Vốn là yếu tố sống còn đối với tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trong mọi doanh nghiệp, vốn đều gồm hai bộ phận là vốn chủ sở hữu và nợ vay. Tùy từng loại hình doanh nghiệp mà cơ cấu vốn và phương thức huy động vốn khác nhau, những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thông thường thì vốn chủ sở hữu sẽ chiếm phần lớn. Nhưng đối với các tổ chức trung gian tài chính như CTTC thì vốn chủ sở hữu lại chiếm tỷ lệ ít hơn so với nợ vay.
Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn cho CTTC, đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của công ty. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các phương thức huy động vốn được đa dạng hóa nhằm khai thác mọi nguồn vốn trong nền kinh tế. Đầu tiên phải kể đến vốn chủ sở hữu là lượng vốn nhất định để CTTC hoạt động (vốn pháp định). Tùy tính chất mỗi CTTC mà nguồn hình thành ban đầu khác nhau, có thể là vốn do các cổ đông đóng góp, do các bên liên doanh đóng góp hoặc sở hữu tư nhân hoặc vốn của công ty mẹ Ngoài ra trong quá trình hoạt động CTTC còn huy động thêm từ việc phát hành cổ phiếu, từ lợi nhuận hàng năm.
66 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1007 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển hoạt động bảo lãnh tại Công ty tài chính Dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a Nhà nước về bảo lãnh có tác dụng quản lý và giám sát hoạt động bảo lãnh của tổ chức tín dụng. Nếu hệ thống quy định, chính sách của Nhà nước lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của hoạt động bảo lãnh sẽ làm giảm chất lượng của loại dịch vụ này. Và ngược lại, nếu quy định, chính sách phù hợp với thực tế, điều tiết hiệu quả hoạt động bảo lãnh thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng bảo lãnh.
Chương 1 đã cung cấp cho chúng ta những kiến thức tổng quát nhất về hoạt động bảo lãnh, về vai trò cũng như chức năng của hoạt động này đối với một Công ty tài chính. Và để hiểu rõ hơn, ta đi tìm hiểu hoạt động bảo lãnh tại PVFC ở chương 2: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại PVFC.
CHƯƠNG 2 – THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI PVFC
2.1. Giới thiệu về Công ty tài chính Dầu khí (PVFC)
2.1.1. Quá trình phát triển và cơ cấu tổ chức
Quá trình phát triển của PVFC
+ Ngày 1/10/2000: Công ty Tài chính Dầu khí chính thức đặt trụ sở hoạt động đầu tiên tại 34B Hàn Thuyên - Hà Nội và Khai trương hoạt động phòng giao dịch số 10.
+ Ngày 5/02/2001: Lễ khai trương hoạt động Công ty Tài chính Dầu khí đã được tổ chức trọng thể tại Hà Nội.
+ Ngày 19/6/2002: Khai trương hoạt động phòng giao dịch chứng khoán BSC – PVFC.
+ Ngày 1/10/2002: Khai trương website Công ty Tài chính Dầu khí tại địa chỉ:
+ Ngày 3/9/2003: Phát hành thành công Trái phiếu Dầu khí.
+ Ngày 21/5/2003: Khai trương hoạt động Chi nhánh Công ty Tài chính Dầu khí tại thành phố Hồ Chí Minh.
+ Ngày 5/5/2004: Nhận chứng chỉ Hệ thống quản lý chất lượng phù hợp tiêu chuẩn ISO 9001:2000 do tổ chức SGS (Thuỵ Sỹ) cấp.
+ Ngày 28/02/2005: Khai trương hoạt động Chi nhánh Công ty Tài chính Dầu khí tại Vũng Tàu.
+ Ngày 3/09/2005: Nhận Cúp vàng Thương hiệu và Nhãn hiệu 2005.
+ Ngày 15/09/2005: Nhận giải thưởng Sao Vàng Đất Việt 2005.
+ Ngày 15/12/2005: PVFC được xếp hạng Công ty Nhà nước loại 1.
+ Tháng 12/2005: Quy mô hoạt động của PVFC đạt trên 8000 tỷ đồng.
+ Tháng 12/2005: Triển khai thành công việc lắp đặt và đưa vào sử dụng hệ thống mạng WAN trong toàn hệ thống.
+ Ngày 26/04/2006: PVFC chính thức tăng vốn điều lệ lên 1000 tỷ đồng.
+ Ngày 4/07/2006: Khai trương Chi nhánh Công ty Tài chính Dầu khí tại Đà Nẵng.
+ Ngày 24/10/2006: Khai trương Phòng Giao dịch Chứng khoán SSI – PVFC
+ Ngày 14/02/2007: PVFC chính thức tăng vốn điều lệ lên 3000 tỷ đồng, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quá trình hoạt động và phát triển của Công ty.
+ Tháng 4/2007: PVFC vinh dự đón nhận giải thưởng “Thương hiệu mạnh Việt Nam” và lọt vào “TOP 50 nhà tuyển dụng hàng đầu Việt Nam”.
+ Ngày 5/05/2007: PVFC nhận giải thưởng “Quả Cầu Vàng” dành cho doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong ngành tài chính.
+ Ngày 18/05/2007: Khai trương Chi nhánh tại thành phố Hải Phòng.
+ Ngày 26/06/2007: Khai trương Công ty Tài chính Dầu khí- Chi nhánh Cần Thơ.
+ Ngày 15/07/2007: PVFC đón nhận “Cúp vàng Thương hiệu và Nhãn hiệu 2007".
+ Ngày 24/07/2007: Chính thức khai trương và đi vào hoạt động Công ty Tài chính Dầu khí - Chi nhánh Sài Gòn.
+ Ngày 8/09/2007: PVFC là đơn vị duy nhất trong ngành Tài chính – Ngân hàng được cùng lúc trao tặng hai giải thưởng “Nhà quản lý giỏi 2007” và “Cúp vàng ISO 2007”.
+ Ngày 8/10/2007: Khai trương hoạt động ba công ty thành viên: Công ty Cổ phần Đầu tư và Tư vấn Tài chính Dầu khí (PVFC Invest); Công ty Cổ phần Kinh doanh Bất động sản Tài chính Dầu khí (PVFC Land); Công ty Cổ phần Truyền thông Tài chính Dầu khí (PVFC Media).
Cơ cấu tổ chức của PVFC
PVFC là một công ty tài chính lớn và đang vươn tới một định chế tài chính ở Việt Nam. Hiện nay công ty đang có 4 ban, đó là: Ban đầu tư, Ban thu xếp vốn và tín dụng doanh nghiệp, Ban dịch vụ tài chính doanh nghiệp, Ban quản lý dòng tiền. Nhiệm vụ, chức năng các phòng, ban đã được PVFC quy định rõ trong các quyết định số 6063, 6072, 6073 QĐ – TCDK – TCNS&TL và một số quyết định khác.
PVFC có mặt ở nhiều thành phố như: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Đà Nẵng, Sài Gòn, Cần Thơ, Vũng Tàu.
PVFC còn có 3 công ty con là: : Công ty Cổ phần Đầu tư và Tư vấn Tài chính Dầu khí (PVFC Invest); Công ty Cổ phần Kinh doanh Bất động sản Tài chính Dầu khí (PVFC Land); Công ty Cổ phần Truyền thông Tài chính Dầu khí (PVFC Media).
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của PVFC
Tình hình chung
Sau 7 năm hoạt động, PVFC đã có những thành công rất đáng khích lệ. Từ một định chế tài chính non trẻ với rất nhiều những khó khăn, thách thức đến nay PVFC đã có được vị thế nhất định trong Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam cũng như trên thị trường tài chính tiền tệ.
Với những nỗ lực trong quản lý và kinh doanh, đến nay PVFC đã nhận được nhiều giải thưởng của các tổ chức trao tặng như giải Sao Vàng Đất Việt do Hội doanh nghiệp trẻ Việt Nam tổ chức năm 2005; giải thưởng Thương hiệu mạnh dành cho các doanh nghiệp Việt Nam có thành tích xuất sắc trong sản xuất kinh doanh và phát triển thương hiệu bền vững, nâng cao sức cạnh tranh trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế do Thời báo Kinh tế Việt Nam kết hợp với Cục xúc tiến thương mại (Bộ thương mại) tổ chức năm 2006; giải thưởng công nhận đơn vị tuyển dụng hàng đầu và nhiều giải thưởng khác.
Tình hình hoạt động kinh doanh
Tổng tài sản, doanh thu và lợi nhuận qua các năm đều rất khả quan, phản ánh tốc độ tăng trưởng bền vững và hiệu quả trong mọi hoạt động của công ty, đặc biệt trong năm 2006 tổng tài sản đạt 18.143 tỷ đồng gấp 2,65 lấn so với năm 2005 và tốc độ tăng trưởng tài sản bình quân trong giai đoạn 2002 – 2006 đạt 130%. Tốc độ tăng trưởng tài sản gắn liền với chiến dịch tăng vốn điều lệ của công ty qua các năm như: năm 2004 tăng lên 300 tỷ đồng, năm 2006 tăng lên 1000 tỷ đồng. Năm 2006 đánh dấu bước phát triển quan trọng trong hoạt động kinh doanh của công ty, sau 6 năm thành lập và hoạt động, PVFC đã chính thức gia nhập CLB các doanh nghiệp có doanh thu trên 1000 tỷ đồng.
Các khoản thu nộp Ngân sách Nhà nước và Tập đoàn đều được hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao. Năm 2006 nộp Ngân sách Nhà nước 31,269 tỷ đồng, nộp Tập đoàn 9,71 tỷ đồng bằng 129% và 130% kế hoạch được giao.
Hoạt động tín dụng tăng trưởng bền vững, đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án và vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị thành công của Tập đoàn. Mức tăng trưởng cho vay các tổ chức tín dụng trong giai đoạn 2002 – 2006 trung bình đạt 164%/năm; mức tăng trưởng cho vay trực tiếp các tổ chức kinh tế, cá nhân đạt 148%/năm. Số dư nợ tín dụng năm 2006 đạt 5350 tỷ đồng, tăng 177% so với năm 2005. Cơ cấu tín dụng có sự thay đổi hợp lý hơn, dư nợ tín dụng trung và dài hạn chiếm 43% trên tổng dư nợ, cho vay các tổ chức kinh tế chiếm 47% tổng dư nợ. Công ty luôn duy trì và đảm bảo các hệ số an toàn tín dụng theo đúng quy định của NHNN.
Hoạt động huy động vốn của công ty đã có những bước tiến vững chắc, đáp ứng nhu cầu kinh doanh của công ty. Tốc độ tăng trưởng vốn huy động cao và ổn định, giai đoạn 2002 – 2006 bình quân đạt 151%/năm. Nguồn vốn quan trọng nhất là nguồn vốn vay các TCTD và nguồn ủy thác của các tổ chức, cá nhân. Năm 2006, nguồn vốn vay và nguồn ủy thác đầu tư đạt 11000 tỷ đồng, bằng 309% so với năm 2005. Tuy nhiên tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn tăng chậm hơn tỷ trọng tăng trưởng tín dụng trung và dài hạn, nguồn vốn ngắn hạn còn chiếm tỷ trọng cao trong quy mô vốn (chiếm 83% trong tổng vốn huy động). Huy động vốn bằng ngoại tệ vẫn còn hạn chế và mới tập trung vào một số khách hàng nhất định. Ngoài ra để đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn, năm 2006 PVFC đã phát hành thành công trái phiếu Tài chính Dầu khí với tổng số tiền thu được là 665 tỷ đồng.
Sau đây là bảng một số chỉ tiêu tài chính:
STT
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
1
Tồng tài sản
1.230
2.895
4.207
6.828
18.143
2
Nguồn vốn chủ sở hữu
106
112
318
359
1.134
3
Vốn điều lệ
100
100
300
300
1.000
4
Doanh thu
65
133
214
422
1.023
-Thu từ lãi
31
114
185
418
955
-Thu ngoài lãi
34
19
29
4
68
5
Lợi nhuận trước thuế
5,1
5,9
8,3
28,8
126
6
Nợ phải trả
216
803
3.887
6.456
16.330
7
Nợ phải thu
900
2.072
3.949
5.917
14.874
8
Thu nhập bq (1000/người/tháng)
3
3,3
3,7
5,3
7
Bảng 2.1: Bảng các chỉ tiêu tài chính
Đơn vị: tỷ đồng
(Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm định các năm: 2002, 2003, 2004, 2005, 2006).
2.2. Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại PVFC
2.2.1. Hướng dẫn bảo lại tại PVFC
Bước 1: Tiếp xúc và hướng dẫn khách hàng hoàn thiện hồ sơ đề nghị cấp bảo lãnh
Sau khi tiếp xúc, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, CVKH có trách nhiệm báo cáo lãnh đạo Bộ phận khách hàng phương án xử lý. Nếu khách hàng đáp ứng điều kiện về việc cấp bảo lãnh của PVFC, CVKH hướng dẫn khách hàng hoàn thiện hồ sơ đề nghị cấp bảo lãnh.
Trong vòng không quá 03 ngày làm việc, CVKH có Báo cáo đánh giá sơ bộ khách hàng trình lãnh đạo đơn vị cấp tín dụng xem xét để chuyển hồ sơ sang CVTD trực tiếp thẩm định tín dụng.
Bước 2: Thẩm định tín dụng và lập Tờ trình cấp tín dụng
Trong trường hợp phải bổ sung tài liệu phục vụ công tác thẩm định, CVTD phối hợp với CVKH yêu cầu khách hàng bổ sung, tất cả tài liệu bổ sung CVTD nhận được cũng phải cập nhật vào Sổ theo dõi hồ sơ của phòng để theo dõi việc nhận lại các thông tin và tài liệu đã yêu cầu.
Thời gian thẩm định tín dụng hồ sơ bảo lãnh không quá 05 ngày làm việc. Trường hợp phát sinh những vướng mắc, CVTD báo cáo kịp thời lên Lãnh đạo đơn vị cấp tín dụng để xử lý.
Trường hợp phải kéo dài thời gian thẩm định so với quy định của PVFC, CVTD phải thông báo rõ cho khách hàng biết lý do.
Trong quá trình thẩm định hồ sơ bảo lãnh của khách hàng, CVTD cần phải xem xét, đánh giá khả năng đáp ứng các điều kiện của PVFC, theo các nội dung như sau:
Thẩm định tín dụng
- Khoản bảo lãnh phải đáp ứng đủ các điều kiện theo các quy định của Ngân hàng Nhà nước và quy định tại Quy chế hoạt động tín dụng của PVFC hiện hành.
- Mục đích đề nghị PVFC bảo lãnh phải hợp pháp.
- Năng lực tài chính để thực hiện nghĩa vụ được PVFC bảo lãnh trong thời hạn cam kết.
- Ngoài các điều kiện nêu trên, khách hàng phải tuân thủ các quy định về quản lý ngoại hối của Việt Nam.
- Các rủi ro liên quan đến khoản vay và biện pháp xử lý.
Trường hợp PVFC thực hiện đồng bảo lãnh hoặc phát hành bảo lãnh trên cơ sở có bảo lãnh đối ứng của Ngân hàng/Tổ chức tín dụng khác, CVTD phải thẩm định năng lực tài chính, thẩm quyền tham gia đồng bảo lãnh hoặc thẩm quyền phát hành bảo lãnh đối ứng, uy tín của Ngân hàng/ tổ chức tín dụng đó.
Thẩm định tài sản bảo đảm (nếu có)
Trường hợp bảo đảm bằng tài sản là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất:
- Chuyển hồ sơ tài sản bảo đảm ( một bản photo) và soạn thảo công văn đề nghị đến Bộ phận định giá thực hiện. Việc định giá được thực hiện theo “Hướng dẫn thẩm định tài sản bảo đảm của PVFC”
- Sau khi hoàn tất công tác thẩm định tài sản bảo đảm, Bộ phận định giá lập Báo cáo thẩm định tài sản bảo đảm và Biên bản thoả thuận giá trị tài sản bảo đảm được ký kết giữa khách hàng và Trưởng Bộ phận định giá, gửi về đơn vị cấp tín dụng.
Trường hợp bảo đảm bằng tài sản là chứng từ có giá/cổ phiếu/hợp đồng uỷ thác cổ phiếu/chứng chỉ quỹ đầu tư:
- CVTD thực hiện định giá tài sản bảo đảm căn cứ vào “Danh mục chứng từ có giá và cổ phiếu nhận cầm cố của Công ty Tài chính Dầu khí” và Quy chế hoạt động tín dụng của PVFC.
Đối với tài sản bảo đảm khác:
- Thực hiện định giá theo quy định tại Quy chế hoạt động tín dụng của PVFC.
Lập tờ trình cấp bảo lãnh
Sau khi hoàn tất công tác thẩm định khoản bảo lãnh của khách hàng, CVTD lập Tờ trình cấp bảo lãnh
Bước 3: Thẩm định độc lập
Đối với khoản bảo lãnh phải thẩm định độc lập theo quy định tại Quy chế hoạt động tín dụng của PVFC, CVTD tập hợp toàn bộ hồ sơ bảo lãnh của khách hàng (bản photo) và soạn công văn đề nghị gửi Bộ phận thẩm định độc lập tiến hành thẩm định khoản bảo lãnh.
Sau khi hoàn tất công tác thẩm định độc lập, Bộ phận thẩm định độc lập có Báo cáo thẩm định độc lập theo đúng quy định tại Quy chế Tổ chức và hoạt động Thẩm định độc lập của PVFC, gửi về đơn vị cấp tín dụng.
Bước 4: Phê duyệt
Sau khi hoàn tất công việc thẩm định tín dụng và công tác thẩm định độc lập (nếu có) đối với khoản bảo lãnh của khách hàng, CVTD trình hồ sơ cấp bảo lãnh của khách hàng tới cấp có thẩm quyền phê duyệt
Bước 5: Thực hiện các thủ tục về bảo đảm tín dụng
Các thủ tục về bảo đảm tín dụng theo “Hướng dẫn thực hiện các thủ tục về bảo đảm tín dụng tại Công ty Tài chính Dầu khí”.
Sau khi hoàn tất các thủ tục về bảo đảm tín dụng, CVTD nhận bàn giao (các) giấy tờ tài sản gốc của khách hàng, hai bên ký nhận Biên bản giao nhận giấy tờ tài sản.
Nhập kho (các) giấy tờ tài sản gốc theo mẫu Phiếu đề nghị gửi kho tài sản.
Bước 6: Ký kết hợp đồng bảo lãnh
Sau khi hoàn tất thủ tục về bảo đảm tiền vay, CVTD soạn thảo Hợp đồng bảo lãnh theo mẫu của PVFC, chuyển cho khách hàng ký trước, sau đó trình lên cấp thẩm quyền ký kết hợp đồng bảo lãnh tại PVFC.
Bước 7: Phát hành thư bảo lãnh
Căn cứ Đề nghị bảo lãnh của khách hàng, CVTD kiểm tra, xem xét hồ sơ đề nghị phát hành thư bảo lãnh.
Bước 8: Quản lý phát hành thư bảo lãnh
Theo dõi thực hiện Hợp đồng:
Sau mỗi lần kiểm tra, CVTD lập Biên bản kiểm tra mục đích bảo lãnh của khách hàng theo từng lần phát hành thư bảo lãnh. Nếu khách hàng sử dụng sai mục đích hoặc phát sinh những vấn đề có nguy cơ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng trong trường hợp PVFC phải thực hiện nghĩa vụ cam kết, CVTD có báo cáo Lãnh đạo đơn vị cấp tín dụng, trình cấp phê duyệt tín dụng xem xét để cùng khách hàng tìm giải pháp khắc phục hoặc ra quyết định ngừng cấp bảo lãnh (đối với khoản bảo lãnh trong hạn mức) hoặc có biện pháp thu hồi nợ khi PVFC phải thực hiện nghĩa vụ cam kết.
Thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
Khi PVFC nhận được văn bản yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của Bên nhận bảo lãnh, CVTD có trách nhiệm tiến hành các thủ tục cần thiết như sau:
- Kiểm tra lại Thư bảo lãnh phát hành
- Báo cáo Lãnh đạo đơn vị cấp tín dụng xem xét, trình cấp phê duyệt tín dụng có quyết định trong trường hợp yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi Bên được bảo lãnh đáp ứng đầy đủ các điều kiện đã đề ra:
- CVTD tiến hành các thủ tục thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo cam kết bảo lãnh.
Xử lý phát sinh
Bước 9: Thanh lý Hợp đồng bảo lãnh và lưu hồ sơ
Sau khi khách hàng hoàn tất các nghĩa vụ đối với PVFC theo các Hợp đồng và các nghĩa vụ đối với Bên nhận bảo lãnh hoặc thời hạn theo Hợp đồng Bảo lãnh/Thư bảo lãnh thì nghĩa vụ bảo lãnh của PVFC chấm dứt trong trường hợp sau:
Bên nhận bảo lãnh có văn bản xác nhận chấm dứt cam kết bảo lãnh và đã gửi trả lại PVFC bản gốc của cam kết bảo lãnh.
Khách hàng đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với PVFC.
PVFC đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo cam kết bảo lãnh.
Việc bảo lãnh được huỷ bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác;
Thời hạn của các Thư bảo lãnh đã phát hành theo Hợp đồng bảo lãnh đã hết hiệu lực.
- PVFC đã thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho khách hàng. Khi đó, khách hàng phải nhận nợ vay bắt buộc với PVFC cho khoản tiền hoàn trả.
- PVFC đồng ý miễn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho bên bảo lãnh.
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
CVTD hướng dẫn khách hàng lập Đề nghị giải chấp tài sản bảo đảm (nếu có) và tiến hành soạn thảo Biên bản thanh lý Hợp đồng và trình cấp phê duyệt tín dụng ký giải chấp cho khách hàng.
2.2.2. Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại PVFC
Phí bảo lãnh: Khi lựa chọn đơn vị bảo lãnh cho mình, khách hàng phải xem xét nhiều yếu tố trong đó phí bảo lãnh đóng vai trò không nhỏ. Vì thế mà PVFC có một lợi thế rất mạnh trong sự cạnh tranh về mức phí. Các tổ chức tín dụng khác thường quy định rõ mức phí theo cách thức ký quỹ đối với tất cả các khách hàng và mức phí thường giao động từ 1,5% - 3%. Chẳng hạn như ngân hàng Đầu tư và phát triển (BIDV) mức phí giao động từ 1,5%- 1,9%, ngân hàng kỹ thương (Techcombank) thì giao động trong khoảng 1,2% - 3%. Còn tại PVFC lại có thoáng hơn một chút, đối với khách hàng là đơn vị trong ngành dầu khí thì lãi suất chỉ là 1% - một mức phí rất thấp, còn nếu khách hàng là đơn vị ngoài ngành thì mức phí giao động từ 1,5% - 2% tùy theo uy tín và xếp hạng tín dụng của đơn vị đó. Có thể nói mức phí bảo lãnh của PVFC khá linh hoạt, giảm bớt chi phí cho khách hàng nhất là các doanh nghiệp trong ngành.
Loại hình bảo lãnh: Hiện nay ở nước ta có 6 loại bảo lãnh chính (theo quy định 283/2000/QĐ-NH) nhưng PVFC mới chỉ cung cấp 4 loại bảo lãnh, đó là bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán và bảo lãnh vay vốn nhưng khách hàng chủ yếu yêu cầu mở 3 loại bảo lãnh đầu. Sở dĩ công ty chưa cung cấp loại bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm và bảo lãnh hoàn thanh toán vì những khách hàng chính của công ty không có nhu cầu nhiều về hai loại bảo lãnh này. Khách hàng chính của PVFC là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Dầu khí nên nhu cầu về bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm không có như những doanh nghiệp sản xuất. Bên cạnh đó khách hàng của PVFC chủ yếu là những doanh nghiệp có uy tín, được đối tác tin tưởng nên nhu cầu về bảo lãnh hoàn thanh toán không nhiều.Công ty thường kết hợp vừa bảo lãnh vừa cho vay, chẳng hạn như: đồng ý bảo lãnh dự thầu cho doanh nghiệp đồng thời cho doanh nghiệp vay vốn để thực hiện hợp đồng. Việc này tạo thuận lợi về tài chính cho khách hàng, cho vay giúp khách hàng có đủ vốn để thực hiện tốt công trình đã trúng thầu, và một khi khách hàng thực hiện tốt các cam kết với bên nhận bảo lãnh thì công ty không phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, điều này làm giảm rủi ro cho công ty.
Tình hình đảm bảo cho các khoản bảo lãnh: Khách hàng bảo lãnh của PVFC thường dùng tài sản để đảm bảo cho khoản bảo lãnh của mình. Hình thức này giúp khách hàng không bị ứ đọng vốn và tạo sự thuận lợi hơn cho khách hàng về mặt tài chính. Các tổ chức tín dụng khác, chẳng hạn như Ngân hàng Đầu tư và phát triển, hay Ngân hàng Công thương thường yêu cầu khách của mình phải ký quỹ, điều này gây khó khăn cho khách hàng về tài chính.
Số lượng thư bảo lãnh: Số lượng thư bảo lãnh năm 2006 tăng 10,89% so với năm 2005 (621 thư bảo lãnh), nhưng đến năm 2007 thì lượng thư bảo lãnh lại giảm xuống 19,48% (500 thư bảo lãnh). Như đã nói ở phần trên, ta không thể chỉ dựa vào mỗi chỉ tiêu này mà có thể nhận định được mức độ phát triển của họat động. Số lượng thư tăng lên qua các năm nhưng chưa chắc lượng khách hàng đến với công ty đã tăng lên, cũng như nếu số lượng thư tăng lên nhưng giá trị hợp đồng bảo lãnh thấp thì không thể nói hoạt động bảo lãnh của công ty đã phát triển. Vì thế ở đây ta cũng chưa thể kết luận là quy mô bảo lãnh của PVFC đã bị thu hẹp lại. Tuy nhiên công ty cũng không thể bỏ qua chi tiết đó mà cần phải kiểm tra, xem xét lại tại sao lại có sự tụt giảm nay, có thể do yêu cầu bảo lãnh của các doanh nghiệp trong ngành giảm xuống, cũng có thể do phía công ty mình đáp ứng chưa tốt các dịch vụ để từ đó có biện pháp khắc phục vấn đề.
Biểu đồ 2.1: Số lượng thư bảo lãnh qua các
(Nguồn: Phòng thu xếp vốn và tín dụng doanh nghiệp)
Giá trị bảo lãnh theo loại hình doanh nghiệp
Bảng 2.2. Giá trị bảo lãnh theo loại hình doanh nghiệp qua các năm
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Giá trị
Tỷ trọng
Giá trị
Tỷ trọng
DN trong ngành Dầu khí
147,912
80%
200,466
84%
DN thuộc các ngành khác
36,978
20%
38,184
16%
Tổng bảo lãnh
184,89
238,65
(Nguồn: Phòng thu xếp vốn và tín dụng doanh nghiệp)
Là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, Công ty tài chính Dầu khí thành viên 100% vốn của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam ra đời với phương châm hoạt động Vì sự phát triển vững mạnh của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Vì thế mà PVFC sẽ đáp ứng tối đa nhu cầu về vốn cho các dự án của Tập đoàn nên khách hàng chủ yếu của PVFC là các doanh nghiệp trong ngành Dầu khí. Trong hoạt động bảo lãnh công ty có hai khách hàng lớn và chủ yếu đó là Công ty cổ phần dịch vụ kỹ thuật Dầu khí (PTSC) và Công ty thiết kế và xây dựng Dầu khí (PVECC). Tính đến năm 2007 thì 84% khách hàng của công ty là trong ngành Dầu khí, tăng so với năm 2006 là 4%.
Trong số các doanh nghiệp trong ngành Dầu khí thì đến 90% là các doanh nghiệp lớn, là tổng công ty. Đối với những doanh nghiệp này PVFC thường cấp bảo lãnh theo hạn mức, ngoài ra PVFC còn ký những hợp đồng bảo lãnh theo món có tiền gửi đảm bảo. Đối với những doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp mới tỷ lệ ký quỹ thường là 100%.
Giá trị bảo lãnh theo từng loại hình
Bảng 2.3: Giá trị từng loại bảo lãnh qua các năm
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Giá trị
Giá trị
% tt so với 2005
Giá trị
% tt so với 2006
Bảo lãnh thanh toán
18,56
43,47
134,21%
50,62
16,45%
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
52,12
80,50
54,45%
87,68
8,92%
Bảo lãnh dự thầu
33,70
60,92
80,77%
100,35
64,72%
Tổng bảo lãnh
104,38
184,89
77,13%
238,65
29,08%
(Nguồn: Phòng thu xếp vốn và tín dụng doanh nghiệp)
Từ bảng số liệu trên ta có thể thấy tình hình hoạt động bảo lãnh của PVFC rất khả quan, tăng đều qua các năm và tốc độ tăng trưởng khá cao. Năm 2006 giá trị bảo lãnh tăng 77,13% so với năm 2005, đến năm 2007 tổng giá trị bảo lãnh lại tiếp tục tăng lên nhưng chậm hơn, chỉ tăng 29,08% so với năm 2006. Sở dĩ có sự xụt giảm đó là vì năm 2007 PVFC đã chuyển một số khách hàng quen của công ty cho tổ chức tín dụng khác, điều này cũng giải thích vì sao số lượng thư bảo lãnh năm 2007 lại giảm đi. Các loại bảo lãnh đều tăng cao vào năm 2006 và đến năm 2007 thì giảm xuống, chẳng hạn như bảo lãnh thực hiện hợp đồng năm 2006 tăng 54,45% song năm 2007 chỉ tăng 8,92%. Giá trị hợp đồng bảo lãnh dự thầu khá cao, đạt đến 100,35 tỷ đồng và đây là loại bảo lãnh có tốc độ tăng trưởng khá đều qua các năm. Sở dĩ như vậy vì khách hàng chính của công ty là những doanh nghiệp trong ngành dầu khí, thường có các dự án lớn phải thực hiện qua đấu thầu nên nhu cầu về bảo lãnh dự thầu nhiều.
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu bảo lãnh năm 2007
(Nguồn: Phòng thu xếp vốn và tín dụng doanh nghiệp)
Trong các loại bảo lãnh thì bảo lãnh dự thầu chiếm tỷ trọng cao nhất (42%), thấp nhất là bảo lãnh thanh toán (21%). Bảo lãnh dự thầu là loại bảo lãnh có rủi ro thấp mà giá trị các hợp đồng thường cao nên đây là một nguồn tạo lợi nhuận tốt cho công ty. Khi tham gia đấu thầu thì các nhà thầu đều mong được trúng thầu nên khả năng phải thực hiện nghĩa vụ cho khách hàng yêu cầu bảo lãnh dự thầu là rất ít. Và khi đã trúng thầu thì lại xuất hiện nhu cầu bảo lãnh thực hiện hợp đồng để bảo vệ lợi ích cho chủ đầu tư vì thế mà hai loại bảo lãnh này chiếm vị trí chính trong hoạt động bảo lãnh của PVFC.
Doanh thu: Doanh thu hoạt động bảo lãnh năm 2006 đạt 1 tỷ đồng, tăng 51,5% so với năm 2005 (đạt 660 triệu đồng). Do năm 2007, PVFC có giảm tỷ trọng khách hàng là doanh nghiệp không trong ngành Dầu khí nên mặc dù tổng giá trị bảo lãnh cao hơn năm 2006 nhưng doanh thu lại ít hơn (do phí bảo lãnh đối với doanh nghiệp không trong ngành cao hơn). Doanh thu bảo lãnh năm 2007 giảm 28,2% so với năm 2006 (đạt 780 triệu đồng). Doanh thu của hoạt động bảo lãnh chỉ chiếm khoảng 1% trên tổng doanh thu từ phí và dịch vụ của công ty. Đây là một con số khá nhỏ so với bình quân chung của các tổ chức tín dụng khác, chẳng hạn như: Năm 2007 chi nhánh ACB Hà Nội tỷ lệ này là 7,5% (theo nguồn báo cáo tổng hợp của chi nhánh ACB Hà Nội), của Sở giao dịch NH Đầu tư và phát triển là 45,5% (theo nguôn báo cáo tổng hợp tại SDG). Điều này cũng phản ánh phần nào quy mô hoạt động bảo lãnh của PVFC.
Tỷ lệ phát sinh nợ: Có thể nói rằng PVFC có tỷ lệ nợ phát sinh từ bảo lãnh mà nhiều tổ chức tín dụng khác phải mơ ước, vì hầu như không phát sinh nợ trong quá trình bảo lãnh. Trong trường hợp PVFC phải thực hiện nghĩa vụ hộ khách hàng thì khách hàng thường thanh toán ngay cho phía công ty nên công ty không phải hạch toán nợ cho khách hàng. Tỷ lệ này nói lên việc PVFC đã đạt được chất lượng tốt trong hoạt động bảo lãnh. Ta có thể so sánh tỷ lệ này với chi nhánh NH Công Thương Đống Đa, tỷ lệ này năm 2006 của chi nhánh là 6,39%, một con số khá lớn. Điều đó cho thấy khả năng quản trị rủi ro của Chi nhánh NH Công thương Đống Đa chưa được tốt, cũng như khả năng thẩm định khách hàng chưa đạt hiệu quả cao. Sở dĩ PVFC có được kết quả trên là vì công tác thẩm định khách hàng của PVFC rất chặt chẽ, ngoài ra còn do công ty thường nhận bảo lãnh cho những khách quen, những doanh nghiệp mà họ đã biết rõ tình hình tài chính và khả năng thực hiện nghĩa vụ của khách hàng nên khả năng xảy ra rủi ro là rất nhỏ. Tỷ lệ này là rất tốt song đây cũng chính là một vấn đề cần quan tâm, ta vẫn biết rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng cao vì thế nếu PVFC duy trì một tỷ lệ an toàn quá cao thì nó có thể làm giảm lợi nhuận của công ty xuống.
Thời gian xem xét hồ sơ: Sau khi CVKH tìm hiểu nhu cầu bảo lãnh của khách hàng, trong vòng không quá 3 ngày CVKH sẽ gửi báo cáo sơ bộ về khách hàng lên cho CVTD. CVTD tiến hành thẩm định tài chính, thẩm định TSĐB (nếu có) trong vòng không quá 5 ngày. Trong quá trình thẩm định nếu muốn có thêm thông tin thì CVTD phải phối hợp với CVKH yêu cầu khách hàng bổ sung.Việc thẩm định khoản bảo lãnh của khách hàng hoàn tất thì CVTD sẽ lập tờ trình cấp bảo lãnh. Tiếp đó, CVTD tập hợp toàn bộ hồ sơ bảo lãnh của khách hàng gửi Bộ phận thẩm định độc lập tiến hành thẩm định khoản bảo lãnh (nếu có). Và cuối cùng sau khi hoàn tất công tác thẩm định tín dụng và thẩm định độc lập, CVTD trình hồ sơ cấp bảo lãnh tới cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Vậy việc xem xét hồ sơ khách hàng tối đa là 8 ngày hoặc có thể lâu hơn (đối với trường hợp phải thẩm định độc lập). Khoảng thời gian này là không quá dài so với các tổ chức tín dụng khác, như chi nhánh NHCT Đống Đa việc xem xét hồ sơ tối đa là 10 ngày. Song công ty cũng cần nghiên cứu, xem xét để thời gian chờ đợi của khách hàng ngắn hơn, là ít nhất có thể.
Trên đây là những nét chính cần quan tâm khi nhắc đến hoạt động bảo lãnh của PVFC, và để có cái nhìn toàn diện hơn về hoạt động này thì ta sẽ sang phần 2.3: Đánh giá thực trạng hoạt động bảo lãnh của PVFC. Ở phần này sẽ chỉ ra những kết quả cũng như những hạn chế trong hoạt động bảo lãnh tại PVFC.
2.3. Đánh giá thực trạng hoạt động bảo lãnh tại PVFC
2.3.1. Kết quả đạt được
Qua một số phân tích ở trên ta có thể thấy hoạt động bảo lãnh của công ty có chất lượng khá tốt đó là:
- Phí bảo lãnh thấp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp trong ngành Dầu khí (1%)
- Tỷ lệ nợ phát sinh trong quá trình bảo lãnh gần như bằng không
- Giá trị bảo lãnh cao (năm 2007, tổng giá trị bảo lãnh đạt 238,65 tỷ đồng)
- Đạt được sự cân đối trong cơ cấu bảo lãnh (Bảo lãnh dự thầu đạt 42%, bảo lãnh thực hiện hợp đồng 37%, bảo lãnh thanh toán 21%)
- Công ty thực hiện nghĩa vụ với bên nhận bảo lãnh ngay từ lần yêu cầu đầu tiên.
Đối với PVFC, hoạt động bảo lãnh gần như rất đơn giản, không phải chi tiền ra trước khi ký hợp đồng, chỉ phải xuất tiền khi phải thực hiện nghĩa vụ hộ khách hàng và thường thì ngay khi PVFC thông báo, phía khách hàng sẽ hoàn trả lại cho công ty. Chính vì thế mà hoạt động bảo lãnh là hoạt động đem lại thu nhập cao cho PVFC mà chi phí bỏ ra thì không nhiều.
Những kết quả trên đạt được là nhờ phía PVFC có được mối quan hệ tốt với khách hàng, đa phần khách hàng là khách quen, và đối với những khách hàng mới thì PVFC cố gắng tạo dựng mối quan hệ làm ăn lâu dài. Chính yếu tố về chất lượng khách hàng đã tạo ra sự thuận lợi, sự đơn giản trong hoạt động bảo lãnh. Ta cũng không thể không nói đến khả năng thẩm định chất lượng khách hàng của các cán bộ tín dụng, đây là yếu tố quan trọng tạo nên thành công của hoạt động bảo lãnh PVFC.
Ngoài những yếu tố thuộc về phía công ty những thành công đó có được còn nhờ môi trường chính trị ở Việt Nam rất ổn định, điều này giúp việc kinh doanh thuận lợi hơn, cơ hội kinh doanh trong và ngoài nước được mở rộng hơn. Và khi các hoạt động kinh doanh phát triển thì các dịch vụ đi kèm cũng phát triển theo, trong đó có hoạt động bảo lãnh.
Nhìn chung, PVFC đã tạo được uy tín đối với khách hàng trong lĩnh vực bảo lãnh.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế của việc mở rộng hoạt động bảo lãnh tại PVFC
Đối tượng khách hàng: Số lượng khách hàng chưa nhiều và chưa đa dạng. Như ở phần trên đã nói, PVFC thường chỉ nhận bảo lãnh cho những khách hàng quen và hoạt động trong ngành Dầu khí (năm 2007, số doanh nghiệp trong ngành Dầu khí chiếm 84%). Trong số các doanh nghiệp trong ngành Dầu khí thì có đến 90% là các doanh nghiệp lớn. Điều đó cho thấy PVFC chưa chú trọng đến đối tượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà mới chỉ tập trung vào các doanh nghiệp lớn. Những doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là một đối tượng cần được quan tâm vì nếu doanh nghiệp đó có năng lực, có khả năng phát triển và lại được sự giúp đỡ của các tổ chức tài chính thì những doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay có thể phát triển thành doanh nghiệp lớn trong tương lai.
Tỷ trọng doanh thu từ bảo lãnh chưa cao: Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh chỉ chiếm 1% trên tổng doanh thu từ phí và dịch vụ. Con số này cho thấy hoạt động bảo lãnh vẫn chưa chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động chung của PVFC.
Việc xem xét hồ sơ chưa nhanh: Từ khi CVKH biết được nhu cầu bảo lãnh của khách hàng đến lúc ký hợp đồng bảo lãnh với khách hàng mất tối đa 8 ngày làm việc, nếu khách hàng thuộc diện phải thẩm định độc lập thì thời gian xem xét hồ sơ còn kéo dài hơn nữa.
Nguyên nhân
Nguyên nhân chủ quan
Một là: Chính sách của công ty. Hoạt động bảo lãnh vẫn chưa được chú trọng đến mặc dù đây là nguồn đem lại doanh thu khá an toàn cho PVFC. Trong các báo cáo, tổng kết hoạt động từng thời kỳ của PVFC hoạt động bảo lãnh không được nhắc đến, kết quả của nó chỉ được gộp vào trong kết quả của hoạt động tín dụng nói chung. Đối với PVFC hoạt động bảo lãnh là một hoạt động rất nhỏ, chỉ là một dịch vụ đi kèm cho các dịch vụ khác. Chẳng hạn như khi cho khách hàng vay để thanh toán tiền hàng thì kết hợp bảo lãnh thanh toán cho khách hàng đó, hay như cam kết cho khách hàng vay vốn nếu trúng thầu và đồng thời bảo lãnh dự thầu cho khách hàng đó. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ doanh thu từ bảo lãnh trên tổng thu từ phí và dịch vụ.
Mục tiêu chính trong quá trình phát triển của PVFC là phục vụ tốt nhu cầu vốn cho Tổng công ty Dầu khí Việt Nam nên PVFC ưu tiên cho những doanh nghiệp trong ngành Dầu khí và những doanh nghiệp cung cấp nguyên vật liệu phục vụ trực tiếp cho sự phát triển ngành Dầu khí. Chính vì thế mà khách hàng bảo lãnh của công ty chưa được đa dạng. Bên cạnh đó, những công trình mà Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đầu tư toàn là những công trình lớn nên đối tác của họ cũng đa phần là doanh nghiệp lớn. Chính vì thế mà khách hàng bảo lãnh của công ty ít có doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hai là: Quy trình bảo lãnh. Để có được hợp đồng bảo lãnh khách hàng phải vượt qua 3 vòng xem xét, thẩm định của CVKH, CVTD và Bộ phận thẩm định độc lập. Mà theo quy chế hoạt động tín dụng của PVFC thì việc thẩm định độc lập chỉ trừ các khoản tín dụng đối với Tập đoàn Dầu khí, công ty con của Tập đoàn đã được Tập đoàn phê duyệt thẩm định hoặc chỉ định vay vốn. Quy trình này có thể hơi khắt khe quá vì thế có nhiều doanh nghiệp không đáp ứng được yêu cầu của PVFC. Hơn nữa trong quá trình thẩm định tín dụng CVTD muốn có thêm thông tin từ phía khách hàng thì phải phối hợp với CVKH, điều này làm mất thời gian trong quá trình thẩm định.
Ba là: Cán bộ tín dụng còn thiếu kinh nghiệm. Đội ngũ cán bộ thực hiện bảo lãnh tuy có trình độ chuyên môn cao, hầu hết là ở mức đại học trở lên song còn trẻ và thiếu kinh nghiệm thực tế. Có nhiều cán bộ tín dụng vừa mới tốt nghiệp Đại học nhưng đã được nhận làm việc tại PVFC, đây là mơ ước của rất nhiều sinh viên, song do kiến thức được học ở trường và thực tế có nhiều khác biệt nên không thể tránh khỏi bỡ ngỡ, lung túng trong công việc. Điều này làm ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động và thời gian thực hiện công việc.
Bốn là: Hoạt động Marketing chưa tốt. PVFC vẫn chưa xây dựng được một chiến lược marketing thực sự hiệu quả, đặc biệt là trong hoạt động bảo lãnh. PVFC chưa tích cực tìm kiếm khách hàng có nhu cầu bảo lãnh mà thường chờ khách hàng tìm đến với mình. Điều đó cũng sẽ làm hạn chế lượng khách hàng đến với công ty vì hiện giờ có rất nhiều tổ chức tín dụng khác cung cấp các dịch vụ tài chính cũng rất tốt nên nếu ta không nhanh chóng chớp cơ hội thì sẽ có tổ chức tín dụng khác đứng ra đảm nhiệm. Đây là một yếu tố không thể xem nhẹ trong sự cạnh tranh hiện nay.
Nguyên nhân khách quan
Môi trường pháp lý về hoạt động bảo lãnh tại Việt Nam đã dần đi vào ổn định. Tuy nhiên, do một số quy định chưa cụ thể, rõ ràng nên gây khó khăn trong quá trình thực hiện. Chẳng hạn như tại điều 11 NĐ 85/2002/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung NĐ 178/1999/CP về việc bảo đảm tiền vay có quy định TSĐB được sử dụng để đảm bảo thực hiện nhiều nghĩa vụ trả nợ tại một hoặc nhiều tổ chức tín dụng. Quy định cho phép tổ chức tín dụng được nhận thế chấp một TSĐB cho nghĩa vụ trả nợ của khách hàng miễn là tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm giá trị TSĐB lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ trả nợ của khách hàng. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện việc đăng ký thế chấp một TSĐB đã được thế chấp cho một nghĩa vụ mới phát sinh thường gặp vướng mắc. Đó là, cơ quan công chứng yêu cầu có dấu xóa thế chấp trên giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản của cơ quan đăng ký TSĐB. Để thực hiện điều này NH và khách hàng phải xóa đăng ký với khoản tín dụng mà tài sản được thế chấp, phải xác nhận nghĩa vụ đảm bảo đã hoàn thành nhưng trên thực tế là nghĩa vụ đảm bảo của khoản vay hay bảo lãnh chưa hoàn thành.
Ngoài ra, khi thay đổi giá trị TSĐB đã thế chấp để thực hiện cho nghĩa vụ mới, cơ quan công chứng thường yêu cầu giải chấp tài sản để công chứng lại hợp đồng thế chấp. Để thực hiện điều này NH hoặc là thanh lý hợp đồng tín dụng cũ hoặc là mở một hợp đồng tín dụng mới bao gồm dư nợ của hợp đồng cũ và dư nợ mới phát sinh. Nhưng nếu thanh lý hợp đồng tín dụng cũ thì sẽ gây khó khăn cho khách hàng, còn nếu mở một hợp đồng tín dụng mới lại gây khó khăn cho NH vì mục đích, loại tiền, lãi suất, thời hạn của mỗi hợp đồng cũ và mới khác nhau nhưng hợp đồng thế chấp lại chỉ dẫn chiếu tới hợp đồng mới. Điều này là bất hợp lý. Trong quá trình đăng ký thế chấp đối với TSĐB cho nhiều nghĩa vụ, các tổ chức tín dụng sau phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản trong khi các tổ chức tín dụng nhận thế chấp, bảo đảm trước đó lại giữ giấy tờ này, vì thế gây khó khăn cho NH và khách hàng.
CHƯƠNG 3 – GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG
BẢO LÃNH TẠI PVFC
3.1. Định hướng hoạt động bảo lãnh của PVFC
3.1.1. Định hướng chung
Trong thời gian tới Công ty Tài chính Dầu khí sẽ phấn đấu trở thành Tập đoàn tài chính hàng đầu tại Việt Nam. Đến năm 2015 Công ty Tài chính Dầu khí sẽ là Tập đoàn tài chính quan trọng nhất, là xương sống trong các định chế tài chính khác của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, đáp ứng được tối đa nhu cầu vốn cho các dự án của Tập đoàn. Cụ thể trong giai đoạn 2007-2010, PVFC sẽ cố gắng đạt được một số chỉ tiêu sau:
- Nhanh chóng hoàn thiện trở thành Tập đoàn Tài chính Dầu khí
- Tốc độ tăng trưởng bình quân trong tất cả các hoạt động đạt trên 30%/năm.
- Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/Vốn điều lệ: 15 - 17 %.
- Tỷ lệ cổ tức/Vốn điều lệ: 7 - 9 %.
- Giá trị doanh nghiệp năm 2010 tương đương 3 tỷ USD.
Để thực hiện được các chỉ tiêu đề ra, PVFC đã đưa ra định hướng phát triển cụ thể, đó là:
- Tiếp tục giữ vững tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu, hoàn thành các chỉ tiêu hoạt động giai đoạn 2007 - 2025.
- Hoàn thành các nhiệm vụ quan trọng xây dựng Tập đoàn Dầu khí theo phân công: Đổi mới doanh nghiệp; Đảm bảo thu xếp vốn tín dụng cho các dự án đầu tư trong ngành;
- Hoàn thiện bộ máy tổ chức và cơ cấu bộ máy điều hành Công ty: Hoàn thành việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động gắn với triển khai các nhiệm vụ chiến lược và phù hợp với yêu cầu thị trường, tổ chức khoa học hợp lý theo mô hình Tập đoàn tài chính.
Về mạng lưới hoạt động:
Hoàn thành cơ bản việc thành lập các Chi nhánh và công ty con: Hoàn thành việc thành lập mới 18 Chi nhánh trong nước, 1- 2 Chi nhánh tại nước ngoài (Hồng Kông – Singapo), 3 Công ty tài chính khu vực Bắc, Trung, Nam. Hoàn thành việc thành lập 5 công ty con (Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư Tài chính Dầu khí, Công ty cổ phần đầu tư và tư vấn tài chính Dầu khí, Công ty cổ phần Chứng khoán Tài chính Dầu khí, Công ty cổ phần Bất động sản Tài chính Dầu khí, Công ty truyền thông Tài chính Dầu khí). Thành lập mới, mua hoặc đầu tư cổ phần vào các ngân hàng, Công ty tài chính, Công ty chứng khoán, Công ty cho thuê tài chính,...
Chuẩn hoá hoạt động của các phòng giao dịch, chi nhánh.
Về nhân sự:
Có đủ bộ máy lãnh đạo từ cấp trưởng phòng trở lên;
Tuyển dụng đủ các vị trí quản lý, kinh doanh chủ chốt;
Tuyển dụng, đào tạo cán bộ theo chương trình có mục tiêu để hình thành đội ngũ chuyên gia cho Công ty.
- Chuẩn bị các điều kiện cơ sở vật chất và các điều kiện khác để hội nhập: Hoàn thiện hệ thống các văn bản quản lý của Công ty, gồm các quy định, quy chế và quy trình nghiệp vụ. Chuẩn hoá các nghiệp vụ. Xây dựng mới hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển của Công ty.
3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động bảo lãnh của PVFC
Riêng về hoạt động bảo lãnh, PVFC ra chỉ tiêu năm 2008 doanh thu từ bảo lãnh phải tăng 1,8 lần so với năm 2007, lợi nhuận tăng 80% so với năm trước.
Giá trị bảo lãnh năm nay tăng 2 lần so với năm 2007 tức là khoảng 477,30 tỷ đồng. Và phải duy trì được mức độ an toàn của các khoản bảo lãnh như các năm trước.
Về đối tượng khách hàng, PVFC định hướng sẽ vẫn chú trọng đến những doanh nghiệp trong ngành Dầu khí nhưng thu hút thêm nhiều doanh nghiệp mới ngoài những khách hàng đã quen biết trước kia.
3.2. Giải pháp mở rộng hoạt động bảo lãnh tại PVFC
Xu hướng tự do hóa, toàn cầu hóa nền kinh tế, quốc tế hóa các luồng tài chính của doanh nghiệp đã làm thay đổi căn bản hệ thống các tổ chức tín dụng. Hoạt động kinh doanh trở nên phức tạp hơn, cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng lớn hơn, cùng với nó mức độ rủi ro cũng cao hơn. Những thách thức đó đòi hỏi các tổ chức tín dụng nói chung và PVFC nói riêng phải không ngừng hoàn thiện mình về mọi mặt để phát triển hoạt động bảo lãnh một cách hiệu quả, đảm bảo cả về doanh thu cũng như chất lượng bảo lãnh. Dưới đây là một số giải pháp cho vấn đề này.
3.2.1. Hoàn thiện chính sách về hoạt động bảo lãnh
Một điều hết sức quan trọng đối với sự phát triển của hoạt động bảo lãnh tại PVFC đó chính là nhận thức về vai trò của hoạt động này trong hoạt động chung của cả công ty. Hiện nay, tại PVFC hoạt động bảo lãnh chỉ được coi là một dịch vụ đi kèm cho các hoạt động khác, chưa được chú trọng phát triển, tỷ trọng của doanh thu từ bảo lãnh còn thấp. Vì thế PVFC nên coi đây là hoạt động cần được phát triển, cần được mở rộng hơn nữa vì đây là một nguồn đem lại lợi nhuận lớn cho công ty mà rủi ro lại thấp.
Về đối tượng khách hàng: Vẫn với mục tiêu ưu tiên cho những khách hàng trong ngành Dầu khí và các lĩnh vực phục vụ trực tiếp cho sự phát triển của Tập đoàn Dầu khí, nhưng PVFC có thể thay đổi chính sách hoạt động của mình cho phù hợp hơn. Chẳng hạn như, trước đây công ty thường chỉ nhận bảo lãnh cho những khách hàng quen và những doanh nghiệp lớn thì nay có thể mở rộng phạm vi bảo lãnh đến đối tượng là những khách hàng mới, là những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Với sự thay đổi này PVFC vẫn thực hiện đúng mục tiêu vì sự phát triển của Tập đoàn Dầu khí mà vẫn mở rộng được hoạt động bảo lãnh.
Đây là giải pháp cần được ưu tiên thực hiện đầu tiên, ban lãnh đạo nên xem xét, chỉnh sửa phần đối tượng khách hàng trong Quy chế tín dụng của PVFC, sau đó gửi thông báo đến cho các phòng, ban để nhân viên nắm bắt được những thay đổi trong quy chế. Giải pháp này không tốn nhiều kinh phí, thời gian và có thể dễ dàng thực hiện, chủ yếu là do quan niệm của ban lãnh đạo công ty đối với hoạt động bảo lãnh.
3.2.2. Nâng cao kiến thức nghiệp vụ và kinh nghiệm cho chuyên viên tín dụng
Giải pháp mang tính cấp thiết thứ hai là phải nâng cao kiến thức nghiệp vụ và kinh nghiệm cho CVTD. Trung tâm đào tạo nên phối hợp với phòng kế hoạch để mở những buổi tập huấn, trao đổi kinh nghiệm cho những cán bộ trẻ. Những người có thâm niên công tác có thể truyền đạt những kinh nghiệm, những bài học cũng như những lưu ý cần ghi nhớ trong quá trình làm việc, điều đó sẽ giúp cho những cán bộ trẻ bớt lúng túng hơn trong công việc. Ngoài ra, đối với những cán bộ vừa mới ra trường thì trung tâm đào tạo nên bồi dưỡng cho họ thêm về kiến thức nghiệp vụ, lớp học này sẽ cung cấp cho họ cách thức để có thể bắt tay vào làm việc luôn chứ không chỉ là kiến thức đã học ở trường. Một khi kiến thức đã nắm vững và đã có kinh nghiệm thì công việc có thể diến ra tốt đẹp, thời gian hoàn thành sẽ ngắn lại.
Những buổi tập huấn, buổi học kiến thức nghiệp vụ có thể tổ chức vào các ngày nghỉ, tuy nhiên việc đào tạo này không nên kéo dài quá vì như thế có thể làm cho nhân viên mệt mỏi do không có ngày nghỉ, tốt nhất chỉ nên kéo dài trong khoảng 1 tuần. Việc đào tạo này chủ yếu là do những cán bộ có kinh nghiệm truyền đạt lại cho những người đi sau, chứ không phải mời các thầy cô ở các trường Đại học đến dạy vì những kiến thức đó họ đã được trang bị trước khi vào làm tại PVFC. Chính vì thế mà giải pháp này không tốn nhiều kinh phí. Song giải pháp này đòi hỏi các cán bộ phải có sự ủng hộ đối với công ty và phải nỗ lực do tốn thời gian.
3.2.3. Điều chỉnh quy trình thực hiện bảo lãnh
Giải pháp mang tính cấp thiết thứ ba là điều chỉnh quy trình thực hiện bảo lãnh. Trước đây, sau khi CVKH tiếp xúc và tìm hiểu nhu cầu bảo lãnh của khách hàng thì trong vòng không quá 3 ngày CVKH phải có báo cáo sơ bộ gửi CVTD để thẩm định bảo lãnh. Thiết nghĩ việc CVKH phải lập báo cáo gửi cho CVTD là không cần thiết vì những nội dung trong báo cáo sơ bộ đó đều có trong việc thẩm định bảo lãnh (phần thẩm định tín dụng khách hàng). Sau khi biết được nhu cầu của khách hàng thì CVKH có thể chuyển cho bên CVTD tiến hành thẩm định luôn và trong quá trình thẩm định CVTD có thể liên lạc trực tiếp với khách hàng để yêu cầu cung cấp thêm thông tin thay vì phải thông qua CVKH như trước. Như thế thời gian xem xét hồ sơ có thể rút ngắn lại 1, 2 ngày so với trước kia.
Ngoài ra, công ty có thể nới lỏng hơn trong việc thẩm định. Những khách hàng là công ty lớn, có uy tín thì có thể không cần tiến hành thẩm định độc lập vì uy tín của họ đã được công nhận, tạo niềm tin cho công ty.
Bộ phận khách hàng và bộ phận thẩm định tín dụng sẽ chịu trách nhiệm thực hiện giải pháp này.
3.2.4. Tiếp nhận, xử lý tài sản đảm bảo cẩn trọng và linh hoạt
PVFC cần tiếp tục duy trì sự linh hoạt trong việc quy định tỷ lệ ký quỹ và TSĐB. Tùy từng loại sản phẩm bảo lãnh, tùy từng xếp hạng doanh nghiệp mà có mức ký quỹ hợp lý. Đối với những doanh nghiệp xếp hạng A, sử dụng bảo lãnh dự thầu có thì mức yêu cầu ký quỹ có thể là bằng 0. PVFC có thể linh hoạt kết hợp ký quỹ ở một tỷ lệ nhất định với các biện pháp bảo đảm TSĐB dễ dàng phát mại khi rủi ro xảy ra. Đối với hồ sơ về TSĐB thì cần kiểm tra kỹ xác nhận của các cơ quan công chứng nhà nước. Công tác đánh giá tài sản thế chấp phải đảm bảo đến giá trị hiện tại và dự đoán những biến động.
Khi có rủi ro xảy ra cần xử lý linh hoạt TSĐB, tìm mọi biện pháp phù hợp ít gây tổn thất cho khách hàng và đảm bảo công ty thu hồi vốn nhanh. Tuy nhiên, ký quỹ và TSĐB chỉ là những biện pháp phòng ngừa rủi ro, không phải là những điều kiện kiên quyết để công ty bảo lãnh cho khách hàng. Trong quá trìng bảo lãnh, PVFC cần không ngừng kiểm tra, giám sát đôn đốc doanh nghiệp thực hiện tốt hợp đồng. Nếu thấy có rủi ro, PVFC cần tư vấn giúp đỡ khách hàng, nếu không thể cứu vãn thì cần có biện pháp xử lý kịp thời để giảm thiểu tối đa thiệt hại.
CVTD chịu trách nhiệm thực hiện giải pháp này. Giải pháp này đòi hỏi các CVTD phải nhanh nhạy và cẩn thận trong quá trình làm việc.
3.2.5. Đẩy mạnh hoạt động quảng cáo
Giải pháp cuối cùng là phải đẩy mạnh hoạt động quảng cáo. Muốn mở rộng hoạt động bảo lãnh trước tiên phải làm cho khách hàng biết đến công ty cũng như những ưu việt khi sử dụng dịch vụ của công ty. Để làm được việc đó, phòng thị trường và phát triển sản phẩm cần đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, giới thiệu tới khách hàng hình ảnh một công ty uy tín như: quảng cáo trên báo, trên truyền hình, đưa ra các chương trình khuyến mãi hỗ trợ khách hàng Thực tế hiện nay PVFC không mấy khi quảng cáo trên báo cũng như thông báo về chương trình khuyễn mãi của công ty. Các tổ chức, cá nhân biết đến PVFC là do uy tín của PVFC đã được khẳng định song ngoài những người, những tổ chức đã là khách hàng của công ty thì vẫn có nhiều người chưa biết đến những lợi ích khi sử dụng dịch vụ của công ty. Vì thế, để có thêm nhiều khách hàng quen hơn nữa PVFC nên để ý đến việc quảng cáo các sản phẩm của mình tới đông đảo cá nhân, tổ chức kể cả những tổ chức ngoài ngành để họ biết rằng PVFC còn cung cấp các dịch vụ đó không chỉ cho các doanh nghiệp trong ngành và khi sử dụng dịch vụ của PVFC họ sẽ được hưởng nhiều lợi ích.
Giải pháp này tốn nhiều kinh phí nhất so với các giải pháp đã nêu ra nhưng lại là giải pháp mang tính cấp thiết thấp nhất đối với PVFC. Chính vì thế mà công ty có thể xem xét thực hiện sao cho hợp lý nhất.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Chính Phủ và các cơ quan nhà nước
Tạo ra một môi trường pháp lý đầy đủ và đồng bộ cho hoạt động bảo lãnh. Họat động bảo lãnh mới chỉ hình thành và phát triển trong mấy năm gần đây nên việc xây dựng một hành lang pháp lý đầy đủ và đồng bộ là một yêu cầu cần thiết đối với sự phát triển của hệ thống các tổ chức tín dụng. Việc xây dựng hành lang pháp lý đòi hỏi sự phối hợp của nhiều bộ ngành có liên quan như Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, NHNN
Tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi. Bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào muốn phát triển tối đa thì phải nằm trong một môi trường kinh doanh thuận lợi, đặc biệt đối với kinh doanh trong lĩnh vực của các tổ chức tín dụng. Do vậy, Chính phủ cần hoàn thiện cơ chế thị trường theo đúng nghĩa. Các chính sách mở cửa kích thích đầu tư hợp tác kinh tế trong và ngoài nước cũng cần tiếp tục triển khai, cần sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ với nhau. Các chủ thể kinh tế cần phải có vị trí bình đẳng trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo, tạo động lực cho họ tập trung phát triển có chiến lược và hiệu quả hơn.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Trong bối cảnh thị trường tài chính – tiền tệ của Việt Nam đang từng bước hội nhập với khu vực và thế giới thì việc hoàn thiện môi trường pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế là điều hết sức cần thiết.
Đầu tiên, để giải quyết những vướng mắc khi áp dụng giới hạn tối đa cho hoạt động cho vay và bảo lãnh, một số nước chỉ đưa ra một giới hạn chung từ 20% - 40% trên tổng vốn tự có của tổ chức tín dụng. Quy định này tỏ ra có hiệu quả giúp cho các tổ chức tín dụng: giúp cho các tổ chức tín dụng linh hoạt hơn trong việc quyết định cho vay hay bảo lãnh cho khách hàng để đạt hiệu quả cao nhất. Quy định này còn giúp cho việc quản trị rủi ro của các tổ chức tín dụng được chặt chẽ và sát với thực tế hơn. Vì vậy NHNN cũng nên xem xét việc đưa ra một khoảng giới hạn chung chung cho hoạt động bảo lãnh và cho vay.
Tiếp theo, trung tâm Thông tin tín dụng NHNN cần phát huy hơn nữa vai trò hỗ trợ, cung cấp thông tin của doanh nghiệp cho các tổ chức tín dụng trong quá trình thẩm định dự án và quản lý các khoản bảo lãnh. Đồng thời NHNN cần kiểm tra giám sát hoạt động bảo lãnh, kịp thời phát hiện những sai sót vướng mắc trong quá trình thực hiện và có biện pháp điều chỉnh, xử lý kịp thời.
3.3.3. Kiến nghị với PVFC
Xây dựng và hoàn thiện chính sách tín dụng nói chung và chính sách bảo lãnh nói riêng, thống nhất trong toàn hệ thống làm cơ sở và kim chỉ nam cho hoạt động bảo lãnh.
Tập trung công tác đào tạo cán bộ: tổ chức các lớp tập huấn, nâng cao trình độ cán bộ tín dụng. Ngoài việc nâng cao trình độ chuyên môn cần tập trung đào tạo cho các cán bộ kỹ năng giao tiếp, khả năng thuyết phục khách hàng để duy trì khách hàng, mặt khác duy trì uy tín của PVFC trên thị trường.
Tiếp tục công tác hiện đại hóa công nghệ, thực hiện mối liên kết chặt chẽ giữa các chi nhánh, qua đó dễ dàng cho công tác truyền tin và cập nhật thông tin khi cần thiết, thuận lợi cho công việc quản lý.
KẾT LUẬN
Nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng thể hiện rõ vai trò quan trọng của mình, nó giúp doanh nghiệp tạo được sự tin tưởng của đối tác, còn với các tổ chức tín dụng nó làm tăng uy tín cũng như thu nhập của tổ chức tín dụng đó. Vì thế mà các tổ chức tín dụng, trong đó có Công ty tài chính Dầu khí luôn phấn đấu để mở rộng hoạt động bảo lãnh cả về quy mô và chất lượng.
Xuất phát từ quan điểm đó, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn tại PVFC, chuyên đề này đã giải quyết được những vấn đề sau:
Thứ nhất: Trình bày những vấn đề lý luận tổng quát về mô hình Công ty tài chính và hoạt động bảo lãnh tại Công ty tài chính
Thứ hai: Phân tích thực trạng hoạt động bảo lãnh qua các năm 2004, 2005 và năm 2006, đánh giá những kết quả đạt được cũng như chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó
Thứ ba: Đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để mở rộng hoạt động bảo lãnh tại PVFC
Do thời gian thực tập không nhiều và trình độ còn hạn chế nên chuyên đề này khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô cùng tất cả các bạn để chuyên đề này được hoàn thiện hơn, đóng góp một phần nhỏ giúp mở rộng hoạt động bảo lãnh tại PVFC trong thời gian tới.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo - Th.s Lê Thu Thủy và cô Phan Hồng Mai cùng các anh chị cán bộ Công ty tài chính Dầu khí đã tận tình giúp đỡ để em hoàn thành chuyên đề này!
Danh sách tài liệu tham khảo
Giáo trình Tài chính Doanh nghiệp, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2006
Giáo trình Tài chính Doanh nghiệp, NXB Thống kê, năm 2005
Giáo trình Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ, NXB Thống kê, năm 2002
Quyết định 283/2000/QĐ-NHNN14 ban hành ngày 25/08/2000 về việc ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng
Nghị định 178/1999/NĐ-CP ban hành ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng
Nghị định 85/2002/NĐ-CP ban hành ngày 25/10/2002 sửa đổi bổ sung cho Nghị định 178/199/NĐ-CP
Ý KIẾN CỦA CƠ SỞ THỰC TẬP
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7649.doc