Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi khôi phục và phát triển các nghề truyển thống của địa phương có sản phẩm đã được thị trường trong và ngoài nước chấp nhận.
Huy động mọi nguồn lực cho đầu tư du nhập và phát triển các nghề mới, làng nghề mới thu hút nhiều lao động, có hiệu quả kinh tế, trước mắt tập trung phát triển các nghề: chế biến nông, lâm sản; sản xuất vật liệu xây dựng; cơ khí nhỏ và dịch vụ phục vụ nông nghiệp.
Phát triển làng nghề theo hướng đa dạng hoá hình thức sở hữu và các loại hình tổ chức sản xuất (hộ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp, tổ hợp tác, hợp tác xã ), tạo ra sự liên kết hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển.
Mở rộng và phát triển các làng nghề theo hướng hình thành các cụm sản xuất tiểu thủ công nghiệp quy mô nhỏ và vừa.
Phát triển làng nghề gắn với hoạt động văn hoá, du lịch và bảo vệ sinh thái; làng nghề làm vệ tinh cho các doanh nghiệp, các khu công nghiệp.
78 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1432 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển kinh tế làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
100
8
Đông Thượng
1,350,000
2,250,000
30,000
50,000
90
10
9
Đông Thắng
24,000
216,000
80
720
100
10
Thuận Lý
12,600
113,400
70
630
100
11
Song Khê
24,000
576,000
40
960
100
12
Cầu Thượng
4,000
96,000
40
960
100
13
Cầu Hạ
2,000
16,000
50
400
90
10
14
Lực
8,000
30,000
80
300
100
15
Cẩm Trang
38,900
124,480
100
320
100
16
An Lập
3,000
48,000
50
800
100
17
Đông am Vàng
36,000
570,000
1,200
19,000
60
40
18
Mai Thượng
247,800
531,000
700
1,500
100
19
Trung Hưng
30,000
150,000
100
500
100
20
Gai Bún
26,000
100
100
21
Sau
70,000
70,000
1,000
1,000
90
10
22
Tiêu
29,000
29,000
1,000
1,000
100
23
Chùa (ĐM)
300,000
3,000
15,000
150
100
24
Phú Giã
200,000
20,000
2,000
200
100
25
Thủ Dương
2,100,000
700,000
15,000
5,000
5
95
26
Yên Bái
1,300,000
130,000
20,000
2,000
95
5
27
Đèo Cà
1,500,000
175,000
30,000
3,500
90
10
28
Cầu Gụ
2,170,000
280,000
31,000
4,000
80
20
29
Bo Chợ
3,937,000
508,000
31,000
4,000
80
20
30
Sỏi
15,000
100
100
31
Bãi ổi
610,000
1,220,000
10,000
20,000
50
50
32
Minh Hưng
1,100,000
660,000
50,000
30,000
100
33
Mé
968,000
1,452,000
8,000
12,000
80
20
Tổng cộng
63,414,800
29,709,380
523,610
271,840
Bình quân
1,921,661
900,284
15,867
8,238
84
16
(Theo sở Công Thương Bắc Giang)
Từ bảng số liệu trên ta thấy về hình thức đầu tư vốn, các ngành này chủ yếu sử dụng vốn tự có. Cơ cáu vốn bình quân gồm 84% là vốn tự có, 16% là vốn vay. Chính vì quy mô sản xuất gia đình và sử dụng lượng vốn tự có để tiến hành sản xuất nên lượng vốn đầu tư cho sản xuất thấp. Hình thức vốn tín dụng được xác định là hình thức đầu tư vốn quan trọng trong phát triển nông nghiệp nông thôn lại không được tiến hành rộng rãi đối với phát triển sản xuất của các làng nghề Bắc Giang. Vốn vay tín dụng chủ yếu tập trung tại các nghề vận tải đường thuỷ, nghề mộc, một phần cho khai thác vật liệu xây dựng và nghề đúc rèn kim loại do tỷ lệ hoàn vốn cao hơn các ngành khác. Như vậy, một mặt làng nghề phát triển cũng góp phần giúp nông thôn Bắc Giang đẩy mạnh thu hút vốn trong dân đưa vào sản xuất tạo ra giá trị cho xã hội và cho bản thân chủ cơ sở sản xuất. Lượng vốn ở mỗi cơ sở không nhiều nhưng tính trên toàn khu vực nông thôn thì con số này là hơn 93.124 triệu đồng. Mặt khác, cũng lại thấy rằng do vốn đầu tư thấp làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và nhiều yếu tố khác nữa như tiêu thụ và xử lý rác thải... Nó cũng thể hiện tính chất sản xuất nhỏ, tính thủ công trong sản xuất. Về lâu dài tiến lên sản xuất hàng hoá lớn buộc phải tăng lượng vốn đầu tư cho các cơ sở sản xuất. Ta cũng thấy rằng vốn tín dụng không phát huy được vai trò tích cực của nó đối với sản xuất của làng nghề. Trong tình trạng thiếu vốn sản xuất, vốn tín dụng nếu được sử dụng hợp lý sẽ có tác dụng hỗ trợ phát triển rất to lớn. Do đó trong thời gian tới cần có những biện pháp đối với vốn tín dụng để vốn tín dụng có thể được sử dụng nhiều hơn ở khu vực kinh tế làng nghề.
2.3. Kết quả của phát triển kinh tế làng nghề
2.3.1. Thu nhập của lao động làng nghề
Bảng 2.6 : Thu nhập của lao động làng nghề
Đơn vị : 1000 đồng
TT
Tên làng nghề
Thu nhập của
làng từ làm
nghề/tháng
Thu nhập của hộ làng
nghề/1tháng
Thu nhập của
người làm
nghề / 1 tháng
Thu nhập khác
Thu nhập
từ làm nghề
1
Yên Viên
177,000
100
300
120
2
Thổ Hà
825,000
100
1,500
330
3
Nguyệt Đức
429,000
3,300
1,320
4
Phúc Long
384,000
300
800
350
5
Chùa
360,000
150
1,200
400
6
Bẩy
500,000
200
1,000
330
7
Chằm
109,200
200
1,200
400
8
Đông Thượng
187,200
4,160
1,040
9
Đông Thắng
180,000
200
600
400
10
Thuận Lý
243,000
100
1,350
450
11
Song Khê
720,000
100
1,200
500
12
Cầu Thượng
60,000
100
600
300
13
Cầu Hạ
28,000
100
700
350
14
Lực
180,000
100
1,800
800
15
Cẩm Trang
294,084
80
756
189
16
An Lập
60,000
6,700
1,000
500
17
Đông am Vàng
26,250
325
875
300
18
Mai Thượng
293,820
370
830
200
19
Trung Hưng
390,000
200
1,300
500
20
Gai Bún
312,000
200
1,200
550
21
Chùa (ĐM)
70,000
300
1,000
330
22
Sau
31,900
200
1,100
800
23
Tiêu
20,000
200
1,000
750
24
Phú Giã
87,400
400
874
218
25
Thủ Dương
224,000
200
1,600
700
26
Yên Bái
97,500
100
1,500
750
27
Đèo Cà
75,000
100
1,500
600
28
Cầu Gụ
280,000
4,000
1,200
29
Bo Chợ
508,000
4,000
420
30
Sỏi
150,000
200
1,000
420
31
Bãi ổi
33,000
200
1,500
875
32
Minh Hưng
50,000
500
1,250
1,000
33
Mé
60,000
100
3,000
880
Tổng cộng
7,445,354
12,125
48,995
18,272
Bình quân
225,617
367
1,485
554
(theo sở Công Thương Bắc Giang)
Theo kết quả điều tra, hiện nay các làng nghề có thu nhập từ làm nghề bình quân chiếm 80% tổng thu nhập của làng; các hộ làm nghề có mức thu nhập Các làng nghề được khôi phục và phát triển đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, tạo ra việc làm có thu nhập cao gấp 3- 4 lần sản xuất nông nghiệp.
Bình quân 1.485.000đồng/hộ/tháng; người làm nghề có mức thu nhập bình quân 554.000đ/N/T. Làng nghề có thu nhập cao nhất là làng Nguyệt Đức làm nghề vận tải thuỷ có mức thu nhập 3.300.000đ/hộ/tháng và 1.320.000đồng/người/tháng; tiếp đến là các làng làm nghề sản xuất vôi với mức thu nhập trung bình khoảng 4.000.000đồng/hộ/tháng và 1.000.000đồng/người/tháng; có mức thu nhập thấp nhất là làng Yên Viên nấu rượu 300.000đồng/hộ/ tháng và 120.000đồng/người/tháng.
Thực tế ở Bắc Giang hiện nay, làm giàu từ làng nghề chưa có nhiều nhưng làng nghề cũng đã đóng góp một phần nhất định nâng cao mức sống vật chất cũng như tinh thần của một số cư dân. Nó cho thấy khả năng của làng nghề trong vấn đề xoá đói giảm nghèo và làm giàu ở khu vực nông thôn trong thời gian tới nhờ phát triển sản xuất ngành nghề nông thôn. Chúng cũng nói lên những đóng góp của làng nghề cho xã hội nói chung và đời sống xã hội nông thôn nói riêng.
2.3.2. Sản phẩm và thị trường của các sản phẩm làng nghề
Bảng 2.7: Sản phẩm và thị trường của các sản phẩm làng nghề
TT
Tên làng nghề
Tên sản phẩm
Thị trường tiêu thụ sản phẩm (%)
Hình thức bán sản phẩm (%)
Trong xã
Trong tỉnh
Trong nước
ngoài nước
Tự bán
Thông qua
chung gian
1
Yên Viên
Rượu
20
78
2
80
20
2
Thổ Hà
Mỳ, bánh đa nem
10
30
60
100
3
Nguyệt Đức
Vận tải thuỷ
90
5
50
50
4
Phúc Long
Tre đan
5
10
5
80
20
80
5
Chùa
Tre đan
15
25
10
50
50
50
6
Bẩy
Tre đan
30
50
20
80
20
7
Chằm
Tre đan
100
70
30
8
Đông Thượng
Mộc
70
20
10
90
10
9
Đông Thắng
Tre đan
5
50
45
90
10
10
Thuận Lý
Tre đan
5
55
40
90
10
11
Song Khê
Tre đan
10
30
54
6
80
20
12
Cầu Thượng
Tre đan
100
100
13
Cầu Hạ
Tre đan
40
60
90
10
14
Lực
Tăm lụa
100
100
15
Cẩm Trang
Tre đan
5
35
54
10
90
16
An Lập
Hương đen
5
50
45
70
30
17
Đông am Vàng
chổi tre, chít
30
50
20
80
20
18
Mai Thượng
Nuôi tằm ươm tơ
90
10
10
90
19
Trung Hưng
Tre đan
5
10
85
15
85
20
Gai Bún
khâu nón
20
80
20
80
21
Chùa (ĐM)
bún
80
20
100
22
Sau
bánh đa
10
80
10
80
20
23
Tiêu
bánh đa
10
80
10
80
20
24
Phú Giã
Nuôi tằm ươm tơ
100
100
25
Thủ Dương
mỳ gạo
5
30
65
35
65
26
Yên Bái
vôi hòn, sỷ
70
30
100
27
Đèo Cà
vôi hòn, sỷ
20
80
100
28
Cầu Gụ
vôi hòn, sỷ
30
70
100
29
Bo Chợ
vôi hòn, sỷ
30
70
100
30
Sỏi
Tre đan
3
70
27
70
30
31
Bãi ổi
mộc
30
70
100
32
Minh Hưng
Gạch
10
50
40
100
33
Mé
mỳ gạo
10
50
40
10
90
Bình quân
26%
36%
38%
5%
69%
31%
(theo sở Công Thương Bắc Giang)
Theo bảng trên có thể thấy, sản phẩm của làng nghề Bắc Giang bao gồm các lĩnh vực: chế biến nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng, đồ dùng dân dụng, sản xuất lương thực thực phẩm, Nhưng tập trung chủ yếu vào sản xuất đồ dùng dân dụng dân dụng và vật liệu xây dựng. Có một số mặt hàng được biết đến nhiều như: rượu làng Vân, bánh đa Kế, mỳ Chũ.
* Thị trường đầu ra
Theo thông tin từ Hiệp hội làng nghề Việt Nam hiện nay sản phẩm của các làng nghề Việt nam đã được xuất khẩu sang 50 quốc gia với kim ngạch lên tới hàng trăm triệu USD. Qua khảo sát thì sản phẩm của các làng nghề trên địa bàn tỉnh chủ yếu là phục vụ thị trường tại chỗ như vật liệu xây dựng, bún, bánh một số sản phẩm đã được tiêu thụ ngoài tỉnh như tơ tằm, mây tre đan, rượu Làng Vân một số sản phẩm đã được xuất khẩu ra thị trường thế giới như mây tre đan Tăng Tiến song giá trị còn rất nhỏ và phải xuất qua trung gian nên thu nhập của người làm nghề không cao.
* Hình thức tiêu thụ
Sản phẩm của các làng nghề ở Bắc Giang hiện nay chủ yếu được tiêu thụ theo các hình thức sau:
Tự bán hàng tại nơi sản xuất (chợ làng), hình thành khu vực hàng hoá riêng của làng nghề. Chiếm 26% tổng sản phẩm sản xuất ra.
Mở cửa hàng riêng, tổ chức mạng lưới dịch vụ tới những nơi có nhu cầu tiêu dùng.
Chở hàng đi bán rong ở trong và ngoài tỉnh.
Ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, xuất khẩu uỷ thác. Hiện nay lượng sản phẩm của làng nghề ở Bắc Giang đã xuất khẩu ra nước ngoài và chiểm tỷ lệ 5% tổng lượng sản phẩm sản xuất ra.
-Nhận xét:
Qua khảo sát thấy rằng các CSSX, làng nghề của tỉnh Bắc Giang hầu hết có quy mô nhỏ, phát triển chậm. Khi chuyển sang cơ chế thi trường một số CSSX, làng nghề bị thu hẹp sản xuất, thậm chí có làng nghề sản xuất cầm chừng có nguy cơ bỏ nghề; có tình trạng như vậy là do sản xuất còn nhỏ lẻ manh mún theo công nghệ thủ công truyền thống là chính, đầu tư cải tiến thay đổi mẫu mã kiểu dáng sản phẩm còn hạn chế nên sản phẩm kém sức cạnh tranh trên thị trường, khó tiêu thụ. Đến nay một số làng nghề đã bước đầu khôi phục và phát triển.
Hiện nay ngành nghề nông thôn ở tỉnh Bắc Giang được chia làm 7 nhóm nghề sản xuất khác nhau, trong mỗi nhóm nghề lại có các chuyên nghề sâu như nhóm chế biến nông sản thực phẩm có nghề nấu rượu, làm bún, làm bánh đa, làm mỳ khô... do vậy sản phẩm của các làng nghề tỉnh Bắc Giang khá đa dạng và phong phú, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Theo thống kê chưa đầy đủ năm 2007 tổng giá trị sản phẩm của các ngành nghề nông thôn, làng nghề đạt khoảng 700 tỷ đồng (giá thực tế).
Một số CSSX, làng nghề đã có sự vận động thích ứng với cơ chế thị trường, trước hết là tiêu thụ sản phẩm, tự lựa chọn các hình thức tổ chức phù hợp với yêu cầu của thị trường, tạo ra khu vực hàng hoá ngay tại CSSX, làng nghề, đồng thời qua hoạt động kinh doanh đã tạo ra cho địa phương những thương nhân chuyên nghiệp và đội ngũ bán thương nhân khá đông đảo.
Một số CSSX, làng nghề khai thác triệt để nguyên liệu, phế liệu, phế phẩm tại chỗ; tận dụng nguồn lao động nông nhàn, lao động phụ nên sản phẩm làm ra có giá thành hợp lý phù hợp với khả năng tài chính của đa số người tiêu dùng.
Một số nghề có bí quyết độc đáo về công nghệ, về kỹ thuật (rượu làng vân, bánh đa kế, mỳ gạo chũ...) nên nổi tiếng trong một vùng rộng lớn thậm chí toàn quốc nên tiêu thụ nhanh, nhiều sản phẩm và giữ được thị trường quen thuộc.
Với quy mô sản xuất là làng, xã nên dễ huy động được nguồn lực tại chỗ (mặt bằng sản xuất, vốn nhàn rỗi trong nhân dân, nhân công lao động ). Mặt khác nguồn vốn tích luỹ trong quá trình sản xuất kinh doanh lại được người sản xuất đầu tư trở lại làm cho bộ mặt làng xóm thay đổi, đời sống người lao động được cải thiện, đó là động lực thúc đẩy ngành nghề nông thôn, làng nghề phát triển.
IV. Tóm tắt kết quả và những vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế làng nghề của Bắc Giang
1. Những kết quả đạt được trong thời gian qua
Theo kết quả điều tra, năm 2007 tổng giá trị sản xuất (giá cố định 1994) của 33 làng nghề trên địa bàn ước đạt 200 tỷ đồng, tăng 66,6% so với năm 2000. Những ngành hàng có sự phát triển nhanh, mạnh là Mây tre đan, nấu rượu, làm mỳ, bún bánh đa
Bảng 2.8 : Giá trị sản xuất năm 2007 theo giá hiện hành
Đơn vị tính : 1000 đồng
TT
Tên làng nghề
Tên sản phẩm
ĐVT
Số hộ
Số tháng
làm nghề
trong năm
SPBQ của hộ/tháng
SPBQ của
làng/tháng
Giá bán
BQ/1SP
(đồng)
GTSX của
làng/tháng
GTSX của
làng/năm
A
B
1
2
3
4
5
6
7
(8)=(6)*(7))
(9)=(4)*(8))
I. Nhóm SX thực phẩm
1
Yên Viên
Rượu
Lít
590
10
1,000
590,000
2,650
1,563,500
15,635,000
2
Thổ Hà
Mỳ, bánh đa nem
Kg
550
12
1,760
968,000
3,000
2,904,000
34,848,000
3
Chùa (ĐM)
Bún
Kg
70
12
900
63,000
2,318
146,034
1,752,408
4
Sau
Bánh đa
Kg
29
10
600
17,400
9,000
156,600
1,566,000
5
Tiêu
Bánh đa
Kg
20
10
600
12,000
9,000
108,000
1,080,000
6
Thủ Dương
Mỳ gạo
Kg
140
12
1,400
196,000
4,830
946,680
11,360,160
7
Mé
Mỳ gạo
Kg
121
11
1,000
121,000
4,830
584,430
6,428,730
II. Nhóm SX to tằm
8
Mai Thượng
ươm tơ
Kg
354
10
83
29,382
15,000
440,730
4,407,300
9
Phú Giã
nuôi tằm, ươm tơ
Kg
100
7
38
3,800
15,000
57,000
399,000
III. Nhóm SX SP mây tre đan
10
Phúc Long
Tre đan
Chiếc
480
10
114
54,720
6,000
328,320
3,283,200
11
Chùa
Tre đan
Chiếc
300
8
160
48,000
6,000
288,000
2,304,000
12
Bẩy
Tre đan
Chiếc
500
10
133
66,500
6,000
399,000
3,990,000
13
Chằm
Tre đan
Chiếc
91
10
170
15,470
6,000
92,820
928,200
14
Đông Thắng
Tre đan
Chiếc
300
12
100
30,000
6,000
180,000
2,160,000
15
Thuận Lý
Tre đan
Chiếc
180
8
180
32,400
6,000
194,400
1,555,200
16
Song Khê
Tre đan
Chiếc
600
8
230
138,000
6,000
828,000
6,624,000
17
Cầu Thượng
Tre đan
Chiếc
100
12
100
10,000
6,000
60,000
720,000
18
Cầu Hạ
Tre đan
Chiếc
40
10
100
4,000
6,000
24,000
240,000
19
Lực
Tăm lụa
Kg
100
10
378
37,800
20,500
774,900
7,749,000
20
Cẩm Trang
Tre dan
Chiếc
389
8
54
21,006
6,000
126,036
1,008,288
21
Đông am Vàng
chổi tre, chít
Chiếc
30
8
90
2,700
5,581
15,069
120,550
22
Trung Hưng
Tre đan
Chiếc
300
12
900
270,000
6,000
1,620,000
19,440,000
23
Gai Bún
Làm nón
Chiếc
260
12
120
31,200
12,000
374,400
4,492,800
24
Sỏi
Tre đan
Chiếc
150
12
420
63,000
10,000
630,000
7,560,000
IV. Nhóm SX Vôi, Gạch
25
Yên Bái
Vôi hòn, Cay
Tấn
65
12
15
975
185,000
180,375
2,164,500
26
Đèo Cà
Vôi hòn, Cay
Tấn
50
9
21
1,050
185,000
194,250
1,748,250
27
Cầu Gụ
Vôi hòn, Cay
Tấn
70
12
22
1,540
185,000
284,900
3,418,800
28
Bo Chợ
Vôi hòn, Cay
Tấn
127
12
23
2,921
185,000
540,385
6,484,620
29
Minh Hưng
Gạch
Viên
22
3
10,000
220,000
150
33,000
99,000
V. Nhóm SX bàn, ghế..,Hương
30
Đông Thượng
Mộc
Bộ
45
10
5
225
1,500,000
337,500
3,375,000
31
Bãi ổi
Bàn, nghế, tủ..
Chiếc
61
10
4
244
1,500,000
366,000
3,660,000
32
An Lập
Hương đen
Bó
60
2
100
6,000
10,000
60,000
120,000
VI. Nhóm kinh doanh vận tải
33
Nguyệt Đức
Vận tải thuỷ
Chuyến
130
10
10
1,300
3,000,000
3,900,000
39,000,000
Tổng cộng
18,738,329
199,722,006
Bình quân
567,828
6,052,182
(theo số liệu điều tra năm 2007 của Sở Công Thương Bắc Giang)
Kết quả đạt được
Từ khi chuyến sang cơ chế thị trường, nhất là khi tỉnh Bắc Giang được tái lập, được sự quan tâm của cấp uỷ và chính quyền các cấp, hoạt động khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, du nhập và phát triển nghề mới, làng nghề mới ngày càng sôi động. Bước đầu đã du nhập thêm được một số nghề mới vào địa bàn như tre chắp sơn mài, thêu ren, sản xuất tăm lụa, trạm khắc đámột số làng nghề truyền thống đã mai một nay dần được khôi phục; một số làng trước đây thuần nông nay đã có thêm nghề phụ, góp phần giải quyết việc làm khi nông nhàn, tăng thu nhập cho bà con nông dân.
Sản phẩm của làng nghề đã không ngừng được cải tiến về mẫu mã, nâng cao về chất lượng cho phù hợp với thị trường. Sản phẩm của các làng nghề không những phục vụ nhu cầu tại chỗ mà bước đầu đã vươn ra thị trường các tỉnh khác trong nước , một số sản phẩm đã có mặt ở thị trường nước ngoài.
Giá trị sản xuất của các làng nghề trong tỉnh mặc dù còn ở mức khiêm tốn, song có ý nghĩa rất quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế đặc biệt là cơ cấu lao động tại khu vực nông thôn, góp phần giảm dần sự cách biệt với khu vực thành thị.
Giá trị sản phẩm của ngành ngành nghề nông thôn, làng nghề chưa cao song có ý nghĩa quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho các hộ gia đình ở khu vực nông thôn. Một số địa phương thu nhập từ sản xuất của ngành nghề nông thôn là nguồn thu nhập chính và giá trị sản phẩm chiếm 50 - 60% tổng giá trị sản phẩm của làng.
Hình thức tổ chức sản xuất tại các làng nghề đã có sự chuyển biến cho phù hợp với cơ chế thị trường. Nếu như trước đây hoạt động sản xuất hoàn toàn mang tính cá thể với quy mô kinh tế hộ là chính thì nay một số làng nghề đã có sự liên kết giữa các hộ với nhau trong những tổ chức kinh tế như doanh nghiệp, hợp tác xã. Với vai trò là cầu nối, là hạt nhân trong tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, việc hình thành các doanh nghiệp, hợp tác xã tại một số làng nghề khẳng định xu hướng phát triển tất yếu từ sản xuất nhỏ tự cung, tự cấp sang sản xuất quy lớn hơn, phục vụ thị trường rộng hơn.
Sản xuất tại các làng nghề phát triển đã góp phần thay đổi tư duy sản xuất mang nặng tính tự phát, thiếu tổ chức của người nông dân trước đây.
Những hạn chế và nguyên nhân trong phát triển kinh tế làng nghề ở
Bắc Giang hiện nay
Hạn chế
Qua khảo sát làng nghề Bắc Giang có những hạn chế sau:
- Là tỉnh thuần nông với hơn 90% dân số sống ở nông thôn, điểm xuất phát kinh tế thấp là một trong những khó khăn cho phát triển ngành nghề nông thôn, làng nghề. Lực lượng lao động dồi dào nhưng chất lượng tay nghề thấp, đa số chưa được đào tạo cơ bản.
- Số lượng làng nghề còn ít.
- Nhìn chung ngành nghề nông thôn, làng nghề tỉnh Bắc Giang còn nhỏ bé, manh mún và đang gặp những khó khăn nhất định.
- Thị trường tiêu thụ gặp nhiều khó khăn, một số CSSX, làng nghề có khả năng sản xuất nhưng lại gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ dẫn đến sản xuất bị cầm chừng thậm chí có làng có nguy cơ bỏ nghề do sản phẩm mất thị trường. Hầu hết các cơ sở chưa đủ sức tìm thị trường nên sản xuất còn nhỏ lẻ mang tính tự sản tự tiêu trong tỉnh.
- Trình độ kỹ thuật, công nghệ chưa cao, chưa chú trọng đổi mới công nghệ mẫu mã kiểu dáng sản phẩm dẫn đến chất lượng sản phẩm thấp, mẫu mã đơn điệu, khó tiêu thụ và khó cạnh tranh trên thị trường.
- Quy mô cơ sở SX nhỏ, công cụ sản xuất thô sơ chủ yếu vẫn làm thủ công dẫn đến năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao, bên cạnh đó do quy mô sản xuất nhỏ, công cụ SX thô sơ dẫn đến khó vay vồn ưu đãi, khó thế chấp để vay vốn.
- Do phát triển chủ yếu là tự phát, thiếu thông tin, cạnh tranh kém lành mạnh cùng với sự thiếu liên kết nên sản phẩm thường bị ép giá hiệu quả kinh tế thấp.
- Một số chủ CSSX, chủ hộ thiếu và yếu về năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, trình độ tay nghề của người thợ còn thấp, ít thợ giỏi.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, giao thông gặp nhiều khó khăn nhất là khâu vận chuyển nguyên nhiên liệu và sản phẩm; có làng nghề phải bán thành phẩm vì không đảm bảo được sản phẩm trong quá trình vận chuyển. Đặc biệt là đối với sản phẩm xuất khẩu do phương tiện vận chuyển lớn nên không đóng hàng được tại CSSX, làng nghề.
- Một số nơi môi trường bị ô nhiễm đến mức báo động cần phải có giải pháp khắc phục kịp thời.
- Nguồn lực cho thực hiện chính sách khuyến khích hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn, làng nghề còn hạn chế, chưa đủ lực tác động các doang nghiệp, các làng nghề, chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư.
- Một số địa phương buông lỏng quản lý chưa quan tâm đến phát triển ngành nghề nông thôn, làng nghề, đặc biệt là một số xã, một số thôn có nghề.
- Chính sách hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn, làng nghề chưa đồng bộ, cơ chế thực hiện chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp các ngành.
- Một số làng nghề truyền thống sản phẩm mang đậm bản sắc dân tộc hiện nay đang bị mai một hoặc sản xuất cầm chừng, hiện nay chưa có giải pháp hữu hiệu để khôi phục, bảo tồn và phát triển các làng nghề này đúng với vai trò và vị trí của nó.
Nguyên nhân
- Nguyên nhân khách quan: So với một số tỉnh lân cận như Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Tây (trung tâm nghề truyền thống lớn nhất cả nước), Bắc Giang có được ít ưu thế hơn trong việc phát triển nghề truyền thống. Sự thiếu hụt này thể hiện qua nhiều nội dung khác nhau như: vị trí địa lý, thị trường tiêu thụ, trình độ tay nghề và mức độ đậm đặc của văn hoá truyền thống.
Bước vào cơ chế thị trường, các làng nghề trên địa bàn tỉnh có xuất phát điểm thấp trong khi tiềm lực đầu tư cho phát triển có hạn lại phải cạnh tranh trong thị trường ngày càng gay gắt nên đã ảnh hưởng bất lợi tới quá trình phát triển.
Các chính sách hỗ trợ còn chưa đồng bộ, chưa đủ mạnh để tạo cú hích trong du nhập và phát triển nghề, làng nghề trên địa bàn. Thiếu sự hỗ trợ từ phía các cơ quan nhà nước về định hướng phát triển, vốn, thông tin thị trường, chuyển giao công nghệ, đào tạo lao động, bảo vệ môi trường cho các cơ sở và các hộ sản xuất tại các làng nghề.
Nguyên nhân chủ quan:
Một số ngành, địa phương, cơ sở chưa làm hết trách nhiệm của mình, chưa có sự phối hợp thường xuyên, cụ thể trong quản lý, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ khôi phục và phát triển làng nghề.
Phần lớn các làng nghề truyền thống, các làng mới được du nhập nghề trên địa bàn còn thiếu những “ông chủ” với vai trò là hạt nhân, là đầu tàu đứng ra cung ứng nguyên vật liệu, cung ứng mẫu mã, tổ chức sản xuất và dịch vụ bao tiêu sản phẩm, góp phần duy trì và phát triển nghề lâu dài tại địa phương.
Một số cơ sở chưa quan tâm đến sử lý chất thải bảo vệ môi trường.
Do thiếu thông tin về thị trường nên có làng muốn đầu tư phát triển một nghề nào đó song không biết đầu tư vào ngành nghề nào.
Các cơ sở sản xuất và bà con nông dân tại các địa phương chưa nhận thức đầy đủ và đúng đắn về cơ chế thị trường, tư duy và cách làm còn mang nặng dấu ấn của những người sản xuất nhỏ, tự phát, chưa tạo dựng quan hệ hợp tác, phân công lao động trong sản xuất kinh doanh.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ LÀNG NGHỀ Ở BẮC GIANG ĐẾN NĂM 2020
I. Mục tiêu phát triển KTXH của Bắc Giang đến năm 2020 & những yêu cầu đặt ra cho sự phát triển làng nghề
1. Mục tiêu phát triển KTXH của tỉnh Bắc Giang đến năm 2020
Về kinh tế:
- Tích cực giảm mức chênh lệch giữa Bắc Giang với mức trung bình của cả nước về GDP/người.
- Đưa nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm giai đoạn 2006-2010 lên 10 – 11% , giai đoạn 2010-2020 đạt 12%.
- Thúc đẩy chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
- Phấn đấu đến năm 2010 tỷ trọng ngành CN – XD chiếm 35%. Dịch vụ chiếm 34,5%, Nông – lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 30,5% và đến năm 2020 tỷ trọng ngành CN – XD chiếm 49,2%, Dịch vụ chiếm 37,1%, Nông – lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 13,8% trong tổng GDP.
- Phấn đấu đến năm 2020, GDP bình quân đầu người đạt trên 90% mức bình quân của cả nước.
- Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm từ 15-16%/năm.
Về văn hoá – xã hội:
- Tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng trên các lĩnh vực văn hoá, y tế, giáo dục, đào tạo, nâng cao dân trí; phấn đấu vượt mức bình quân của cả nước trên một số lĩnh vực chủ yếu về văn hoá – xã hội.
- Tạo sự chuyển biến cơ bản trong nhận thức của nhân dân về bảo vệ mội trường, từng bước tạo thói quen, nếp sống và môi trường xanh, sạch đẹp. Ngăn ngừa, hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường.
Về quốc phòng, an ninh:
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành và quần chúng nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
2. Những yêu cầu cơ bản trong phát triển kinh tế làng nghề ở Bắc Giang
2.1. Cần nhận thức đầy đủ vai trò và sự cần thiết phát triển kinh tế làng nghề
Trước đây, làng nghề vốn chỉ được coi như một thành phần kinh tế phụ trong hoạt động kinh tế của nông dân nhằm tận dụng thời gian nông nhàn, tăng thêm thu nhập cho người nông dân. Tính chất “phụ” của các ngành nghề thể hiện rõ qua số vốn đầu tư vào sản xuất ngành nghề, tỷ lệ lao động thời vụ còn khá cao. Quan niệm này ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng cũng như mức độ đầu tư cho sản xuất của người nông dân và do đó làng nghề không thể phát huy hết những ưu điểm và thực hiện tốt vai trò của mình theo những mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Đổi mới nhận thức về làng nghề, đầu tiên, phải thấy rằng, hoạt động của làng nghề là nhằm tạo ra thu nhập cho người nông dân. Làng nghề gắn với các trung tâm, cụm xã có các hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ phi nông nghiệp tạo ra thu nhập chính cho người dân nông thôn, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, tiến tới làm giàu cho nông thôn. Làng nghề còn là trung tâm tạo việc làm mới, thu hút lao động dư dôi trong nông nghiệp, gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế nông thôn, thức đẩy quá trình đô thị hoá. Mặt khác nó còn kéo theo các dịch vụ khác phát triển ở nông thôn.
Từ nhận thức đúng đắn về làng nghề, cần thấy rằng, làng nghề cần sự đầu tư cả về chiều rộng và chiều sâu để nó phát huy vai trò trở thành một khu vực kinh tế độc lập, năng động góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn.
2.2. Phát triển làng nghề phải gắn với phát triển kinh tế nông thôn Bắc Giang
Như chúng ta đã thấy, phát triển ngành nghề nông thôn không phải vì mục đích tự thân. Phát triển ngành nghề nông thôn là nhằm các mục tiêu cụ thể phát triển công nghiệp nông thôn, phát triển nền kinh tế xã hội nông thôn. Sự phát triển của các ngành nghề nông thôn nằm trong mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề phát triển toàn diện nông nghiệp nông thôn Bắc Giang, với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn của tỉnh. Do đó, trước tiên, phát triển làng nghề phải gắn chặt với phát triển sản xuất nông nghiệp. Đây là hai khu vực kinh tế mà trong quá trình phát triển có mối quan hệ chặt chẽ với nhau về lao động, nguyên liệu, thị trường, môi trường... Giải quyết tốt mối quan hệ có tính chất vừa hỗ trợ vừa cạnh tranh đó sẽ làm cho kinh tế xã hội nông thôn được phát triển bền vững, quan hệ sản xuất được tăng cường, đời sống dân cư được nâng cao.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng như phát triển toàn diện nền kinh tế- xã hội nông thôn là tất yếu khách quan. Phát triển kinh tế làng nghề nhằm thúc đẩy công nghiệp nông thôn là một bộ phận không thể thiếu của các quá trình trên. Làng nghề đóng vai trò quan trọng trong công cuộc này. Do đó, mối quan hệ giữa làng nghề và phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn là rất mật thiết, hỗ trợ phát triển cho nhau.
Ngoài ra, phát triển làng nghề còn phải đặt trong mối liên kết chặt chẽ giữa làng nghề nông thôn và công nghiệp thành thị. Làng nghề phát triển tạo điều kiện cho công nghiệp nông thôn phát triển và từ đó đẩy nhanh mức độ đô thị hoá hay phát triển thành trung tâm công nghiệp. Ngược lại, thành thị cũng có vai trò hỗ trợ cho sự phát triển của các làng nghề, là thị trường quan trọng cho các sản phẩm của làng nghề.
2.3. Phát triển sản xuất của làng nghề phải gắn với việc đáp ứng nhu cầu của thị trường về sản phẩm làng nghề
Để tồn tại và phát triển thì các làng nghề buộc phải biến sản phẩm của mình thành hàng hóa, nghĩa là phải tiêu thụ được trên thị trường. Do đó, vấn đề tiêu thụ được sản phẩm trở thành vấn đề cốt lõi cho sự phát triển của các làng nghề và là vấn đề cơ bản nhất của mọi quá trình sản xuất.
Muốn tiêu thụ được sản phẩm thì trước hết, thị trường phải có nhu cầu về sản phẩm. Các làng nghề vì vậy phải sản xuất các sản phẩm theo nhu cầu thị trường. Không chỉ thế, sản phẩm phải có ưu thế cạnh tranh về cả chất lượng cũng như giá cả, sự tiện lợi trong sử dụng cũng như trong tiêu thụ, thanh toán, vận chuyển... Trong điều kiện hiện nay, tính cạnh tranh là vô cùng gay gắt với một sản phẩm hàng hoá bất kỳ bởi sản xuất và tiêu thụ không bị giới hạn bởi một khung về địa giới hành chính hay mức độ đáp ứng thị hiếu nào. Các sản phẩm phù hợp với nhiều người tiêu dùng thì sẽ chiếm được thị phần nhiều hơn. Sản xuất ngành nghề nông thôn có vai trò quan trọng trong tiến trình công nghiệp hoá nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn nhưng đấy không phải là điều khiến cho làng nghề tồn tại bằng bất cứ giá nào. Cũng như bất kỳ đơn vị sản xuất nào khác, làng nghề phải tự đứng vững trên đôi chân của mình để từ đó mới có thể thực hiện tốt vai trò của nó. Sự tồn tại của làng nghề phụ thuộc trước hết vào khả năng tiêu thụ sản phẩm. Do đó, phát triển làng nghề phải gắn với việc đáp ứng nhu cầu thị trường.
2.4. Cần phát huy tối đa nội lực và tận dụng các yếu tố ngoại lực để phát triển làng nghề
Phát triển làng nghề cần phải có sự nỗ lực từ mọi phía, từ chính bản thân các làng nghề, các địa phương,... và tranh thủ những yếu tố có lợi bên ngoài để phát triển kinh tế làng nghề. Mối quan hệ giữa làng nghề và khu vực nông thôn là rất mật thiết. Ngoài những mục tiêu kinh tế xã hội như đã nói ở trên còn nhiều vấn đề khác cần phải giải quyết như nâng cao chất lượng lao động, hạn chế ảnh hưởng xấu của làng nghề đến môi trường, những tồn tại khách quan có tác động không tốt khác do phát triển làng nghề trong cơ chế thị trường... Vai trò của các địa phương trong việc giải quyết những vấn đề này là tối quan trọng. Do đó, phát triển làng nghề trước hết là sự nghiệp của bản thân nông thôn và cư dân nông thôn. Nội lực là yếu tố hàng đầu cho sự phát triển của các làng nghề. Bên cạnh đó, các yếu tố ngoại lực cũng có vai trò không nhỏ, hỗ trợ cho các cho sự phát triển của các làng nghề. Đối với làng nghề hiện nay thì vai trò quản lý nhà nước là yếu tố ngoại lực quan trọng nhất và ảnh hưởng nhiều nhất đến sự phát triển của kinh tế làng nghề. Sự hỗ trợ của nhà nước đối với làng nghề phải thể hiện tác dụng khuyến khích, định hướng và tạo điều kiện cho cho sự phát triển, tăng cường năng lực nội sinh của khu vực kinh tế làng nghề. Biết lợi dụng được cả hai yếu tố này sẽ góp phần cho sự phát triển của ngành nghề nông thôn nói chung.
Về phía các địa phương, phát triển ngành nghề nông thôn phải gắn liền với những đặc điểm, điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế xã hội và cơ sở hạ tầng của từng địa phương. Dựa trên cơ sở những điều kiện hiện có, các làng nghề phải tự sức mình phát huy những khả năng của mình, huy động những nguồn lực có lợi như nguyên liệu, lao động, vốn,... vào sản xuất sao cho tận dụng tối đa nhưng nguồn lực của mình về tự nhiên cũng như kinh tế đưa vào sản xuất. Phát triển làng nghề cần phải tranh thủ sự đầu tư của mọi thành phần kinh tế, thu hút mọi nguồn vốn cho phát triển làng nghề bao gồm cả vốn trong dân, vốn ngân sách, và các nguồn vốn khác...
Phát triển làng nghề trong giai đoạn tới cũng cần lưu ý vấn đề kết hợp truyền thống với hiện đại. Làng nghề truyền thống là tài sản dân tộc, được lưu truyền qua nhiều thế hệ và mang những dấu ấn văn hoá, xã hội, lịch sử của dân tộc. Do vậy, trong quá trình phát triển cần thiết giữ gìn những giá trị này đồng thời cũng phải kết hợp những tiến bộ khoa học kỹ thuật, đan xen những nét hiện đại vào sản phẩm
3. Các mục tiêu phát triển kinh tế làng nghề Bắc Giang đến năm 2020
Trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội, quy hoạch phát triển công nghiệp, quy hoạch phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn của tỉnh tới năm 2020. Mục tiêu phát triển làng nghề Bắc Giang đến năm 2015 đặt ra như sau:
- Định hướng cho các ngành nghề, làng nghề phát triển có hệ thống, quy mô phù hợp, sử dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại kết hợp với truyền thống.
- Phấn đấu đến năm 2010 toàn tỉnh có 500 làng có nghề, trong đó 35-40 làng nghề đạt tiêu chí theo quy định; đến năm 2015 có 600 làng có nghề, trong đó 50- 60 làng nghề đạt tiêu chí theo quy định.
- Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định 1994) của các làng nghề đạt 300 tỷ đồng vào năm 2010 và 450 tỷ đồng vào năm 2015.
- Các làng nghề tạo việc làm cho 23.000 - 25.000 nhân khẩu vào năm 2010 và 32.000 – 37.000 nhân khẩu vào năm 2015.
- Phấn đấu đến năm 2015 các làng nghề đạt tiêu chí có trên 60% số hộ và trên 50% nhân khẩu tham gia làm nghề.
4. Những định hướng phát triển kinh tế làng nghề của tỉnh Bắc Giang trong những năm tới
Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi khôi phục và phát triển các nghề truyển thống của địa phương có sản phẩm đã được thị trường trong và ngoài nước chấp nhận.
Huy động mọi nguồn lực cho đầu tư du nhập và phát triển các nghề mới, làng nghề mới thu hút nhiều lao động, có hiệu quả kinh tế, trước mắt tập trung phát triển các nghề: chế biến nông, lâm sản; sản xuất vật liệu xây dựng; cơ khí nhỏ và dịch vụ phục vụ nông nghiệp.
Phát triển làng nghề theo hướng đa dạng hoá hình thức sở hữu và các loại hình tổ chức sản xuất (hộ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp, tổ hợp tác, hợp tác xã), tạo ra sự liên kết hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển.
Mở rộng và phát triển các làng nghề theo hướng hình thành các cụm sản xuất tiểu thủ công nghiệp quy mô nhỏ và vừa.
Phát triển làng nghề gắn với hoạt động văn hoá, du lịch và bảo vệ sinh thái; làng nghề làm vệ tinh cho các doanh nghiệp, các khu công nghiệp.
II. Một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế làng nghề ở Bắc Giang
1. Hoàn thiện và thực hiện công tác quy hoạch sản xuất làng nghề ở Bắc Giang
Xây dựng, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển làng nghề tới năm 2015 và những năm tiếp theo trên địa bàn toàn tỉnh và từng địa phương cho phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, các quy hoạch ngành của tỉnh và quy hoạch làng nghề trên phạm vi khu vực và toàn quốc. Có quy hoạch mới chủ động đầu tư lâu dài, xem nghề gì cần phục hồi, nghề gì cần mở rộng thêm Từ quy hoạch, các huyện, thành phố mới có phương án đầu tư các cụm công nghiệp nhỏ để thu hút cơ sở sản xuất làng nghề, mới có điều kiện để đầu tư xử lý môi trường tập trung, tránh ô nhiễm. Có quy hoạch mới chủ động giải quyết mặt bàng sản xuất, cấp đất cho các hộ sản xuất với giá ưu đãi.
2. Phát triển đa dạng các mô hình hợp tác sản xuất trong các làng nghề
Để du nhập nghề mới, khôi phục nghề truyền thống, mở rộng và phát triển các làng nghề, giải pháp hết sức quan trọng là khuyến khích, tư vấn, hỗ trợ các cá nhân, tổ chức có năng lực, trình độ, uy tín, tiền vốntrong và ngoài làng đứng ra thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất tại các làng có nghề và các làng có điều kiện du nhập nghề. Các tổ chức kinh tế này giữ vai trò hạt nhân trong cung ứng nguyên vật liệu, cung ứng mẫu mã, tổ chức sản xuất, dịch vụ tiêu thụ sản phẩm cho làng nghề.
Dành một phần quỹ khuyến công hỗ trợ đào tạo khởi sự doanh nghiệp, tư vấn hỗ trợ thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã ở khu vực nông thôn, làng nghề. Trước mắt từ nay đến năm 2010 tập trung tư vấn, hỗ trợ cho việc thành lập các tổ chức kinh tế tại các làng nghề tương đối phát triển nhưng chưa có doanh nghiệp, hợp tác xã như các làng làm bánh đa của xã Kế (TP Bắc Giang); các làng đan lát Thuận Lý, Song Khê, Cầu thượng (huyện Yên Dũng); các làng sản xuất vôi Yên Bái, Đèo Cà, Cầu Gụ, Bo Chợ (huyện Yên thế)ít nhất mỗi làng nghề, mỗi xã nghề có từ 1-2 tổ chức kinh tế thuộc loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã.
3. Nhà nước cần hỗ trợ các làng nghề trong việc giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường
Giải quyết vấn đề môi trường của làng nghề cần kết hợp 3 yếu tố là: cải tiến các yếu tố liên quan đến kỹ thuật phát triển, áp dụng các phương pháp sản xuất ít gây ô nhiễm môi trường, giải quyết vấn đề tài chính và nâng cao nhận thức về các vấn đề môi trường cho chính quyền và thợ thủ công tại làng nghề.
Để giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường từ sản xuất của làng nghề, cần tập trung cải thiện những mặt sau đây:
- Làm rõ hệ thống thực hiện giữa các cơ quan quản lý hữu quan.
- Xây dựng tiêu chuẩn an toàn, có bao gồm các quy định về tiếng ồn, nước thải và nâng cao nhận thức của các bên liên quan về vấn đề bảo vệ môi trường.
- Tiêu chuẩn hoá các chỉ tiêu tác động môi trường theo loại hình và quy mô sản xuất và thể chế hoá hoạt động đánh giá tác động môi trường cho làng nghề
4. Hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật tạo môi trường lành mạnh cho các ngành nghề tồn tại và phát triển
- Cần có chính sách miễn giảm thuế cho những cơ sở ngành nghề nông thôn mới được thành lập, hoặc mới được khôi phục tuỳ thuộc vào loại nghề loại sản phẩm. Cần có biện pháp khuyến khích các chủ đầu tư người thành phố hoặc ngươi nước ngoài bỏ vốn đầu tư cho công nghiệp nông thôn
- Chính quyền địa phương tạo điều kiện thuận lợi cho cho việc thuê đất để phát triển ngành nghề nông thôn, giải quyết việc làm cho người lao động
- Quy hoạch, xây dựng và thực hiện các chương trình tổng quan phát triển nghề và làng nghề ở nông thôn trong thời kỳ dài cho toàn tỉnh, cho từng làng nghề
- Cần nâng cao vai trò, năng lực của đội ngũ cán bộ ở các xã vì thực tế cho thấy đây là lực lượng có quyết định rất lớn tới sự phát triển của các làng nghề nhất là việc tiếp thu nghề mới.
5. Giải pháp đầu vào
5.1. Đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cho các làng nghề
- Đối với các làng nghề
Quỹ khuyến công, Quỹ đào tạo lao động cho nông dân của tỉnh tiếp tục hỗ trợ mở các lớp tập huấn nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động tại làng nghề để họ có thể sản xuất được những sản phẩm chất lượng tốt hơn, mẫu mã đa dạng hơn, giá thành hạ hơn, đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng và nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của làng nghề trên thị trường đồng thời hướng tới xuât khẩu. Đào tạo truyền nghề có thể thực hiện theo nhiều phương thức như: mời nghệ nhân, thợ có tay nghề cao về lên lớp truyển nghề trực tiếp tại làng, hoặc gửi một số lao động có kỹ thuật đi học tập tại các địa phương khác có cùng nghề nhưng phát triển hơn đã sản xuất được những sản phẩm tinh sảo hơn, sau đó về truyền lại cho bà con trong làng
Cùng với đào tạo truyền nghề cần tăng cường mở các lớp bồi dưỡng về thiết kế mẫu mã, khởi sự doanh nghiệp, quản trị kinh doanh, marketing, kiến thức pháp luật, hội nhập kinh tế quốc tế cho các chủ cơ sở sản xuất và lao động của làng nghề.
- Đối với các làng chưa có nghề
Các làng chưa có nghề nhưng có điều kiện du nhập nghề, các cơ quan chức năng của tỉnh, huyện và chính quyền địa phương phải có sự phân tích, đánh giá để lựa chọn ngành nghề gắn với lợi thế, phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng để có chương trình hỗ trợ đào tạo nhân cấy và phát triển nghề.
Để nghề được duy trì và phát triển bền vững, cùng với đào tạo nhân cấy nghề cần khuyến khích việc hình thành các loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã để thực hiện vai trò tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho bà con làm nghề của làng
5.2. Phát triển các quan hệ tín dụng nhằm đảm bảo vốn sản xuất cho các làng nghề
Để giải bài toán thiếu vốn cho khôi phục và phát triển làng nghề, trước tiên cần thực hiện tốt các chính sách ưu đãi đầu tư về đất đai, đào tạo lao động, thuế ở mức cao nhất theo luật, nhằm tăng cường thu hút các thành phần kinh tế nhất là từ khu vực dân doanh đầu tư phát triển ngành nghề nông thôn, làng nghề.
Do quy mô của các cơ sở sản xuất tại làng nghề thường rất nhỏ bé, tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng thương mại không đáng kể. Đề nghị UBND tỉnh và các ngành chức năng đẩy nhanh tiến độ thành lập và đi vào hoạt động Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ theo quy định của Chính phủ để tăng cường hình thức bảo lãnh vay vốn cho các cơ sở tại làng nghề
5.3. Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng cho các làng nghề
Tranh thủ nguồn vốn của Trung ương, nguồn đối ứng của nhân dân và lồng ghép với các chương trình mục tiêu khác để tiếp tục triển khai các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tại các làng nghề trên địa bàn tỉnh theo Quyết định 132/2001/QĐ-TTg ngày 07/9/2001 của Thủ tướng chính phủ.
Đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, nâng cao chất lượng của hệ thống giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc
5.4. Đổi mới và tăng cướng áp dụng công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm
Sản phẩm của làng nghề gắn liến với các bí quyết và quy trình nghề, được tạo ra chủ yếu bởi đôi bàn tay khéo léo của những người thợ thủ công. Tuy nhiên trong cơ chế thị trường hiện nay để có thể cạnh tranh và đứng vững, cần phải áp dụng khoa học kỹ thuật, đưa máy móc thiết bị ngày càng hiện đại thay thế lao động thủ công ở những công đoạn, những khâu có thể tuỳ theo ngành nghề như: công đoạn xay, nghiền bột của nghề làm bún, bánh; công đoạn trẻ nan của nghề may tre đan; công đoạn đan của nghề làm mành tăm
Khuyến khích các nghệ nhân, các nhà khoa học, các cơ sở sản xuất nghiên cứu, thiết kế mẫu mã kiểu dáng sản phẩm, đầu tư công nghệ thiết bị hiện đại theo phương châm kết hợp giữa công nghệ tiên tiến với công nghệ cổ truyền để tạo ra sản phẩm vẫn giữ được nét truyền thống nhưng đáp ứng thị hiếu và đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
5.5. Đảm bảo đầy đủ, kịp thời nguyên liệu theo yêu cầu sản xuất của các làng nghề
Qua phân tích cho thấy, tình hình cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất ở làng nghề hiện nay ở Bắc Giang còn nhiều yếu kém chỉ đáp ứng được 56%. Chính vì không chủ động được khâu này nên ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng sản xuất nói chung và tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy cần có những biện pháp cụ thể để đáp ứng nguyên vật liệu để ổn định sản xuất.
Để đảm bảo nguyên vật liệu cho sản xuất gồm có hai nguồn. Thứ nhất, xây dựng khu nguyên liệu ngay tại địa phương, lợi dụng những tài nguyên trên địa phương để đưa vào sản xuất. Biện pháp này phù hợp với một số ngành nghề chế biến nông sản, khai thác vật liệu xây dựng... Khi quy hoạch sản xuất, cần chú ý quy hoạch những ngành nghề này gần vùng nguyên liệu hoặc xây dựng khu nguyên liệu gần nơi tiến hành sản xuất để tiết kiệm chi phí. Thứ hai, đối với các ngành nghề mà tỉnh không có khả năng đáp ứng hết được nguyên liệu thì một phần khai thác hết năng lực tại địa phương, phần còn lại buộc phải nhập từ tỉnh khác, hạn chế tối đa phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài. Nguyên liệu nhập từ tỉnh khác phải chú ý tính ổn định, lâu dài và chất lượng nguyên liệu. Để tiết kiệm chi phí sản xuất, cần tiến hành nhập nguyên liệu tại các địa phương gần nơi sản xuất nhất và dựa trên quan hệ hợp tác lâu dài, ký kết các hợp đồng kinh tế cung cấp nguyên liệu trong đó quy định rõ ràng về số lượng, phẩm cấp, chủng loại và ngày tháng giao hàng cùng với trách nhiệm của mỗi bên nếu làm sai hợp đồng, tránh việc thoả thuận miệng có thể không đảm bảo hoàn thành hợp đồng. Về phía đơn vị sản xuất, cũng cần có kế hoạch sản xuất, tìm hiểu thị trường và có những hợp đồng bảo đảm cho sản xuất để có thể chủ động nhập nguyên liệu sản xuất, tiết kiệm tối đa chi phí sản xuất
5.6. Bố trí sử dụng đất đai
Để khắc phục tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, công nghệ lạc hậu, chất lượng sản phẩm thấp, gây ô nhiễm môi trường tỉnh và các huyện, thành phố xây dựng một số cụm sản xuất CN- TTCN nhằm có điều kiện đưa công nghệ mới vào sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra khối lượng sản phẩm lớn, nâng cao hiệu quả sản xuất, đảm bảo có thể cạnh tranh trên thị trường và thuận lợi cho việc xử lý chất thải bảo vệ môi trường.
Xây dựng các cụm CN-TTCN, làng nghề, ngoài việc thực hiện các chính sách ưu đãi theo Quyết định 15/CP, Quyết định 132/CP, Nghị định 43/CP, tỉnh thống nhất các chính sách đầu tư, cụ thể là:
- Cơ quan Nhà nước (tỉnh, huyện) đền bù giải phóng mặt bằng tạo địa bàn sản xuất cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, hộ gia đình thuê.
- Tỉnh, huyện đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu ở khu xây dựng Cụm CN-TTCN, làng nghề tạo mặt bằng sản xuất để thu hút các nhà đầu tư, các cơ sở sản xuất tham gia đầu tư phát triển ngành nghề, làng nghề
- Đối với thuế đất có chính sách miễn giảm thuế (có thời hạn) đối với các tổ chức, cá nhân tham gia vào các cụm CN-TTCN, làng nghề.
6. Giải pháp đầu ra : Chiến lược marketing hợp lý
Vấn đề quan trọng của sản xuất kinh doanh là tìm đầu ra cho sản phẩm, sản xuất kinh doanh của làng nghề cũng vậy. Thời gian tới các cơ quan nhà nước có liên quan cũng như các cơ sở sản xuất tại làng nghề cần tăng cường công tác xúc tiến thương mại, quảng bá giới thiệu sản phẩm của làng nghề ra thị trường trong và ngoài nước. Việc quảng bá, giới thiệu được thực hiện bằng nhiều hình thức như: tham gia các hội trợ triển lãm; giới thiệu trên cổng thông tin điện tử của UBND tỉnh, trên các trang Website của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành như Sở Công nghiệp, Sở Thương Mại, Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôntham gia quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng; phát hành đĩa CD, tờ rơi giới thiệuUBND tỉnh hỗ trợ một phần các chi phí này từ Quỹ xúc tiến thương mại, Quỹ khuyến công của tỉnh.
Để các làng nghề phát triển bền vững, bên cạnh việc quy hoạch, phát triển nhân lực, xúc tiến thương mại còn một nhân tố quyết định đó là thương hiệu. Một thương hiệu chung cho làng nghề là điều kiện cần thiết giúp sản phẩm của làng nghề vươn ra xa, tránh bị sao chép và cạnh tranh thiếu lành mạnh. Xây dựng thương hiệu cho làng nghề và sản phẩm của địa phương , bước đầu cần tập trung vào các hoạt động đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tập thể, xác lập quyền sở hữu công nghiệp và xây dựng chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm đặc thù nhằm bảo vệ và nâng cao ưu thế của các sản phẩm làng nghề của Bắc Giang trên thương trường.
Sở Khoa học và Công nghệ, các ngành có liên quan và các địa phương đẩy nhanh tiến độ triển khai hỗ trợ xây dựng và đăng ký thương hiệu cho một số sản phẩm như rượu Vân Hà, mây tre dan Tăng Tiến,.. đồng thời tiếp tục xem xét hỗ trợ xây dựng và đăng ký thương hiệu cho các sản phẩm khác như: bánh đa Kế, bánh đa nem Thổ Hà, bún Đa Mai
- Kiến nghị
Nhà nước có chính sách cụ thể để hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng các cụm Công nghiệp – TTCN, NNNT được quy hoạch.
Hàng năm (bắt đầu từ năm 2009) dành một khoản ngân sách chi thường xuyên cho Bảo tồn và phát triển làng nghề, phát triển mạnh nghề truyền thống, mở rộng và phát triển nghề đã có, đào tạo dạy nghề tìm kiếm mở rộng thị trường tạo điều kiện cho hoàn thành các mục tiêu đặt ra./.
UBND tỉnh cần phải tổ chức một bộ phận làm công tác quản lý ngành nghề TTCN từ tỉnh đến huyện, xã. Xác định rõ chức năng nhiệm vụ bộ phận này tránh chồng chéo như hiện nay. Tăng cường chỉ đạo trực tuyến và quản lý Nhà nước giúp các địa phương phát triển TTCN và làng nghề.
Chỉ đạo và cấp kinh phí cho các huyện, thị xây dựng chương trình dự án đầu tư cụ thể nhằm khai thác tiềm năng của địa phương và thu hút nguồn lực từ bên ngoài.
Tăng cường và nâng cao năng lực tư vấn cho các làng nghề của các Trung tâm: Khuyến công, Khoa học công nghệ, Xúc tiến thương mại của tỉnh.
Tạo điều kiện và khuyến khích hình thành các Hiệp hội ngành nghề thủ công, Hiệp hội làng nghề trên phạm vi toàn tỉnh và từng địa phương.
Triển khai và thực hiện tốt việc phong tặng danh hiệu Nghệ nhân, xem xét và công nhận làng nghề đạt tiêu chí, tổ chức các cuộc thi sản phẩm thủ công truyền thốngđể tôn vinh các tổ chức, cá nhân có nhiều đóng góp cho sự phát triển của nghề thủ công, làng nghề trên địa bàn.
KẾT LUẬN
Qua khảo sát, nghiên cứu và đánh giá cho thấy vai trò quan trọng của " Bảo tồn và phát triển làng nghề" là yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển TTCN-Ngành nghề nông thôn, phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương; đóng góp vào sự nghiệp Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của Tỉnh.
Trong những năm qua các ngành nghề truyền đã có đóng góp to lớn cho công cuộc phát triển kinh tế xây dựng đất nước. Phát triển ngành nghề ở nông thôn là một bước nhằm thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn, tạo việc làm cho lực lượng lao động dư thừa đông đảo ở nông thôn, thu hẹp và tiến tới xoá bỏ đói nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng “ly nông bất ly hương” hạn chế di dân tự phát ra thành phố, xây dựng nông thôn mới có đời sống vật chất, văn hoá đầy đủ và phong phú.
Hiện trạng công nghiệp nông thôn Bắc Giang còn nhỏ bé và đang đứng trước những thách thức lớn như: khả năng tiếp thị yếu, công nghệ và thiết bị lạc hậu, thiếu vốn, các doanh nghiệp nhà nước hoạt động còn thiếu hiệu quả, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH còn ít và non trẻ.
Mặt khác, ngành nghề nông thôn có tiềm năng rất lớn như, bề dày các làng nghề truyền thống, tiềm năng về nguyên liệu, lao động dồi dào Nếu tạo điều kiện và môi trường thuận lợi bằng các chính sách đồng bộ và các giải pháp vĩ mô, ngành nghề nông thôn sẽ phát triển mạnh mẽ.
Từ kết quả điều tra đánh giá thực trạng về nghề, làng nghề Tỉnh Bắc Giang cho thấy: Nghề, làng nghề tỉnh Bắc Giang đang từng bước được tạo điều kiện phát triển tuy nhiên vẫn còn có những khó khăn vướng mắc; nếu có được chính sách tháo gỡ các vấn đề còn tồn tại, vướng mắc và một số nhân tố ảnh hưởng sẽ là cơ sở thuận lợi cho Bảo tồn và phát triển làng nghề của tỉnh trong giai đoạn tới..
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam NXB Chính trị quốc gia-2001
2. Lịch sử phát triển nông thôn Bắc Giang
3. Niên giám thống kê tỉnh Bắc Giang
4. Báo cáo đánh giá thực trạng và định hướng phát triển ngành nghề nông thôn đến năm 2010- Bộ NN & PTNT
5. Báo cáo tham luận tại hội nghị phát triển ngành nghề nông thôn của các tỉnh phía Bắc- Hà Nội 8/2000- Bộ NN & PTNT
6. Một số Báo, Tạp chí chuyên ngành khác
7. Sở Công Thương Bắc Giang
8. Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn
9. Bách khoa toàn thư
Danh mục từ viết tắt
- NNNT: Nông nghiệp nông thôn
- HTX: Hợp tác xã
- SX: sản xuất
-TP: Thành phố
- BQ: bình quân
- UBND: Ủy ban nhân dân
- CSSX: cơ sở sản xuất
- SP: Sản phẩm
-TTCN: Tiểu thủ công nghiệp
MỤC LỤC
Trang
Bảng 1.1: Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước 16
Bảng 2.1:Làng nghề đạt tiêu chí phân theo lĩnh vực và địa bàn 29
Bảng2.2: Danh sách làng nghề năm 2007 đạt tiêu chí phân theo địa bàn và lĩnh vực 30
Bảng 2.3 : Số lượng lao động làng nghề 32
Bảng 2.4 : Nguyên liệu cho làng nghề 36
Bảng 2.5: Vốn sản xuất của làng nghề 39
Bảng 2.6 : Thu nhập của lao động làng nghề 41
Bảng 2.7: Sản phẩm và thị trường của các sản phẩm làng nghề 43
Bảng 2.8 : Giá trị sản xuất năm 2007 theo giá hiện hành 47
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH2615.doc