Nền kinh tế nước ta vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, do vậy tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần là tất yếu. Trong đó hai thành phần kinh tế chủ chốt của đất nước là kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân ( cả trong nước và ngoài nước). Các hình thức sở hữu hỗn hợp là sự giao thoa của hai khu vực này tuỳ thuộc và nhu cầu phát triển. Nhà nước phát huy vai trò của mình thông qua việc tạo lập và duy trì môi trường thuận lợi, ổn định, công bằng. Sự hợp tác giữa các thành phần kinh tế sẽ đem lại sức mạnh chung của cả nền kinh tế. Kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước hoàn toàn có thể cùng phát triển mà không hề mang tính loại trừ lẫn nhau.
Qua 15 năm đổi mới kinh tê tư nhân đã trải qua một chặng đường khá dài phát triển. Kinh tế tư nhâ đã có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế của đất nước như tạo thêm công ăn việc làm giải quyết sự dư thừa lao động, tăng tổng sản phẩm quốc dân, tạo lặp cân đối nền kinh tế dưa nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa Tuy vậy kinh tế tư nhân cũng gặp phải rất nhiêu hạn chế, khó khăn cần dược giải quyết. Do vậy vấn đề đặt ra là phải có những chính sách đúng đắn để phát huy mọi tiềm năng, khai thác thế mạnh của khu vực tư nhân nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
36 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1708 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m 1993, 1994, 1995, 1996, 1997 là : 6.808 doanh nghiệp, 10.811 doanh nghiệp, 15.276 doanh nghiệp, 18.840 doanh nghiệp. 25.002 doanh nghiệp và năm 1998 tăng lên đến 26.021( tăng 4%) gấp 62 lần so với doanh nghiệp năm 1991. Tính bình quân giai đoạn 1991 - 1998 mỗi năm tăng thêm 3252 doanh nghiệp khoảng 32% trong đó năm 1992 tốc độ tăng về số lượng doanh nghiệp đặc biệt cao. Năm1999 con số này tăng lên 28.700 doanh nghiệp, năm 2000 tăng lên 41.700 doanh nghiệp.
Đối với mỗi loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần mức tăng về số lượng cũng khác nhau. Cụ thể:
- Loại hình doanh nghiệp tư nhân: nếu như năm 1991 cả nước có 270 cơ sở thì sau 7 năm, năm 1998 tăng lên 18.750 cơ sỏ tăng gần 70 lần, trong đó năm 1992 tăng đột biến là 3676/270 = 1.360%, các năm 1994 và 1995 tăng trên 45%, từ năm 1996 nhất là năm 1998 tốc độ phát triển chậm lại. Đến nay tốc độ phát triển lại tăng lên rõ rệt. Năm 200 có 14.413 doanh nghiệp tư nhân được thành lập. Năm 201, số doanh nghiệp tư nhân ra đời là 18.000
- Loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn: năm 1991 có 122 công ty, năm 1998 tăng lên 7.100 công ty, tăng lên 58 lần trong đó năm 1992 tốc độ tăng về số lượng so với năm 1991 đặc biệt cao: 1444/122 = 1.183%, nhưng năm 1997 tốc độ tăng chậm lại, nhất là năm 1998 chỉ còn 3%.
- Loại hình công ty cổ phần: năm 1991 có 22 công ty, đến năm 1998 tăng lên 171 công ty - tăng 7,7 lần , giai đoạn tăng nhanh nhất là vào năm 1992: 526%, nhưng sau đó vào năm 1993 và năm 1995, 1996 châm lại, năm 1997 tăng lên nhưng năm 1998 lại giăm còn 12%.
Nhìn chung loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đang tăng nhanh về số lượng trong giai đoạn 1992 - 1994, có nguyên nhân sâu xa là sự khuyến khích của các chính sách vĩ mô - đặc biệt là Luật doanh nghiệp và Luật công ty; còn sự suy giảm về số lượng doanh nghiệp năm 1997 - 1998 là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có tác động của khủng hoảng tài chính khu vực, sự phát triển hậm lại của nền kinh tế nước ta nói chung và những yếu kém của bản thân các doanh nghiệp, cùng với hạn chế của những chính sách, giải pháp vĩ mô chưa kịp với tình hình v.v…
2.2. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân theo ngành nghề sản xuất kinh doanh.
Các số liệu thống kê cũng như kết quả điều tra cho thấy: đa số các cơ sở kinh tế thuộc khu vực kinh tế tư nhân đều tập chung vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ, kế đó mới đến công nghiệp và sau cùng là sản xuất nông
nghiệp.
Theo số liệu của tổng cục thống kê, năm 1995, trong tổng số 1.882.792 cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ thì có đến 940.944 cơ sở kinh doanh trong lĩnh vực thương mại, khách sạn, nhà hàng; 707.053 cơ sở hoạt động trong ngành nông nghiệp, xây dựng và chỉ có 234.751 cơ sở trong các lĩnh vực còn lại; nghĩa là lĩnh vực thương mại, dịch vụ vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất(49%) sau đó đến công nghiệp(38%) và cuối cùng là các lĩnh vực khác(13%).
Những năm gần đây, xu thế trên vẫn được duy trì và có chiều hướng tập chung vào các lĩnh vực dịch vụ và sản xuất nông nghiệp. Cụ thể là: trong tổng số 2,2 triệu hộ cá thể, tiểu chủ được khảo sát thời kỳ 1997-1998 thì: lĩnh vực dịch vụ( bán lẻ, vận tải, dịch vụ cá nhân, khách sạn, nhà hàng, bán buôn và đại lý) có trên 1,2 triệu cơ sở, chiếm tới 55% tổng số; lĩnh vực công nghiệp và xây dựng( chế biến thức ăn, dệt, may, sản phẩm gỗ, xây dựng, khai thác) với 527.000 cơ sở chiếm 26,3% và cuối cùng là lĩnh vực nông nghiệp
(ngư nghiệp, chăn nuôi lâm nghiệp và các doanh nghiệp khác) với khoảng 369 ngàn cơ sở, chiếm 18,8%.
Đối với các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thì tình hình cũng tương tự trên. Cụ thể là:
Giai đoạn 1991-1996, trong tổng số 17.442 cơ sở: lĩnh vực thương mại,dịch vụ với khoảng 6.802 cơ sở, chiếm tỷ trọng 39%; công nghiệp chế biến với khoảng 6.105 cơ sở, chiếm tỷ trọng 35%; còn lại 4.534 cơ sở thuộc lĩnh vực khác và chiếm khoảng 26%.
Giai đoạn 1997-1998, trong tổng số 26.021 doanh nghiệp đã đăng ký năm 1998, có tới quá nửa doanh nghiệp thương mại dịch vụ; chỉ có 5.620 doanh nghiệp sản xuất trong đó 55% là chế biến thực phẩm và đồ uống, còn lại 7648 doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực khác( xây dựng, vận tải v.v…). Như vậy doanh nghiệp thương mại vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các doanh nghiệp tư nhân.
Thương nghiệp tư nhân( gồm kinh tế tư nhân, cá thể, tiểu chủ) và đang làm chủ nhiều ngành hàng nhất là công nghệ phẩm, lương thực thực phẩm, chủ công mỹ nghệ, gốm sứ, bán lẻ hàng hoá, dịch vụ cá nhân v.v.. trở thành đối thủ cạnh tranh và thay thế nhiều lĩnh vực trước đây vốn do thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã đảm nhận. Nhờ phát triển mạnh mẽ của thương nghiệp tư nhân đã làm thay đổi cơ cấu tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ toàn xã hội: năm 199, tư nhân chiếm tỷ trọng 66,9% tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ xã hội, thì đến năm 1998 đã tăng lên 78%; ngược lại quốc doanh tập thể từ 33,1% năm 1990, đến năm 1998 chỉ còn 22%; đồng thời tác động mạnh mẽ đến việc hình thành hệ thống marketing mơi ở nước ta trong đó thương nghiệp quốc doanh chỉ còn làm chủ trong những ngành hàng quan trọng, tư thương làm chủ bán lẻ hàng tiêu dùng xã hội.
Trong lĩnh vực sản xuất, khu vực tư nhân chiếm tỷ trọng còn thấp, tiềm lực còn nhỏ, dễ bị tác động, thua thiệt trong cơ chế thị trường. Năm 1998, khối sản xuất khu vực nhà nươc( quốc doanh và tập thể) còn chiếm 54,1% tổng giá trị sản lượng( mặc dù so với năm 1995 đã giảm đi 7%), khối đầu tư nước ngoài tăng lên 18%( từ 15% năm 1995), khối kinh tế tư nhân
giảm xuống còn 27,8%( 28% năm 1995)- trong đó kinh tế tư nhân chính thức giảm xuống 9,6%( từ 10,5% năm 1995). Còn nếu xét về tốc độ tăng trưởng tổng giá trị thì: khu vực quốc doanh giảm từ 11,7% vào năm 1995 giảm xuống 5,5% vào năm 1998; khu vực kinh tế tư nhân giảm từ 16,8% năm 1995 xuống còn 9% vào năm 1998, riêng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài từ 14,9% năm 1995 tăng lên 28,1% vào năm 1998.
2.3. Sự phát triển của kinh tế tư nhân theo vùng lãnh thổ.
Con số thống kê năm 1995 cho thấy: 55% số doanh nghiệp tư nhân tập trung ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ, trong khi đó vùng đồng bằng Sông Hồng con số đó là 18,1%, vùng Duyên hải miền
Trung 10,1%. Trong các tỉnh phía Nam thì riêng thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và tỉnh Đồng Nai đã chiếm 63% các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ.
Năm 1996, trong tổng số 1.439.683 cơ sở kinh doanh thuộc doanh nghiệp tư nhân( bao gồm 1.412.166 cơ sở của cá nhân và nhóm kinh doanh, 17.535 doanh nghiệp tư nhân và 6883 công ty trách nhiêm hữu hạn) thì : 24% tập trung ở đồng Bằng sông Cửu Long, 21% ở vùng đồng Bằng sông Hồng, 19% ở vùng Đông Nam Bộ, 13% ở Khu Bốn cũ, 10% ở vùng duyên hải miền Trung, 9% ở vùng núi và trung du Bắc Bộ và 4% vùng Tây Nguyên.
Đối với loại hình doanh nghiệp tư nhân, mức độ phát triển mạnh và tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long lên tới 40%; đồng bằng sông Hồng là 33%; và Đông Nam Bộ là 25%. Các công ty cổ phần lại phát triển ở vùng Đông Nam Bộ lên đến 54%, Đồng bằng sông Hồng 23%.
Sự phát triển và phân bố không đồng đều của kinh tế tư nhân vẫn diễn ra không đồng đều tên cả nước trong những năm gần đây. Năm 1997, trong tổng số 25.002 cơ sở kinh tế tư nhân( chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân) thì 18.728 doanh nghiệp tập trung ở miền Nam, chiếm tới 75%, trong khi đó ở miền Bắc chỉ có 4.178 doanh nghiệp, chiếm 17%, và miền Trung có 2.087 doanh nghiệp, chiếm 8,3%. Riêng thành phố Hồ Chí Minh có số lượng 6.304 doanh nghiệp, chiếm 25%, bằng toàn bộ số doanh nghiệp của miền Bắc và miền Trung cộng lại. Năm 1998, các con số tương ứng là: ở miền Nam 73%, lớn gần gấp 3 lần miền Bắc và miền Trung cộng lại( 27%); thành phố Hồ Chí Minh vẫn là địa bàn có số lượng lớn nhất(25%), Hà Nội và miền Trung có số lượng tương đương nhau( khoảng 8%). Tính đến thời điểm hiện nay thì mặc dù các cơ sở kinh tế nhân đã phát triển ở tất cả mọi nơi trên đất nước nhưng sự chênh lệch giữa các vùng miền vẫn rõ rệt. Các cơ sở kinh tế tư nhân tập trung nhiều nhất là ở miền Nam đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương…
3. Những đóng góp và những kết quả đạt được của khu vực kinh tế tư nhân cho nền kinh tế
3.1. Khơi dậy và phát huy tiềm năng của bộ phận lớn dân cư tham gia vào công việc phát triển đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tạo việc làm.
3.1.1. Huy động mọi nguồn vốn đầu tư phát triển.
Kinh tế cá, thể tiểu chủ tuy quy môm nhỏ nhưng với số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh lớn nên đã động viên được nhiều nguồn vốn vào phát triển kinh doanh từ 14.000 tỷ đồng năm 1992 tăng lên 26.500 tỷ đồng vào năm 1996. chiếm 8,5% tổng số vốn đầu tư sản xuất kinh doanh toàn xã hội. Các doanh nghiệp tư bản tư nhân đã huy động được vốn kinh doanh là 20.665 tỷ đồng ( tính đến hết năm 1996), bình quân mỗi năm trong giai doạn 1991-1996 tăng thêm 3.904 tỷ đồng, chiếm khoảng 5% số vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội và 6,9% vốn kinh doanh của các ngành. Tính đến thời điểm năm 1996, khu vực kinh tế tư nhân đã huy động được tổng lượng vốn đến 47.155 tỷ đồng, chiếm tới 15% tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Mặc dù trong những năm vừa qua với chính sách mở cửa nhà nước kêu gọi thêm nguồn đầu tư FDI ngày một tăng, nhưng khu vực kinh tế tư nhân trong nước vẫn đóng góp lượng vốn đầu tư rất đáng kể cho nền kinh tế. Năm 1999 vốn đầu tư phát triển của khu vực kinh tế tư nhân là 131.171 tỷ đồng và đến năm 2000 con số này tăng lên 147,633 tỷ đồng.
3.1.2. Tạo việc làm, toàn dụng xã hội.
Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là lực lượng tham gia tích cực và có hiệu quả đối vơi vấn đề giả quyết việc làm. Năm 2000, lao động của doanh nghiệp tư nhân là 21.017.326 người chiếm 56,3% lao động có việc làm thường xuyên trong cả nước. Trong đó, lao đông trong các hộ kinh doanh cá thể có số lượng lớn lao động trong doanh nghiệp.
Trong các ngành phi nông nghiệp, số lượng lao động năm 2000 là 4.634.844 lao động, tăng 20,12% so với năm 1996, bình quân mỗi năm tăng thêm được 194.760 lao động, tăng 4,75%/năm. Trong 4 năm từ năm 1997 đến năm 2000, chỉ tính riêng các ngành phi nông nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân đã thu hút thêm được 997.019 lao động, gấp 6,6 lần so với khu vực nhà nước. So với năm trước, số lao động trong các doanh nghiệp phi nông nghiệp tăng lên như sau: 1997 là 11,7%; 1998 là 10,2%; 1999 là 23,8%; 2000 là 56%. Tỷ trọng lao động của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực phi nông nghiệp năm 2000 chiếm 22,1% lao động trong các khu vực kinh tế tư nhân, 39,8% lao động phi nông nghiệp cả nước. Trong đó, lao động ở hộ kinh doanh cá thể chiếm 81,9%; ở doanh nghiệp chiếm 18,1% lao động phi nông nghiệp.
Năm 2000, lao động của kinh tế tư nhân trong nông nghiệp có 16.373.428 người, chiếm 62,9% tổng số lao động nông nghiệp toàn quốc. Số lao động của các hộ ngoài hợp tác xã chiếm 99,67% tổng số lao động của khu vực kinh tế tư nhân trong nông nghiệp. Trong đó số lao động ở khu vực kinh tế tư nhân trong nông nghiệp, các trang trại chỉ thu hút được 363.084 lao động, chiếm 22,2%, các doanh nghiệp nông nghiệp chỉ thu hút được 53.097 lao động chiếm 0,33%.
3.1.3. Đóng góp quan trọng trong GDP và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh mục tiêu cơ bản là huy động tiềm năng về vốn và giải quyết việc làm cho toàn xã hội, khu vực kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư nhân còn đóng góp đáng kể vào tổng sản phẩm xã hội. Năm 2000, GDP của khu vực kinh tế tư nhân đạt 178.715 tỷ đồng, chiếm 42,3% GDP toàn quốc. Trong đó: hộ kinh doanh đóng góp được 154,562 tỷ đồng, chiếm 82,34%; donah nghiệp đóng góp được 33,153 tỷ đồng, chiếm 17,66% GDP của kinh tế tư nhân.
Trong các ngành phi nông nghiệp: năm 2000 đóng góp vào GDP được 119.337 tỷ đồng, chiếm 63,6% của khu vực tư nhân. Trong đó, hộ kinh doanh cá thể có tỷ trọng lớn hơn nhiều so với doanh nghiệp; lĩnh vực kinh doanh thương mại, dịch vụ có tỷ lệ lớn hơn nhiều so với sản xuất công nghiệp. GDP của các ngành phi nông nghiệp tăng trưởng liên tục trong những năm gần đây, nói chung xấp xỉ tốc độ tăng GDP toàn quốc. Năm 2000, GDP khu vực kinh tế phi nông nghiệp của kinh tế tư nhân đạt 86.929 tỷ đồng, tăng 28,94% so với năm 1996, bình quân tăng hơn 7%/năm.
Trong các ngành nông nghiệp: theo số liệu thống kê năm 2000, GDP của kinh tế tư nhân ngành nông nghiệp đạt 68.378 tỷ đồng, chiếm 15,4% GDP toàn quốc, 63,2% GDP của nông nghiệp, 36,4% GDP của kinh tế tư nhân. Trong đó, hộ cá thể chiếm 98% GDP kinh tế tư nhân trong nông nghiệp.
3.2. Thúc đẩy hình thành các chủ thể kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý theo hướng thị trường, tạo sự cạnh tranh trong nền kinh tế.
Trước đây hầu hết các lĩnh vực kinh tế, các ngành sản xuất kinh doanh … đều do kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đảm nhận. Hiện nay, trừ một số lĩnh vực, ngành nghề mà nhà nước độc quyền, kinh tế tư nhân không được kinh doanh, còn lại hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh káhc khu vực kinh tế tư nhân đều tham gia. Trong đó, nhiều lĩnh vực, nghành nghề, khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng áp đảo như: sản xuất lương thực, thực phẩm. Nuôi trồng thuỷ hải sản, đánh cá, lâm nghiệp, hàng hoá bán lẻ, chế biến, sành sứ, giày dép, dệt may, … Lĩnh vực sản xuất lương thực, đặc biệt là xuất khẩu gạo và các sản phẩm nông nghiệp,thủy hải sản, lĩnh vực dệt may, giày dép xuất khẩu; thủ công mỹ nghệ xuất khẩu…đã mang về hàng tỷ đô la ngoại tệ cho nền kinh tế tư nhân. Thực tế nêu trên đang đặt ra vấn đề cần xem xét vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nứoc trong nhữn ngành nghề, lĩnh vực nào là thích hợp khi mà khu vựuc kinh tế tư nhân đã tham gia và chiếm tỷ trọng lớn trong không ít ngành nghề. Chính sự phát triển phong phú, đa dạng các cơ sở sản xuất, các ngành nghề, các loại sản phẩm dịhc vụ, các hình thức kinh doanh … của khu vực kinh tế tư nhân đã tác động mạnh đến các doanh nghiệp nhà nước, buộc khu vực kinh tế nhà nứoc phảI cảI tổ, sắp xếp lại, đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức kinh doanh dịch vụ… để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường. Qua đó, khu vực kinh tế tư nhân đẫ thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các khu vựu kinh tế, làm cho nền kinh tế trở nên năng động; đồng thời cũng tạo nên sức ép lớng buộc cơ chế quản lý hành chính của Nhà nước phải đổi mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế thị trường nói chung. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng hình thành và xác lập vai trò, vị trí của các chủ thể sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, thúc đẩy cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách cơ chế quản lý theo hướng thị trường, mở cửa hợp tác với bên ngoài.
3.3. Hình thành và phát triển các chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, góp phần xây dựng đội ngũ nhà doanh nghiệp Việt Nam, làm đầu tàu thúc đẩy nền kinh tế bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở của hợp tác với bên ngoài.
Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trước đây đã xoá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa và cả những doanh nghiệp tư nhân, chỉ còn lại các nhà doanh nghiệp trong khu vực kinh tế quốc doanh và hợp tác xã. Đội ngũ các nhà doanh nghiệp trong khu vực kinh tế quốc doanh đựơc đào tạo trong cơ chế cũ - mặc dù đã đựoc đào tạo, đổi mới, trưởng thành trong cơ chế thị trường những năm gần đây và đã đạt được những thành công đáng kể trong sản xuất kinh doanh, nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều yếu kém bất cập trước yêu cầu nhiệm vụ và đòi hỏi của nền kinh tế thị trường nhất là trước yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thời mở cửa nền kinh tế.
Nhờ đổi mới và phát triển khu vực kinh tế tư nhân, chúng ta đã từng bước hình thành được đội ngũ các nhà doanh nghiệp hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực, các nghành nghề của nền kinh tế quốc dân với số lượng ngày một lớn: khoảng trên 40.000 chủ doanh nghiệp và trên 120.000 chủ trang trại (trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp). Nếu so sánh với gần 6.000 giám đốc doanh nghiệp nhà nước được nhà nước đào tạo trong nhiêuù thập kỷ trước dây thì số lượng các nhà doanh nghịe tru nhân và các chru trang trại hình thành trong thời kỳ đổ mới lớn hơn nhiều lần. Đây thật sự la một thành quả cáo ý nghĩa lớn trong việc xây dựng đội ngũ các doanh nghiệp và phát huy nguồn lực con người cho đất nước thời mở của của khu vực kinh tế tư nhân. mặc dù được hình thành một cách tự phát nhưng nhờ được đào tạo luyện trong cơ chế thị trường, đội ngũ các nhà doanh nghiệp tư nhân đã tỏ rõ bản lĩnh, tài năng, thích ứng khá kịp thời với sự chuyển đổi của nền kinh tế. Họ đã vươn lên, tham gia vào hầu hết các lĩnh vực, nghành nghề sản xuất kinh doanh mà luật pháp không cấm - trong đó bao gồm cả những ngành kỹ thuật cao ( điện tử, phần mềm…) và đã làm chủ nhiều lĩnh vực ( nuôi trông,đánh bắt tuỷ hảI sản, công nghiệp chế biến…), nhiều ngành hàng (thương mại, dịch vụ, bán lẻ hàng hóa, ăn uống, gia công giaùy dép, dệt may, thủ công mỹ nghệ xuất khẩu…). Trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp, hàng trăm ngàn trang trại cung cấp nông sản hàng hoá cho xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu gạo của Việt Nam. Vai trò của các trang trại ngày coàng được khẳng định như đầu tàu, động lực, thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá và tăng trưởng trong sản xuất nông nghiệp nước ta.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng số lượng các nhà doanh nghiệp tư nhân và các chủ trang trại, cùng với các giám đốc doanh nghiệp nhà nước là một thành qủ quan trọng mà công cuộc đổi mới đã tạo nên, nhưng nếu so với yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế (trên 70 triệu dân và trên 12 triệu hộ gia đình) và đặc biệt trước yêu cầu mở cửa, hội nhập nền kinh tế nước ta với khu vực và thế giới - đòi hỏi phải có một đội ngũ các nhà doanh nghiệp đủ mạnh, ngang sức, ngang tài, là đối tác với các doanh nghiệp ở nước ta nói trên còn quá nhỏ bé. Đến nay, ngoài các tổng công ty 90,91 và các doanh nghiệp tư bản tư nhân, số doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn là chủ yếu.
Phần lớn các chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân cũng như các chủ trang trại ở nước ta ở vào độ tuổi trung niên, có trình độ văn hoá và trưởng thành trong giai đoạn đổi mới. Con đường lập nghiệp của họ cũng khác nhau: Phần đông là cán bộ, công nhân viên nhà nước vì nhiều lý do đã chuyển sang lập doanh nghiệp tư bản tư nhân, trang trại: một số là bộ đội về hưu, phục viên, xuất ngũ; số khác là học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp có cơ hội bước vào con đường lập nghiệp … Phần lớn các chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân, chủ trang trại xuất thân từ gia đình lao động và bản thân họ cũng là người lao động lớn lên trong chế độ mới - trong đó không ít người là cán bố, đảng viên được đào tào ngành nghề, có trình độ, bằng cấp cao, đã tham gia cách mạng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, có hoài bão, ước mơ… muốn thử sức trong thương trường để làm giàu cho mình, cho xã hội và là những ngưòi làm ăn chân chính. Đành rằng trong đó cũng còn tồn tại không ít các chủ soanh nghiệp, các chủ trang trại có nhứng biểu hiện tiêu cực, chạy theo lợi nhuận, đồng tiền bất chấp luật pháp, đạo lý xã hội, làm ăn phi pháp, làm hàng giả… gây thiệt hại cho xã hội, rất cần được gaío dục, uốn nắn bằng pháp luật vàdư luận xã hội… Nhìn chung cần có hệ thốn luật pháp đồng bộ, chặt chẽ, rõ ràng đối với khu vực kinh tế tư nhân, nhưng đồng thời cũng cần có chính sách, biện pháp khuyến khích đối với họ, để họ thực sự đứng trong đội ngũ các nhà doanh nghiệp trẻ Việt Nam, thúc đẩy con tàu kinh tế đất nước vững bước tiến vào thế kỷ XXI, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3.4. Góp phần xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thực hiện công bằng xã hội.
Chính nhờ phát triển kinh tế tư nhân với nhiều loại hình kinh tế khác nhau, đã góp phần làm cho quan hệ sản xuất chuyển biến phù hợp với lực lượng sản xuất trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế nước ta.
Trước hết là sự chuyển biến trong quan hệ sở hữu. Nếu trước đây quan hệ sở hữu ở nước ta chỉ bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể thì giờ đây quan hệ sỏ hữu đã được mỏ rộng hơn: còn có sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sở hữu hỗn hợp.
Sự chuyển biến trong quan hệ sỏ hữu nói trên kéo thưo sự chuyển biến trong quan hệ quản lý: hình thành tầng lớp chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân bên cạnh đội ngũ giám đốc các doanh nghiệp nhà nước; hình thành đội ngũ nhứng người lao động làm dthuê trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân bên cạnh những người làm công ăn lương trong các doanh nghiệp nhà nước…: xuất hiện quan hệ chủ thợ, quan hệ thuê mướn lao động thông qua hợp đồng kinh tế; thị trường lao động bước đầu được hình thành và ngày càng mở rộng, tạo cơ hội tìm kiếm việc làm cho mọi người thay cho việc phân bổ lao động vào các doanh nghiệp theo chỉ tiêu ( cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước
đây)…
Quan hệ phân phối giờ đây càng trở lên linh hoạt, đa dạng; ngoài phân phối chủ yếu dựa trên lao động, còn sử dụng các hình thức phân phối theo góp vốn theo tài sản, theo cổ phần và các hình thức khác …
Chính sự chuyển biến của các quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối nói trên đã làm cho quan hệ sản xuất trở nên mềm dẻo , đa dạng, linh hoạt, dễ được chấp nhận và phù hợp với thực trạng nền kinh tế và tâm lý xã hội nước ta hiện nay.
Những chuyển biến của quan hệ sản xuất nói trên đã khơi dậy và phát huy được tiểm năng về vố, tư liệu sản xuất, tài nguyên thiên nhiên, đặc biêt là nguồn lao động dồi dào và tiềm lực của hàng triệu hộ nông dân, hộ cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Nhờ vậy đã góp phần quan trọng xóa đói giảm nghèo ( từ 16.5% hộ nghèo đói năm 1995 giảm xuống cong 11% năm 2000) cảI thiện đời sống dân cư
( mức tiêu dùng của dân cư nông thôn tăng 5.4% hàng năm và của dân cư thành thị tăng 9.6%), góp phần đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao nhiều năm liền trong khu vực và trên thế giới.
3.5. Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, thúc đẩy cạnh tranh, tăng thêm số lượng công nhân và doanh nghiệp Việt Nam.
Trình độ sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân ngày càng tiến bộ, số lượng hàng hoá thay thế hàng nhập khẩu ngày càng tăng lên . Một số sản phẩm đã góp phần làm chặn đứng, đẩy lùi xâm nhập của hàng ngoại nhập. Bên cạnh việc thực hiện đồng bộ sản phẩm hàng hóa xuất khẩu, khu vực kinh tế tư nhân còn tham gia nhiều công đoạn sản xuất hàng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu trực tiếp của khu vực phi nông nghiệp trong kinh tế tư nhân đến nay đã tăng khá nhanh, năm 2001 nhập khẩu đạt 3,336 tỷ USD, xuất khẩu đạt 2,851 tỷ USD.
Số lượng công nhân, lao động trong lĩnh vực phi nông nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh. Năm 2000, số lao động làm việc trong công nghiệp là 2.121.228 người, chiếm 45,68%; lao động trong khu vực phi nông nghiệp của kinh tế tư nhân là tăng 18,74% so với năm 1999.
4. Những tồn tại yếu kém chủ yếu.
4.1. Phần lớn các cơ sở kinh tế tư nhân đều có quy mô nhỏ, năng lực và sức mạnh cạnh tranh hạn chế, dễ bị tổn thương trong cơ chế thị trường.
Hiện nay có tới 87.2% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng, trong đó 29.4% có mức vốn dưới 100 triệu đồng; những doanh nghiệp có mức vốn từ 10 tỷ đồng trở lên chỉ chiếm 1%, trong đó từ 100 tỷ đồng trở lên có 0.1%. Thiếu vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất là hiện tượng phổ biến đối với toàn bộ các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân hiện nay và được coi là một trong những cản trở lớn nhất đến sự phát triển sản xuất kinh doanh của các cơ sở kinh tế tư nhân. Hầu hết các doanh nghiệp khởi sự hoàn toàn bằng vốn tự có ít ởi của mình. Ngân hàng thì luôn ở trong tình trạng thủ thế “ chờ doanh nghiệp đến vay với đầy đủ các điều kiện về tài sản thế chấp” chứ không phải là “ tìm các phương án kinh doanh có hiệu quả để cho vay”. Mặt khác, bản thân doanh nghiệp cũng có những hạn chế nhất định trong việc tiếp cận các nguồn vốn, tiếp cận thông tin. Thành lập doanh nghiệp chủ yếu dựa trên kinh nghiệm chứ chưa tính toán đầy đủ nhu cầu thị trường và khả năng tiêu thụ chắc chắn, nên hầu hết các chủ doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân hoạt động thiếu phương án cũng như kế hoạch kinh doanh, vì vậy dễ đổ vỡ trước biến động của thị trường.
Hệ thống ngân hàng, kể cả hệ thống tài chính trung gian yếu kém cùng với những thủ tục thế chấp phức tạp và nạn quan liêu đã khiến cho hơn 20% các doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa không muốn vay ngân hàng. Không có được điều kiện cho vay thuận lợi như các doanh nghiệp của nhà nước nên chỉ có 18% các doanh nghiệp tư nhân vừa và lớn vay được vốn dài hạn, đối với doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa con số này chắc chắn sẽ còn thấp hơn.
4.2. Máy móc thiết bị, công nghệ lạc hậu và nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế.
Mặc dù nhận thức được nhu cầu cấp bách phải nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá, song kảh năng dổi mới thiết bị, công nghệ của các cơ sở sản xuất tư nhân hạn chế vì vậy phần lớn đều đang sử dụng máy móc thiết bị cũ, lạc hậu; rất ít doanh nghiệp sử dụng máy móc, công nghệ mới cũng như thuê máy móc thiết bị; có khoảng 18% số doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh và 5% số doanh nghiệp ở Hà Nội không thể tăng khả năng sản xuất với những thiết bị hiện có; khoảng 50% số doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh đang sử dụng tới 90% công suất của máy móc. Tỷ lệ này ở các thành phố khác chỉ có 13% và ở nông thôn là 15 - 2%. Đa số các cơ sở sản xuất tư nhân cũng như hộ cá thể, tiểu chủ đều sử dụng máy móc thiết bị lạc hậu 2 - 3 thế hệ. Năng suất lao động, chất lượng sản phẩm của phần lớn các cơ sở sản xuất kinh doanh bị hạn chế.
Lao động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của kinh tế tư nhân chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo, thiếu kỹ năng, trình độ văn hoá thấp. Số liệu điều tra cho thấy: trong khu vực kinh tế tư nhân chỉ có 5.13% lao động có trình độ đại học, khoảng 48.4% số chủ doanh nghiệp không có bằng cấp chuyên môn. Trong số lao động có trình độ cao đẳng và đại học trở lên thì doanh nghiệp tư nhân chiếm 1.9%, công ty cổ phần là 1.3%, công ty trách nhiệm hữu hạn là 8.6%, trong các cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ là 0.5%. Cùng với sự lạc hậu về công nghệ, kỹ thuật, sự yếu kém của đội ngũ lao động cũng là nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế này.
4.3. Thiếu mặt bằng sản xuất và mặt bằng sản xuất không ổn định là tình trọng phổ biến đã tác động bất lợi tới chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp.
Luật Đất đai chỉ quy định quyền sử dụng đất, không cho phép tư nhân có quyền sở hữu và hạn chế nghiêm ngặt việc mua bán đất đai. Hệ quả là quyền sử dụng đất không được chuyển nhượng công khai, giá đất thiếu ổn định, dẫn đến tình trạng đất đai bị đầu cơ, sử dụng kém hiệu qủa. Trong điều kiện môi trường như vậy, bất lợi hơn cả chính là các cơ sở kinh tế tư nhân mới thành lập rất khó có được mặt bằng đất đai ổn định. Thêm vào đó, sự phân biệt đối xử trong việc giao đất của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nứơc và cho thuê đất đối với các cơ sở kinh tế tư nhân cũng gây bất lợi và thiệt thòi cho khu vực kinh tế tư nhân. Mặt khác, những vẫn đề chuyển nhượng, cho thuê quyền sử dụng đất đai chưa rõ ràng càng làm cho vấn đề mặt bằng sản xuất căng thẳng hơn. Ngay cả khi doanh nghiệp đã bỏ ra rất nhiều chi phí để có mặt bằng sản xuất, nhưng sau đó họ lại rất khó khăn trong việc dùng đất đai để làm tài sản thế chấp vay ngân hàng. Rất ít doanh nghiệp có được mặt bằng sản xuất ngay từ khi mới thành lập mà thường phải đi làm thuê hoặc tận dụng đất ở và điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất kinh doanh.
4.4. Thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm
Hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân mua nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra trên thị trường địa phương và dựa vào mạng lưới quan hệ cá nhân ( chỉ có khoảng 20% số doanh nghiệp nhỏ và vừa tiêu thụ sản phẩm tại các thành phố lớn và khoảng 33% sản phẩm của các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân được bán cho khu vực nhà nước). Hiện nay một số sản phẩm hàng hoá của khu vực kinh tế tư nhân cũng đã có mặt trên thị trường thế giới, tuy vậy sản phẩm đủ chất lượng xuất khẩu còn ít và chịu sức ép cạnh tranh gay gắt, còn lại phần lớn sản phẩm của khu vực kinh tế tư nhân được tiêu thụ trên thị trường nội địa. Nhưng và năm gần đây, do tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính khu vưc, nền kinh tế tăng trưởng giảm, thu nhập của dân cư sút kém nên sức mua trong nước cũng giảm. Thêm vào đó, hàng hoá trong nước còn tồn đọng với khối lượng lớn, cùng với hàng nhập lậu tràn lan không kiểm soát được( qua biên giới) đã làm cho việc tiêu thụ hàng hoá của khu vực kinh tế tư nhân rơI vào tình thé cực kỳ bất lợi, làm cho nhiều cơ sở sản xuất bị đình đốn, phá sản. Nhà nước đã có nhiều giải pháp kích cầu nhưng vẫn chưa tháo gỡ được khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho khu vực kinh tế tư nhân và hiện nay vấn đề này vẫn là bài toán nan giải.
4.5. Khả năng cạnh tranh và tồn tại, đứng vững trong cơ chế thị trường của các cơ sở kinh tế tư nhân còn hạn chế, một số tiêu cực nảy sinh đã làm cho tốc độ phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đang chững lại và có biểu hiện suy giảm trong những năm gần đây.
Tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp tư nhân giảm từ mức cao 60% vào thời điểm năm 1994 xuống còn 41% năm 1995, năm 1996 còn 24%, năm 1997 còn 32%, đặc biệt năm 1998 đã giảm đi 250 công ty trách nhiệm hữu hạn (từ 7.350 công ty trách nhiệm hữu hạn năm 1997 đến năm 1998 còn 7.100 công ty trách nhiệm hữu hạn), số công ty cổ phần tăn lên 19, riêng doanh nghiệp tư nhân tăng cao nhất là 1.250 doanh nghiệp so với năm 1997. Tốc độ tăng trưởng GDP của cả khối kinh tế tư nhân giảm từ 8.7% năm 1995 xuống 5.7% vào năm 1997 và 4.2% vào năm 1998. Ngoài ra còn có hiện tượng rất đáng lưu ý là: một số doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân lớn chia nhỏ doanh nghiệp, không muốn đăng ký thành lập các doanh nghiệp lớn. Mà chỉ liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tập thể để núp bóng trốn lậu thuế, kinh doanh trái phép, hoạt động kinh tế ngầm; một số chủ doanh nghiẹp của khu vực kinh tế tư nhân móc nối, cấu kết với một số cán bộ nhà nước thoái hoá để bòn rút, chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng nhiều mặt đối với nền kinh tế - xã hội… Tình hình trên một mặt do sự tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, nhưng mặt quan trọng hơn lại bặt nguồn tự sự yếu kém về năng lực của bản thân khu vực kinh tế tư nhân nói riêng và sự yếu kém của nền kinh té nước ta nói chung - đặc biệt là những hạn chế của chính sách, giảI pháp quản lý vĩ mô của Nhà nước - là những hiện tượng rất đáng lưu ý, cần có sự quản lý, kiểm tra ngăn chặn để hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế được lành mạnh.
5. Nguyên nhân.
5.1. Nguyên nhân chủ quan.
5.1.1. Luật pháp, chính sách, cơ chế quản lý vĩ mô của nhà nước vẫn chưa tạo lòng tin cho các hộ cá thể, tiểu chủ và doanh nghiệp tư bản tư nhân, nhất là những nhà doanh nghiệp có vốn lớn, có đầu óc kinh doanh yên tâm làm ăn lâu dài.
Một thời gian dài trước đây Đảng và Nhà nước ta đã không chủ trương khuyến khích phát triển khu vực kinh tế tư nhân, bởi vậy việc tích luỹ vốn, trau dồi kinh nghiệm kinh doanh trong cơ chế thị trường và mở rộng quan hệ quốc tế của các doanh nghiệp này gần như không có. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, ban hành Luật Doanh nghiệp … nhằm tạo hành lang pháp lý và môI trường thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển. Tuy nhiên trong thực tế, nhiều chủ trương, chính sách bị biến dạng qua các tầng nấc hành chính, cơ quan nhà nước vẫn “ hành dân là chính, sự tha hoá trong bộ máy và đoọi ngũ cán bộ không giảm” nên vẫn không tạo được lòng tin cho các chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân. Mặt khác, ở tầm vĩ mô cũng chưa hình thành đựoc một hệ thống tổ chức có đủ thẩm quyền để quản lý: từ đề xuất định hướng chiến lược phát triển, chính sách hỗ trợ, tổ chức đào tạo, chuyển giao công nghệ, thông tin thị trường, giáo dục pháp luật … cho các cơ sở sản xuất kinh doanh tư nhân. Tình trạng tự phát, mạnh ai nấy làm, phát triển thiếu định hướng, thiếu phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau trong khu vực kinh tế tư nhân cũng như với các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, doanh nghiệp vó vốn đầu tư nước ngoài… còn diễn ra phổ biến, đã không tạo nên sức mạnh chung mà nhiều khi còn kìm hãm lẫn nhau. Đó là những khó khăn lớn cả về vật chất lẫn tinh thần, cả khách quan và chủ quan đối với sự hình thành và phất triển của khu vực kinh tế tư nhân. Vì thế những năm qua, kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân ở nước ta tuy phát triển nhanh vè số lượng, nhưng phổ biến vẫn là quy mô nhỏ, tiềm lực chưa mạnh, khả năng liên doanh, hợp tác và vươn ra thị trường nước ngoài còn rất hạn chế
5.1.2. Thiếu sự phối hợp giữa kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân trong một kế hoạch phát triển có bài bản ở tầm chiến lược.
Trong kế hoạch phát triển của các ngành, hầu như không tính đến khu vực kinh tế tư nhân, hầu như không tính đến khu vực kinh tế tư nhân. Hoạt động sản xuất kinh doanh và vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân trong mỗi ngành, mỗi lĩnh vực chưa được xác định trong kế hoạch phát triển ở tầm vĩ mô. Chức năng dẫn dắt khu vực kinh tế tư nhân phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế nhà nước không những mờ nhạt, mà còn có trường hợp các doanh nghiệp nhà nước chèn ép, lấn át khu vực kinh tế tư nhân, dành nhiều thuận lợi cho mình.
ở tầm vĩ mô, chưa có sự phối hợp chặt chẽ và phân công rõ ràng giữa ngành và địa phương trong việc quản lý khu vực kinh tế tư nhân, cụ thể là chưa có một cơ quan nào được giao trách nhiệm đăng ký kinh doanh đối với các doanh nghiệp tư bản tư nhân, còn việc quản lý chỉ đạo thì không có cơ qan nào đảm nhận.
Quản lý nhà nước đối với các khu vực kinh tế tư nhân chưa chặt chẽ và không rõ ràng, vì vậy những cơ sở trong quản lý, cấp phép sản xuất kinh doanh không được kịp thời rút kinh nghiệm, bổ sung, sửa đổi. Sau khi đã cấp giấy phép kinh doanh thì việc quản lý bị buông lỏng, không có cơ quan nhà nước cụ thể chịu trách nhiệm kiểm tra và hướng dẫn hoạt động của doanh nghiệp một cách chặt chẽ và thường xuyên. Tình trạng hoạt động không theo đăng ký kinh doanh, trốn lậu thuế, gian lận thương mại… cũng như hiẹu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên thực tế không kiểm soát đựoc. Những quan hệ mới về lao động giữa chủ doanh nghiệp và người làm thuê phát sinh trong thực tế nhưng văn bản pháp luật ( quy định về chế độ bảo hiểm, ký kết hợp đồng, chế độ tiền lương …) không được ban hành kịp thời và nhất là thiếu sự kiểm tra giám sát của cơ quan có thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động cũng như giới chủ doanh nghiệp
Cho đến nay, việc xác định cụ thể những tiêu chí để đánh giá, phân loại kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân cũng chưa rõ ràng, thống nhất, trong thực tế việc nhìn nhận đánh giá các loại hình kinh tế này còn tuỳ tiện, chủ quan. Có lẽ vì thế mà nhiều chính sách, giải pháp quản lý kinh tế vĩ mô tỏ ra chưa thực sựu sát hợp đối vưói khu vực kinh tế tư nhân, do đó đã hạn chế sự phát triển của khu vực này.
5.1.3. Thủ tục xin thành lập doanh nghiệp còn phức tạp.
Chính vì lẽ đó mà nó không khuyến khích việc thành lập doanh nghiệp và huy động vốn trong nhân dân đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Nạn quan liêu giấy tờ với nhiều thủ tục hành chính phức tạp, chưa thật sự tạo điều kiện thuận lợi cho dân. .. đã làm nản lòng những người muốn lập nghiệp.
Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận khá lớn các chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân chưa thực sự yên tâm khi bỏ vốn đầu tư vào kinh doanh do chính sách của Nhà nước còn nhiều bất cập và chưa đồng bộ, do những hạn chế về thông tin kinh tế, trình độ năng lực yếu, kinh nghiệm kinh doanh chưa nhiều … và nhất là lo nhà nước “ vỗ béo để rồi làm thịt “. Vì vậy, để phát triển ổn định, lâu dài cho khu vực kinh tế này thì việc giải quyết những trở ngại nói trên là rất cần thiết.
5.1.4. Cơ chế thương mại, thể chế tài chính tín dụng, chính sách thuế và tổ chức hỗ trợ thị trường, v.v. vho khu vực kinh tế tư nhân còn thiếu và yếu kém.
Các doanh nghiệp tư bản tư nhân chưa được tiếp cận đầy đủ các nguồn nhập khẩu, xin hạn ngạch… đã hạn chế việc tiếp xúc với thị trường thế giới của khu vực tư nhân qua xuất khẩu và nhập khẩu. Gần đây Chính phủ đã nới lỏng các quy định và cho phép mọi doanh nghiệp được quyền xuất nhập khẩu trực tiếp không cần phải có một lượng vốn nhất định như trước, nhờ vậy đã tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều doanh nghiệp tư bản tư nhân tham gia vào thị trường thế giới. Tuy vậy trong thực tế vẫn chưa hết những phiền hà, khó khăn cho doanh nghiệp như thời gian làm thủ tục hải quan cũng như thủ tục hải quan đối với hàng nhập khẩu.
Về tài chính, tín dụng: khả năng tiếp cận các nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn hiện nay của các doanh nghiệp tư bản tư nhân vẫn còn khó khăn bởi các thủ tục về thế chấp vẫn chưa được giải quyết; thể chết tín dụng ngân hàn chưa làm được vai trò hỗ trợ, giúp đỡ tích cực và có hiệu quả cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển.
Chính sách thuế gần đây mặc dù đã có nhiều thay đổi theo hướng đơn giản, dễ tính, dễ thực hiện, nhưng chưa các doanh nghiệp cho rằng vấn đề không phảI ở mức thuế cao mà là ở chỗ có quá nhiều loại thuế và mức thuế. Việc áp dụng thuế VAT vào các doanh nghiệp tư nhân đã gây phức tạp cho doanh nghiệp do sự chuẩn bị chưa chu đáo, chưa tính toán hết được những cáI khó khăn và không khó khăn của nó. Tóm lại, khắc phục những tồn tại, yếu kém trong hoạch định chủ trương, chính sách và giảI pháp tổ chức, quản lý vĩ mô của Nhà nứơc đối với khu vực kinh tế tư nhân, nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho khu vực kinh tế này phát triển là cách tốt nhất để phát huy khả năng của nó phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn mới.
5.2. Nguyên nhân khách quan.
5.2.1. Thiếu mặt bằng sản xuất.
Thiếu mặt bằng sản xuất ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện nay, Luật đất đai chỉ quy định quyền sử dụng đất, không cho phếp tư nhân có quyền sở hữu và hạn chế việc mua bán đất đai. Hậu quả là quyền sử dụng đất không được chuyển nhượng công khai, giá đất thiếu ổn định dẫn đến tình trạng đầu cơ, sử dụng kém hiệu quả. Trong điều kiện như vậy sẽ bất lợi cho các doanh nghiệp mới thành lập khó có mặt bằng ổn định để sản xuất, kinh doanh. Thêm vào đó lại có sự phân biệt đối xử trong doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, điều này cũng gây bất lợi cho khu vực kinh tế tư nhân. Rất ít doanh nghiệp có mặt bằng sản xuất ngay khi mới thành lập mà thường phải đi thuê, ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh.
5.2.2. Thị trường.
Thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm đang là cản trở lớnđến phát triển sản xuất, kinh doanh của khu vực tư nhân. Hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân mua nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đàu rảtên thị trường địa phương dựa vào quan hệ cá nhân. Hiện nay, một số hàng hoá của khu vực tư nhân cũng tham gia thị trường thế giới, tuy nhiên sản phẩm đủ chất lượng còn ít mà chịu sức ép cạnh tranh gay gắt. Thêm vào đó hàng hóa tồn đọng trong nước còn lớn, ước tính khoảng 40.000 tỷ đồng cùng với hàng nhập lậu tràn lan không kiểm soát được làm cho việc tiêu thụ hàng hoá của khu vực tư nhân lâm vào tình trạng bất lợi.
5.2.3. Thiếu sự ủng hộ của xã hội
Các quan điểm, văn kiện Đại hội Đảng đã chỉ ra thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, cá thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, song vẫn còn có sự e ngại với sự phát triển của thành phần kinh tế này.
5.2.4. Thể chế quản lý chưa tạo điều kiện cho hoạt động của kinh tế tư nhân.
Cho đến nay chưa có một bộ phận quản lý Nhà nước chính thức đối với hoạt động của các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân để theo dõi, điều chỉnh, hỗ trợ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ.
IV. NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
1. Phương hướng phát triển.
Cần khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư vào các khu vực và lĩnh vực sau:
- Đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, gồm nhóm ngành công nghiệp chế biến như xay xát, gia công chế biến lương thực, thực phẩm phục vụ nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chế biến nông sản, chuyển từ xuất khẩu sản phẩm sơ chế sang sản phẩm tinh chế vừa tạo việc làm thu hút lao động vừa gia tăng được giá trị sản xuất công nghiệp, giá trị hàng xuất khẩu. Các ngành này không những thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn mà còn tạo điều kiện giải quyết đầu ra cho nông nghiệp.
- Nhóm ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động như ngành dêt, may, giày da phục vụ nhu câu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Những ngành này đòi hỏi vốn không lớn, lao động không cần trình độ cao, đồng thời là những ngành truyền thống của kinh tế cá thể, nếu được khuyến khích sẽ mở rộng về quy mô và phát triển cao hơn về công nghệ. Ngành may phát triển sẽ sử dụng được nguyên liệu từ ngành dệt, ngành dệt phát triển lại hỗ trợ đầu ra cho phát triển nông nghiệp đó là ngành trồng dâu nuôi tằm.
- Ngành cơ khí chế tạo phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp như sản xuất máy cày, máy kéo, máy xay xát, máy tuốt lúa, các loại tàu thuyền đánh cá, các loại sản phẩm gia công cơ khí lắp giáp phục vụ cho các ngành gia công dân dụng, công nghiệp và giao thông nông thôn… Đây là những ngành cung cấp tư liệu cho sản xuất nông nghiệp.
- Nhóm ngành tiểu thủ công mỹ nghệ truyền thống phục vụ xuất khẩu và các ngành nghề tiêu dùng khác phục vụ nhu cầu tiêu dùng trogn nước cũng như xuất khẩu.
2. Chính sách và giải pháp.
2.1. Về hoàn thiện môi trường pháp lý và quản lý.
Từ khi vận dụng các chính sách đổi mới kinh tế đến nay đã hình thành một hệ thống pháp lý điều chỉnh và chi phối các hoạt động của khu vực kinh tế bao gồm hệ thống pháp luật và các văn bản dưới luật. Tuy nhiên, cho đến nay hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến các hoạt động của các pháp lý kinh tế vẫn chưa được thống nhất và còn phân biệt theo hình thức sở hữu. Chẳng hạn, doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước; hợp tác xã hoạt động theo Luật Hợp tác xã; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, và nghị định của Chính phủ. Do có các luật khác nhau, cho các pháp nhân kinh tế thuộc các hình thứuc sỏ hữu khác nhau nên đã làm hco quan điểm về sự bình đẳng trước pháp luật giữa các khu vực kinh tế không được phản ánh một cách đúng mức và đầy đủ. Đây là một trong nhưng trở ngại trong việt phát huy các nguồn lực cho phát triển hiện nay. Như vậy giải pháp về hoàn thiện về hoàn thịên môi trường quản lý trước tiên là phải ban hành một luật chung cho mọi khu vực kinh tế, chi phối và điều chỉnh hoạt động của các pháp nhân kinh tế không phụ thuộc vào hình thức sở hữu để đảm bảo cho chúng cùng tồn tại, phát triển và bình đẳng trước pháp luật.
Cơ chế quản lý doanh nghiệp thực hiện chức năng quản lý nhà nước liên quan đến quy hoạch phát triển, thực hiện đăng ký kinh doanh, tức là đảm bảo cho sự ra đời của doanh nghiệp, hướng dẫn, chỉ đạo các doanh nghiệp hoạt động theo đúng pháp luật, giám định các doanh nghiệp thông qua các báo cáo định kỳ. Đây chỉ là quản ký gián tiếp còn cơ quan thuế mới là cơ quan quản lý trực tiếp các doanh nghiệp. Cơ quan thuế thiết lập một hệ thống hành chính công song song với quan hệ tài chính công giữa các doanh nghiệp với Nhà nước có quyền kiểm tra, kiểm soát sổ sách kế toán của doanh nghiệp để biết kết quả hoạt động kinh doanh, xem xét thu, chi, lợi nhuận, vốn…. Như vậy để hoàn thiện về quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân thì phảI hoàn thiện cơ sở pháp lý, tinh giản thủ tục đăng ký doanh nghiệp, củng cố hệ thống giám sát của hoạt động doanh nghiệp.
2.2. Các chính sách khuyến khích tư nhân đầu tư vào các ngành nghề thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
Muốn khuyến khích tư nhân đầu tư vào các khu vực sản xuất chế biến, đầu tư thiết bị công nghệ hiện đại cần phải có chính cách ưu đãi bao gồm: chính sách tín dụng ngân hàng như được hỗ trợ thông qua tín dụng trung hạn, dài hạn; chính sách thuế thể hiện khuyến khích đầu tư bằng việc miễn, giảm thuế ở những vùng nông thôn, miễn giảm thuế cho những ngành công nghiệp truyền thống của các địa phương, miễn giảm thuế cho những ngành công nghiệp mới yêu cầu kỹ thuật cao, những ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động; chính sách khuyến khích hành xuất khẩu; chính sách hỗ trợ và đào tạo nguồn nhân lực…
Ngoài những chính sách nêu trên, cần có một chính sách hết sức quan trọng liên quan đến phát triển công nghiệp đó là chính sách đất đai. Trong những năm gần đây, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến chính sách đất đai nhằm tiến tới sự công bằng trong chính sách đất đai, cụ thể là đưa ra một mặt bằng giá thuế đất đối với mọi hình thức kinh tế. Tuy nhiên, do đặc điểm của quá trình lịch sử phát triển, thực tiễn diễn ra không như mong muốn. Trên thực tế, các doanh nghiệp nhà nước ra đời đã được bao cấp về đất đai, nhà xưởng. Các doanh nghiệp tư bản tư nhân ra đời sau khi có chính sách kinh tế mới không có cơ chế giao cấp đất mà phải đi mua hoặc thuê lại của nhà nước, của cá nhân hoặc của doanh nghiệp nhà nước với giá thị trường, trong lúc thủ tục để xin thuê đất, xin giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn quá rườm rà, gây cản trở cho doanh nghiệp đồng thời lại phát sinh các tiêu cực.
2.3. Về thiết lập các định chế phát triển kinh tế tư nhân.
Khu vực kinh tế tư nhân chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều yếu thế trong phát triển ở môi trường cạnh tranh; hơn thế nữa khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam mới được vực dậy từ khi có chính sách đổi mới kinh tế đồng thời với quan điểm của đảng và nhà nước cần phát huy mạnh mẽ yếu tố nội lực trong phát triển kinh tế, do đó sự hỗ trợ để phát triển kinh tế tư nhân thông qua các định chế hỗ trợ là cần thiết. Các định chế hỗ trợ có thể bao gồm thành lập quỹ hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hình thành các ngân hàng đầu tư phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thiết lập hiệp hội các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trung tâm đào tạo cán bộ quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ…
Ngoài các định chế hỗ trợ cần có một cơ chế liên kết các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các doanh nghiệp lớn nhằm bảo vệ quyền lợi trong liên kết phát triển tránh việc ép giá, phân phối không công bằng mang tính chèn ép, đặc biệt là trong thực hiện gia công xuất khẩu hiện nay.
2.4. Nâng cao năng lực cạnh tranh của kinh tế tư nhân.
Trong nền kinh tế thị trường thì quy luật cạnh tranh là tất yếu, nó là vấn đề sống còn của mọi doanh nghiệp. Do vậy để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường các doanh nghiệp không ngừng cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm, đầu tư đổi mới trang thiết bị để nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm. Doanh nghiệp không ngừng nâng cao trình độ kinh doanh, điều hành, quản ký doanh nghiệp của đội ngũ quản lý. Cần phải có chiến lược phát triển lâu dài, có chính sách đối phó với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
KẾT LUẬN
Nền kinh tế nước ta vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, do vậy tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần là tất yếu. Trong đó hai thành phần kinh tế chủ chốt của đất nước là kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân ( cả trong nước và ngoài nước). Các hình thức sở hữu hỗn hợp là sự giao thoa của hai khu vực này tuỳ thuộc và nhu cầu phát triển. Nhà nước phát huy vai trò của mình thông qua việc tạo lập và duy trì môi trường thuận lợi, ổn định, công bằng. Sự hợp tác giữa các thành phần kinh tế sẽ đem lại sức mạnh chung của cả nền kinh tế. Kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước hoàn toàn có thể cùng phát triển mà không hề mang tính loại trừ lẫn nhau.
Qua 15 năm đổi mới kinh tê tư nhân đã trải qua một chặng đường khá dài phát triển. Kinh tế tư nhâ đã có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế của đất nước như tạo thêm công ăn việc làm giải quyết sự dư thừa lao động, tăng tổng sản phẩm quốc dân, tạo lặp cân đối nền kinh tế dưa nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa… Tuy vậy kinh tế tư nhân cũng gặp phải rất nhiêu hạn chế, khó khăn cần dược giải quyết. Do vậy vấn đề đặt ra là phải có những chính sách đúng đắn để phát huy mọi tiềm năng, khai thác thế mạnh của khu vực tư nhân nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin - tập2
( Nhà xuất bản chính trị quốc gia-2002)
2.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
( Nhà xuất bản chính trị quốc gia-2001)
3. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân trong quá trình công nghệp hoá, hiện đại hoá.
Nhà xuất bản chính trị quốc gia - 2002
4. Nghiên cứu kinh tế số 262 - Tháng 3 năm 2000
5. Nghiên cứu kinh tế số 292 - Tháng 9 năm 2002
6 Tạp chí kinh tế và phát triển - Năm 2002
7. Lý luận chính trị số 4 – 2002
8. Tạp chí Cộng sản – 2002.
9. Tạp chí tài chính doanh nghiệp - Năm 2002
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………….....................................1
NỘI DUNG CHÍNH…………………………………………………………3
I. Khái niệm cơ bản về kinh tế tư nhân……………………………...…….3
II. Vị trí của KTTN trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN……………………………………………………………………….4
1. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển KTTN ở Việt Nam…4
2. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế……………………………..5
III. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam.............................6
1. Tình hình hoạt động của KTTN trước đổi mới ( 1954-1985)……………..6
2. Tình hình hoạt động của KTTN sau đổi mới……………………………...9
3. Những đóng góp và những kết quả đạt được của KTTN cho nền kinh tế..13
4. Những tồn tại yếu kém chủ yếu………………………………………….20
5. Nguyên nhân……………………………………………………………..24
IV. Những phương hướng và giải pháp tiếp tục phát triển KTTN…….28
1. Phương hướng phát triển…………………………………………………28
2. Chính sách và giải pháp………………………………………………….29
KẾT LUẬN………………………………………………..……………….33
Danh sách tài liệu tham khảo………………………………………………34
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10237.doc