Với thời gian không dài và vốn kiến thức còn ít ỏi, cũng như khả năng phân tích còn hạn chế, chuyên đề này chắc chắn chưa thể bao quát hết những nội dung của hoạt động bảo lãnh. Hơn nữa đây cũng là vấn đề khá mới mẻ, số liệu thực tế lại ít phổ biến, do vậy chuyên đề cũng khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong có được sự góp ý và đánh giá của các thầy cô giáo để chuyên đề này được hoàn thiện hơn.
88 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1216 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g phối hợp với phòng nghiệp vụ để đối chiếu, kiểm tra về số tiền phí bảo lãnh và ghi giảm dư nợ bảo lãnh trong hệ thống kế toán của ngân hàng.
+ Giải chấp tài sản bảo đảm.
* Thanh lý hợp đồng bảo lãnh/hợp đồng bảo đảm nghĩa vụ được bảo lãnh
Để thanh lý hợp đồng bảo lãnh hoặc hợp đồng bảo đảm nghĩa vụ được bảo lãnh, cán bộ tín dụng soạn thảo biên bản thanh lý hợp đồng, trình Trưởng phòng tín dụng (hoặc người được uỷ quyền) kiểm tra lại và trình Giám đốc ngân hàng cho vay.
2.2.4. Kết quả hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm trong những năm gần đây
2.2.4.1.Doanh số bảo lãnh
Trong những năm đổi mới vừa qua, cùng với việc mở rộng kinh doanh của mình, Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã chú trọng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh. Dư nợ bảo lãnh tăng lên về số lượng qua các năm nhưng lại giảm xuống về số tương đối, được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.4: Dư nợ bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số tiền
+/- (%)
Số tiền
+/- (%)
Số tiền
+/- (%)
Dư nợ bảo lãnh đầu kỳ
27
36
47
Doanh số phát sinh
28
34
46
Doanh số giải toả
19
23
39
Dư nợ bảo lãnh cuối kỳ
36
33.3
47
27.8
54
14.9
( Nguồn: Báo cáo bảo lãnh Ngân hàng CTHK qua các năm)
Đầu năm 2004, dư nợ bảo lãnh là 27 tỷ đồng, nhưng đến cuối năm giá trị đó là 36 tỷ đồng, lí do có sự tăng lên về dư nợ như vậy là vì doanh số bảo lãnh phát sinh trong năm tăng lên 28 tỷ, trong khi doanh số giải toả chỉ có 19 tỷ. Giai đoạn này có sự tăng nhanh trong dư nợ bảo lãnh là vì sự tăng mạnh về nhu cầu đầu tư, các doanh nghiệp ký kết nhiều hợp đồng, tham gia đấu thầu nhiều dự án. Vì vậy nhu cầu bảo lãnh tăng cao. Sang năm 2005 doanh số bảo lãnh cũng như dư nợ bảo lãnh đều tăng lên về số tuyệt đối, nhưng tốc độ tăng dư nợ đã giảm xuống, nếu tốc độ tăng dư nợ của năm 2004 (so với năm trước) là 33.3% thì đến năm 2005 giảm xuống chỉ còn 27.8 % và 14.9 % vào năm 2006.
Sở dĩ Chi nhánh luôn duy trì được mức doanh số bảo lãnh tăng qua các năm trước hết là do :
- Nhu cầu bảo lãnh của nền kinh tế ngày càng gia tăng cùng với sự gia tăng của các hoạt động đầu tư, đặc biệt là sự phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu.
- Chi nhánh ngày càng nhận thức được vai trò của bảo lãnh trong hoạt động ngân hàng: vừa tăng doanh thu, vừa phân tán rủi ro thông qua chính sách đa dạng hoá vừa giảm sự phụ thuộc vào hoạt động cho vay.
- Đối tượng khách hàng không ngừng được mở rộng, bên cạnh các DNNN có quan hệ truyền thống với ngân hàng, hoạt động bảo lãnh của chi nhánh đã hướng đến các DNNQD, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Tuy nhiên, tốc độ tăng dư nợ bảo lãnh của ngân hàng lại giảm xuống do sự gia tăng về doanh số giải toả). Giải thích cho sự giảm xuống trong tốc độ tăng dư nợ bảo lãnh qua các năm có thể đưa ra một số lý do sau:
Tình hình kinh tế thế giới có nhiều bất ổn, lũng đoạn của các tập đoàn kinh tế lớn, sự biến động của các đồng tiền chủ chốt. Bên cạnh đó, tình hình trong nước có nhiều khó khăn, dịch cúm gia cầm tái phát trên phạm vi rộng, sức ép tăng giá ở nhiều loại vật tư hàng hoá, khiến cho một số ngành sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, không đáp ứng được các điều kiện bảo lãnh.
Ngân hàng hiện nay cũng thận trọng hơn trong việc đánh giá và lựa chọn doanh nghiệp đề nghị xin bảo lãnh, hơn nữa bảo lãnh của ngân hàng vẫn tập trung vào các doanh nghiệp lớn là chính.
Tuy nhiên, trong những năm qua, Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm không phải thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng, nghĩa là không phải trả thay khách hàng cho một khoản bảo lãnh nào. Vì ngân hàng luôn luôn lựa chọn những doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, dự án đầu tư hiệu quả, đáp ứng đầy đủ điều kiện đảm bảo và có uy tín tốt trên thị trường.
2.2.4.2. Cơ cấu bảo lãnh theo các tiêu chí
Xét bảo lãnh theo thành phần kinh tế
Bảng 2.5: Dư nợ bảo lãnh phân theo thành phần kinh tế
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số tiền
tỷ trọng(%)
Số tiền
tỷ trọng (%)
Số tiền
tỷ trọng(%)
Tổng dư nợ bảo lãnh
36
100
46
100
54
100
Dư nợ bảo lãnh đối với DNNN
28.8
80
32.4
70.4
32.3
59.8
Dư nợ bảo lãnh đối với DNNQD
7.2
20
13.6
29.6
21.7
40.2
(nguồn: báo cáo bảo lãnh NHCT HK qua các năm)
Qua bảng cho thấy bảo lãnh đối với DNNN vẫn còn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng dư nợ bảo lãnh, năm 2004, dư nợ bảo lãnh của DNNN là 28.8 tỷ đồng, chiếm 80%. Đến năm 2005 dư nợ bảo lãnh là 32.4 tỷ đồng và đến năm 2006 là năm thống kê gần nhất, bảo lãnh đối với DNNN có giảm xuống song vẫn ở mức cao, với dư nợ là 32.3 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 59.8 % trong tổng số bảo lãnh cho các thành phần kinh tế. Trong khi đó, bảo lãnh đối với DNNQD lại có xu hướng tăng thêm, năm 2004 dư nợ bảo lãnh là 7.2 tỷ đồng, đến năm 2005 dư nợ bảo lãnh đối với DNNQD tăng 6.5 tỷ đồng, và đến năm 2006 là 21.6 tỷ đồng tăng 7.9 tỷ đồng. Tỷ trọng bảo lãnh đối với DNNQD tăng từ 20 % năm 2004 lên 29.6 % năm 2005 và 40.2% trong năm 2006. Sở dĩ có sự thay đổi nhanh chóng đó là vì chủ trương của NHCT Việt Nam và Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm là giảm tỷ trọng tín dụng DNNN xuống, đồng thời tăng tỷ trọng đối với DNNQD, tăng cường và mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ cho sản xuất kinh doanh. Dư nợ bảo lãnh xét theo thành phần kinh tế sẽ còn thay đổi nhiều ở các năm tiếp theo theo xu hướng tăng tỷ trọng dư nợ đối với các DNNQD cùng với tiến trình cổ phần hoá các DNNN hiện nay.
Xét bảo lãnh phân theo kỳ hạn
Hiện nay, tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm có sự chênh lệch khá rõ giữa bảo lãnh ngắn hạn và bảo lãnh trung và dài hạn.
Bảng 2.6: Dư nợ bảo lãnh phân theo kỳ hạn
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số tiền
tỷ trọng(%)
Số tiền
tỷ trọng (%)
Số tiền
tỷ trọng(%)
Tổng dư nợ bảo lãnh
36
100
46
100
54
100
Dư nợ bảo lãnh ngắn hạn
33.12
92
41.58
90.4
47.52
88
Dư nợ bảo lãnh trung và dài hạn
2.88
8
4.42
9.6
6.48
12
(Nguồn: báo cáo bảo lãnh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm các năm )
Biểu đồ 2.1: Dư nợ bảo lãnh phân theo kỳ hạn
Qua biểu đồ ta thấy, bảo lãnh chủ yếu tập trung vào bảo lãnh ngắn hạn. Năm 2004 bảo lãnh ngắn hạn là 33.12 tỷ đồng (chiếm 92 %), năm 2005 chiếm 90.4% (tương đương 41.58 tỷ đồng), năm 2006 tỷ trọng bảo lãnh giảm xuống còn 88% Nhưng, bảo lãnh trung và dài hạn đã có bước chuyển biến đáng kể, tỷ trọng tăng lần lượt từ năm 2004 đến năm 2006 là 8%, 9.6% và 12%. Điều đó cho thấy ngân hàng đã bắt đầu quan tâm tới nhu cầu vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp và đáp ứng được phần nào các nhu cầu tiềm năng đó. Có sự chênh lệch trên là vì bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ tuy đã được áp dụng ở ngân hàng từ hơn 10 năm nay nhưng vẫn còn mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam, nghiệp vụ bảo lãnh hàm chứa khá nhiều rủi ro, do đó Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm nói riêng và các NHTM nói chung vẫn còn dè dặt trong việc bảo lãnh cho những loại bảo lãnh dài hạn.
Xét theo loại hình bảo lãnh
Bảng 2.6: Dư nợ bảo lãnh phân theo loại hình bảo lãnh
Đơn vi: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Bảo lãnh dự thầu
12.6
35
17.3
37.5
20.5
38
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
9.7
27
12.8
28
15.2
28.2
Bảo lãnh bảo hành
2.7
7.4
3.5
7.5
4.3
8
Bảo lãnh mở L/C
5.8
16
7.6
16.5
9.5
17.5
Bảo lãnh khác
5.3
14.6
4.8
10.5
4.5
8.3
Tổng giá trị bảo lãnh
36
100
46
100
54
100
Biểu đồ trên cho thấy hình thức bảo lãnh tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm cũng chỉ tập trung chủ yếu vào bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Hai loại bảo lãnh này chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng dư nợ, tiếp đến là bảo lãnh mở L/C, bảo lãnh bảo hành rất ít và còn lại là một số bảo lãnh khác như bảo lãnh hoàn tiền ứng trước, bảo lãnh thanh toán…
Loại bảo lãnh dự thầu chủ yếu vẫn đang tập trung cho các phiên đấu thầu của các dự án lớn, trọng điểm của nhà nước, hơn nữa một quyết định mới của Chính Phủ yêu cầu những người tham gia đấu thầu đều phải có một bảo lãnh dự thầu đã đẩy nhu cầu bảo lãnh dự thầu tăng nhanh chóng, bên cạnh đó Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã có mối quan hệ lâu dài với các doanh nghiệp lớn thường tham gia nhiều phiên đấu thầu quan trọng trong nước. Tỷ trọng bảo lãnh dự thầu trong tổng dư bảo lãnh cũng tăng lên trong ba năm qua (lần lượt là 35% năm 2004; 37.5% năm 2005, và 38% năm 2006.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng cũng có nhu cầu rất lớn đặc biệt là đối với những năm gần đây toàn cầu hoá cũng như hội nhập kinh tế tăng cao, các doanh nghiệp có cơ hội tìm kiếm được nhiều hợp đồng thương mại trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. Trong năm qua, kim ngạch xuất khẩu cho thấy Việt Nam đã là nước xuất nhiều hơn nhập. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng cũng tăng dần về tỷ trọng, trong năm 2004 tỷ trọng bảo lãnh thực hiện hợp đồng là 27%, năm 2005 là 28% và năm 2006 là 28.2%. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng cũng như bảo lãnh dự thầu có sự tăng lên về số tuyệt đối nhưng tốc độ tăng vẫn còn chậm.
Bảo lãnh bảo hành chiếm một tỷ trọng rất nhỏ, nhưng số tiền bảo lãnh bảo hành lại tăng lên trong ba năm qua, mặc dù mức tăng không nhiều. Năm 2004, số tiền bảo lãnh bảo hành là 2.6 tỷ đồng đồng, chiếm 7.4% trong tổng dư nợ bảo lãnh. Lần lượt trong 2005 và năm 2006 là 3.45 tỷ đồng, chiếm 7.5% và 4.32 tỷ đồng, chiếm 8%.
Còn lại là các bảo lãnh khác như bảo lãnh hoàn tiền ứng trước, đồng bảo lãnh, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh chào hàng cạnh tranh…
Xét theo phạm vi bảo lãnh:
Bảng 2.7: Dư nợ bảo lãnh phân phạm vi bảo lãnh
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số tiền
tỷ trọng
(%)
Số tiền
tỷ trọng (%)
Số tiền
tỷ trọng
(%)
Tổng dư nợ
36
100
46
100
54
100
Dư nợ bảo lãnh trong nước
33.5
92.4
42.5
92.4
48.6
90
Dư nợ bảo lãnh nước ngoài
2.5
7.6
3.5
7.6
5.4
10
Nguồn: báo cáo bảo lãnh Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm các năm
Dư nợ bảo lãnh theo phạm vi cũng khá giống với bảo lãnh theo kỳ hạn có sự chênh lệch lớn giữa bảo lãnh trong nước và bảo lãnh nước ngoài. Nhu cầu về bảo lãnh trong nước lớn hơn, chủ yếu tập trung vào các dự án nhỏ. Ngân hàng chủ yếu tham gia bảo lãnh đối với các bảo lãnh dự án trong nước chủ yếu do các doanh nghiệp Việt Nam tham gia đấu thầu, bên cạnh đó ngân hàng ít thực hiện bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thanh toán chiếm một phần rất nhỏ chỉ từ 1 – 2% trong tổng dư nợ bảo lãnh.
Hiện nay, bảo lãnh theo tín chấp vẫn chiếm đa số trong các hình thức bảo lãnh phân theo bảo đảm. Do đặc điểm rất nổi bật của Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm là chủ yếu thực hiện bao lãnh cho các DNNN có sự bảo lãnh của chính phủ hoặc chính quyền địa phương, đấy cũng là một thực tế đối với các khoản tín dụng cung cấp cho các công ty xây dựng và giao thông của nhà nước dưới sự bảo lãnh của chính phủ, thu hồi chậm và khó khăn.
2.2.4.3.Phí bảo lãnh tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm
Bảng 2.8: Biểu phí dịch vụ bảo lãnh trong nước tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm
Loại phí
Mức tính phí
Tối thiểu
1. Phát hành bảo lãnh
300.000đ/lần
- Phần giá trị bảo lãnh không có ký quỹ
2%/năm
- Phần giá trị bảo lãnh có ký quỹ
1%/năm
2.Sửa đổi tăng tiền, gia hạn
100.000đ/lần
- Phần giá trị bảo lãnh không có ký quỹ
2%/năm
- Phần giá trị bảo lãnh có ký quỹ
1%/năm
3.Sửa đổi khác
50.000đ/lần
4.Huỷ bỏ bảo lãnh
200.000đ/lần
(Nguồn: Biểu phí Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm )
Theo quy định của hệ thống NHCT Việt Nam, mức phí áp dụng cho bảo lãnh trong nước tối đa không vượt quá 2%/ năm và mức tối thiểu là 300.000. Trên đầy là mức phí chung cho cả hệ thống cũng như tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm. Ngoài ra đối với các bảo lãnh ngoại tệ cũng có một khung phí riêng. trong đó có quy định thêm về mức phí thanh toán ngoại tệ(0.2%); Bảo lãnh đổi hàng 2%/năm); Bảo lãnh nhận hàng chưa có vận đơn(50 USD); Thông báo thư bảo lãnh của nước ngoài(30%); Thông báo sửa đổi thư bảo lãnh của nước ngoài(10USD).
Nhìn chung, mức phí tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm còn khá cao, so với xu thế hiện này các ngân hàng thương mại đang từng bước giảm phí bảo lãnh để thu hút khách hàng.
2.2.4.4. Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh
Bảng 2.9: Doanh thu hoạt động kinh doanh, dịch vụ và bảo lãnh
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
1.Tổng thu từ dịch vụ
2.5
100
2.6
100
3.1
100
2.Thu từ hoạt động DV
2.42
96.8
1.62
96.2
1.86
96
3.Thu từ hoạt động BL
0.08
3.2
0.98
3.8
1.24
4.0
(Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm)
Qua bảng trên cho thấy, doanh thu dịch vụ bảo lãnh còn chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn trong tổng thu dịch vụ. Điều này là dễ hiểu bởi vì các dịch vụ chủ yếu của ngân hàng như dịch vụ thẻ, dịch vụ thanh toán là các dịch vụ truyền thống mang lại thu nhập dịch vụ chủ yếu, trong khi đó bảo lãnh mới chỉ được ngân hàng cũng như khách hàng quan tâm và sử dụng mấy năm gần đây.
Qua ba năm từ 2004 đến 2006 thu từ dịch vụ cũng có tăng lên về cả tỷ trọng cũng như so với các năm trước, đây là kết quả đáng khích lệ, đạt được nhờ sự nỗ lực không ngừng của cán bộ ngân hàng.
2.2.5. Đánh giá tình hình thực hiện bảo lãnh
2.2.5.1. Những thành tựu đạt được
Bảo lãnh là một nghiệp vụ tương đối mới ở Việt Nam và chứa đựng nhiều rủi ro, vì vậy hiện nay bảo lãnh chỉ được thực hiện chủ yếu tại các ngân hàng lớn. Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm ngay từ khi mới ra đời đã mạnh dạn triển khai nghiệp vụ bảo lãnh, và trong 3 năm qua về cơ bản đã có những phát triển đáng kể.
Thứ nhất, nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã ngày một phát triển dần.
Cùng với việc đa dạng hoá các loại hình kinh doanh, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã chú trọng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh. Để tạo hành lang pháp lý cho các ngân hàng thực hiện, đồng thời tạo điều kiện để các ngân hàng đa dạng hoá nghiệp vụ bảo lãnh, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo các ngân hàng thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Đến nay, có thể nói nghiệp vụ bảo lãnh tại chi nhánh đã phát triển hơn nhiều so với những năm trước và đã được ngân hàng chú trọng phát triển như một nghiệp vụ kinh doanh chính.
Nghiệp vụ bảo lãnh tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm trong những năm gần đây đã được phát triển, doanh số bảo lãnh tăng đều qua các năm, chất lượng bảo lãnh ngày càng được nâng cao. Ngoài ra, chi nhánh cũng đã thu hút được nhiều khách hàng doanh nghiệp trên địa bàn sử dụng nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng. Hiện tại, các doanh nghiệp có quan bảo lãnh với chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm gồm có cả DNNN và DNNQD. Có thể liệt kê một số doanh nghiệp có quan hệ thường xuyên với ngân hàng như sau:
Về doanh nghiệp nhà nước:
+ Tổng công ty đường sông miền Bắc
+ Công ty vật liệu nổ công nghiệp (thuộc tập đoàn than và khoáng sản Việt Nam)
+ Công ty chế tạo biến thế và vật liệu công nghiệp
+ Công ty dệt kim Hà Nội…
Về doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
+ Công ty thi công cơ giới
+ Công ty TNHH Điện Dương
+ Công ty Viettronic Đống Đa
+ Công ty TNHH Việt Hồng
+ Công ty TNHH tiếp nhận và đầu tư xây dựng địa ốc
+ Công ty cổ phần BIB…
Mặc dù trong những năm qua dư nợ bảo lãnh giảm xuống, nhưng trong ba năm qua ngân hàng không phải thực hiện việc trả thay khách hàng, thực hiện nghĩa vụ tài chính thay khách hàng. Do vậy không để lại những khoản tín dụng bắt buộc và không gây ảnh hưởng xấu đến bảng cân đối kế toán.
Thứ hai, với sự phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh, trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm cũng đã được nâng dần lên.
Nghiệp vụ bảo lãnh hiện đại nói chung là nghiệp vụ tổng hợp và tương đối mới mẻ đối với hoạt động ngân hàng. Đến nay, nhìn chung, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã coi trọng phát triển nghiệp vụ này cùng với việc quan tâm, chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ nghiệp vụ, nâng cao năng lực và phẩm chất đạo đức của họ. Vì vậy, trình độ của cán bộ làm công tác bảo lãnh ngày càng tăng để đáp ứng yêu cầu công việc.
Thứ ba,Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã góp phần đáp ứng nhu cầu vốn của của các doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp thêm một hình thức tài trợ vốn hiệu quả lại còn có chức năng đền bù và đôn đốc thực hiện hợp đồng. Đây chính là tính ưu việt của bảo lãnh ngân hàng so với các hình thức đảm bảo khác.
Ngân hàng đạt được những thành tựu đó là nhờ sự nỗ lực hết mình của toàn thể cán bộ viên chức của ngân hàng, nhờ sự lãnh đạo tài tình của ban lãnh đạo, đã giám sát và theo dõi thường xuyên hoạt động của ngân hàng, đưa ra được những quyết định kịp thời.
Các kết quả đạt được sẽ là những động lực thúc đẩy chi nhánh không ngừng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh. Tuy nhiên, bên cạnh đó hoạt động bảo lãnh của chi nhánh vẫn còn nhiều tồn tại cần khắc phục.
2.2.5.2. Hạn chế
Thứ nhất, các loại hình bảo lãnh còn đơn điệu.
Một hạn chế không chỉ có ở Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm mà là thực trạng chung hiện này của các ngân hàng thương mại là cơ cấu bảo lãnh còn khá đơn điệu và thiếu cân đối. Bảo lãnh chủ yếu vẫn là bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng, cả hai loại bảo lãnh này chiếm tỷ trọng hơn 60% trong tổng dư nợ bảo lãnh. Thực tế ngân hàng đã triển khai nhiều loại bảo lãnh như bảo lãnh chào hàng cạnh tranh, bảo lãnh tạm ứng… nhưng các loại bảo lãnh này còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Ngân hàng cũng đã thực hiện nghiệp vụ đồng bảo lãnh, nhưng mới chỉ được rất ít món.
Thứ hai, sự mất cân đối trong nghiệp vụ bảo lãnh.
Bảo lãnh ngân hàng chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp, tổng công ty nhà nước…là những công ty lớn có uy tín cao, thường được bảo lãnh dưới dạng bảo lãnh tín chấp, hoặc tài sản đảm bảo thuộc sở hữu của nhà nước. Trong khi đó bảo lãnh cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh có xu hướng ngày càng tăng nhưng còn chiếm tỷ trọng không đáng kể. Đối tượng khách hàng không đa dạng, ngân hàng thực hiện bảo lãnh chủ yếu cho các ngành xây dựng, giao thông và các ngành công nghiệp, đây là lĩnh vực hàm chứa nhiều rủi ro và hiện nay có nhiều vấn đề bức xúc nổi bật. Các khoản bảo lãnh chủ yếu vẫn là bảo lãnh trong nước, tuy có giảm về tỷ trọng nhưng mức giảm không đáng kể, do vậy tỷ trọng của bảo lãnh trong nước vẫn còn ở mức cao.
Thứ ba, Mức phí bảo lãnh còn khá cao, doanh thu từ hoạt động bảo lãnh còn thấp.
Một thực tế nữa là mức phí của ngân hàng còn khá cao không chỉ so với trong hệ thống ngân hàng quốc doanh mà còn với các ngân hàng thương mại khác. Bên cạnh đó ngân hàng cũng mới chỉ đưa ra mức phí chung cho hoạt động bảo lãnh mà chưa có những quy định cụ thể về từng loại bảo lãnh.
Doanh thu từ bảo lãnh nói riêng cũng như doanh thu từ hoạt động dịch vụ nói chung còn chiếm một tỷ trọng nhỏ trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Hạn chế này là hạn chế chung của các ngân hàng thương mại.
Thứ tư, Dư nợ nghiệp vụ bảo lãnh tuy có tăng nhưng tốc độ còn chậm.
Điều này nói lên rằng sự phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại chi nhánh vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của chi nhánh. Hạn chế này đòi hỏi ngân hàng trong thời gian tới cần phải chú trọng hơn nữa tới nghiệp vụ bảo lãnh.
2.2.5.3. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế
Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm là một trong những chi nhánh lâu đời của Hệ thống NHCT Việt Nam, do vậy các mục tiêu của Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đều phải dựa trên các mục tiêu chung của hội sở chính đưa xuống cho Chi nhánh. Thế nên, nhiều lúc gây ra tính cứng nhắc, không linh hoạt cũng như làm hạn chế tính chủ động và làm giảm tính kích thích hoạt động tại chi nhánh.
Hiện nay hoạt động bảo lãnh do cán bộ tín dụng đảm nhiệm, các cán bộ này được phân công quản lý một hoặc một số khách hàng và thực hiện tất cả các giao dịch liên quan đến tín dụng, bảo lãnh. Ưu điểm của sự phân công này là giúp đỡ cán bộ tín dụng tiến hành thống nhất, nhanh chóng do am hiểu khách hàng mà họ quản lý. Tuy nhiên, họ lại không được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ bảo lãnh, trình độ ngoại ngữ và vi tính còn ít. Do vậy, cán bộ tín dụng rất bị động và lúng túng khi có đề nghị bảo lãnh ở các lĩnh vực khác nhau cũng như các khi có các dự án phức tạp.
Như đã khẳng định, công tác thẩm định bảo lãnh là một khâu quan trọng, nhưng việc thẩm định thực tế lại được thực hiện chủ yếu dựa vào các thông tin mà khách hàng cung cấp, việc chủ động tìm kiếm thông tin khách hàng của cán bộ tín dụng không cao. Hoạt động bảo lãnh luôn ở tình trạng thiếu thông tin, việc mua thông tin, tổ chức theo dõi phân tích và dự báo theo mặt hàng, ngành hàng và lĩnh vực kinh tế hầu như chưa phát triển. Quá trình kiểm tra, giám sát sau khi cấp bảo lãnh vẫn gặp nhiều khó khăn, mặc dù đã có quy trình bảo lãnh, nhưng với những công trình dự án được thực hiện ở địa điểm rất xa khiến cho công tác định kỳ đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như tính hiệu quả của dự án gặp nhiều trở ngại và khó thực hiện, chủ yếu vẫn phải dựa vào uy tín và mối quan hệ lâu năm đối với khách hàng.
Phí bảo lãnh cao cũng như chưa đưa ra mức phí thích hợp cho từng đối tượng khách hàng, do quá thận trọng trong việc lựa chọn khách hàng, mà ngân hàng ít tìm kiếm và tiếp cận đối với khách hàng mới. Cũng như vậy, các cán bộ tín dụng được phân công quản lý những khách hàng của mình cũng chưa chủ động mở rộng đối tượng khách hàng khác.
Nguyên nhân từ phía khách hàng
Do việc thẩm định hiện nay của các ngân hàng chủ yếu vẫn dựa vào nguồn thông tin mà khách hàng cung cấp, trong khi những thông tin tài chính, báo cáo tài chính đều do tự khách hàng lập. Nên năng lực, trình độ kế toán, kiểm toán và việc thuyết trình tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng như các số liệu về dự án và các tiêu chuẩn khác thiếu chính xác, gây nhiều khó khăn cho các cán bộ tín dụng trong khi tính toán các chỉ tiêu thẩm định, và thu thập, phân tích thông tin.
Mặt khác cũng chưa tính đến những rủi ro đạo đức từ trước khi quyết định bảo lãnh cũng như sau khi đã cam kết bảo lãnh cho khách hàng. Trước khi đề nghị bảo lãnh, các khách hàng nộp hồ sơ đề nghị bảo lãnh có hiện tượng tô hồng tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp, đồng thời có những thủ thuật lập dự án, phương án đề nghị bảo lãnh không lành mạnh, thiếu tính trung thực như tạo ra lãi giả, mượn cơ sở sản xuất, nâng chi phí, dùng một tài sản đảm bảo để bảo đảm bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh ở nhiều nơi. Gây những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn tài sản trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng chưa được tháo gỡ. Bên cạnh đó, sau khi được bảo lãnh, các doanh nghiệp có thể sử dụng không hiệu quả hoặc không đúng mục đích cũng là một vấn đề nan giải và khó giải quyết.
Đối tượng bảo lãnh chủ yếu của ngân hàng vẫn là các DNNN, do vậy hình thức bảo đảm chủ yếu là tín chấp, hoặc các tài sản đảm bảo thuộc sở hữu nhà nước, nên vấn đề giải toả bảo lãnh cũng như phát mại tài sản khi rủi ro cũng có nhiều khó khăn, và rất phức tạp.
Nguyên nhân từ môi trường vĩ mô
Môi trường kinh tế trong ba năm qua có nhiều biến động phức tạp không chỉ trong nước mà còn trên thị trường quốc tế, Sự biến động của các đồng tiền mạnh, tình hình trong nước cũng gặp nhiều khó khăn; nạn dịch cúm gia cầm, thiên tai lũ lụt; giá cả leo thang, đặc biệt là giá cả của các vật liệu kinh doanh như dược phẩm, dầu khí, thép, các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản…Bên cạnh đó là sự biến động về lãi suất, lạm phát và các chính sách về tỷ giá, tình hình cạnh tranh lãi suất nóng bỏng giữa các ngân hàng, đã ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của các thành phần kinh tế, trong đó có các doanh nghiệp ký hợp đồng bảo lãnh với ngân hàng mà đặc biệt là các doanh nghiệp xây dựng, giao thông với nhiều bê bối. Chính những lý do đó làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả của các dự án đầu tư bị giảm sút.
Bên cạnh đó, các quy hoạch và dự báo một số lĩnh vực lớn của nền kinh tế thiếu khoa học, phần lớn mang tính chủ quan; Trên cơ sở đó hình thành nên các dự án một cách ồ ạt được phê duyệt, triển khai, gây sức ép lên ngân hàng buộc phải bảo lãnh, hoặc thiếu hiệu quả, gây rủi ro cho bảo lãnh của ngân hàng. Nhất là trong lĩnh vực đường mía, xi măng …
Quản lý của nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp còn nhiều tồn tại, đặc biệt là tình trạng thành lập doanh nghiệp tràn lan, hoạt động trái pháp luật, tình trạng doanh nghiệp ma, doanh nghiệp bị mất tích mà nhà nước chưa nắm bắt và quản lý sát sao được đã gây ra nhiều rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng.
Mặt khác môi trường pháp lý cũng có nhiều bất cập, không phù hợp và không theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của hoạt động dịch vụ bảo lãnh, các yêu cầu của hội nhập kinh tế, và sự xuất hiện của các hình thức bảo lãnh mới. Đặc biệt là môi trường pháp lý đảm bảo an toàn cho hoạt động của Ngân hàng còn thiếu, không ổn định và đồng bộ, chưa bảo vệ được quyền lợi chính đáng của ngân hàng bảo lãnh. Mặc dù NHNN và Chính phủ đã có nhiều sửa đổi bổ sung về đảm bảo tiền vay như nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay, nghị định 85/2002/ NĐ-CP về việc sửa đổi bổ sung nghị định trên, và thông tư số 07/2003/TT-NHNN theo hướng giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức tín dụng. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà cửa được triển khai chậm, thủ tục công chứng không rõ ràng và thống nhất.
Các quy định giải toả bảo lãnh còn nhiều thủ tục rườm rà, qua nhiều công đoạn nên gây khó khăn không chỉ với các doanh nghiệp mà còn với cả ngân hàng. Hiện nay vẫn chưa có văn bản pháp luật nào quy định về việc giải toả bảo lãnh của ngân hàng, nên các ngân hàng phải tự đưa ra cho mình thủ tục giải tỏa bảo lãnh, thế nên các thủ tục đó sẽ rất khác nhau ở các ngân hàng khác nhau. Do đó cũng ảnh hưởng tới tình hình kinh doanh của doanh nghiệp và khả năng thu hút khách hàng của các ngân hàng, đặc biệt là các Ngân hàng thương mại Quốc doanh.
Do còn nhiều tồn tại trên mà hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm còn có những hạn chế trên. Do vậy để mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh để đáp ứng được các nhu cầu, đòi hỏi của nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới cũng như trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay. Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm cần phải thực thi hàng loạt các giải pháp nhằm khắc phục các nguyên nhân trên.
Chương III : Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm
3.1. Định hướng phát triển của Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm trong những năm tới
3.1.1.Định hướng chung
Đẩy mạnh công tác huy động vốn với nhiều hình thức phong phú và đa dạng, tìm kiếm và khai thác các doanh nghiệp có nguồn tiền gửi lớn gửi tại Chi nhánh, trong đó phải chú trọng tới các doanh nghiệp có nguồn vốn do các tổ chức quốc tế chuyển vốn về giải ngân tại chi nhánh.
Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng tín dụng đi kèm với việc nâng cao chất lượng tín dụng bảo đảm an toàn vốn, tiếp tục khai thác khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Chú trọng hơn nữa cho vay vốn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân, các hộ sản xuất kinh doanh nông thương nghiệp, cho vay tiêu dùng. Giảm dần dư nợ ở một số Doanh nghiệp thường xuyên phải gia hạn và tiến hành thu nợ ở các doanh nghiệp yếu kém, không tập trung vốn lớn vào một khách hàng.
Hoàn thiện và phát triển mạng lưới, nghiệp vụ kinh doanh theo cơ cấu lại tổ chức của hệ thống NHCT Việt Nam tại chi nhánh. Đổi mới cơ chế quản trị điều hành trong công tác chỉ đạo cho phù hợp với chương trình hiện đại hoá INCAS mà hiện nay Chi nhánh đang thực hiện và áp dụng tốt các tiêu chuẩn ISO 9001 – 2000.
Tiếp tục hoàn thiện các dịch vụ hiện có như: nhóm dịch vụ thẻ, dịch vụ về tín dụng, dịch vụ thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại…Tăng mức thu nhập từ
dịch vụ lên 45% tổng thu nhập ngân hàng vào năm 2010, gắn kết các dịch vụ của Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm thành một gói sản phẩm để phục vụ khách hàng.
Từng bước tiến tới mô hình điểm giao dịch là nơi cung cấp ngày càng nhiều các dịch vụ ngân hàng, kể cả mở tài khoản (ngoại trừ dịch vụ vay vốn). phát triển khách hàng sử dụng các sản phẩm dịch vụ ATM, CashCard, Visa Card…, đồng thời tiếp tục khai thác các dự án ODA của các Bộ, Ngành về chi nhánh giải ngân nhằm tăng nguồn ngoại tệ và tỷ trọng thu phí dịch vụ ngân hàng.
Đẩy mạnh hoạt động đoàn thể, kết hợp chặt chẽ với các tổ chức đoàn thể xây dựng các phong trào thi đua và hoạt động văn hoá, thể thao…tạo không khi thi đua sôi nổi trong cán bộ nhân viên, góp phần tích cực hoàn thành nhiệm vụ kinh doanh mà ngân hàng đã đề ra.
Trước mắt mục tiêu của năm 2007 như sau:
+ Tổng nguồn vốn huy động : > 5000 tỷ đồng
+ Dư nợ cho vay nền kinh tế : 1800 tỷ đồng. Trong đó tỷ lệ nợ xấu đến 31/12/2007 là 0.9%
+ Thu dịch vụ Ngân hàng tăng gấp hai lần năm 2006 : 5.5 tỷ đồng
+ Lợi nhuận : 80 tỷ đồng
3.1.2.Định hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh
Xuất phát từ hoạt động thực tế của ngân hàng cũng như nhu cầu kinh tế, Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đưa ra các định hướng phát triển bảo lãnh trong những năm tiếp theo như sau:
Tăng doanh số bảo lãnh, từ đó tăng tỷ trọng thu từ hoạt động bảo lãnh trong tổng thu từ hoạt động dịch vụ của ngân hàng.
Đa dạng hoá và mở rộng loại hình bảo lãnh, mặt khác không ngừng củng cố và nâng cao chất lượng bảo lãnh, giảm các hợp đồng bảo lãnh mà ngân hàng phải thực hiện thanh toán, đồng thời tiếp tục triển khai thêm một số loại hình bảo lãnh mới.
Nhanh chóng hiện đại hoá hoạt động bảo lãnh. Thực hiện tố công tác marketing nhằm thu hút khách hàng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu bảo lãnh ngày càng tăng, gắn hoạt động bảo lãnh với các dịch vụ kèm theo để bán hàng trọn gói.
Tiếp tục đào tạo đội ngũ cán bộ, đồng thời bồi dưỡng, nâng cao kiến thức về bảo lãnh nói riêng và các kiến thức kinh tế xã hội khác nói chung.
3.2. Giải pháp mở rộng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm
Cùng với tiến trình hội nhập, các ngân hàng thương mại gặp không ít khó khăn, thách thức về công nghệ thông tin, trình độ kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng. Năng lực và hiệu quả kinh doanh còn thấp so với các ngân hàng nước ngoài. Nhận thức được các khó khăn đó, Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã chú trọng năng cao sức mạnh cạnh tranh của mình bằng các giải pháp đầu tư nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, nghiên cứu, mở rộng và phát triển sản phẩm ngân hàng trong đó có hoạt động bảo lãnh ngân hàng.Sau đây là các giải pháp mở rộng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm.
3.2.1.Công tác điều hành và hoạch định chiến lược phát triển bảo lãnh
Với vai trò quan trọng của công tác điều hành và hoạch định chiến lược đối với sự phát triển của ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng, ngân hàng cần phải xây dựng cho mình một chương trình phát triển và điều hành chung có hiệu quả và một chương trình mở rộng và phát triển bảo lãnh cụ thể, hợp lý, bám sát được tình hình phát triển kinh tế và phát huy được tiềm năng, hiệu quả hoạt động bảo lãnh ngân hàng.
Trong kế hoạch mở rộng bảo lãnh phải đưa ra được các mục tiêu có tính thực tế cao, phù hợp với khả năng và tiềm năng của ngân hàng, đồng thời phải đưa ra những biện pháp có tính khả thi và thực hiện được để đạt được các mục tiêu trên. Kế hoạch phát triển bảo lãnh phải phù hợp và có sự gắn bó, phối hợp chặt chẽ với với mục tiêu phát triển kinh doanh của ngân hàng để đạt được kết quả cao nhất.
Bên cạnh đó, công tác điều hành ngân hàng cũng cần được chú trọng để đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ của các phòng ban, đảm bảo cho hoạt động bảo lãnh được thực hiện một cách chặt chẽ thống nhất. Phải thường xuyên kiểm tra, thanh tra chặt chẽ hoạt động bảo lãnh cả trước, trong và sau khi cấp bảo lãnh, phát hiện kịp thời những dấu hiệu không tốt, hay khách hàng gặp khó khăn nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động bảo lãnh.
Mặt khác, để làm tốt công tác điều hành và hoạch định chính sách, cán bộ ngân hàng cần làm tốt việc phân tích và dự báo xu hướng phát triển kinh tế, khả năng trả nợ cũng như nhu cầu phát sinh của khách hàng hiện tài và nhu cầu bảo lãnh của khách hàng tiềm năng; nắm bắt được tình hình phát triển kinh tế, tài chính, tiền tệ và những biến động chính trị xã hội, các quy hoạch phát triển kinh tế của Bộ, Ngành nghề cùng các lĩnh vực kinh tế khác. Từ đó cán bộ ngân hàng mới có thể đưa ra được những kế hoạch phát triển đúng đắn, thích hợp cho từng thời kỳ, đồng thời phát huy được tiềm năng của ngân hàng.
3.2.2.Tăng tính cạnh tranh và hấp dẫn cho hoạt động bảo lãnh
Đây là việc đẩy mạnh hoạt động marketing của ngân hàng, phát triển các chính sách khách hàng, chính sách sản phẩm, chính sách phí… có tính đồng bộ và thống nhất cao, thúc đẩy hoạt động bảo lãnh được mở rộng và phát triển. Hoạt động này còn khá yếu không chỉ ở Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm nói riêng mà còn trong hệ thống ngân hàng thương mại nói chung.
Để nâng cao được tính cạnh tranh và hấp dẫn cho hoạt động bảo lãnh, trước hết, ngân hàng cần chú trọng vào việc nâng cao nhận thức của cán bộ ngân hàng về sự cần thiết của hoạt động này, từ đó đào tạo trình độ chuyên môn nghiệp vụ về nghiên cứu thị trường, và hoạt động marketing, hỗ trợ một cách đắc lực nghiệp vụ của cán bộ bảo lãnh ngân hàng. Như vậy ngân hàng nên làm tốt các chính sách sau:
Chính sách khách hàng
Trong lộ trình từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, khách hàng đã thực sự trở thành điều kiện sống còn cho sự tồn tại của bất cứ nhà đầu tư sản xuất kinh tế nào. Khách hàng được xác định là định hướng trung tâm cho các hoạt động của các doanh nghiệp. Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm cũng nhận thức được điều đó, vì vậy để mở rộng hoạt động bảo lãnh, ngân hàng cần xây dựng một nền khách hàng bền vững dựa trên những giải pháp sau:
Cần xác định các tiêu chuẩn để xác định khách hàng ưu tiên: Khách hàng có khả năng tài chính vững mạnh, có uy tín trong quan hệ tín dụng. Đặc biệt, ngân hàng có chính sách ưu đãi đối với những khách hàng có quan hệ tín dụng thường xuyên và duy nhất đối với ngân hàng. Mặt khác, cần chú trọng công tác tiếp thị để duy trì những khách hàng đang có quan hệ và phát triển những khách hàng mới.
Chi nhánh cần chuẩn bị các điều kiện để mở văn phòng đại diện tại nước ngoài, thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay khi mà Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Một vấn đề rất quan trọng để thu hút khách hàng là thực hiện đơn giản hoá các thủ tục tài chính. Trước hết, ngân hàng cần rà soát các thủ tục hồ sơ đối với khách hàng, đề ra các biện pháp cụ thể để thực hiện đa dạng hoá các thủ tục, hồ sơ khách hàng. Đảm bảo phục vụ khách hàng nhanh chóng, thuận tiện, an toàn và hiệu quả.
Thiết lập mối quan hệ mật thiết với ngân hàng để thông qua đó ngân hàng có điều kiện nắm vững các thông tin có liên quan tới khách hàng để có những quyết định trong kinh doanh và thực hiện tốt chiến lược khách hàng của mình
Chính sách sản phẩm
Để mở rộng hoạt động bảo lãnh, ngân hàng không những phải làm tốt công tác xây dựng chính sách và chăm sóc khách hàng mà còn phải chú trọng phát triển và đa dạng hóa các loại hình bảo lãnh, phát triển một cách cân đối các loại hình. Phát triển sản phẩm bảo lãnh phải đảm bảo tính liên kết sản phẩm dịch vụ. Nghĩa là trong từng phòng ban nên có mối quan hệ chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng trong các hoạt động của mình.
Cần đổi mới, cải tiến quy trình và các thủ tục bảo lãnh khoa học, logic nhưng gọn nhẹ đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu bảo lãnh của khách hàng. Ngân hàng nên cung ứng bảo lãnh ngân hàng đi kèm với các dịch vụ tiện ích theo phương thức “bán mềm”, nghĩa là giới thiệu khách hàng mở tài khoản, sử dụng dịch vụ chuyển tiền.. kèm theo một dịch vụ bảo lãnh.
Chính sách về phí bảo lãnh
Ngân hàng phải xây dựng được một cơ chế thu phí bảo lãnh linh hoạt, phù hợp. Các bảo lãnh khác nhau đều có những đặc điểm riêng, và các tổ chức với quy mô kinh tế khác nhau cũng như nhu cầu bảo lãnh ở các mức độ khác nhau. Thành phần đến đề nghị bảo lãnh ở ngân hàng có thể là các tổ chức kinh tế lớn như tổng công ty nhà nước, các công ty quy mô lớn, cũng có thể là các thành phần kinh tế nhỏ và cá nhân. Do vậy, ngân hàng cần phải có chính sách định giá cho từng đối tượng này một cách hợp lý và tuỳ theo mức độ quan hệ với ngân hàng.
Ngân hàng cần có chính sách khách hàng đặc biệt, đối với các khách hàng truyền thống (các tổ chức kinh tế) thì chính sách phí nên mềm dẻo, ưu đãi hơn so với các khách hàng mới có quan hệ bảo lãnh hoặc quan hệ bảo lãnh lần đầu.
Ngân hàng cũng cần cần có sự so sánh, đối chiếu mức phí bảo lãnh của các ngân hàng thương mại Quốc doanh và các ngân hàng thương mại cổ phần để đưa ra được một chính sách giá hợp lý, có tính cạnh tranh cao. Chính sách giá phải được xây dựng dựa trên nền tảng một hệ thống hình thành giá vững chắc, linh hoạt và hiệu quả cũng như phải trên cơ sở những chính sách về sản phẩm, chính sách marketing ngân hàng.
Chính sách về tài sản đảm bảo
Tài sản đảm bảo cho bảo lãnh ngân hàng đóng vai trò giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ tài chính thay khách hàng. Các hình thức bảo đảm bảo lãnh gồm: ký quỹ, thế chấp, cầm cố và bảo lãnh của bên thứ ba.Ngân hàng phải định giá các tài sản đảm bảo theo những chuẩn nhất định như giá thị trường (đặc biệt đối với tài sản đảm bảo lãnh nhà đất).
Hầu hết các khách hàng đều mong muốn được ký quý ở mức thấp nhất. Do vậy, ngân hàng không nên quá thận trọng yêu cầu khách hàng ký quỹ 100% vì sẽ gây ứ đọng vốn của doanh nghiệp, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc kinh doanh. Ngân hàng nên xác định mức ký quỹ hợp lý, dựa trên cơ sở phân tích độ rủi ro của dự án, mức độ tín nhiệm khách hàng. Đặc biệt là khách hàng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Bên cạnh đó, ngân hàng cần kiểm tra kĩ lưỡng đối với các tài sản được thế chấp cầm cố về vấn đề sở hữu, giấy tờ, tránh những vấn đề bất cập xảy đến khi có rủi ro phải phát mại tài sản như: tài sản không thuộc sở hữu của người được bảo lãnh, tài sản thuộc sở hữu nhà nước không được phát mại…
3.2.3. Nâng cao chất lượng thẩm định
Để đảm bảo an toàn trong thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, ngân hàng cần phải chọn cho mình những khách hàng tốt, trên cơ sở nâng cao chất lượng nghiệp vụ đánh giá khách hàng. Đó là khả năng phân tích, nhận định tình hình khách hàng trước, trong và sau khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Đánh giá tình hình khách hàng càng chính xác, chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh càng cao.
Ngân hàng phải thực hiện đúng nội quy, quy trình thẩm định . Không chỉ căn cứ vào thông tin một chiều từ phía khách hàng cung cấp mà phải có thông tin đa chiều để so sánh, đối chiếu phân tích để quyết định bảo lãnh hay không bảo lãnh.
Một vấn đề mang tính nguyên tắc trong việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh là chất lượng của bảo lãnh phải đưa lên hàng đầu. Mọi khoản bảo lãnh phải được xem xét khả năng trả nợ ngay từ đầu, nắm vững năng lực tài chính cũng như kinh doanh của đối tượng đề nghị bảo lãnh, không được coi thế chấp có thể thay thế cho moi khoản nợ.
Bảo lãnh là sản phẩm từ một hợp đồng, nó phát sinh từ mối quan hệ giữa các bên trong hợp đồng, nên một vấn đề đặt ra nữa là phải xem xét thật ký hợp đồng chính giữa người xin bảo lãnh và người nhận bảo lãnh trên tất cả các mặt của hợp đồng đó.
Mặt khác, việc thẩm định dự án cần phải thường xuyên có sự phối hợp với các cơ quan chuyên môn, các chuyên gia kỹ thuật để đánh giá toàn diện khả năng thực hiện của dự án.
3.2.4. Nâng cao công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ ngân hàng
Đây là công tác nhằm nắm bắt tình hình thực hiện bảo lãnh tại đơn vị Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm, mục đích nhanh chóng phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc trong công tác bảo lãnh để đưa ra các giải pháp kịp thời cho những vướng mắc đó, đồng thời nhanh chóng chấn chỉnh hoạt đông bảo lãnh đi vào nền nếp và khuôn khổ.
Vì vậy ban lãnh đạo cần phải thực hiện các cuộc kiểm tra, kiểm toán nội bộ thường xuyên cũng như bất thường để đánh giá đúng tình hình hoạt động lãnh cũng như thái độ và trách nhiệm của các cán bộ bảo lãnh ngân hàng.
Việc thanh tra, kiểm tra, kiểm toán nội bộ có thể được tiến hành cục bộ hoặc tổng thể trong toàn bộ chi nhánh. Bởi vì các hoạt động kinh doanh dịch vụ của ngân hàng đều có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Do vậy, sự trì trệ, và thiếu trong sáng trong hoạt động này sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của các hoạt động khác. Ngân hàng cần phải thực hiện một cách nghiêm túc công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ, giúp ban lãnh đạo nắm được tình hình hoạt động thường xuyên của ngân hàng nói chung và của hoạt động bảo lãnh nói riêng.
Bên cạnh đó ngân hàng cần kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu quả bảo lãnh.
3.2.5.Giải pháp về nguồn nhân lực
Đứng trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế và sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước; trước xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, nền kinh tế đang từng bước tiến vào thế kỷ tri thức, các ngân hàng thương mại kể cả Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm cũng phải dựa vào trí tuệ để vươn lên mạnh mẽ. Bên cạnh đó những bất cập về trình độ cán bộ ngân hàng hiện nay, đòi hỏi ngân hàng cần phải làm tốt công tác đào tạo và phát triển cán bộ. Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực là mực tiêu lâu dài, thường xuyên trong quá trình vận động và phát triển hiện tại và tương lai. Do vậy Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm nên làm tốt các công tác sau:
Thứ nhất, cần xuất phát từ các mục tiêu kinh doanh trong những năm tới cũng như mục tiêu dài hạn để xác định chiến lược phát triển nguồn nhân lực, có kế hoạch giáo dục đào tạo cụ thể từng bước và lựa chọn từng đối tường thích hợp để đào tạo, đồng thời bồi dưỡng cán bộ nguồn trước khi đề bạt bổ nhiệm.
Thứ hai, cần đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ nhân viên, phân loại theo các cấp độ khác nhau. Việc đánh giá này sẽ giúp ngân hàng đào tạo sát đúng đối tượng, đúng trình độ mỗi nghiệp vụ và có hiệu quả hơn.
Thứ ba, hoạt động đào tạo được tiến hành bằng nhiều hình thức và là một quá trình đòi hỏi sự tham gia tích cực của tất cả các cấp lãnh đạo, cán bộ nhân viên trong ngân hàng cũng như sự phối hợp chặt chẽ và chia sẻ trách nhiệm giữa các tổ chức, các cấp lãnh đạo đơn vị thành viên. Các hình thức đào tạo đó có thể là trong nước hay tranh thủ sự tài trợ của ngân hàng nước ngoài, các tổ chức quốc tế. Ngân hàng cũng có thể trực tiếp tự đào tạo.
Thứ tư, ngân hàng cũng cần có các chính sách khuyến học, tạo niềm say mê học tập thường xuyên trong cán bộ nhân viên. Đồng thời có các chính sách đãi ngộ thỏa đáng.
Thứ năm, ngân hàng cần thực hiện tốt công tác tuyển dụng và thu hút nhân tài cũng như giữ các cán bộ nhân viên giỏi, cần hỗ trợ các nhân viên mới hoà nhập với môi trường làm việc.
3.2.6.Tiếp tục hiện đại hoá công nghệ ngân hàng
Bao gồm việc áp dụng các quy trình công nghệ mới hỗ trợ cho hoạt động bảo lãnh nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung, nhất là công nghệ thông tin ngân hàng, nhằm cung cấp cho cán bộ bảo lãnh những nguồn thông tín cập nhật, đầy đủ, chính xác và kịp thời, giúp cán bộ tín dụng có được những thông tin cần thiết trong việc thẩm định và đưa ra quyết định bảo lãnh đúng đắn.
Bên cạnh đó, ngân hàng cũng nên quan tâm đến cơ sở vật chất, kỹ thuật trang thiết bị nhằm nâng cao hình ảnh của ngân hàng và tăng tiện ích cho khách hàng.
3.2.7. Thành lập phòng nghiệp vụ bảo lãnh chuyên trách
Hiện nay, nghiệp vụ bảo lãnh tại chi nhánh NHCT HK vẫn do nhiều phòng chức năng thực hiện tuỳ thuộc vào từng loại hình bảo lãnh mà ngân hàng thực hiện như Phòng khách hàng doanh nghiệp lớn, Phòng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ, Phòng khách hàng cá nhân, Phòng thanh toán quốc tế…ngân hàng vẫn chưa thành lập bộ phận riêng để thực hiện và theo dõi nghiệp vụ này. Điều này, nhiều khi gây ra sự chồng chéo trong công việc gây mất thời gian và phiên hà cho khách hàng. Mặt khác, trong quá trình hoạt động một mặt do khối lượng công việc lớn, một phần do đòi hỏi cao đối với cán bộ thực hiện bảo lãnh đã làm cho việc thực hiện nghiệp vụ chưa xứng với tiềm năng của ngân hàng. Vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu để thành lập một phòng bảo lãnh độc lập tại chi nhánh trong thơi gian tới.
Trên đây là một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm. Tuy nhiên, bên cạnh nỗ lực của ngân hàng, cần phải có sự quan tâm và hỗ trợ từ hệ thống NHCT Việt Nam, từ Chính phủ và NHNN. Sau đây là phần kiến nghị để khắc phục những khó khăn từ môi trường pháp lý và kinh tế.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị đối với chính phủ
Tạo môi trường pháp lý thông thoáng, ban hành hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đồng bộ như luật liên quan đến tài sản đảm bảo, thị trường sản xuất kinh doanh… tạo điều kiện cho các ngân hàng phát mại tài sản khi có rủi ro xảy ra. Hiện nay, nước ta vẫn chưa có luật về bảo lãnh, trong khi các văn bản quy định về bảo lãnh lại không đầy đủ, thường xuyên thay đổi bổ sung gây ra sự chồng chéo trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng.
Ổn định kinh tế chính trị là một vấn đề quan trọng nhằm hỗ trợ hệ thống ngân hàng thương mại phát triển. Do tác động lớn của hoạt động ngân hàng đến nền kinh tế chung của đất nước, trên cơ sở ổn định kinh tế sẽ thúc đẩy mọi thành phần kinh tế phát triển, từ đó tạo tiền để hình thành và phát triển các loại bảo lãnh mới. Các ngân hàng có điều kiện nâng cao năng lực tài chính của mình, từ đó góp phần vào việc mở rộng hoạt động bảo lãnh. Tạo ra một môi trường cạnh tranh công bằng lành mạnh và hiệu quả.
Củng cố hệ thống doanh nghiệp, đặc biệt là việc thành lập cũng như phá sản, biến mất của các doanh nghiệp, quản lý một cách hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, ban hành các văn ban luật về kiểm toán kê toán trong doanh nghiệp kinh tế; Thường xuyên giám sát tình hình thực hiện các nguyên tắc kế toán sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tránh những hành vi gian lận và lừa đảo trong kế toán và báo cáo tài chính cũng như các gian lận trong việc lập các giấy tờ liên quan đến tài sản đảm bảo bảo lãnh.
Công khai hoá các thông tin tài chính, báo cáo tài chính, tạo ra một môi trường kinh doanh trong sáng, lành mạnh không chỉ trong hệ thống doanh nghiệp mà còn trong hệ thống ngân hàng thương mại.
3.3.2.Với ngân hàng nhà nước
NHNN là cơ quan quản lý nhà nước chịu trách nhiệm giám sát hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Do vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng mở rộng hoạt động bảo lãnh, NHNN nên thực hiện một số vấn đề sau:
Ban hành các quy định, thông tư hướng dẫn cụ thể việc thực hiện quy chế bảo lãnh, và các loại bảo lãnh mới. Cải tiến thủ tục, quy trình bảo lãnh theo hướng đơn giản hoá nhưng vẫn đảm bảo an toàn cho hoạt động bảo lãnh.
Hỗ trợ các ngân hàng trong việc thiết lập và cung cấp hệ thống thông tin của trung tâm CIC, đảm bảo tính đa dạng, chính xác, đầy đủ và kịp thời.
NHNN cần sớm ban hành quy chế giải toả bảo lãnh, điều chính các quy định về thời hạn, thủ tục, và điều kiện khác đáp ứng với các thông lệ quốc tế.
3.3.3.Với Ngân hàng Công thương Việt Nam
NHCT Việt Nam là ngân hàng trực tiếp chỉ đạo và điều hành chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm. Để hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm diễn ra thuận lợi, NHCT Việt Nam nên quan tâm đến các vấn đề sau:
Đưa ra những chỉ tiêu chương trình phát triển cho chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm trong những năm tới một cách đúng đắn thống nhất phù hợp với quy mô tiềm năng của chi nhánh. Đơn giản hoá các thủ tục và tạo tính chủ động nhất định trong việc thực hiện kế hoạch cũng như công tác lãnh đạo tại chi nhánh.
Cho phép các Chi nhánh cấp một thành lập Phòng bảo lãnh chuyên trách: trong thời gian tới, cùng với chiến lược tăng vốn điều lệ của ngân hàng, thẩm quyền phê duyệt bảo lãnh của Chi nhánh cấp một cũng được nâng lên. Nghiệp vụ bảo lãnh cần được thực hiện bởi một bộ phận chuyên trách. Hiện nay, việc bảo lãnh trong nước do Phòng Tín dụng thực hiện. Bảo lãnh nước ngoài do Phòng thanh toán quốc tế thực hiện đã tạo ra sự thiếu thống nhất trong quản lý và giám sát. Bởi vậy, trong thời gian tới, việc thành lập Phòng Bảo lãnh là một tất yếu khách quan.
KẾT LUẬN
Lịch sử ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh tại Việt Nam tuy chưa được lâu nhưng cũng góp phần khẳng định vị trí và vai trò tích cực của nó đối với hoạt động của nền kinh tế nói chung và các giao dịch thương mại nói riêng. Cho đến nay, bảo lãnh ngân hàng là một loại hình nghiệp vụ không thể thiếu đối với các ngân hàng cũng như với sự phát triển kinh tế của đất nước. Nhu cầu đổi mới hoạt động của hệ thống NHTM càng đòi hỏi ngày một hoàn thiện và phát triển, chính vì vậy các nghiệp vụ ngân hàng ngày càng được áp dụng rộng rãi nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành.
Trên cơ sở nghiên cứu tài liệu và qua quá trình tìm hiểu thực tế hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm , bằng phương pháp thống kê, phân tích chuyên đề đã đạt được mốt số kết quả sau:
- Khái quát cơ sở lý luận, nội dung và những vấn đề liên quan đến nghiệp vụ bảo lãnh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động bảo lãnh tại NHCTHK, tìm ra nguyên nhân của những vấn đề còn hạn chế.
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại NHCT HK
Với thời gian không dài và vốn kiến thức còn ít ỏi, cũng như khả năng phân tích còn hạn chế, chuyên đề này chắc chắn chưa thể bao quát hết những nội dung của hoạt động bảo lãnh. Hơn nữa đây cũng là vấn đề khá mới mẻ, số liệu thực tế lại ít phổ biến, do vậy chuyên đề cũng khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong có được sự góp ý và đánh giá của các thầy cô giáo để chuyên đề này được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm.
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Ngân hàng thương mại – PGS.TS Phan Thị Thu Hà - Nhà xuất bản Thống kê, 2006
Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại - D.Cox - Nhà xuất bản chính trị Quốc gia.
Ngân hàng thương mại – Peter Rose, NXB Tài chính 2001.
Báo cáo kết quả bảo lãnh và kinh doanh của Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm – Hà Nội các năm 2004, 2005, 2006
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ- PGS.TS. Lê Văn Tư - Lê Tùng Vân.
Bảo lãnh tín dụng dự phòng và những điều luật áp dụng- Nguyễn Trọng Thuỳ- Nhà xuất bản Thống kê, 2000.
Sổ tay tín dụng của NHCT Việt Nam.
Các Tạp chí Ngân hàng số 10/2003, 12/2004, 13/2003, 7/2004, 8/2004, 6/2005, 8/2005; Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 1+ 2/2005, số 3+ 4/2005, chuyên đề 2003.
Luận văn của các khoá 42, 43,44
10) Luật các tổ chức tín dụng và Luật Ngân hàng nhà nước.
11) Luật các Ngân hàng Thương mại và tổ chức tín dụng- Nhà xuất bản chính trị Quốc gia.
12) Các Website:
+ Thời báo kinh tế Việt Nam :
+ Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm :
+ Ngân hàng nhà nước Việt Nam :
+ Mạng tìm kiếm thông tin :
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0277.doc