Đề tài Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay

Hiện nay, nước ta đang tập trung, đẩy mạnh xuất khẩu ra nước ngoài. Với lợi thế của mình, Việt Nam có thế mạnh các mặt hàng gia công, chế biến, hàng tiêu dùng Tuy nhiên việc xuất khẩu hàng hoá ra thị trường quốc tế đòi hỏi nhiều yêu cầu khắt khe, không những từ khách hàng mà còn từ các cơ quan hải quan. Do vậy, dịch vụ giám định hàng hoá có nhiều cơ hội phát triển. Muốn làm được như vậy thì chúng ta phải xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, công tác giám định phải được tổ chức khoa học, nghiêm túc với công nghệ hiện đại.

doc73 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1500 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
í lưu thông. Còn đối với các hộ gia đình, dịch vụ này giúp họ thuận tiện trong việc tiêu dùng rất nhiều bởi họ có thể mua sắm thoải mái mà không cần để ý đến việc mình có mang hết hàng hoá đó được không bởi doanh nghiệp có phương tiện chuyên dùng để vận chuyển đối với những hàng hoá cồng kềnh hay có yêu cầu đặc biệt trong bảo quản, vận chuyển. Hiện nay ở nước ta thường chỉ có dịch vụ bán ga là có tổ chức dịch vụ vận chuyển hàng hoá mà người mua chỉ cần gọi điện thì người bán sẽ mang đến tận nhà mặc dù họ còn không hề biết mặt nhau. Để phát triển loại hình dịch vụ bán hàng và vận chuyển hàng này thì doanh nghiệp cần tổ chức được một đội ngũ bán hàng và một đội ngũ vận chuyển chuyên nghiệp, cùng với một hệ thống phương tiện vận tải hiện đại chuyên dùng. Ngày nay, việc bán hàng không đơn thuần chỉ là thực hiện việc chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho khách hàng mà nó là một quá trình. Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp thương mại phải tuyển chọn được một đội ngũ bán hàng chuyên nghiệp có đầy đủ các kỹ năng về nghệ thuật bán hàng như: biết nắm bắt tâm lý và nhu cầu của khách hàng, tìm cách thoả mãn những nhu cầu đó, giải quyết được sự phản đối của khách hàng ( nếu có) và sử dụng các chiến lượcthuyết phục khách hàng một cách có hiệu quả. Đơn giản là phải làm cho nhân viên hiểu được rằng :“ Trong công ty, chỉ có một ông chủ duy nhất, đó là khách hàng. Khách hàng có thể đuổi việc bất kỳ ai, từ giám đốc đến nhân viên, đơn giản chỉ bằng một hành động mua hàng ở công ty khác” (Sam Walton-Người sáng lập ra hệ thống siêu thị Wal-Mart). Thật vậy, khách hàng chính là lí do tồn tại của các doanh nghiệp . Họ là người thanh toán các hoá đơn cũng như trả lương cho các nhân viên, vậy thì tại sao họ không được phục vụ những dịch vụ tốt nhất với một thái độ niềm nở nhất từ các nhân viên. Việc doanh nghiệp coi khách hàng là trung tâm và đề cao chữ “tín” trong kinh doanh sẽ loại bỏ dần tư tưởng “mua đứt”, “bán đoạn” của kiểu kinh doanh nhỏ lẻ chụp giật trước đây và hiện nay vẫn còn tồn tại trong nhiều hình thức phân phối nhỏ, bởi họ chỉ chú trọng đến từng thương vụ chứ không chú trọng đến chữ “tín” trong kinh doanh. Ngoài ra các doanh nghiệp cung cấp loại hình dịch vụ này nên khai thác lợi thế của loại hình dịch vụ này đó là việc bán hàng và vận chuyển hàng theo yêu cầu của khách được thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với từng khách hàng. Do vậy, ngoài việc cung cấp thông tin cho khách hàng thì cả đội ngũ bán hàng và vận chuyển hàng phải biết lắng nghe thông tin phản hồỉ từ phía khách hàng, nghiên cứu thị trường xác định các nhu cầu chưa được thoả mãn… - Chuẩn bị hàng hoá trước khi bán và đưa vào sử dụng: dịch vụ này thường áp dụng với một số loại hàng hoá mà trước khi đưa vào sử dụng phải qua giai đoạn chuẩn bị cho thích hợp với nhu cầu hàng hoá như sắt thép thì cần phải pha cắt thành những phôi phẩm, thuốc trừ sâu thì phải pha chế, hàng tiêu dùng thì thường được đóng gói sẵn…Dịch vụ này đặc biệt cần thiết với những hàng ngoại nhập, vì những hàng này trước khi đưa ra thị trường thì cần đóng gói lại bao bì hay phân loại sản phẩm …Đây chính là việc làm mà hầu hết hàng Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài bị mất thương hiệu do sau khi xuất khẩu ra nước ngoài thì hàng hoá Việt sẽ được bán dưới thương hiệu của các hãng bán lẻ. Trong nền kinh tế hội nhập như hiện nay đây là một hoạt động rất phổ biến nhưng giá của hàng hoá được bán lại cao hơn nhiều so với giá sản phẩm mà doanh nghiệp nước ngoài nhập vào, do vậy lợi nhuận phần lớn rơi vào túi những nhà thương mại nước ngoài. Vì vậy doanh nghiệp Việt Nam cần hoàn thiện các khâu chuẩn bị hàng hoá cho thật tốt, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình và tìm con đường xuất khẩu sản phẩm trực tiếp ra nước ngoài. Muốn như vậy trước hết doanh nghiệp cần hoàn thiện khâu chuẩn bị hàng hoá trước khi bán và đưa vào sử dụng sao cho phù hợp với quy trình và tiêu chuẩn quốc tế. Có như vậy hoạt động này mới trở thành dịch vụ phục vụ hữu hiệu cho hoạt động thương mại nội địa cũng như hoạt động thượng mại ngoại thương. - Dịch vụ kỹ thuật khách hàng: loại hình dịch vụ này bao gồm nhiều hình thức đã giới thiệu ở phần trên như giới thiệu hàng, hướng dẫn mua và sử dụng hàng hoá, bảo dưỡng máy móc thiết bị…Hầu hết các loại hình dịch vụ trong số đó đều được cung cấp gắn liền với thời điểm bán hàng của doanh nghiệp, do vậy doanh nghiệp cần tổ chức đội ngũ bán hàng hay đội ngũ kỹ thuật viên có trình độ cao, am hiểu về sản phẩm để đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Bởi khách hàng chỉ tin tưởng vào sản phẩm khi họ tin tưởng vào người bán hàng. Đối với các loại hình dịch vụ như bảo dưỡng hay sửa chữa thì doanh nghiệp cần tổ chức các cửa hàng, trạm bảo dưỡng, bảo hành sản phẩm. Một thực tế cho thấy rằng, nếu doanh nghiệp có một hệ thống trạm bảo dưỡng, bảo hành hoạt động hiệu quả thì cũng có thể thấy rằng khách hàng rất tin tưởng vào chất lượng của sản phẩm và yên tâm vào quyết định mua hàng của mình. Tuy nhiên, không phải lúc nào dịch vụ kỹ thuật khách hàng cũng đi liền với khâu bán mà có những doanh nghiệp chỉ tổ chức dịch vụ kỹ thuật khách hàng thôi. Gần đây tại thành phố Hồ Chí Minh ra đời một bệnh viện chuyên chữa bện cho máy tính, mô hình này đến nay hoạt động khá hiệu quả, nhưng ý tưởng về bệnh viện này thì thật tuyệt vời. Ngày 15-11, i-Care - bệnh viện đầu tiên dành cho máy tính - được đưa vào sử dụng ở Việt Nam sau ba tháng thử nghiệm. Mô hình này nhằm nâng cao chất lượng của dịch vụ sau bán hàng, một khâu đang được các doanh nghiệp chú trọng. Bốc thuốc kê toa cho máy tính Trong khu nhà rộng 600m2, tường ốp gạch men trắng, các nhân viên mặc áo choàng trắng tất bật di chuyển, hết đón bệnh, chẩn đoán, rồi kê đơn, bốc thuốc. Bệnh nặng thì nhập viện điều trị, bệnh nhẹ thì cắt thuốc, điều trị xong rồi về. Cũng áo choàng trắng, cũng có toa kê đơn, bốc thuốc nhưng ở đây không có mùi ê-te đặc trưng của bệnh viện. Ở đây cũng không có những giây phút im lặng đến nặng nề. Bởi ''người bệnh'' là những chiếc máy vi tính.Quy trình ở bệnh viện máy tính i-Care cũng giống như quy trình thông thường ở một bệnh viện. Khi chiếc máy tính bị ''khó ở'', bạn đưa máy đến bệnh viện làm thủ tục. Các ''bác sĩ'' sẽ khám, chẩn bệnh và kê đơn cho máy tính của bạn. Nếu ở mức nhức đầu, sổ mũi, nghĩa là chỉ cài lại phần mềm hay thay linh kiện như RAM, ổ cứng, chỉ trong vòng một giờ, máy tính đã được xuất viện, và dĩ nhiên, không cần thời gian tĩnh dưỡng, lại bắt tay vào việc. Bị nặng hơn như hỏng đèn màn hình, mainboard, máy tính buộc phải nằm viện vài ngày. Sau mỗi lần điều trị, hồ sơ bệnh án của máy tính sẽ được lưu và quản lý trong kho dữ liệu. Lần sau, khi mang máy đến bệnh viện, nhân viên sẽ tra cứu hồ sơ để xem tiền sử bệnh án của chiếc máy. Đối với “bệnh nhân” là máy tính thì khâu quan trọng là phải kiểm tra thiết bị, do vậy bệnh viện đã trang bị thẻ test để kiểm tra, đánh giá tình trạng của các bộ phận quan trọng như RAM, CPU, card màn hình. Việc thay thế linh kiện ở bệnh viện máy tính rất thuận tiện, nhờ sử dụng chung kho hàng với siêu thị máy tính Nguyễn Hoàng. Việc xem máy tính như một người bệnh là điều khác biệt giữa bệnh viện máy tính và một trung tâm bảo hành. Sự khác biệt này không phải ở cách chữa trị mà ở cách đối xử với một chiếc máy và đối xử với khách hàng. Trung tâm bảo hành chỉ làm nhiệm vụ đơn thuần là định bệnh, thay thế và bàn giao máy cho khách. Còn ở i-Care, khách hàng có thể là người đến bảo hành máy hoặc mang máy mua từ nơi khác đến để mua dịch vụ sửa chữa. Ngoài ra, khách hàng còn có thể mua thuốc (linh kiện) của siêu thị máy tính Nguyễn Hoàng hoặc mua ở nơi khác. Ðiều này tránh cho khách hàng có tâm lý ''bị bác sĩ kê đơn, bốc thuốc đắt tiền một cách không cần thiết''. Ðến i-Care, khách hàng có thể chọn một trong bốn gói dịch vụ, trong đó có hai gói dành cho máy tính cá nhân và hai gói về mạng. Gói dịch vụ bảo trì và sửa chữa máy gồm chẩn đoán, chữa trị, kiểm tra hệ điều hành, nâng cao hiệu quả làm việc của máy, vệ sinh máy tính. Giá chẩn đoán là 30.000 đồng. I-Care đưa ra các dịch vụ khác như cài đặt phần mềm, bảo trì hệ thống mạng, khảo sát thiết kế và lắp đặt hệ thống mạng. Một nguyên tắc của các gói dịch vụ là sử dụng gói này sẽ được ưu đãi ở gói kia. Chẳng hạn khi sử dụng dịch vụ cài đặt phần mềm, khách hàng sẽ được miễn phí chẩn đoán tổng quát, tiền vệ sinh máy. Nếu nhân viên đến nhà khách hàng, giá dịch vụ sẽ cộng thêm 25.000 đồng.Bà Ðặng Thanh Huyền, Phó Phòng Marketing của Công ty Nguyễn Hoàng cho biết, ý tưởng về i-Care được phát triển từ một nhận xét của giám đốc chi nhánh một hãng cung ứng thiết bị. Theo ông, dịch vụ sau bán hàng trong kinh doanh máy tính còn yếu, nhiều người mua máy xong, hết bảo hành không biết trông vào đâu. Mất gần một năm để chuẩn bị, Công ty Nguyễn Hoàng mới đưa i-Care vào hoạt động, với đội ngũ 25 nhân viên kỹ thuật là những người có kinh nghiệm trong lắp ráp, sửa chữa máy tính. Ngoài ra, để nâng cao ý thức của mỗi người, công ty đưa ra bộ tiêu chuẩn, quy định chặt chẽ từ thái độ cư xử với khách hàng, ý thức, trách nhiệm của mỗi người. Bệnh viện máy tính là mô hình mới ở Việt Nam. Những người xây dựng nó còn mất nhiều thời gian nữa để hoàn thiện mô hình này. Qua ví dụ trên ta nhận thấy một điều rằng: Thành công chỉ dành cho những người dám thất bại, và trong kinh doanh việc nắm bắt nhu cầu thị trường là rất quan trọng. - Dịch vụ cho thuê máy móc thiết bị: Do yêu cầu của một số ngành, lĩnh vực cần sử dụng đến một số loại máy móc thiết bị phục vụ cho nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, thiết kế…Nhưng do những loại máy móc này có giá trị lớn mà thời gian sử dụng lại ít nên giải pháp hữu hiệu nhất là đi thuê máy móc. Tuy nhiên do thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực sản xuất máy móc đa phần là lạc hậu. Điều này doViệt Nam bắt đầu công cuộc phục hồi và phát triển kinh tế từ một xuất phát điểm rất thấp về mặt công nghệ. Hiện nay, máy móc thiết bị của nhiều ngành công nghiệp lạc hậu từ 2-3 thế hệ so với các nước công nghiệp tiên tiến. Ngoài các doanh nghiệp do nước ngoài đầu tư, chỉ 30% các doanh nghiệp trong nước được coi là có trang thiết bị vào loại tương đối hiện đại, nhưng tốc độ đổi mới thiết bị công nghệ còn khiêm tốn, khoảng 10-11%. Điều đó đã hạn chế rất nhiều việc nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất. Nhiều sản phẩm sản xuất trong nước có giá cao hơn sản phẩm cùng loại nhập khẩu từ 20-40%. Trình độ trang thiết bị, máy móc lạc hậu, công nghệ chậm được đổi mới đang là cản trở đối với quá trình phát triển và hội nhập của các doanh nghiệp. Để khắc phục những hạn chế về công nghệ sản xuất, doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn dài hạn rất lớn. Tuy nhiên, đi sâu nghiên cứu tình hình vốn của doanh nghiệp, chúng ta sẽ hiểu rõ những khó khăn của doanh nghiệp trong việc đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Dịch vụ cho thuê tài chính gần đây rất phát triển do sự nhanh nhạy của các ngân hàng thương mại và tổ chức cho thuê tài chính. Hiện tại Việt Nam có 8 Công ty cho thuê tài chính với trên 300 nhân viên chuyên nghiệp và số vốn tự có trên 600 tỷ đồng, vốn đầu tư trên 3.000 tỷ đồng. Hoạt động cho thuê tài chính đã có lãi và đang hỗ trợ tích cực trong việc cung cấp các giải pháp tài chính cho doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhiều khách hàng đã biết và sử dụng các dịch vụ cho thuê tài chính để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh bằng việc xây dựng những dự án đầu tư tốt. Đặc biệt, hoạt động cho thuê tài chính sẽ góp phần làm giảm áp lực cho vay vốn trung và dài hạn, điều mà hiện này các ngân hàng thương mại đang chán ngán. Hoạt động của loại hình tín dụng này có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của khu vực DNVVN do khả năng cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn của nó. Tuy nhiên những văn bản hướng dẫn như Nghị định 16/2001/NĐ-CP thì còn mỏng, chưa cụ thể, mới ở trong giai đoạn thử nghiệm nên chưa thực sự khuyến khích các tổ chức này phát triển và các DNVVN còn rất dè dặt khi đề cập đến nguồn tín dụng mới mẻ này. - Dịch vụ giao nhận hàng hoá: Trong điều kiện nền kinh tế thế giới có sự gia tăng về việc giao lưu hàng hóa trên thế giới, dịch vụ giao nhận hàng hoá đang có cơ hội phát triển rất mạnh mẽ. Dịch vụ giao nhận hàng hoá không những làm cho quá trình lưu thông, phân phối được thông suốt, chuẩn xác và an toàn, mà còn giảm được chi phí vận tải. Nhờ đó hàng hoá được đưa đến thị trường một cách nhanh chóng kịp thời. Người tiêu dùng sẽ mua được hàng hoá một cách thuận tiện, linh hoạt, thỏa mãn nhu cầu của mình. Người mua có thể chỉ cần ở tại nhà, đặt mua hàng bằng cách gọi điện thoại, gửi fax, gửi e-mail hoặc giao dịch qua Internet… cho người bán hàng, thậm chí cho hãng sản xuất hàng hoá là có thể nhanh chóng nhận được thứ hàng cần mua, được vận chuyển đến tận nhà. Từ xa xưa, hệ thống Logistics đã được ứng dụng vào hoạt động sản xuất và đời sống, đặc biệt là trong các lĩnh vực phức tạp bao gồm nhiều quá trình, nhiều công đoạn khác nhau mà cần phải thực hiện bởi nhiều tổ chức, nhiều chủ thể có liên quan. Ngày nay, hệ thống Logistics càng có vị trí và vai trò quan trọng đối với hoạt động sản xuất và đời sống. Mô hình phát triển hệ thống Logistics Các hãng sản xuất kinh doanh ứng dụng Logistics vào ngay từ phần lập kế hoạch mua sắm nguyên vật liệu để đưa vào sản xuất, trong quá trình sản xuất và trong khâu cuối cùng là tiêu thụ sản phẩm.Họ có thể ứng dụng Logistics để phân công dây chuyền sản xuất, chuyên môn hoá sản xuất bố trí, bố trí các cơ sở, các công ty con, các chi nhánh ở trong nước hoặc nước ngoài để nhằm mục đích mua nguồn nguyên vật liệu thuận lợi, thuê nhân công với giá rẻ, đưa hàng đi tiêu thụ nhanh chóng đến các thị trường có nhu cầu, do đó mà đạt được mục tiêu giá rẻ, thuận tiện và bán được nhiều sản phẩm, thu được nhiều lợi nhuận. Các hãng sản xuất kinh doanh ngày càng nghiên cứu ứng dụng Logistics ở mức độ cao hơn. Đã có một số hãng đạt được mô hình sản xuất tối ưu. Toàn bộ quá trình sản xuất – lưu thông – tiêu dùng của nền sản xuất hàng hoá được mô hình hoá như sau: Trên thực tế, các hoạt động của quá trình này còn phức tạp hơn nhiều. Ngày nay, nền sản xuất hiện đại, với sự phát triển của kinh tế quốc tế và thương mại toàn cầu, đã mở rộng nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ Logistics. Các dịch vụ Logistics chủ yếu như sau: nhận đơn đặt hàng vận tải, gom hàng, xử lý nguyên vật liệu, gia công mã mác, lưu kho, kiểm soát hàng tồn kho, tái chế hàng trả lại, quản lý việc phân phối, xúc tiến thị trường và các dịch vụ thông tin… Tất cả các dịch vụ Logistics nhằm mục đích thoả mãn cao nhất cho nhu cầu của khách hàng (người sản xuất và người tiêu dùng). Trong dây chuyền cung ứng có rất nhiều khâu, giữa các mắt xích của các khâu có các dịch vụ: giao nhận, xếp dỡ, lưu kho,… Nếu để hàng hoá phải tồn kho nhiều hoặc lưu kho quá lâu sẽ gây thiệt hại cho hãng sản xuất, do đó họ đã chú ý khâu này bằng những giải pháp khác nhau: -Xác lập kênh phân phối, chọn thị trường tiêu thụ; -Chọn vị trí kho hàng; -Thiết lập các trung tâm phân phối; -Quản lý quá trình vận chuyển… Có một số hãng đã đạt được quy trình sản xuất “không lưu kho” đối với một số mặt hàng nhất định, và đã đạt được lợi nhuận cao. Các bên tham gia vào hệ thống Logistics có các hãng sản xuất, các nhà giao nhận, các hãng chuyên kinh doanh dịch vụ Logistics. Đối với toàn bộ quá trình lưu thông, phân phối, ứng dụng hệ thống Logistics là một bước phát triển cao hơn của công nghệ vận tải. Vận tải đa phương thức đã liên kết được tất cả các phương thức vận tải với nhau để phục vụ cho nhu cầu cung ứng và tiêu thụ của hãng sản xuất. Hệ thống Logistics còn liên kết và tối ưu toàn bộ quá trình sản xuất và lưu thông trên phạm vi rất rộng: trong một quốc gia, một khu vực, đến toàn cầu. Việt Nam đã bắt đầu ứng dụng hệ thống này vào sản xuất kinh doanh thương mại và lưu thông phân phối. Đây là một thuận lợi lớn để từng bước phát triển thương mại nước nhà theo hướng chuyên nghiệp và hiện đại hơn. (Nguồn : Tạp chí Hàng Hải Việt Nam số 8 năm 2004) 2.Dịch vụ trong lĩnh vực lưu thông thuần tuý -Chào hàng: Ở Việt Nam hiện nay, chào hàng chủ yếu chỉ bao gồm việc các doanh nghiệp thương mại tổ chức ra các điểm giới thiệu và bán trực tiếp sản phẩm hàng hóa cho khách hàng. Và hình thức chào hàng ở Việt Nam chưa phát triển sôi động lắm có chăng chỉ ở một số ít doanh nghiệp như thuốc lá 555… Tuy nhiên ở các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ hình thức này lại rất phát triển và công việc chào hàng là công việc có mức lương hấp dẫn và môi trường làm việc khá năng động. Nhân viên chào hàng ở Mỹ hoạt động khá độc lập và họ được phân vùng hoạt động theo khu vực, mỗi khu vực lại có một giám đốc phụ trách khu vực- người này hoàn toàn chịu trách nhiệm trước công ty về hiệu quả cũng như chế độ đối với mỗi nhân viên dưới cấp mình. Song dù ở đâu thì việc tuyển chọn và đào tạo được đội ngũ nhân viên chào hàng hoạt động hiệu quả là công việc rất khó khăn. Tựu chung lại một nhân viên chào hàng muốn chào hàng có kết quả phải đảm bảo các yêu cầu sau: +Hiểu rõ về thị trường nơi mà mình định tổ chức chào hàng và thực hiện hoạt động chào hàng. Tức là, trước khi tổ chức hoạt động chào hàng thì nhân viên phải được tìm hiểu kỹ về địa hình, giao thông, thói quen sinh hoạt của dân cư khu vực này… +Hiểu rõ vật tư hàng hoá mình định đem đi giới thiệu. Tức là họ phải có cái nhìn khá toàn diện về sản phẩm của mình : tù giá trị của hàng hoá, công dụng, cách bảo quản, sử dụng, sự khác biệt so với những sản phẩm cùng loại… +Biết nghệ thuật trình bày và giới thiệu sản phẩm để tạo sự ưa chuộng của khách hàng với sản phẩm của doanh nghiệp. Một nhân viên chào hàng không ngoan sẽ làm cho khách hàng hiểu rõ được sự khác nhau giữa sản phẩm của doanh nghiệp với sản phẩm tương tự của hãng cạnh tranh, hiểu rõ thắc mắc cảu khách hàng và giải quyết nó một cách thoả đáng. Thông thường một buổi chào hàng tốt sẽ : -Nhấn mạnh thêm thông điệp của người bán hàng -Chỉ dài vừa đủ thời gian cần thiết -Dành thời gian cho các câu hỏi -Được diễn ra theo tốc độ đủ đẻ khách hàng có thể hiểu được và hấp thụ các thông tin. -Có hệ thống và dễ hiểu. Như vậy, nếu biết cách khai thác thì hoạt động chào hàng có thể đem lại hiệu quả lớn cho doanh nghiệp. -Dịch vụ quảng cáo: Khi cạnh tranh càng gay gắt thì công cụ quảng cáo càng thể hiện được vai trò cùa mình. Quảng cáo có rất nhiều hình thức khác nhau song quảng cáo qua vô tuyến truyền hình là hình thức thu được hiệu quả rất cao. Tuy nhiên, cần phải chú ý đến thời gian, địa điểm và đối tượng tiếp nhận thông tin mà doanh nghiệp cần hướng đến để tổ chức hoạt động quảng cáo có hiệu quả. Hiện nay trong khi các doanh nghiệp nước ngoài tha hồ rót tiền vào quảng cáo, xây dựng thương hiệu thì doanh nghiệp Việt Nam lại bị hạn mức quảng cáo, tức là chi phí quảng cáo không được quá 10% chi phí hợp lý. Nếu bị hạn mức quảng cáo như vậy thì việc cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn, kể cả trong việc xây dựng thương hiệu và việc quảng cáo trên truyền hình sẽ là không thẻ do chi phí quá lớn. Đối với những phương tiện quảng cáo bên trong mạng lưới thương mại thì cân chú ý rằng mỗi doanh nghiệp nên xây dựng cho mình một phương châm kinh doanh phù hợp ngắn gọn có khả năng tạo ấn tượng cho khách hàng vd như: Mọi lúc mọi nơi ( Mobi Fone), làm nhiều nói ít (Bíti’s)… Doanh nghiệp cần tạo được sự biết đến và thói quen cho khách hàng, muốn được như vậy doanh nghiệp cần tổ chức hoạt động quảng cáo một cách có tổ chức, đồng bộ . - Hội chợ: Tác dụng của hội chợ là rất lớn nếu các doanh nghiệp biết cách khai thác có hiệu quả. Song, có ý kiến lại cho rằng ở Việt Nam hiện nay nhiều hội chợ, triển lãm thương mại được tổ chức khôngđảm bảo chất lượng, thiếu chuyên nghiệp, mang tính “ chợ” nhiều hơn nên không phù hợp với mục đích xúc tiến thương mại. Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa ngày càng nhiều và hội chợ triển lãm chính là sân chơi mà các doanh nghiệp rất cần. Nắm bắt được tâm lý này nhiều doanh nghiệp chuyên tổ chức hội chợ đã tranh thủ tổ chức hội chợ tại mọi nơi, mọi lúc dẫn đến tình trạng “loạn” hội chợ như hiện nay. Hơn nữa nhiều nhà tổ chức hội chợ đăng ký những tên nổi bật về uy tín, chất lượng sản phẩm, nhưng trên thực tế lại không đúng với tên gọi hay chủ đề. Việc làm này sẽ khiến các nhà tổ chức hội chợ tự đánh mất uy tín của mình với các doanh nghiệp khác. Bởi trong nền kinh tế thị trường mọi hoạt động kinh doanh đều phụ thuộc vào quan hệ tín nhiệm giữa các doanh nghiệp với nhau, nếu làm ăn không uy tín thì chắc chắn lần sau các doanh nghiệp sẽ không tham gia nữa. Theo ông Ngô Văn Thoan Cục trưởng cục Xúc tiến thương mại thì trong trường hợp các doanh nghiệp tham gia hội chợ nếu cảm thấy bị lừa thì có thể phản ánh với sở Thương mại địa phương nơi diễn ra hội chợ. Sở sẽ có trách nhiệm đi kiểm tra và nếu phát hiện có dấu hiệu lừa đảo sẽ xử lý hành chính. Tại TP Hồ Chí Minh, trong năm 2005 có tới 162 hội chợ được tổ chức, tăng 39 hội chợ so với năm 2004. Tuy nhiên, Sở Thương mại thành phố cũng chỉ cấp phép chứ chưa quản lý, giám sát khi hội chợ diễn ra. Trước thực trạng này, các chuyên gia xúc tiến thương mại khuyến cáo các doanh nghiệp trước khi tham gia hội chợ phải xem xét chọn lọc nhà tổ chức có uy tín và chú ý tới khâu hợp đồng để tránh bị lừa. Theo ông Đỗ Thắng Hải Cục phó Xúc tiến thương mại cho biết theo luật Thương mại mới thì doanh nghiệp đăng ký tổ chức hội chợ khi đưa ra chủ đề hay tên gọi hội chợ có tính chất khẳng định uy tín, chất lượng của doanh nghiệp tham gia thì phải nộp kèm theo bằng chứng. Nếu thành phần tham gia đủ tiêu chuẩn thì Bộ Thương Mại mới xét duyệt cho đơn vị tổ chức hội chợ dùng tên gọi xin đăng ký dó. Đây là một thực tế đáng buồn ở nước ta hiện nay, quả thực một trong những chức năng của hội chợ triển lãm là bán hàng nhưng ngay cả hoạt động bán hàng này cũng là nhằm quảng cáo, khuyến mại, khẳng định thương hiệu và chất lượng hàng hoá chứ không vì mục đích lợi nhuận. Do vậy, trong thời gian tới Nhà nước cần đặt ra các tiêu chuẩn đối với hội chợ triển lãm và các doanh nghiệp khi tham gia hội chợ, triển lãm cũng nên xác định rõ mục tiêu của doanh nghiệp minh khi đến tham gia là tìm kiếm đối tác hay thăm dò nhu cầu thị trường… -Dịch vụ tư vấn, ghép mối: Vì là một sản phẩm hỗ trợ kinh doanh- một sản phẩm vô hình nên chúng ta không thể hình dung cụ thể về hình dáng, kết cấu và không thể đánh giá chất lượng ngay tại thời điểm quyết định mua. Do vậy, quyết định mua sản phẩm dịch vụ tư vấn, ghép mối phụ thuộc nhiều vào uy tín của nhà cung cấp và khả năng thuyết trình của chuyên viên tư vấn. Hiện nay, nhu cầu của doanh nghiệp Việt Nam về các loại hình dịch vụ này là rất lớn, song rất ít dịch vụ đem lại sự hài lòng hoàn toàn cho khách hàng. Một trong các nguyên nhân chính dẫn tới chất lượng tư vấn chưa cao là do các công ty tư vấn Việt Nam chưa được đào tạo quy chuẩn và chưa có kinh nghiệm nhiều cũng như tính chuyên nghiệp cao. Điểm sơ qua một vài công ty tư vấn trong nước có thể thấy rằng đa số xuất phát từ những người đã có một thời gian làm việc cho những công ty tư vấn của nước ngoài tại Việt Nam, mỗi người chỉ chuyên về một vài lĩnh vực cụ thể, nay khi điều hành công ty họ phải chào những dịch vụ trọn gói mà họ chưa đủ kinh nghiệm để làm. Điều này dễ làm cho chất lượng dịch vụ trọn gói từ khi tiếp nhận và trong suốt quá trình triển khai, thực hiện và giám sát dự án không được đảm bảo. Ngoài ra, những gì tư vấn nói ban đầu so với kết quả dịch vụ khi kết thúc dự án thường làm cho khách hàng ngỡ ngàng do có sự hiểu khác nhau giữa người mua và người cung cấp dịch vụ về phạm vi công việc đã được thoả thuận. Dịch vụ hậu mãi cũng không được chú trọng. Nhiều công ty tư vấn quá chú trọng đến vấn đề lợi nhuận của từng dự án mà quên mất rằng để dịch vụ này phát triển, họ phải thoả mãn được yêu cầu của khách hàng bởi vì sự hài lòng của khách hàng chính là sự quảng cáo tốt nhất cho các công ty tư vấn. Như vậy, xét một cách khái quát thì các công ty tư vấn Việt Nam chưa theo kịp được tốc độ phát triển của doanh nghiệp. Họ cần phải hoàn thiện tính chuyên nghiệp trong việc cung cấp dịch vụ tư vấn như các công ty có uy tín của nước ngoài đã thực hiện tại Việt Nam và cần có định hướng kinh doanh dài hạn hơn. Yếu tố văn hoá đạo đức trong kinh doanh trong ngành lại phải được đặt biệt chú trọng. Có như vậy thì các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh mới có thể phát triển và đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp. Do tính phức tạp của dịch vụ tư vấn nên có nhiều cách phân loại dịch vụ này, theo công dụng của dịch vụ ra có thể chia ra làm 2 loại đó là: Dịch vụ tư vấn hỗ trợ kinh doanh và dịch vụ tư vấn quản trị. Theo nội dung kinh tế của dịch vụ có thể chia dịch vụ tư vấn thành 7 loại đó là: dịch vụ kế toán, dịch vụ kiểm toán, dịch vụ tư vấn quản lý kinh doanh, dịch vụ tư vấn thuế, dịch vụ tư vấn tài chính, dịch vụ tư vấn đầu tư, dịch vụ tư vấn nguồn nhân lực. Hiện nay có mặt tại Việt Nam bên cạnh các công ty tư vấn có tên tuổi của Việt Nam như CONCETTI, Inversconsult Group… , các trung tâm tư vấn do các bộ, ngành, viện và các sở của các tỉnh thành lập đã xuất hiện nhiều công ty nước ngoài . Và khách hàng của các công ty này cũng không ngừng tăng lên về mặt số lượng như công ty tư vấn quản trị MCG có trụ sở tại Hà Nội mỗi năm đã tăng thêm khoảng 40-50% khách hàng, hay công ty Bizlaw tại TP Hồ Chí Minh cũng tăng thêm khoảng 20% về số lượng khách hàng. Điều này cho thấy xu hướng sử dụng dịch vụ tư vấn đã có xu hướng tăng ở Việt Nam và xu hướng này hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển của kinh doanh hiện đại là chuyên môn hoá cao, chuyên nghiệp và hiệu quản hơn. Ngoài ra để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nước ta khi tham gia thị trường, nhiều Bộ, Ngành đã mở thêm các văn phòng, các điểm tư vấn miễn phí cho các doanh nghiệp. Vừa qua, Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển đã kí quyết định thành lập Văn phòng hỏi đáp thương mại. Văn phòng này là một phần của Mạng lưới cơ quan thông báo và điểm hỏi đáp của Việt Nam về hàng rào kỹ thuật trong thương mại trong WTO, văn phòng sẽ trả lời và tư vấn cho các tổ chức, các doanh nghiệp về các văn bản pháp quy kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp trong phạm vi quản lý của Bộ Thương Mại có khả năng cản trở thương mại đối với các nước thành viên WTO; các hiệp định hoặc thoả thuận song phương, đa phương đã ký kết liên quan đến văn bản pháp quy kỹ thuật, tiêu chuẩn và quy trình đánh giá sự phù hợp tiêu chuẩn. Trên cả nước cũng xuất hiện nhiều trung tâm tư vấn có cả của Nhà nước và của tư nhân cũng như các tổ chức nước ngoài làm dịch vụ tư vấn, ghép mối giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa sản xuất trong nước và nhu cầu xuất khẩu. Ở Việt Nam, kể từ khi có chủ trương “mở cửa” cho đến nay, đã có nhiều doanh nghiệp mua nhượng quyền những thương hiệu nổi tiếng của nước ngoài, trong nước cũng đã có một số doanh nghiệp kinh doanh theo hình thức này. Và nghề tư vấn nhượng quyền, một nghề tư vấn mới đã bắt đầu hình thành và phát triển. Tuy nhiên, do còn mới nên chưa có một trường lớp nào đào tạo cho nghề này do vậy người làm nghề vừa làm vừa dò dẫm những bước đi cho mình. Theo dự đoán thì sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), sẽ có nhiều công ty nhượng quyền xuất hiện, lúc đó thị trường về dịch vụ này sẽ mở rộng. Tư vấn nhượng quyền là một phần trong công việc của tư vấn thương mại, tài chính, bảo hiểm… Nó là một dòng chảy nhỏ của tư vấn thương mại. Công việc của một tư vấn nhượng quyền là giúp khách hàng, với số vốn nhất định họ có, làm sao để họ đầu từ vào thương hiệu của mình và có lãi. Rủi ro trong kinh doanh rất lớn, và khá nhiều người đã mắc những sai lầm lớn trong đầu tư kinh doanh. Do vậy, người tư vấn nhượng quyền là người giúp khách hàng đầu tư đồng tiền của mình một cách đúng đắn và hợp lệ. - Dịch vụ giám định hàng hoá: Đối với một đất nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam hiện nay, yêu cầu về giám định đối với hàng hoá phục vụ tiêu dùng trong nước ít được quan tâm đến nhưng đối với hàng hoá xuất khẩu thì ngược lại. Nhất là việc hàng hoá xuất khẩu sang các thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản. Chính vì vậy, để xuất khẩu hàng hoá trực tiếp vào các thị trường này thì công tác giám định hàng hoá phải được đặc biệt chú trọng. Trên thực tế hàng hoá xuất nhập khẩu có thể do một, một số bên hoặc các bên tham gia hợp đồng mua bán hàng hoá yêu cầu giám định. Yêu cầu giám định có thể được thoả thuận ghi trên hợp đồng mua bán hoặc có thể do một hoặc một số bên yêu cầu riêng để xác định lại thực tế hàng hoá xuất, nhập khẩu. Phí giám định do bên yêu cầu giám định trả hoặc do sự thoả thuận của các bên. Giám định thương mại chỉ liên quan đến bên mua và bên bán hàng hoá, không liên quan đến quản lý của cơ quan hải quan, mẫu hàng hoá gửi đi giám định có thể còn hoặc không còn trong sự quản lý của cơ quan hải quan. Theo mục đích thì ta có thể chia giám định hàng hoá ra làm 2 loại là: giám định phục vụ quản lý và giám định phục vụ khiếu nại. Đối với hoạt động giám định hàng hoá phục vụ quản lý thì điều kiện doanh nghiệp tham gia giám định phục vụ mục đích quản lý của cơ quan quản lý Nhà nước: - Đã hoạt động giám định thương mại ít nhất 18 tháng. - Có giám định viên đạt tiêu chuẩn quy định. - Có phương tiện kỹ thuật thử nghiệm được các chỉ tiêu quan trọng của hàng hoá đăng ký giám định. - Có quy trình nghiệp vụ, kỹ thuật giám định phù hợp với hàng hoá đăng ký giám định. - Được cấp một trong các chứng chỉ: công nhận Tổ chức giám định phù hợp tiêu chuẩn Việt nam: TCVN ISO/IEC 17020:2001 đối với lĩnh vực hàng hoá đăng ký kiểm tra; công nhận Phòng thử nghiệm phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam: TCVN ISO/IEC 17025:2001 đối với phạm vi thử nghiệm các chỉ tiêu cơ bản của hàng hoá đăng ký kiểm tra; chứng nhận hệ thống đảm bảo chất lượng đối với hoạt động giám định phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam TCVN ISO 9000. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giám định hàng hoá nếu muốn tham gia giám định hàng hoá phục vụ mục đích quản lý của cơ quan quản lý nhà nước cần cung cấp cho cơ quan quản lý nhà nước các tài liệu thể hiện đã đáp ứng được các điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định và phải chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của các tài liệu này. Khi cơ quan quản lý Nhà nước có yêu cầu giám định phục vụ mục đích quản lý đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thì có văn bản trưng dụng doanh nghiệp đủ điều kiện, tiêu chuẩn để giám định hàng hoá và phải trả phí giám định. Còn đối với hoạt động giám định phục vụ khiếu nại: hoạt động này được áp dụng trong trường hợp người khai hải quan không thống nhất với kết quả kiểm tra, phân tích, giám định của cơ quan hải quan về hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thì được lựa chọn một cơ quan, tổ chức giám định chuyên ngành khác giám định lại và phải trả phí giám định. Kết quả giám định lại là cơ sở để cơ quan hải quan làm thủ tục cho hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Do tầm quan trọng của mình dịch vụ giám định ngày càng có điều kiện phát triển mạnh mẽ, các công ty giám định thuộc mọi thành phần kinh tế ra đời như “nấm sau mưa”, song có một công ty có lịch sử ra đời gần nửa thế kỷ đó là công ty Vinacontrol. Công ty cổ phần giám định Vinacontrol (Vinacontrol) là Công ty Việt Nam đầu tiên trong lĩnh vực giám định hàng hoá được thành lập từ 26/ 10/ 1957. Hiện nay, Vinacontrol là tổ chức giám định lớn nhất, có uy tín hàng đầu ở Việt Nam chuyên cung cấp các dịch vụ giám định và các dịch vụ khác liên quan cho khách hàng trong và ngoài nước. Vinacontrol có đội ngũ cán bộ, giám định viên chuyên nghiệp gồm khoảng 600 người và có đầy đủ năng lực và phẩm chất để thực hiện giám định đạt chất lượng cao theo yêu cầu của khách hàng. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM Sau khi đã nghiên cứu vai trò và vị trí của dịch vụ thương mại ở nước hiện nay cũng như đã xem xét những thực trạng của lĩnh vực này, chúng ta đều thấy bên cạnh những thành tựu mà ngành đạt được trong thời gian qua vẫn tồn tại những mặt hạn chế. Và trong xu thế toàn cầu hoá như hiện nay, việc đẩy nhanh tốc độ và quy mô tăng trưởng của ngành là điều cần thiết. Vì nó không chỉ giúp tăng tỷ trọng đóng góp của ngành cho GDP mà còn có tác dụng to lớn đối với các ngành khác cũng như toàn xã hội. Do vậy việc nghiên cứu các giải pháp để phát triển ngành là một phần không thể thiếu đối với các cơ quan hoạch định chính sách của Nhà nước. Ở tầm vi mô, các doanh nghiệp cũng không ngừng nghiên cứu để tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả cho hoạt động dịch vụ ở doanh nghiệp mình. Do vậy, trong phạm vi đề án nghiên cứu của mình em cũng xin đưa ra một số các giải pháp để phát triển dịch vụ thương mại ở nước ta hiện nay. 1.Dịch vụ trong lĩnh vực lưu thông bổ sung (mang tính sản xuất) -Bán hàng và vận chuyển hàng theo yêu cầu của khách: Doanh thu từ hoạt động bán hàng là phần đóng góp chủ yếu cho doanh thu của doanh nghiệp thương mại mà đội ngũ bán hàng lại là bộ mặt của doanh nghiệp. Do vậy muốn tăng doanh thu thì có một cách hiệu quả nhất đó là doanh nghiệp thương mại phải tuyển chọn và đào tạo được một đội ngũ nhân viên bán hàng và giao hàng chuyên nghiệp, tận tình, tâm huyết với công việc. Hoạt động này rất quan trọng nhưng ở Việt Nam ta rất ít doanh nghiệp chú trọng đến. Do vậy, để nâng cao tính cạnh tranh cho các doanh nghiệp thì điều cần thiết là các doanh nghiệp phải dành một khoản kinh phí cố định để đào tạo và phát triển đội ngũ nhân viên bán hàng và giao hàng cho doanh nghiệp mình. Một từ “chuyên nghiệp” thì lột tả được hết những tố chất của đội ngũ này nhưng để làm được điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải cố gắng nhiều , làm sao để các nhân viên của mình không chỉ “bán mình” được cho khách hàng mà phải bán được “cả doanh nghiệp”cho khách hàng. Doanh nghiệp cũng cần phải xây dựng các phương pháp quản lý nhân viên hiệu quả để nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý cũng như hiệu quả làm việc cho nhân viên. Do đặc thù của ngành nên doanh nghiệp cần phải xây dựng chế độ thưởng phạt và khuyến khích nhất là về vật chất trong công việc để nâng cao chất lượng dịch vụ và tính cạnh tranh cho doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần phải liên kết với nhau để nâng cao hiệu quả trong hoạt động tăng tính cạnh tranh, như là sự liên kết giữa doanh nghiệp thương mại và doanh nghiệp vận tải, đây là sự kết hợp rất hiệu quả. Tất nhiên sự liên kết này không chỉ là hoạt động đơn thuần, để làm tốt thì các nhân viên vận chuyển cũng phải hiểu rõ về các đặc tính của sản phẩm để quá trình vận chuyển diễn ra an toàn. Nhân viên bán hàng và nhân viên vận chuyển cũng có thể thông quá trình tiếp xúc với khách hàng để nghiên cứu thị trường phục vụ cho sản xuất cũng như đánh giá hiệu quả hoạt động dịch vụ của doanh nghiệp mình. Nếu doanh nghiệp làm tốt hoạt động nghiên cứu thị trường thì doanh nghiệp đã thực hiện tốt chức năng của nhà thương mại đó là làm trung gian tìm hiểu nhu cầu giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Ngoài ra, doanh nghiệp sản xuất cũng phải có trách nhiệm hỗ trợ cho doanh nghiệp thương mại về phần kỹ thuật sản phẩm để phục vụ khách hàng được tốt. -Chuẩn bị hàng hoá trước khi bán và đưa vào sử dụng: Hoạt động này nếu được tổ chức tốt sẽ tạo ra tính chuyên môn hoá cao trong hoạt động bán hàng và rất thuận tiện cho cả quá trình sản xuất và tiêu dụng sản phẩm. Vì dịch vụ này có tác dụng hỗ trợ cho quá trình bán hàng được thuận tiện nên doanh nghiệp cần quan tâm đến dịch vụ này hơn nữa. Doanh nghiệp có thể tự chuẩn bị hàng hoá hoặc có thể đặt hàng trước với nhà sản xuất theo yêu cầu của mình để tăng tính chuyên môn hoá và tiết kiệm lao động. Hàng hoá do doanh nghiệp bán có thể xuất hiện dưới nhãn hiệu của nhà thương mại hoặc nhà sản xuất. -Dịch vụ kỹ thuật khách hàng: Hình thức dịch vụ này thường chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp chuyên doanh hàng hoá, do vậy nhân viên bán hàng thường cũng là người hướng dẫn, người tư vấn mua hàng cho khách hàng sao cho phù hợp nhất với nhu cầu của họ. Ngoài ra doanh nghiệp cũng cần tổ chức một dịch vụ sửa chữa bảo hành cho sản phẩm của mình như vậy sẽ thu hút khách hàng và nâng cao tính cạnh tranh cho đơn vị mình. Muốn vậy doanh nghiệp phải tổ chức được một đội ngũ nhân viên bán hàng và nhân viên kỹ thuật giỏi, am hiểu về sản phẩm cũng như nhu cầu thị hiếu của khách hàng tạo được niềm tin cho khách. Doanh nghiệp cần xây dựng chữ “tín” trong kinh doanh cho thật tốt, muốn vậy chất lượng sản phẩm và chất lượng dịch vụ phải tốt và doanh nghiệp sẵn sàng chịu trách nhiệm đến cùng với sản phẩm của mình. Mỗi doanh nghiệp cần xây dựng được một phương châm kinh doanh để lấy tiêu chí phục vụ khách hàng và cũng là tạo sự khác biệt so với đối thủ cạnh tranh. Ví dụ như phương châm kinh doanh của Trung tâm điện máy Carings là “trở thành chuyên gia điện máy của mọi nhà”. Theo ông Lê Hồng Xuân tổng giám đốc công ty TNHH thương mại và tiếp thị Bến Thành thì Carings luôn tạo cho khách hàng một phong cách mua sắm mới, vừa mua sắm vừa thưởng thức chứ không cần căng thẳng tính toán “toát mồ hôi”. Điều khác biệt thứ hai Carings đem lại là tất cả các mặt hàng đều do các nhà sản xuất có tên tuổi cung cấp, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và trung tâm luôn có hàng mới nhất, hàng “độc” với giá cả cạnh tranh. Điều này đánh trúng vào tâm lý khách hàng vì nhiều khi do không hiểu biết về kỹ thuật nên khách hàng thường mua phải hàng kém chất lượng, hàng giả hay bị thay thế phụ tùng. Điểm khác biệt lớn nhất của Carings so với các trung tâm siêu thị điện máy khác, theo ông Lê Hồng Xuân là phong cách phục vụ khách hàng, ông cho rằng: “khi bán được một sản phẩm mới chỉ là sự bắt đầu, chúng tôi phải chắc chắn rằng khách hàng hài lòng với sản phẩm đó, họ phải được hướng dẫn sử dụng sản phẩm một cách chu đáo nhất. Sau khi đồng ý mua sản phẩm, khách hàng sẽ được nhân viên của Carings giao tới tận nhà, tư vấn cách sử dụng và cung cấp tất cả chứng từ về sản phẩm”. Cũng theo ông Lê Hồng Xuân thì: “Chỉ bằng cách không ngừng làm hài lòng khách hàng thì mới có thể tồn tại phát triển được. Nếu không khách hàng chỉ mua hàng một lần rổi bỏ đến các trung tâm điện máy khác”. - Dịch vụ cho thuê máy móc thiết bị: Hiệu quả từ dịch vụ này là rất lớn nhưng chưa được nhiều người biết đến. Ví dụ như dịch vụ cho thuê tài chính, hiện nay chưa được nhiều doanh nghiệp biết đến vì thói quen cần vay tiền để đổi mới công nghệ phát triển sản xuất là đi vay tiền ngân hàng. Do vậy, ở Việt Nam dịch vụ này chưa có đóng góp đáng kể cho các doanh nghiệp trong việc huy động vốn và cải tiến công nghệ. Muốn phát triển dịch vụ này thì không chỉ là các doanh nghiệp mà Nhà nước cũng phải vào cuộc, bởi những văn bản hướng dẫn như Nghị Định 16/2001/NĐ-CP thì còn mỏng, chưa cụ thể, mới trong giai đoạn thử nghiệm nên chưa thực sự khuyến khích các tổ chức này phát triển và các doanh nghiệp Việt Nam còn rất dè dặt khi đề cập đến nguồn tín dụng mới mẻ này. -Dịch vụ giao nhận hàng hoá: Dịch vụ giao nhận hàng hoá hay dịch vụ logistics là một lĩnh vực kinh doanh có tỷ suất lợi nhuận cao (thường từ 25-30%) mà không cần vốn nhiều (chỉ cần khoảng trên dưới 100.000 USD). Do tính hấp dẫn như vậy nên hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh và cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực này, nếu không cẩn thận thì các doanh nghiệp Việt Nam rất dễ mất thị trường trên sân nhà. Vì nói tới logistics là nói tới một chuỗi các dịch vụ tiếp vận nên các doanh nghiệp cần tận dụng công nghệ tin học để tổ chức tốt và chặt chẽ các khâu này, từ đó góp phần giảm giá hàng hoá và nâng cao sức cạnh tranh cho cả doanh nghiệp thương mại và doanh nghiệp tiếp vận. 2. Dịch vụ trong lĩnh vực lưu thông thuần tuý (thương mại thuần tuý). -Chào hàng Doanh nghiệp có thể chào hàng dưới nhiều hình thức khác nhau, như chào hàng bằng thư, chào hàng qua điện thoại điện tử tin học và chào hàng trực tiếp. Nhưng dù chào hàng dưới hình thức nào thì đích đến cuối cùng cũng là cuộc gặp gỡ giữa nhân viên chào hàng và khách hàng tiềm năng, do vậy vai trò của nhân viên chào hàng là cực kỳ quan trọng. Là loại hình dịch vụ hỗ trợ cho quá trình bán hàng, dịch vụ này chỉ phát triển và thích hợp với một số loại hình kinh doanh và với những hàng hoá nhất định. Khi doanh nghiệp quyết định chào hàng thì phải nhắm đúng đối tượng khách hàng thì việc chào hàng mới có hiệu quả. Vai trò của đội ngũ nhân viên chào hàng có ý nghĩa quyết định do vậy việc tuyển chọn và đào tạo nhân viên phải được đặc biệt chú trọng. Doanh nghiệp cũng phải có chính sách hợp lý đối với nhân viên chào hàng như chế độ lương bổng, thưởng phạt và sự quản lý hợp lý của công ty đối với các mối quan hệ khách hàng của nhân viên, nhưng cần thiết là phải duy trì sự tận tâm và trung thực của nhân viên chào hàng với công ty và với khách hàng. Ở nước ta hiện nay, nhân viên chào hàng thường chỉ được đào tạo qua do nhân viên công ty đảm nhiệm trong một thời gian hoặc thuê người bên ngoài làm nên hiệu quả không cao. Do vậy điều cần thiết để phát triển dịch vụ này là doanh nghiệp phải đầu tư kinh phí cho hoạt động đào tạo và tổ chức đội ngũ chào hàng. Nhân viên chào hàng tốt có thể vừa là người cung cấp thông tin vừa là cách để thu thập thông tin phản hồỉ từ khách hàng một cách hiệu quả nhất. -Dịch vụ quảng cáo: Quảng cáo thì có nhiều hình thức mỗi hình thức lại có một ưu thế riêng, do vậy để đạt hiệu quả cao thì tuỳ từng lĩnh vực kinh doanh để doanh nghiệp lựa chọn hình thức quảng cáo nào hay kết hợp nhiều loại với nhau. Muốn quảng cáo đạt hiệu quả cao thì doanh nghiệp phải có tầm nhìn xa để xây dựng một chiến lược quảng cáo nhất quán, hiệu quả, lâu dài. Hiện nay, Nhà nước có chính sách hạn mức quảng cáo đối với các doanh nghiệp trong nước là chi phí cho quảng cáo không quá 10% chi phí hợp lý, đây là một quy định gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong việc xúc tiến hoạt động quảng cáo và xây dựng thương hiệu, nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm. Hiện nay, Bộ Tài Chính vừa có thông báo là sẽ sớm đề nghị dỡ bỏ trần mức hạn mức chi phí 10% đối với các hoạt động liên quan đến quảng cáo, khuyến mãi, tiếp khách, quà biếu của doanh nghiệp. Đây là một động thái rất đáng chú ý trong nỗ lực nhằm tạo nên một môi trường kinh doanh bình đẳng, chuẩn bị cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu vào khu vực và thế giới. Nguyên nhân khiến Chính phủ áp dụng hạn mức chi phí dành cho quảng cáo, khuyến mại, tiếp khách, quà biếu được hiểu như một biện pháp nhằm duy trì sự bảo hộ đối với các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là đối với một số doanh nghiệp Nhà nước vẫn giữ thế độc quyền. Đã đến lúc Nhà nước không thể tiếp tục duy trì bảo hộ như vậy, bởi trong bối cảnh hiện nay Việt Nam đang chịu sức ép của nhiều tổ chức quốc tế đối với việc cần hình thành một nền kinh tế tuân thủ những luật lệ quốc tế và không còn sự phân biệt giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Theo ông Đỗ Gia Bính, Chủ tịch Công ty quảng cáo Bạch Việt dự báo, một khi quy định về hạn mức quảng cáo được dỡ bỏ, tiềm năng phát triển của ngành quảng cáo sẽ trở nên sáng sủa hơn nhiều và doanh thu quảng cáo ở Việt Nam sẽ tăng lên mạnh mẽ. Quảng cáo ngày nay gần như một chiến dịch xây dựng thương hiệu cho sản phẩm và doanh nghiệp thông qua tiếp thị sản phẩm, song hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có thể đảm nhận một trong các khâu này. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này đó là do nội lực, tài chính và nhân lực có hạn. Để giải quyết tình trạng này, các doanh nghiệp cần liên kết với nhau để có thể thực hiện các khâu này đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Để giải quyết vấn đề về nguồn nhân lực thì hiện nay Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam dự định sẽ đồng ý cho gia nhập các văn phòng đại diện, công ty quảng cáo nước ngoài… để các doanh nghiệp có cơ hội học tập trình độ, sự chuyên nghiệp của họ. Hiệp hội cũng hướng các DN liên kết phát triển thông qua việc tổ chức thành lập các đơn vị chuyên ngành như quảng cáo ngoài trời, quảng cáo trên truyền thông... Một công tác quan trọng khác là Hiệp hội sẽ thành lập Viện nghiên cứu và Đào tạo quảng cáo Việt Nam để hỗ trợ công tác đào tạo nhân sự và nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cho người làm quảng cáo..., hướng tới thành lập trường đại học chuyên ngành về quảng cáo. Hiệp hội xác định đây là cơ sở để xây dựng ngành quảng cáo Việt Nam ngày càng lớn mạnh, đồng thời tránh để xảy ra tình trạng "xây nhà từ nóc" như nhiều ngành hiện nay. - Dịch vụ tư vấn, ghép mối: Khi doanh nghiệp phát triển đến một quy mô nhất định sẽ có nhiều vấn đề về quản lý, tổ chức, hoạt động nảy sinh mà doanh nghiệp không có khả năng tự giải quyết. Khi đó, việc sử dụng tư vấn là cần thiết và hiệu quả hơn nhiều so với doanh nghiệp tự làm. Thậm chí, ngay trong trường hợp doanh nghiệp có thể tự làm, họ sẽ bị công việc hàng ngày vì mục tiêu lợi nhuận ngắn hạn cuốn đi, khó có thể thực hiện những thay đổi lớn cần thiết. Hơn nữa, tư vấn độc lập từ bên ngoài sẽ có những cách tiếp cận và giải pháp khách quan, không bị ràng buộc bởỉ những mối quan hệ trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, các công ty tư vấn của nước ta chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu cảu thị trường trong giai đoạn hiện nay. Để có thể phát triển và đứng vững trên thị trường, các doanh nghiệp phải từng bước khẳng định chất lượng dịch vụ của mình, do vậy cần tập trung vào công tác xây dựng và đào tạo đội ngũ nhân viên tư vấn có trách nhiệm, có kiến thức chuyên môn cao và kinh nghiệm. Các doanh nghiệp trong nước nên liên kết, liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài trong việc tư vấn, ghép mối để học hỏi. Việc Chính phủ đẩy mạnh quá trình hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới cũng là một cách để cho các ngành dịch vụ, trong đó có dịch vụ tư vấn phát triển vững chắc hơn và tăng thêm tính cạnh tranh cho thị trường dịch vụ tư vấn. -Dịch vụ giám định hàng hóa: Hiện nay, nước ta đang tập trung, đẩy mạnh xuất khẩu ra nước ngoài. Với lợi thế của mình, Việt Nam có thế mạnh các mặt hàng gia công, chế biến, hàng tiêu dùng…Tuy nhiên việc xuất khẩu hàng hoá ra thị trường quốc tế đòi hỏi nhiều yêu cầu khắt khe, không những từ khách hàng mà còn từ các cơ quan hải quan. Do vậy, dịch vụ giám định hàng hoá có nhiều cơ hội phát triển. Muốn làm được như vậy thì chúng ta phải xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, công tác giám định phải được tổ chức khoa học, nghiêm túc với công nghệ hiện đại. Tóm lại, để phát triển mạnh mẽ các loại hình dịch vụ ở nước ta trong thời gian tới cần một sự quan tâm đầu tư của Nhà nước cũng như sự năng động của các chủ thể kinh doanh. Quá trình hội nhập diễn ra càng sâu và nhanh thì cơ hội và thách thức càng nhiều, điều này đỏi hỏi các doanh nghiệp trong nước phải nhanh chóng học hỏi, tìm kiếm cơ hội phát triển để thích ứng với quá trình này. Nhà nước cần sớm mở cửa thị trường dịch vụ nhằm phát triển nhanh các loại hình dịch vụ cả về số lượng và chất lượng cũng như nâng cao tính cạnh tranh giữa các chủ thể. Ngoài ra, cần sớm thay đổi quan điểm nhận thức của từng doanh nghiệp, không nên coi dịch vụ chỉ đơn giản là hoạt động hỗ trợ bổ sung cho quá trình kinh doanh mà phải coi nó là công cụ để thực hiện cạnh tranh. Để dịch vụ thương mại có sức cạnh tranh không chỉ trong thị trường trong nước mà cả trên thị trường quốc tế thì đòi hỏi về thay đổi, đổi mới công nghệ cho nó, do vậy một trong những giải pháp để phát triển dịch vụ thương mại là tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho kinh doanh dịch vụ. Ngoài ra, Chính phủ cần xây dựng một hệ thống luật pháp, các quy định pháp quy đồng bộ, hiện đại và đảm bảo phát huy tính cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế và có sức mạnh răn đe để khu vực dịch vụ phát triển bền vững, lành mạnh tránh các hoạt động như gian lận thương mại, hay quảng cáo sai sự thât… vẫn đang xảy ra. Tuy nhiên, giải pháp quan trọng nhất vẫn là phát triển con người, đây là hoạt động cần thiết nhất cho sự phát triển khu vực dịch vụ cũng như dịch vụ thương mại. Cần phải nâng cao tính chuyên nghiệp cho đội ngũ nhân viên dịch vụ, có kỹ năng, kinh nghiệm và chuyên môn cao. KẾT LUẬN Thương mại là huyết mạch của mọi nền kinh tế dù là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung hay nền kinh tế thị trường. Phát triển thương mại không những tạo điều kiện tốt cho các ngành khác trong nền kinh tế cùng phát triển mà còn có tác dụng nâng cao, cải thiện đời sống nhân dân. Trong cơ chế mới, thương mại phát triển nhanh chóng, do vậy ngành dịch vụ thương mại cũng có cơ hội phát triển với sự đa dạng về hình thức, tăng trưởng về quy mô và đạt hiệu quả cao trong hoạt động. Tuy nhiên, do những hạn chế về vốn, kinh nghiệm quản lý và cơ chế chính sách chưa thật hoàn thiện lên dịch vụ thương mại chưa phát huy hết tiềm năng vốn có của ngành. Do vậy, vấn đề đặt ra trong thời gian tới là phát triển ngành dịch vụ thương mại một cách có hệ thống và hợp lý. Nhất là trong tình hình hiện nay khi mà Việt Nam sắp gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế trong nước với các thành phần kinh tế nước ngoài lại càng trở nên gay gắt. Trong cuộc chiến không cân sức này các doanh nghiệp trong nước cần có sự đầu tư và chuẩn bị các đối sách hợp lý nếu không sẽ không thể tồn tại được. Chính vì lẽ đó, việc chọn lựa và nghiên cứu đề tài này đối với bản thân em rất bổ ích và cần thiết. Đề tài đã cung cấp một cái nhìn toàn cảnh về dịch vụ thương mại, cũng như tiềm năng và khả năng phát triển của ngành trong thời gian tới. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Giáo trình Kinh tế thương mại (Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân) 2.Giáo trình Marketing căn bản (Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân) 3.600 kỹ năng bán hàng để thành công (Tác giả Cy Charney) 4.Kỷ yếu hội thảo kế hoạch quốc gia 2005 Thương mại Việt Nam 20 năm đổi mới. 5.Tạp chí Thương mại 6.Thời báo kinh tế Việt Nam 7.Các báo điện tử Vietnamnet, Vnexpress… MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ 3 I.Dịch vụ và vai trò của dịch vụ trong kinh doanh thương mại 3 1.Khái quát về dịch vụ và sản phẩm dịch vụ 3 2.Vai trò của dịch vụ thương mại 8 II.Các loại hình dịch vụ thương mại và các nhân tố ảnh hưởng đến dịch vụ thương mại . 10 CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 19 I. Sự phát triển thương mại Việt Nam trong thời gian qua 19 II. Sự ra đời và phát triển của các hình thức dịch vụ ở Việt Nam 31 III. Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam 41 CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THỨC DỊCH VỤ THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM. 61 KẾT LUẬN 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 72

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35844.doc
Tài liệu liên quan