kiểm tra bộ chứng từ gửi đến nếu thấy phù hợp thì thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Sau khi thanh toán ngân hàng tiến hành trao lại bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu và thu lại những khoản phí.
Người hưởng lợi thư tín dụng: Là người bán hàng, nhà xuất khẩu và là bên được hưởng lợi tín dụng chứng từ. Nhà xuất khẩu chỉ giao hàng khi nào biết được L/C đã được mở đúng với nội dung của hợp đồng. Nếu có sai sót gì so với nội dung hợp đồng, người hưởng lợi có quyền yêu cầu bên mở sửa đồi bổ sung nội dung của L/C. Việc sửa đổi bổ sung này phải có sự xác nhận của ngân hàng mở L/C mới có hiệu lực thanh toán.
Ngân hàng thông báo: Là ngân hàng thông báo tín dụng chứng từ một cách trực tiếp đến người hưởng lợi hoặc thông báo qua một ngân hàng khác. Người hưởng lợi không nhất thiết là khách hàng của ngân hàng thông báo, ngân hàng này thường là ngân hàng đại lý của ngân hàng mở L/C tại nước người xuất khẩu.
Ngoài ra trong một số trường hợp còn có sự tham gia của các thành viên như: ngân hàng xác nhận, ngân hàng chiết khấu, ngân hàng trả tiền.
Quy trình nghiệp vụ thanh toán L/C
1
3
2
4
Nhà xuất khẩu
Nhà nhập khẩu
Ngân hàng thông báo
Ngân hàng phát hành
5
2
8
6
7
9
Hợp đồng ngoại thương
(1)- Người nhập khẩu mở thư tín dụng trả cho người xuất khẩu qua ngân hàng của mình hoặc ngân hàng khác theo thoả thuận trong một thời hạn nhất định trong đó liệt kê các chứng từ phải có
(2) – Ngân hàng mở thư tín dụng chứng từ gửi ngân hàng đại lý thông báo mở thư tín dụng. Ngân hàng thông báo kiểm tra tính hợp lệ của thư tín dụng chứng từ và thông báo cho người xuất khẩu.
(3) – Nhà xuất khẩu kiểm tra nội dung thư tín dụng, nếu phù hợp tiến hành giao hàng cho nhà nhập khẩu. Còn không thì yêu cầu sửa đổi bổ sung cho phù hợp.
(4) – Nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ và gửi qua ngân hàng thông báo.
(5) – Ngân hàng thông báo có trách nhiệm đối chiếu hối phiếu, chứng từ theo các điều khoản quy định trong L/C và gửi chúng tới ngân hàng phát hành.
(6) – Ngân hàng phát hành kiểm tra tính hợp lệ của bộ chứng từ và tiến hành thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán cho nhà xuất khẩu. Đồng thời gửi trả bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu.
(7) – Nhà nhập khẩu phải thanh toán phí, hoàn trả phần tiền còn thiếu cho ngân hàng.
(8) – Ngân hàng mở L/C thông báo chấp nhận thanh toán cho ngân hàng thông báo
(9) – Ngân hàng thông báo tiến hành trả tiền cho nhà xuất khẩu.
2.3. Đặc điểm của thư tín dụng, chức năng của thư tín dụng
Đặc điểm
Ngân hàng và các bên tham gia chỉ giao dịch trên cơ sở chứng từ, không dựa trên hàng hoá và dịch vụ
L/C được chỉ rõ là có thể huỷ ngang hay không huỷ ngang, nếu không được chỉ ra như vậy nó được hiểu là L/C không huỷ ngang
Chứng từ được coi là không phù hợp với các điều khoản của L/C nếu: chứng từ mâu thuẫn với các điều khoản quy định của L/C hay các chứng từ mâu thuẫn nhau.
Ngân hàng phát hành có một khoảng thời gian hợp lý không quá 07 ngày làm việc sau khi nhận được chứng từ để kiểm tra chứng từ và xác định chứng từ phù hợp hay không phù hợp, nếu quá thời gian ngân hàng phát hành không có quyền thông báo sai iian.
Ngân hàng không chịu trách nhiệm kiểm tra các chứng từ không có quy định trong L/C
Nếu ngân hàng quyết định từ chối chứng từ nó phải thông báo bằng các phương tiện truyền thông trước lúc đóng cửa của ngày làm việc thứ bảy.
Ngân hàng không chịu trách nhiệm về sự chậm trễ do truyền tin, lỗi chính tả phát sinh trong quá trình chuyển giao hoặc truyền tin.
Chức năng
- Chức năng thanh toán: Bộ chứng từ xuất trình đòi tiền L/C thông thường là những chứng từ xác nhận quyền sở hữu hàng hoá, chứng minh người bán đã hoàn tất việc giao hàng theo hợp đồng đã ký với người mua, là cơ sở để ngân hàng thực hiện thanh toán.
- Chức năng tín dụng: Thư tín dụng là văn bản thể hiện loại tín dụng trực tiếp của ngân hàng cấp cho nhà nhập khẩu và là sự cam kết của trực tiếp của ngân hàng với nhà xuất khẩu.
- Chức năng đảm bảo thanh toán: Tín dụng chứng từ là sự cam kết độc lập của ngân hàng mở L/C đối với nhà xuất khẩu. Trong đó, ngân hàng mở L/C đảm bảo nghĩa vụ thanh toán cho nhà xuất khẩu ngay khi xuất trình bộ chứng từ phù hợp mà không phụ thiệu vào ý muốn hay khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu.
Bằng phương thức tín dụng chứng từ ngân hàng đóng vai trò là trung gian kiểm soát các chứng từ liên quan đến hợp đồng thương mại và L/C. Phương thức này đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan nên được sử dụng nhiều trên thế giới (khoảng 70%)
3. Phương thức thanh toán nhờ thu
3.1. Khái niệm
Phương thức thanh toán nhờ thu là phương thức thanh toán mà người xuất khẩu sau khi giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ nào đó cho nhà nhập khẩu tiến hành uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền trên cơ sở hối phiếu hoặc chứng từ do người xuất khẩu lập.
3.2. Các bên tham gia giao dịch thanh toán theo phương thức nhờ thu
1 - Người có yêu cầu uỷ nhiệm thu: người cung ứng dịch vụ (gọi là bên bán)
2- Ngân hàng nhận uỷ thác thu: ngân hàng phục vụ bên bán
3 – Ngân hàng xuất trình: Là ngân hàng thu hộ, thường là ngân hàng đại lý hoặc chi nhánh của ngân hàng nhận uỷ nhiệm thu (ở nước người mua).
4 - Người trả tiền: Người nhập khẩu, người sử dụng dịch vụ được cung ứng được gọi chung là bên mua
3.2. Các phương thức thanh toán nhờ thu
Nhờ thu trơn
Là phương thức thanh toán trong đó bên uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền từ người mua căn cứ vào hối phiếu do chính người bán lập. Các chứng từ thương mại có liên quan đến giao dịch bên bán đã chuyển giao trực tiếp cho bên mua, không qua ngân hàng.
Sơ đồ quy trình nhờ thu trơn
Người mua
NH xuất trình
NH thu hộ
NH nhận uỷ thác thu
Người bán
1
2
7
3
4
5
6
1 – Bên bán chuyển giao hàng hoá, đồng thời chuyển toàn bộ chứng từ hàng hoá cho bên mua
2 – Bên bán lập hối phiếu đòi tiền người mua, uỷ nhiệm qua ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền từ người mua
3 – Ngân hàng phục vụ bên bán chuyển hối phiếu qua ngân hàng phục vụ bên mua nhờ thu tiền từ người mua
4 – Ngân hàng phục vụ bên mua đòi tiền người mua hoặc yêu cầu ký chấp nhận hối phiếu
5- Bên mua thanh toán tiền
6 - Chuyển tiền trả qua ngân hàng phục vụ bên bán
7- Thanh toán tiền cho bên bán
Nhờ thu kèm chứng từ
Là phương thức thanh toán, trong đó bên bán uỷ nhiệm cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không chỉ căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hoá gửi kèm theo với điều kiện nếu người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền (đối với hối phiếu có kỳ hạn) sẽ trao bộ chứng từ cho người mua nhận hàng.
Sơ đồ quy trình nhờ thu kèm chứng từ
Người mua
NH xuất trình
NH thu hộ
NH nhận uỷ thác thu
Người bán
1
2
7
3
4
5
6
Bên bán chuyển giao hàng hoá cho bên mua
2 - Bên bán lập hối phiếu đòi tiền người mua, đồng thời chuyển toàn bộ chứng từ hàng hoá uỷ nhiệm qua ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền từ người mua.
3 – Ngân hàng phục vụ bên bán chuyển hối phiếu qua ngân hàng phục vụ bên mua nhờ thu tiền từ người mua.
4- Ngân hàng phục vụ bên mua đòi tiền người mua hoặc yêu cầu ký chấp nhận hối phiếu
5 – Bên mua thanh toán tiền
6 - Chuyển tiền trả qua ngân hàng phục vụ bên bán
7 – Thanh toán tiền cho bên bán
Trong nhờ thu kèm chứng từ người bán uỷ thác cho ngân hàng ngoài việc thu hộ tiền còn nhờ ngân hàng khống chế chứng từ hàng hoá đối với người mua. Đây là sự khác nhau cơ bản giữa nhờ thu trơn và nhờ thu kèm chứng từ. Với cách khống chế theo bộ chứng từ này, quyền lợi của bên bán được đảm bảo hơn vì sự ràng buộc của việc thanh toán tiền và nhận hàng của người mua
Tuy nhiên trong phương thức thanh toán này vẫn còn nhiều mặt hạn chế:
- Người bán thông qua ngân hàng giữ bộ hồ sơ hàng hoá mới chỉ đảm bảo được quyền sở hữu hàng hoá của mình chứ chưa khống chế được việc trả tiền người mua.
- Người mua có thể kéo dài việc trả tiền bằng cách chưa nhận chứng từ hàng hoá (không cần nhận hàng), không thanh toán khi thị trường biến động bất lợi cho họ.
- Người bán tuy vẫn có quyền sở hữu hàng hoá, bán hàng cho người khác nếu người mua không thanh toán, song việc giải toả hàng gặp khó khăn và gặp rủi ro trong tiêu thụ hàng
- Ngân hàng chỉ đứng vị trí trung gian thu tiền hộ người bán không có trách nhiệm đến việc trả tiền của người mua.
PHỤ LỤC 3
HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Nói đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại nó riêng trong nền kinh tế thi trường là nói đến sự cạnh tranh khốc liệt với vô vàn nhưng rủi ro khó lường trước có thể đến với họ. Nền kinh tế thị trường là một trận địa đầy thách đố với hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Mỗi một ngành kinh doanh đều có những đạc điểm riêng có. Từ các đặc điểm này có thể hiện rõ hơn hoạt động của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
1. Nét đặc thù (đặc điểm) trong hoạt động của ngân hàng thương mại
Thứ nhất: Về nguyên liệu kinh doanh trong ngân hàng thương mại
Tiền là “nguyên liệu” chính trong hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng thương mại. Khách hàng đến ngân hàng để gửi tiền vay tiền, thanh toán các nghiệp vụ đó đều không thoát ly được đồng tiền. Trong khi đó, tiền là “nguyên liệu” được phổ cập đại chúng. Có thể nói rằng không có người nào trong cuộc sống của mình mà không dùng tới tiền. Cho nên, tiền được xã hội quan tâm. Đây chính là loại hàng hóa mang tính xã hội cao nhất trong các loại hàng hóa mà con người cần thiết dùng trong cuộc sống. Nếu các hàng hóa khác chỉ ảnh hưởng đến một bộ phận nào đó của xã hội thì ngược lại tiền có sức mạnh ảnh hưởng vô cùng sâu rộng đến các hoạt đồng của toàn xã hội. Nó không chỉ ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh tế mà còn lan truyền đến các lĩnh vực khác như văn hóa , chính chị , xã hôi. Chỉ có biến động nhỏ có liên quan đến tiền như lãi suất , tỷ giá hay sự gia tăng giá trị đồng tiền đều có ảnh hưởng to lớn đến hoạt động kinh tế xã hội nói chung và hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại nói riêng. Điều này thấy rõ nhất trong thực tiễn khi giá cả hàng hoá tăng lên có nghĩa là giá trị đồng tiền giảm xuống và ở mức độ lớn thường xảy ra cá hiện tượng số dư tiền gửi trong ngân hàng xuống do nhiều người rút tiền khỏi ngân hàng. Tính nhậy cảm của đồng tiền còn gây lên đột bến tâm lý xã hội như tin đồn thất thiệt về về kinh doanh tiền tệ như: khả năng phá giá đồng tiền, đổi tiền đều gây ra những đột biến các hoạt động liên quan tới tiền, đăc biệt là hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Ảnh hưởng của tiền tệ không chỉ giới hạn ở một vùng, một quốc gia nào đó. Ngày nay do nền kinh tế đã phát triển tới mức quốc tế hóa hoạt động kinh tế thì biến động tiền tệ ở một nước không chỉ ảnh hưởng đến nước đó, đến khu vục mà còn mở rộng ra phạm vi rộng lớn trên toàn thế giới. Ví dụ như cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam Á năm 1997 xuất phát điểm từ Thái Lan, lan ra các nước toàn khu vực mà Việt Nam cũng không phải quốc gia tránh khỏi hậu quả của cuộc khủng hoảng này. Cuộc khủng hoảng còn lan rộng ra các thị trường tài chính khác như Hồng Kông, Nhật Bản, Nam Triều Tiên Mà không phải dễ gì dập tắt dù cho các nước tập trung nhiều công sức với sự hỗ trợ hàng trăm tỷ đô la của quỹ tiền tệ Quốc tế IMF
Thứ hai: Về dịch vụ của ngân hàng
Nói đến hoạt động của các ngân hàng thương mại người ta nghĩ ngay đến nguồn tín dụng, nơi cung cấp phương tiện thanh toán. Những dịch vụ của ngân hàng đã được mở rộng ra rất nhiều từ việc tham gia mua cổ phiếu của các công ty cổ phần, kinh doanh chứng khoán, kinh doanh địa ốc, tín dụng thuê mua, thông tin kinh tế , thông tin phòng ngừa rủi roỞ các ngân hàng tiên tiến trên thế giới các dịch vụ “mới” có thể đem lại hoạt đông kinh doanh của họ từ 60-70% lợi nhuận thu được hàng năm. Như vậy sản phẩm của các ngân hành thương mại ngày nay được hiểu là những dịch vụ mà ngân hàng có thể tạo ra để cung cấp theo nhu cầu của khách hành. Cần lưu ý vấn đề này như một phương tiện mở rộng hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Một điểm cần lưu ý: dịch vụ của ngân hàng rất dễ bị bắt chước. Nếu ngân hàng vừa tổ chức thực hiện một loại dịch vụ nào đó có hiệu quả thì rất nhanh các ngân hàng khác có thể thực hiện ngay dịch vụ đó nếu họ muốn.
Có nhiều dịch vụ của ngân hàng gắn chặt chẽ với các yếu tố thời gian. Chúng ta biết rằng với nhiều sản phẩm các ngành kinh doanh khác là “tiền trao cháo múc” có nghĩa thời gian không chỉ ảnh hưởng đến giá cả của sản phẩm (chỉ có một số là có sự phân biệt nhưng không coi là một yếu tố tăng giá). Nhưng trong nhiều dịch vụ chính của ngân hàng yếu tố thời gian chính là yếu tố thực hiện giá trị của dịch vụ. Ngân hàng cho các doanh nghiệp vay tiền có nghĩa là ngân hàng đã bán quyền sử dụng số tiền vay đó cho doanh nghiệp nhưng không bán quyền sở hữu chúng (các sản phảm khác được bán cả quyền sở hữu và quyền sử dụng). Giá cả bản quyền sử dụng lại liên quan trực tiếp đến thời gian thực hiện dịch vụ, chính vì vậy yếu tố thời gian thực sự là yếu tố vật chất gắn liền với việc thực hiện giá trị dịch vụ của ngân hành.
Ở trên chúng ta đã biết dịch vụ của ngân hàng rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, với quá trình kinh doanh lâu năm, các dịch vụ của ngân hàng trên thường thường đã cũ cả về nội dung lẫn kỹ thuật nghiệp vụ. Khái niệm dịch vụ mới của ngân hàng tương đối khác so với ngành kinh tế khác .Dịch vụ mới không phải là dịch vụ trước đó chưa có ngân hàng nào có để cung cấp cho xa hội, mà dịch vụ mới của ngân hàng là dịch vụ mà ngân hàng có thể lựa chọn đưa ra thị trường trước các đối thủ cạnh tranh. Ví dụ:dịch vụ chiết khấu kỳ phiếu, đây có thể coi là dịch vụ mới với hoạt động của các ngân hàng thương mại quốc doanh ở Viêt Nam, dù rằng dịch vụ này quá “cũ” đối với hoạt động của ngân hàng.
Thứ ba: Về khách hàng của ngân hàng
Hoạt động của ngân hàng nhiều khi bị nhầm lẫn như là một dịch vụ công cộng do hoạt động của ngân hàng thu hút được môt số lượng đông đảo khách hàng (như dịch vụ gủi tiền tiết kiệm, thanh toán). Hoạt động công cộng này càng gia tăng hơn cùng với việc hiện đại hóa ngân hàng dẫn đến hầu như mọi người đều phải qua ngân hàng thực hiện việc gửi và rút tiền như tiền lương, tiền bảo hiểm xã hội, thanh toán các loại dịch vụ: diện, nước đến thanh toán các khoản tiêu dùng thông qua tiền điền tử. Trong điều kiện đó, khối khách hàng của ngân hàng thương mại tăng lên vô vùng lớn.
Khách hàng của ngân hàng đông đảo cả khách hàng mua (tín dụng, thuê mua) lẫn khách hàng bán (tiền gửi, thanh toán). Do mỗi khác hàng có nhiều nhu cầu khác nhau cần được ngân hành phục vụ, nên rất nhiều khách hàng là hiện thực với dịch vụ nào đó của ngân hàng, một số lại là khách hàng tiền ẩn đối với dịch vụ khác của nó.
Thú tư: Về tiềm lực vốn của ngân hàng.
Vấn đề tiềm lực vốn, đặc biệt là vốn điều lệ của ngân hàng phải được đặt lên hàng đầu bởi các nguyên nhân sau:
- Tiềm lực vốn của các ngân hàng tạo ra tiềm lực dịch vụ trực tiếp.
Nguồn vốn của ngân hàng phần lớn là nguồn vốn đi vay để cho vay. Nhưng nguồn vốn huy động của ngân hàng không phải là vô hạn bởi lẽ việc huy động vốn của các ngân hàng bị giới hạn trực tiếp bởi tiềm lực vốn, điều này có quan hệ trực tiếp đến an toàn tiền gửi của dân cư. Chính vì vậy, nhà nước thông qua các quy định pháp luật để ấn định một mức vốn huy động nhất định theo số vốn tự có của ngân hàng. Rõ ràng tiền lực vốn càng lớn các ngân hàng càng có thể huy động được nhiều vốn và cho vay ra để thu lợi nhuận hơn
- Tiềm lực vốn tạo ra khách hàng .
Như trên đã nói tiềm lực vốn của ngân hàng càng lớn càng có điều kiện tạo ra nhiều dịch vụ trực tiếp. Có nhiều nguồn vốn là cơ sở để ngân hàng có thể thu hút được nhiều khách hàng đến với mình. Hơn thế tiềm lực vốn lớn các ngân hàng có điều kiện hiện đại hóa ngân hàng đó cũng là điều kiện mở rộng hoạt động của ngân hàng, thu hút đông đảo khách hàng đến với ngân hàng.
- Tiềm lực vốn tạo ra uy tín.
Trong thực tiễn đời sống xã hội, có câu nói: “Trông giỏ bỏ thóc” được thể hiện khá rõ nét qua hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Khách hàng thường nhìn vào ngân hàng lớn (cả vốn kinh doanh và cơ sở vật chất cố định) để đầu tư vốn hay thực hiện các quan hệ làm ăn với các ngân hàng, nhiều vốn ngân hàng thu hút được nhiều khác hàng, điều đó trở lại càng làm tăng thêm uy tín của ngân hàng. Như vậy, tiềm lực vốn của ngân hàng không những tạo ra dịch vụ trực tiếp cho ngân hàng, tạo ra khách hàng và cả uy tín cho nó hoạt động.
Thứ năm : Về môi trường kinh doanh của ngân hàng.
Nếu có thể gọi tên môi trường kinh doanh của đa số các doanh nghiệp nói chung là môi trường kinh doanh “mở” thì môi trường kinh doanh của ngân hàng là môi trường kinh doanh “đóng” , bởi vì việc kinh doanh trên lĩnh vực khác thông thường chỉ phụ thuộc vào pháp lý ở hai điểm: thuế, luật doanh nghiệp và một số quy dịnh khác về môi trường, bảo hiểm Nhưng hoạt động của các ngân hàng ngoài các quy định đó ra còn có hàng loạt các qui phạm pháp luật qui định các giới hạn hoạt động của chúng. Từ mức độ vốn ban đầu đến khối lượng vốn được huy động, từ dịch vụ đến lãi suất, từ khối lượng tín dụng đến cơ cấu đầu tư Gần như mọi hoạt động của ngân hàng đều có qui phạm riêng của pháp luật qui định. Cần phải nói rằng phần lớn các qui phạm này nhằm hạn chế hoạt động tự do của ngân hàng. Rõ ràng hoạt động kinh doanh của ngân hàng “hẹp” hơn nhiều so với hoạt động kinh doanh của các ngành kinh tế khác do môi trường kinh tế “đóng” tạo ra.
Ngoài ra, ngân hàng còn nằm trong hệ thống tài chính quốc gia chung. Do đó, nó còn bị điều tiết trong chiến lược tiền tệ chung của Nhà nước. Ngân hàng phải thực hiện các chính sách khác của Chính phủ, nhiều khi không được đặt lợi nhuận lên trên hết như các doanh nghiệp thông thường khác mà phải đặt lợi ích xã hội lên trên lợi ích của ngân hàng (điều này đặc biệt đúng với các ngân hàng thương mại nhà nước)
Thứ sáu: Về nghiệp vụ và kỹ thuật nghiệp vụ
So với các ngành kinh tế khác thì ngành ngân hàng có nghiệp vụ khá bảo thủ. Từ vài trăm năm nay các nghiệp vụ ngân hàng gần như không thay đổi. Vẫn là nghiệp vụ cho vay, thu nợ trong hoạt động tín dụng. Với séc, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng trong thanh toán . Nhưng ngược lại, về kỹ thuật nghiệp vụ hay còn gọi là công nghệ của ngân hàng lại luôn là vấn đề thời sự nóng bỏng trong sự mong muốn vươn lên của các ngân hàng thương mại. Thậm chí việc hiện đại hoá ngân hàng được xem như là điều sống còn của các ngân hàng thương mại trong quá trình tồn tại và phát triển. Điều đó làm cho các ngân hàng phải có chiến lược lâu dài trong việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng bởi hai lý do:
Công nghệ thường xuyên thay đổi. Có nhiều kỹ thuật mới có thể ứng dụng cùng một lúc.
Việc thay đổi công nghệ ngân hàng thường khá tốn kém nhiều khi vượt quá khả năng tài chính hiện có của mỗi ngân hàng thương mại.
Cho nên việc đưa công nghệ mới vào hoạt động ở các ngân hàng thương mại phải được xem xét trong một định hướng xuyên suốt, trong quá trình lâu dài, tránh tình trạng tuổi thọ của công nghệ được phát huy tác dụng ngắn, công nghệ áp dụng chưa thực sự tiên tiến và việc đổi mới công nghệ chưa thực sự phù hợp với khả năng tài chính của ngân hàng.
Việc nghiên cứu các đặc điểm của hoạt động ngân hàng cho phép chúng ta có cơ sở phân tích các vấn đề liên quan đến các hoạt động của chúng mà trước hết là các yếu tố liên quan đến khả năng cạnh tranh cũng như rủi ro của ngân hàng.
2. Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại
Về cảm quan bên ngoài hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại khá bình lặng, không thấy có sự cạnh tranh trực tiếp như các hoạt động kinh doanh của các ngành kinh tế khác. Nhiều người lầm tưởng hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại rất dễ chịu. Chỉ việc treo biển huy động vốn và lãi suất được thị trường ấn định là có thể hoạt động ngân hàng. Nhưng trong thực tế, đằng sau sự phẳng lặng đó là những đợt sóng ngầm có thể nhấn chìm ngay tức khắc các ngân hàng một khi họ không nhạy cảm hoặc không có những đối sách có hiệu quả trong môi trường cạnh tranh quyết liệt đó. Nếu như cạnh tranh của các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế thị trường mà những quy luật vận động của nó được mọi người biết đến như là lẽ đương nhiên của hoạt động trên thương trường thì kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng tính cạnh tranh còn được nhân lên gấp bội. Dưới đây là một số nhân tố làm tăng thêm tính cạnh tranh của các ngân hàng thương mại.
Sự cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh được chi phối bởi các đặc điểm hoạt động của các ngân hàng thương mại đã được nêu ở trên. Chúng ta biết rằng: “nguyên liệu” của hoạt động kinh doanh của ngân hàng là tiền. Đó là loại nguyên liệu có tín xã hội hoá cao và tính nhạy cảm cao, chỉ một biến động nhỏ của nó cũng có những ảnh hưởng cô cùng to lớn đến hoạt động của toàn xã hội nói chung và hoạt động kinh doanh của các ngân hàng nói riêng. Từ đặc điểm này, chúng ta thấy sự cạnh tranh giữa các ngân hàng càng trở lên quyết liệt. Ở các ngành kinh tế khác, nếu cùng kinh doanh một loại sản phẩm như nhau, giá cả của sản phẩm thuộc doanh nghiệp đang được xã hội thừa nhận ở một mức nào đó đang được tiêu thụ mạnh. Nếu như doanh nghiệp khác muốn cạnh tranh bằng cách hạ thấp giá bán với doanh nghiệp đó thì biệc hạ giá này đương nhiên có ảnh hưởng đến mức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, nhưng không phải ngay lập tức mà trong một thời gian nhất định để xã hội kiểm chứng trước hết về mặt chất lượng sau đó mới là quá trình thâm nhập dẫn đến thay thế sản phẩm của doanh nghiệp đã được xã hội thừa nhận trước đó. Nhưng trong hoạt động của ngân hàng thương mại, chỉ cần có một chút thay đổi về lãi suất là khách hàng có thể lập tức thay đổi quan hệ giữa ngân hàng này chuyển qua ngân hàng khác.
Nếu “nguyên liệu” của ngân hàng làm tăng tính cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thì đặc điểm về dịch vụ của nó cũng làm cho tính cạnh tranh giữa các ngân hàng càng được thể hiện rõ nét hơn. Nếu các ngành kinh tế khác nói chung tạo ra được một sản phẩm mà xã hội thừa nhận đương nhiên họ có một khoảng thời gian tương đối dài để khai thác nó tạo ra một khoản lợi nhuận cho mình. Ngược lại, hoạt động của ngân hàng không được như vậy, nếu có một ngân hàng thương mại nào đó tạo ra được một dịch vụ được xã hội ưa chuộng, thì gần như ngay lập tức trong một khoảng thời gian rất ngắn các ngân hàng khác có thể thực hiện dịch vụ đó làm phân tán mức độ ưa chuộng của xã hội đối với dịch vụ, đồng thời với quá trình đó là việc làm phân tán lợi nhuận ngân hàng. Sự cạnh tranh này khá phổ biến và xảy ra thường xuyên giữa các ngân hàng thương mại do đặc điểm: dịch vụ của ngân hàng rất dễ bị bắt chước tạo nên.
Rõ ràng là tính nhạy cảm của “nguyên liệu”, tính dễ bắt chước của dịch vụ ngân hàng đã thúc đẩy mạnh mẽ hơn sự cạnh tranh của các hoạt động ngân hàng.
Nếu coi đặc điểm trên tạo nên tính cạnh tranh cao của ngân hàng có thể được coi là các yếu tố bên ngoài thì đặc điểm về môi trường kinh doanh và công nghệ của ngân hàng có thể được coi là những đặc điểm mang tính nội tại làm tăng thêm mức độ cạnh tranh của ngân hàng. Chúng ta biết rằng ngân hàng kinh doanh trong môi trường kinh tế “đóng”. Nó bị hạn chế nhiều so với các ngành kinh doanh khác. Nhiều ngân hàng phải nản lòng trước những quy định chặt chẽ của khuôn khổ pháp luật. Nếu các ngành kinh doanh khác được kinh doanh khá thoải mái bởi hành lang hoạt động động tương đối rộng, trong khi đó hoạt động của ngân hàng bị giới hạn đến mức nế ngân hàng không khéo xoay sở thì sẽ rất khó thực hiện công việc kinh doanh của mình. Trong một không gian “hẹp” đó các ngân hàng cùng phải hoạt động, vươn lên để tồn tại và phát triển thì sự cạnh tranh càng mang tính sống còn.
Công nghệ ngân hàng hiện đại đòi hỏi phải được đặt lên hàng đầu trong sự cạnh tranh khốc liệt trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng nhưng nó còn căng thẳng hơn khi biết rằng việc đổi mới công nghệ đòi hởi một lượng vốn lớn, đầu tư cho nó. Việc thúc đẩy của xã hội với việc đổi mới kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng trong một khả năng tài chính căng thẳng càng làm cho sự cạnh tranh trong kinh doanh của các ngân hàng được nhân lên gấp bội.
3. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại
Rủi ro trong kinh doanh tồn tại trong mọi lĩnh vực kinh doanh. Tuy nhiên, rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng có nhiều điểm khác biệt với các ngành kinh doanh khác cả về nguyên nhân cũng như về mức độ.
Rủi ro trong kinh doanh được hiểu là những thiệt hại trong kinh doanh có thể nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị kinh doanh. Từ những khái niệm trên, chúng ta cần lưu ý một số điểm sau:
Thứ nhất: Không được coi tất cả các thiệt hại trong kinh doanh là rủi ro trong kinh doanh. Chỉ có những thiệt hại nằm ngoài khả năng kiểm soát trong quá trình kinh doanh mới có thể được coi là rủi ro trong kinh doanh. Có nhiều người trong thực tiễn rất hay đánh đồng khái niệm này với khái niệm thất thoát trong kinh doanh. Cần nhớ rằng hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau nhưng có thể cộng hai khái niệm này thành khái niệm về thiệt hại trong kinh doanh có nghĩa là:
Thiệt hại trong kinh doanh = Rủi ro trong kinh doanh + Thất thoát trong kinh doanh
Thứ hai: Mức độ rủi ro phụ thuộc vào trình độ quản lý thực có của đơn vị. Không thể coi rủi ro là những hoạt động bất khả kháng, coi rủi ro là điều không thể tránh khỏi và để nó tự vận động. Cũng có nghĩa là rủi ro không năm ngoài khae năng kiểm soát của đơn vị kinh doanh. Rủi ro có thể hạn chế khi tăng cường khả năng kiểm soát của đơn vị kinh doanh mà điều này phụ thuộc vào khả năng quản lý của đơn vị.
Thứ ba: Rủi ro có nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan, có rủi ro bất khả kháng và rủi ro tự nhiên, nhưng là loại rủi ro nào đều có khả năng phòng ngừa, tuy phương pháp có thể khác nhau.
Ngoài các rủi ro giong như các ngành kinh doanh khác gặp phải như: Thiên tai, địch hoạ, mất mát, nhần lẫn Do đặc điểm riêng có của mình ngân hàng còn gặp những rủi ro sau:
Rủi ro về hoạt động kinh doanh tín dụng:
Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng, nó thường chiếm phần lớn trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng cả về khối lượng công việc cũng như về mức độ tạo doanh lợi. Tỷ lệ thuận với nó là mức độ thuận rủi ro trong nghiệp vụ thường chiếm phần lớn trong tổng mức rủi ro hoạt động kinh doanh của ngân hàng vì các lý do sau:
1- Ngoài các rủi ro như các ngành kinh tế khác. Ngân hàng còn bị rủi ro ngay cả khi đơn vị kinh tế có quan hệ tín dụng với ngân hàng bị rủi ro dẫn đến làm ăn thua lỗ và không có khẳ năng trả nợ vốn vay cho ngân hàng. Như vậy, ngân hàng đã gặp rủi ro ngay cả khi khách hàng của mình bị rủi ro. Rõ ràng khả năng gặp rủi ro của ngân hàng đã được nhân lên gấp bội
2- Khi đầu tư tín dụng (cho vay) có nghĩa là ngân hàng đã trao quyền sử dụng tiền cho khách hàng mà khả năng kiểm soát quá trình sử dụng tiền của ngân hàng là rất khó khăn bởi tính phức tạp của việc sử dụng tiền vay. Lúc này hoạt động của ngân hàng như “đem con bỏ chợ”. Tiền trong “túi” mình mà có thể gặp rủi ro nữa là nó đã ra khỏi tay mịnh. Sự kiểm soát của ngân hàng chỉ có giới hạn nên yếu tố rủi ro luôn thường trực đối với nghiệp vụ này.
3- Tiền là sản phẩm của ngân hàng khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng nhưng nó lại là mục đích của người vay khi đến ngân hàng vay vốn. Một số doanh nghiệp làm ăn không đứng đắn khi vay được vốn là đã thực hiện được mục tiêu của mình, họ không những chỉ muốn sở hữu quyền sử dụng đồng tiền của ngân hàng giao cho mà còn muốn chiếm đoạt luôn quyền sở hữu chúng. Với loại doanh nghiệp này rủi ro phát sinh ngay từ khi ngân hàng bắt đàu thực hiện nghiệp vụ tín dụng đối với họ.
Rủi ro về lãi suất
Rủi ro về lãi suất là loại rủi ro mang tính xã hội. Không chỉ có ngân hàng mới gặp rủi ro này. Lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng được xem như là laoij giá cae của hàng hoá - tiền. Cũng như mọi loại hàng hoá khác loại rủi ro về giá cả lên xuống bất thường trong việc kinh doanh theo cơ chế thị trường là khó tránh khỏi. Tuy nhiên, rủi ro về lãi suất – giá cả trong hoạt động kinh doanh ngân hàng lại có nguy cơ sâu sắc hơn cả về mức độ và khả năng phòng ngừa bởi các nguyên nhân sau:
1- Do đặc điểm của hoạt động kinh doanh ngân hàng lấy tiền làm “nguyên liệu” chính và tiền cũng là sản phẩm chính của ngân hàng. TIền tệ là loại hàng hoá mang tính xã hội hoá rất cao – mà giá cả của hàng hoá tiền tệ của ngân hàng được thể hiện qua lãi suất. Nếu đồng tiền mất giá thông thường lãi suất ngân hàng cả vốn huy động và cho vay ra đều được ấn định ở mức cao và khi nền kinh tế ổn định hay nói cách khác là đồng tiền ổn định thì lãi suất được ấn định ở mức thấp. Chính yếu tố xã hội hoá cao của loại “nguyên liệu” - tiền của ngân hàng làm tăng mức độ rủi ro của ngân hàng vì rất khó kiểm soát được biến động lãi suất của dịch vụ ngân hàng.
2- Với các sản phẩm của ngành kinh doanh khác, việc tìm ra quy luật về biến phải lúc nào cũng tìm ra được quy luật biên sdodongj giá cả của dịch vụ ngân động giá cả của hàng hoá tương đối dễ. Còn trong lĩnh vực ngân hàng không hàng. Điều này làm cho rất khó quyết định mức giá phù hợp với hoạt động kinh doanh.
3- Thông thường các ngành kinh tế có thời gian thực hiện sản phẩm tương đối ngắn nên yếu tố biến động giá có thể điều chỉnh được ngay. Với dịch vụ của ngân hàng thì thời gian thực hiện thường là rất dài. Việc ấn định giá lại được thực hiện ngay từ đầu quá trình thực hiện dịch vụ đó. Do thời gian thực hiện dịch vụ ngân hàng kéo dài nên trong thời gian đó việc biến động giá là điều rất dễ xảy ra và nguy cơ về rủi ro cũng được nhân lên cùng với thời gian thực hiện dịch vụ.
Rủi ro tỷ giá
Giống như rủi ro lãi suất, rủi ro về tỷ giá cũng thuộc loại rủi ro mang tính xã hội hoá cao. Thậm chí còn cao hơn cả rủi ro về lãi suất thường mang tính “nội bộ” trong nước. Rủi ro về tỷ giá có nguyên nhân trong phạm vi rộng hơn, mức độ ảnh hưởng lớn hơn.
Ngày nay không ai phủ nhận quan hệ quốc tế trong hoạt động kinh tế. Việc sử dụng đồng tiền nước ngoài trong quan hệ thanh toán quốc tế đã trở thành phổ biến, rộng khắp. Chính nguyên nhân kinh tế đã làm thay đổi giá trị đồng tiền của mỗi nước và là nguyên nhân chính dẫn đến tỷ giá giữa các đồng tiền bị thay dổi. Đặc biệt các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu bị ảnh hưởng trước sau đó mới lan truyền sang các ngành kinh tế khác. Trên hết là sự ảnh hưởng của tỷ giá tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng, vì ngân hàng là trung tâm thanh toán của toàn xã hội. Với một đơn vị kinh doanh bị rủi ro về tỷ giá đã là rất lớn trong khi ngân hàng thực hiện thanh toán cho rất nhiều đơn vị. Do vậy, mức độ rủi ro của ngân hàng cao hơn rất nhiều. Ngoài rủi ro về tỷ giá trong thanh toán ngân hàng còn chịu rủi ro về tỷ giá do một lượng vốn lớn của ngân hàng được dự trữ hoặc cho vay bằng ngoại tệ.
Rõ ràng rủi ro về tỷ giá là rất lớn, khó lường và hậu quả cũng là rất lớn. Muốn hạn chế loại rủi ro này không có cách nào khác là phải mở rộng tàm hiểu biết trong kinh doanh quốc tế, phân tích chính xác, nhanh nhạy các biến động trên thị trường tài chính quốc tế để có khả năng nhận rõ được xu hướng vận động của tỷ giá mới có khả năng hạn chế được loại rủi ro này.
Rủi ro về thừa, thiếu vốn thanh toán trong kinh doanh:
Rủi ro do thừa vốn thanh toán
Đối với các ngành kinh doanh khác thì việc thừa vốn thật dễ chịu, vốn của các doanh nghiệp thường là vốn tự có hoặc vốn vay. Nếu thừa vốn tự có thì chuyển qua tích luỹ vì đó là vốn của bản thân chủ sở hữu doanh nghiệp. Nếu thừa vốn mà doanh nghiệp đang vay thì đem trả cho người cho vay. Vấn đề rủi ro do thừa vốn đối với các doanh nghiệp ngoài ngân hàng thường khó xảy ra. Đối với các ngân hàng, vốn của ngân hàng chủ yếu là vốn đi vay để cho vay, việc huy động vốn nhiều mới tạo ra được quỹ cho vay lớn. Nếu ngân hàng không cho vay ra được thì tồn quỹ nghiệp vụ tăng lên, trong khi ngân hàng vẫn phải trả tiền gửi của khách hàng cả số tiền ở quỹ nghiệp vụ không cho vay ra được, dẫn đến thiệt hại trong kinh doanh. Rõ ràng rủi ro loại này có nguyên nhan chủ quan của ngân hàng trong biệc kế hoạch hoá hoạt động kinh doanh của mình. Xử lý vấn đề này không còn cách nào khác là phải tăng cường công tác kế hoạch hoá của ngân hàng. Phối kết hợp tốt giữa khâu huy động vốn và sử dụng vốn luôn đảm bảo cân đối mới mong hạn chế được loại rủi ro này.
Rủi ro do thiếu vốn thanh toán
Thừa vốn gây khó khăn cho ngân hàng thì việc thiếu vốn còn tệ hại hơn nhiều. Rủi ro thiếu vốn không thể lường hết mức độ do nó gây ra. Bởi vì, vốn của ngân hàng phần lớn là vốn huy động (vay) của xã hội để cho vay ra. Nếu thiếu vốn trong thanh toán, ngân hàng không thể thanh toán cho khách hàng khi họ có nhu cầu rút tiền. Nếu với các ngành kinh tế khác thì việc thanh toán chỉ là một phần vốn của đơn vị không khó khăn lắm trong việc khất nợ khách hàng (cho dù không nên kéo dài và thường xuyên). Nhưng với hoạt động ngân hàng, khi một khách hàng bị khất nợ sẽ kéo theo hàng loạt các khách hàng khác đổ xô đến ngân hàng để rút tiền. Điều gì sẽ xảy ra khi đó, khả năng cao nhất có thể xảy ra là tuyên bố mất khả năng thanh toán và phá sản. Như vậy, loại rủi ro này rất nguy hiểm, khó lường hết được hậu quả. Loại rủi ro này còn nguy hiểm hơn loại rủi ro bất khả kháng do thiên tai địch hoạ bởi lẽ các rủi ro đó ngân hàng còn có khả năng phục hồi còn với rủi ro thừa hoặc thiếu vốn trong thanh toán thì khả năng xấu nhất có thể xảy ra đối với doanh nghiệp.
Đó là những khó khăn mà ngành ngân hàng phải tìm cách vượt qua. Phát triển bền vững, nâng cao uy tín của ngân hàng là hướng phát triển tất yếu để có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7352.doc