Làng nghề tồn tại, phát triển và mở rộng đã góp phần không nhỏ vào đời sống kinh tế – xã hội của huyện. Đặc biệt đã góp phần làm tăng thu nhập cho từng hộ gia đình và từng người lao động, cũng như từng doanh nghiệp hiện có trong địa bàn.
Các sản phẩm của làng nghề rất đa dạng, phong phú hợp với thị hiếu của người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Sự có mặt các sản phẩm từ làng nghề truyền thống đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Huyện Chương Mỹ nói chung và ở nông thôn nói riêng theo hướng tích cực. Các làng nghề đã tự vận động rất linh hoạt để thích ứng với cơ chế thị trường, trước hết là tiêu thụ sản phẩm, lựa chọn hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phù hợp. Đối với nguyên liệu cho quá trình sản xuất dễ tìm kiếm, lao động tại chỗ rồi rào, kinh nghiệm sản xuất là những điều kiện tốt để các xã, làng nghề phát huy khả năng, nội lực của mình. Các làng nghề tạo ra các sản phẩm với giá hợp lý, phù hợp với khả năng người tiêu dùng. Làng nghề truyền thống tồn tại và phát triển, làng nghề mới ra đời chính là do tìm được nghề phù hợp với địa phương, sản phẩm sản xuất ra phù hợp với thị trường và đủ sức cạnh tranh với những mặt hàng cùng loại, ngoài những kỹ thuật độc đáo và truyền nghề sớm, rèn luyện tay nghề có kỹ năng kỹ xảo ở trình độ cao. Hiệu quả kinh tế rất rõ ràng như: tăng thu nhập, đóng góp cho ngân sách tăng, đời sống nhân dân được ổn định.
72 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1033 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển làng nghề truyền thống tại huyện Chương Mỹ – Hà Tây Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
%, sử dụng mua sắm nguyên vật liệu với tỷ lệ 10,5%. Vốn vay của các doanh nghiệp tư nhân được vay từ ngân hàng là 64,43% vay từ tư nhân 35,57%, vốn vay từ tư nhân có thời hạn vay rộng rãi, thủ tục đơn giản, song lãi xuất cao hơn.
Hộ gia đình:
Quy mô sản xuất nhỏ bé và tư tưởng vẫn còn ấu trĩ, không ưa rủi ro, hộ sản xuất có tới 91% vốn tự có trên tổng vốn, một tỷ lệ cao nhất trong các hình thức. Tỷ trọng vốn vay nhỏ 9%. Tuy thế, nhưng với số lượng lớn hộ 9% vố đi vay cũng là con số lớn. Nguồn vốn tự có được sử dụng xây dựng nhà xưởng 36%, mua sắm thiết bị 21,3%, mua nguyên vật liệu 23,4% và cho mục tiêu khác 19,3%. Nguồn vốn đi vay của hộ chủ yếu bổ sung cho vốn lưu động. Tuy lượng bình quân hộ ít, nhưng hộ vay từ nhiều nguồn khác nhau: ngân hàng, tư nhân, từ các nguồn khác.
Tóm lại, hầu hết vốn tự có được sử dụng cho xây dựng cơ bản: nhà xưởng, máy móc, thiết bị... , vốn vay chủ yếu bổ xung vào vốn lưu động.
Kết quả điều tra cho thấy ngân hàng có lãi suất cho vay thấp nhưng thời hạn cho vay ít và cần nhiều thủ tục. Các quỹ tín dụng có rộng rãi hơn trong thời hạn nhưng lãi suất cao hơn. Để có một thời hạn sử dụng vốn lâu dài thì lãi suất phải cao, đó là vay từ tư nhân nhưng đổi lại không phải thủ tục, giấy tờ gì cả. Những năm trước đây các chương trình, dự án cho các làng nghề chưa nhiều lắm, nên vốn từ nguồn này chưa tới được người sử dụng.
Bảng sau đây phản ánh lãi suất và thời hạn vay theo nguồn vay.
Chỉ tiêu
Ngân hàng
Tư nhân
Nguồn khac
Lãi suất tiền vay/tháng (%)
1
2 – 2,5
1,5
Thời hạn vay (Tháng)
6 - 12
18
24
Bảng trên cho thấy lãi suất tiền vay của ngân hàng khá thấp chỉ có 1%/tháng, một mức lãi suất phù hợp cho người sử dụng vốn. Lãi suất tiền vay của tư nhân từ 2,0 – 2,5%/tháng, các nguồn tín dụng khác có lãi suất trung bình là 1,5%/tháng, một mức lãi suất tương đối cao đối với những người sử dụng lượng vốn lớn, tuy nhiên nguồn vốn tín dụng này thích hợp cho hộ sản xuất kinh doanh. Thời hạn vay của ngân hàng khá ngắn cho các chủ thể sử dụng vốn vay.
Về lao động.
ở hình thức công ty:
Lao động bình quân/công ty TNHH là 25,16 người, trong đó nữ chiếm đến 70,86%, thu nhập bình quân 670.500 đ/người. Trong số đó lao động của cơ sở chiếm 41,79%, lao động thuê ngoài 58,21%, tỷ trọng lao động trực tiếp sản xuất ở đây là 85,71%, còn lại là làm công tác quản lý giao dịch chịu trách nhiệm về kỹ thuật. Hình thức công ty có tỷ trọng sử dụng lao động tại chỗ cao, thu hút khoảng 14,11% lao động thuê ngoài từ các vùng lân cận. Tuy tỷ trọng ít nhưng có nhiều công ty thì lượng lao động bên ngoài vào làm việc sẽ là một con số không nhỏ.
Doanh nghiệp tư nhân:
So với hình thức trên thì huyện chỉ có 5 doanh nghiệp tư nhân hoạt động trên lĩnh vực thủ công nghiệp sản xuất và kinh doanh trên những sản phẩm xuất phát từ làng nghề. Trung bình lao đông/Doanh nghiệp tư nhân là: 38 người, trong đó nữ chiếm 77,36%. Thu nhập trung bình/lao động: 765.300đ/người. Lao động thuê ngoài chiếm tỷ lệ 78,8%. Điều này rất đáng mừng bởi lao động ngoài doanh nghiệp được sử dụng nhiều hơn. Xu hướng sử dụng lao động ở những vùng lân cận cao hơn chiếm 50,76%, lao động tại chỗ chỉ chiếm 49,24%. Trong doanh nghiệp tư nhân chủ cơ sở vừa quản lý vừa trực tiếp tham gia sản xuất, với tư cách là thợ cả, người chịu trách nhiệm về mẫu mã, kỹ thuật của sản phẩm. Lao động thuê ngoài chỉ việc làm theo một khuôn mẫu sẵn có.
Hộ gia đình:
ở hình thức hộ gia đình mỗi hộ bình quân 5,9 khẩu trong đó có 3,2 lao động hoạt động ngành nghề nhưng tổng số lao động trong mỗi hộ là 8 người, trong đó 100% là lao động gia đình, tận dụng sự nhàn rỗi của các thành viên. Thu nhập bình quân/người khoảng (450.000 – 600.00)đ Hình thức này hoạt động khá hiệu quả vì vốn đầu tư ít, sử dụng cũng không cần nhiều lao động.
Mỗi hình thức có phương pháp sử dụng lao động riêng của minh, ít giống nhau nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận cao nhất trong sản xuất kinh doanh. Bên cạnh việc sử dụng lao động thường xuyên các hình thức còn sử dụng lao động thời vụ. Hình thức công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân khi ký kết những hợp đồng lớn, trong thời gian không dài buộc họ phải thuê lao động tới làm trong thời gian gắn, lao động dạng này thường khó xác định, định lượng được. Thông thường các doanh nghiệp thường thuê các hộ gia đình làm gia công sản phẩm cho mình chứ ít trực tiếp thuê lao động thời vụ làm. Hầu như các công ty mây tre giang đan xuất khẩu, tự chế biến các sản phẩm thu gom tư các hộ gia đình về để chế biến và hoàn chỉnh một sản phẩm để đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu, và các hộ gia đình có thể làm vệ tinh cho các công ty trong lĩnh vực sáng tác sản phẩm, mẫu mã, đây có thể là nét riêng của những làng nghề truyền thống. Các hộ gia có lao động nhàn rỗi theo thời vụ của ngành nông nghiệp thì tận dụng để kiếm thêm thu nhập. ở nhiều làng nghề họ hầu như thuê toàn bộ lao động để làm nông nghiệp cho họ, còn họ thì chuyển hẳn sang sản xuất các mặt hàng thủ công truyền thống.
* Những thuận lợi về lao động của các hình thức:
Các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong làng nghề truyền thống có nhiều thuận lợi về sử dụng nguồn lao động.
Thứ nhất: Nguồn lao động tại chỗ cũng như vùng lân cận có giá rẻ.
Thứ hai: Số lượng lao động lớn lên dễ dàng chọn lọc những lao động có tay nghề cao.
Thứ ba: Chợ lao động ở các làng nghề hình thành và ngày càng sôi động, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thuê và sử dụng lao động...
Tuy có những thuận lợi song vấn đề lao động và sử dụng lao động trong làng nghề còn nhiều vấn đề tồn tại:
Thứ nhất: Đội ngũ lao động lành nghề còn hạn chế, trình độ văn hoá của lao động còn thấp.
Thứ hai: Hợp đồng lao động giữa chủ cơ sở và người lao động có tính pháp lý thấp, lương bổng của lao động nhận được thường bị ép giá, rất thấp, bên cạnh đó việc đối xử với lao động còn nhiều bất công, lao động bị chèn ép.
Tóm lại: Cần có sự quan tâm hơn nữa của các cơ quan chức năng đối với người lao động và các bên sử dụng lao động.
Về việc cung ứng và sử dụng nguyên liệu đầu vào.
Nguyên liệu là đầu vào chính trong sản xuất kinh doanh, vì thế nguồn nguyên liệu có ảnh hưởng rất lớn tới kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không phải bây giờ mà tư rất sớm con người đã luôn tìm cách xây dựng những nhà máy xí nghiệp gần nơi có nguồn nguyên liệu hay các điều kiện thuận lợi khác nhằm mục đích hạ giá thành sản phẩm, sử dụng như thế nào để tiết kiệm nhất mà vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm. Mỗi làng nghề khác nhau có nhu cầu một vài loại nguyên liệu cho quá trình sản xuất kinh doanh của mình: làng nghề Phù yên cần nguyên liệu là gỗ (mộc), mây tre giang (Mây tre giang đan), làng nghề Văn La cần nguyên liệu tre, cọ (nón lá, mũ lá).
Nguyên liệu thì thị trường trong huyện cũng đủ để đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu. Hơn nữa huyện Chương Mỹ có quốc lộ 6A đi qua địa phận đó là một ưu thế trong giao lưu với các tỉnh lân cận, nhất là Hoà Bình có nguồn tre, giang và khi nhu cầu về nguyên liệu cần thiết cho sản xuất của các làng nghề thì ắt có những người đi mua bán nguyên liệu để kinh doanh trên lĩnh vực đầu vào, đó cũng chính là sự chuyên môn hoá trong quá trình sản xuất tổng thể ra sản phẩm. Tiêu biểu nguồn nguyên liệu để phục vụ cho các làng nghề được bán ở chợ Bụa - xã Trung Hoà, Chợ Đông Phương Yên...
Về nguyên liệu mây thì được lấy từ các tình miền trung: Thanh Hoá
Về gỗ thì được nhập từ Hoà Bình hoặc các cơ sở ban gỗ ngay trong tỉnh, ngoại tỉnh.
Về thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Vấn đề thị trường và tiêu thụ sản phẩm đang là yêu tố cần phải quan tâm, có liên quan đến sự tồn tại, phát triển của làng nghề. Một thực tế hiện nay, một số sản phẩm làng nghề tiêu thụ còn chậm do thị trường tiêu thụ còn hạn hẹp.
Sản phẩm làm ra không có thị trường tiêu thụ hoặc không được thị trường chấp nhận thì lõ nắm chác trong tay các cơ sở sản xuất kinh doanh, vì thế thị trường tiêu thụ là khâu cuối cùng quan trong, và quyết định nhất sự hiệu quả của cả quá trình sản xuất. Vấn đề thị trường, tìm kiếm thị trường luôn được quan tâm chú ý. Không chỉ tìm tới thị trường trong nước mà cần phải mở rộng thị trường ra nước ngoài có như vậy sản xuất mới phát triển hơn nữa ở các làng nghề.
Rất nhiều các doanh nghiệp, công ty tư nhân tìm kiếm thị trường ở ngoài nước, đó mới là xu hướng tiến bộ để phát triển làng nghề. Hiện tại trong huyện với 23 Doanh nghiệp, công ty thì cả 23 cơ sở đều sản xuất kinh doanh theo hướng xuất khẩu là chủ yếu. Để tìm kiếm thị trường mới, mở rộng thị trường là một điều khó khăn và cần có thời gian. Nhưng ngược lại việc giữ được thị trường ổn định lại càng khó hơn. Điều này không chỉ phụ thuộc vào cơ sở sản xuất kinh doanh trong nước mà còn phải phụ thuộc vào sự sáng tạo của kinh tế hộ, sự hướng dẫn và nghiên cứu những mẫu mã hàng mới, cải tiến những mẫu mã cũ cho phù hợp với thời đại để tạo sự uy tín cho bên mua.
Đối với thị trường trong nước cũng có sự tiêu thụ nhưng không phải là mục tiêu của các cơ sở sản xuất kinh doanh, các sản phẩm tiêu thụ trong nước đa phần là chưa có gia trị nghệ thuật cao, thường là những sản phẩm được sản xuất ra từ các làng nghề mới được hình thành học trong quá trình chọn lọc để xuất khẩu ra nước ngoài.
Nhìn chung, sản xuất kinh doanh của các làng nghề hiện nay vẫn là hình thức tự tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm là chính, hoặc muốn tiêu thụ được sản phẩm còn phải qua nhiều khâu trung gian, dẫn tới giảm thu nhập của người lao động trong làng nghề; cần có sự hỗ trợ của các ngành, các cấp từ tỉnh đến trung ương, các tổ chức xúc tiến thương mại trong và ngoài nước.
Về tổ chức quản lý.
Hình thức tổ chức quản lý thường chưa có nhiều trình độ chuyên môn, đa phần là những hộ kinh doanh làm ăn phát đạt và dần dần mở rộng quy mô của mình chứ chưa có được sự đào tạo về nghiệp vụ kinh tế. Trình độ các cán bộ quản lý còn nhiều hạn chế, có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng đối với những ông chủ thì thường có xu hướng học hỏi lẫn nhau trong lĩnh vực kinh doanh, xuất khẩu.
Đã có nhiều người từ kinh tế hộ, mạnh dạn bỏ vốn ra đầu tư và nhanh chóng trở lên giàu có.
Đánh giá thực trạng phát triển của làng nghề đối với Huyện.
Kết quả về mặt kinh tế.
Kết quả trong 6 năm (1996-2002).
Về giá trị tổng sản lượng năm sau cao hơn năm trước mức tăng bình quân là 20%, giá trị xuất khẩu và xuất uỷ thác tăng bình quân là 25%.
Một số sản phẩm như Mây tre giang đan tăng bình quân là 24%.
Trong 6 năm (1996-2002) huyện Chương Mỹ đã mở được 120 lớp học nghề cho nhân dân ở 30 xã với tổng kinh phí là 1,4 tỷ đồng. Ngân sách huyện, tỉnh hỗ trợ 600 triệu đồng còn lại là ngân sách xã và HTX, nhân dân đóng góp. Đào tạo tập trung được trên 6.000 học viên, từ số học viên này đã truyền nghề cho hàng nghìn ngươi khác.
Kết quả thực năm 2003.
Về giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp – XDCB theo giá cố định 1994 đạt 691,2 tỷ tăng 18,5% so với cùng kỳ.
Trong đó: Giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp đạt 151 tỷ đồng (theo giá cố định năm 1994), tăng 18,9% so với cùng kỳ (giá trị xuất khẩu đạt 75,5 tỷ, tăng 29% so với cùng kỳ).
(giá tăng thêm theo giá cố định năm 1994 của ngành Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp – xây dựng cơ bản đạt 182 tỷ đồng, tăng 29% so với cùng kỳ, chiếm 27% cơ cấu chung)
Trong năm huyện đã mở được 15 lớp học nghề cho nhân dân ở 11 xã, đào tạo tập trung cho 830 học viên, tổng kinh phí trên 200 triệu đồng, Tỉnh hỗ trợ 87 triệu đồng, Huyện hỗ trợ 21 triệu đồng, số còn lại do các xã, HTX và nhân dân đóng góp. Bình quân 1 lớp học là 14,5 triệu đồng.
Năm 2003 có 6 làng ở 4 xã được UBND tỉnh xét công nhận tiếp danh hiệu làng nghề, như vậy tính tới thời điểm này thì huyện Chương Mỹ đã có 15 làng được UBND tỉnh công nhận là làng nghề. Ngành nghề phát triển đã thu hút 9.000 hộ sản xuất nông nghiệp kiêm tiểu thủ công nghiệp, tạo việc làm cho 45.000 lao động, và hàng vạn người ở các độ tuổi khác nhau có việc làm thêm.
Một số cơ sở có doanh số khá:
Tiêu biểu: Công ty TNHH mây tre Ngọc Sơn do ông Nguyễn Đăng Nùng làm Giám đốc doanh số 20 tỷ, thuế nộp cho Ngân sách nhà nươc là 700 triệu mỗi năm.
Công ty TNHH mây tre Ngọc Sơn do bà Nguyễn thị Phương là Giám đốc doanh số 7 tỷ, thuế nộp cho nhà nước 300 triệu.
Và nhiều cơ sở khác có doanh số từ 3-5 tỷ đồng/năm.
Tới nay tổng số doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đóng trên địa bàn huyện là 150, trong đó doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có 03, doanh nghiệp trung ương, tỉnh: 14 số còn lại là các công ty TNHH va doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp trên năm 2003 đã tạo ra giá trị hàng hoá 1.600 tỷ đồng, thu hút 7.484 lao động trong đó lao động trong huyện là 6.297 chiếm 84%.
Về quy hoạch cụm, điểm công nghiệp:
Đã quy hoạch xong 13 cụm, điểm công nghiệp với tổng diện tích là 280ha, UBND tỉnh đã phê duyệt cụm công nghiệp Phú Nghĩa với diện tích là: 55,8ha (cả phía Bắc và phía Nam), phê duyệt 12 điểm công nghiệp ở 15 xã, với diện tích là: 116ha. Kết quả đến nay số đơn vị được thuê là 66 đơn vị, với diện tích thuê là: 95ha (trong đó: 25 đơn vị đã đi vào sản xuất, còn 41 đơn vị đang san nền và xây dựng nhà xưởng) đang đề nghị cho 30 đơn vị xin thuê 45ha.
Kết quả về mặt xã hội, môi trường.
Kinh tế, thu nhập, việc làm thấp kém là vấn đề mà từ đó có thể nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội. Khi nhàn dỗi những người lao động ở nông thôn vì miếng cơm manh áo cho ban thân, cho gia đình mà họ phải đi tìm cơ hội để nâng cao thu nhập, tiêu biểu cho điều đó là vấn đề di dân tới các khu đô thị mới, tới các trung tâm, thành phố lớn để làm thuê, để kiếm tiền, đây cũng là vấn đề nhức nhối cho các đô thị, cho các thành phố vì cảnh lao động ngoại tỉnh lang thang trên các ngõ ngách thành phố, gây mất mỹ quan thành phố, khó quản lý, gấy nhiều trở ngại cho xã hội.
Vì vậy một trong những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm khắc phục tình trạng di dời dân tới các vùng đô thị, thành phố đó là tạo cho họ cơ hội việc làm kiếm thu nhập tại quê hương họ. Việc phát triển các ngành nghề thủ công nghiệp, việc công nhận,khen thưởng và khuyến khích làng nghề truyền thống phát triển ở nông thôn là việc làm thiết thực để giải quyết vấn để, tạo ra trong nông thôn một bộ mặt mới, góp phần cải thiện kinh tế, nâng cao đời sống cả về vật chất lẫn tinh thần cho người dân.
Những người lao động họ có thể chấp nhận một mức thu nhập, mặc dù thấp hơn so với việc họ đi làm thuê nhưng được ở quê hương, tại nơi mà minh sinh sống, họ có cơ hội gần gia đình, có cơ hội chăm sóc và xây dựng gia đình hơn nhiều so vơi đi làm thuê ở nơi xa. Như vậy, việc phát triển làng nghề truyền thống tạo cho xã hội sự ổn định, tăng khả năng khai thác nguồn nhân lực nhàn rỗi ở nông thôn.
Theo các báo cáo thành tích từ các làng nghề truyền thống của Huyện Chương Mỹ ta có thể biết được sự thay đổi lớn từ việc phát triển làng nghề.
“...Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên. Bộ mặt Nông thôn được đổi mới. Các công trình phúc lợi của địa phương được quan tâm đầu tư, tu bổ và nâng cấp. Đường làng ngõ xóm đã có diện tích chiếu sáng phục vụ cho nhân dân đi lại được dễ dàng.
Đến nay hầu hết các hộ đã mua sắm được các đồ dùng đắt tiền phục vụ cho cuộc sống hàng ngày như Ti vi, Xe máy, Tủ, Xập gụ..v.v. Việc học tập của các cháu đã được chăm lo. Có nhiều hộ đã đầu tư cho con theo học tại các trường Đại học, Cao đẳng và thợ lành nghề. Điều đáng phấn khởi là khi ngành nghề phát triển mạnh việc làm và thu nhập ổn định cho người dân lao động, đời sống của nhân dân được nâng nên thì làng nghề đã không còn tệ nạn xã hội” – Báo cáo thành tích của UBND xã Đồng Phú
“ Từ sản xuất ngành nghề thủ công phát triển nói trên đã tác động sâu sắc đến đời sống của nhân dân ở địa phương như: Số đông hộ nông dân trong thôn giàu lên nhanh chóng, có nhiều nhà cao tầng mọc lên, xe may, ti vi, điện thoại ngày một nhiều hơn. Số hộ nghèo trong thôn từ 10% năm 1997 đến nay chỉ còn 5%. Nhà tre mẫu giáo khang trang sạch sẽ, đường điện thắp sáng trong thôn, đường giao thông được cải tạo nâng cấp, xây cống rãnh bê tông hoá từng đoạn. Đời sống văn hoá được nâng cao, an ninh chính trị, trật tự xã hội được ổn định” - Báo cáo thành tích của UBND xã Phú Nghĩa.
Những khó khăn thách thức đối với sự phát triển làng nghề truyền thống ở Huyện.
Các làng nghề trên địa bàn huyện hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, nhìn chung những năm qua có nhiều cố gắng, song nhược điểm cơ bản của số đông làng nghề làm ăn phát triển theo kiểu tự phát chưa nắm bắt nhanh được thị trường, chưa có thị trường ổn định, còn hạn chế về dự báo cung – cầu, vì vậy, ít làng nghề, hộ sản xuất có phương pháp điều tiết mẫu mã, số lượng sản phẩm và thị trường tiêu thụ.
Vốn, công nghệ, thiết bị, mặt bằng, thị trường, thông tin, trình độ, cán bộ yếu kém dẫn đến sản phẩm nghèo nàn, giá thành cao, sức cạnh tranh kém.
Chưa có chính sách cụ thể với doanh nghiệp vừa và nhỏ với làng nghề.
Cơ sở hạ tầng của các làng nghề bị xuống cấp, vệ sinh môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng và vẫn chưa có phương án hạn chế hay giải quyết triệt để.
ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước của các làng nghề chưa cao. Số đông hộ sản xuất không chấp hành nghiêm chỉnh pháp lệnh thống kê, kế toán có hiện tượng giấu doanh thu...
Nguyên nhân chủ yếu:
Chưa có sự nhìn nhận đúng vai trò, tác dụng của làng nghề trong phát triển kinh tế – xã hội.
Chưa có sự quan tâm đến khôi phục, tồn tại, phát triển của làng nghề.
Chưa có chiến lược, chính sách, và cơ chế phát triển làng nghề.
Buông lỏng quản lý Nhà nước đối với làng nghề.
Sơ lược một vài làng nghề tiêu biểu.
Lâu đời nghề mây tre giang đan Phú Vinh (xã Phú Nghĩa).
Người dân xã Phú Nghĩa vẫn luôn tự hào vì có nghề mây tre giang đan nổi tiếng trong và ngoài nước. Nghề có lừ bao giờ thì không ai còn rõ, vì làng không thờ ông tổ nghề. Chỉ biết nghề xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ 17, có tính chất cha truyền con nối. Những người làm đầu tiên là người làng Phú Vinh, sau lan sang các làng lân cận. Thời bấy giờ, tự tay các cụ mày mò, sáng tác mẫu mã để làm ra những chiếc rổ, rá và các vật dụng khác trong gia đình. Nguyên liệu sử dụng đơn giản chỉ là cây tre, cây cỏ. Rồi dần dà mới phát hiện và tìm ra nguyên liệu là cây mây, thứ cây được trồng rất nhiều làm hàng rào hoặc mọc dại ven đường. Thấy mây có độ dẻo, dai, chuốt nhiều thì bóng, lại dễ làm, phù hợp với các mẫu mã hàng, nên mây đã trở thành vật liệu chính. Hiện xã có 7 làng thì cả 7 làng đều duy trì và phát triển nghề với số hộ tham gia lên tới hơn 95%. Đã có 3 làng được Tỉnh xét duyệt công nhận là làng nghề: Phú Vinh, Quan Châm và Khê Than.
Nghề mây tre giang Phú Nghĩa đứng vững được như ngày nay cũng đã trải qua bao thăng trầm. Trước 1945, thời kỳ Pháp đô hộ nước ta, cuộc sống của người dân hết sức nghèo khổ, lầm than. Họ phải tự vươn lên làm nghề để kiến sống. Sự bươn chải và nhạy cảm với nghề đã khiến người dân sáng tác ra nhiều mẫu mã. Sản phẩm ngày một hoàn thiện. Lúc bấy giờ thị trường tiêu thụ chủ yếu là bán sang Pháp do các nhà tư sản, kinh doanh thông qua đấu xảo. Hàng đấu xảo đã thống nhất về giá được chở bằng xe bò kéo, đem ra Hà Nội rồi chuyển sang Pháp. Nghề cứ thế duy trì cho đến năm 1954. Cũng trong những năm đó, một số người di cư vào Nam đã mang theo nghề đi theo. Ban đầu chỉ làm để kiếm sống. Sau phát triển thành các cơ sở sản xuất và cũng lấy ngày tên làng: Phú Vinh. Nghề cũng được tập trung nhiều ở các quận Gò Vấp, Bà Chiểu, Bình Thạnh ...
Sau khi hoà bình lập lại, các ngành nghề thủ công được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Năm 1960, HTX Phú Nghĩa được thành lập. Bước đầu đã có tổ sản xuất (do tổ trưởng quản lý) và thực hiện sản xuất theo dây chuyền: Người làm quai, đáy hay nắp... Tuy nhiên, nghề cũng chưa phát huy được vì mới bước đàu. Đến năm 1963, HTX thủ công ra đời có ban quản trị, các tổ làm theo công điểm và bán tập trung. Sản phẩm làm ra do các trạm xuất khẩu (Mai Lĩnh-Hà Đông) thu mua, rồi xuất cho Nhà nước. Đời sống người dân nhờ vậy mà tạm thời đi vào ổn định. Và rồi một lần nữa, hoạt động của nghề gần như ngừng hẳn bởi sự tác động trực tiếp của hoàn cảnh xã hội. Đó là vào thời điểm những năm 1979-1980m thị trường khối châu Âu rạn nứt. Hàng không xuất đi được đã ảnh hưởng trực tiếp đến ngành nghề của xã. HTX lúc ấy gặp phải nhiều khó khăn do hàng không thành toán được, dẫn đến công nợ chồng chất.
Trước tình hình đó, năm 1990, đồng chí Chủ tịch xã đã bàn bạc xin ý kiến của Tỉnh giải thể HTX, cho thành lập các tổ sản xuất nhỏ. Thực hiện vận động, tuyển chọn những người có tay nghề giỏi, nhanh nhẹn, linh hoạt và có đầu óc kinh doanh vào làm trong các tổ hợp. 22 tổ hợp sản xuất do phòng Công nghiệp trực tiếp xét duyệt chính thức được thành lập. Sảm phẩm làm ra khá nhiều, nhưng việc tìm kiếm thị trường vẫn còn là vấn đề khó khăn. Song, tấm lòng yêu nghề, kiên trì và phát huy nội lực nghề truyền thống đã giúp người dân Phú Nghĩa thành công. Hoạt động ngành nghề thực sự trở nên sôi động: 22 tổ hợp được sát nhập vào 8 tổ hợp, tổ thấp nhất có khoảng 250 người.
Các tổ hợp được thành lập theo xóm, làng càng giúp họ có điều kiện về thời gian và cách quản lý. Thuận lợi này lại tiếp thuận lợi khác. Lúc này, nguyên liệu chủ yếu được nhập từ bên ngoài, chỉ việc mua ở các chợ trong xã. Cũng có thời điểm, xã phải cử người đi khai thác nguyên liệu nơi khác như cây Giao ở Hoà Bình, hay cây song ở tận Đà Nẵng, Quảng Ngãi. Bằng óc sáng tạo và đôi bàn tay khéo léo, người dân Phú Nghĩa đã không ngừng cải tiến mẫu mã để phù hợp với tâm lý người tiêu dùng. Từ hình dạng, kiểu dang đến chất liệu được thay đổi liên tục, đan xen nhau. Riêng mặt hàng chính mây tre giang của xã cũng có khoảng 400-500 mẫu mã khác nhau. Từ những sản phẩm thông dụng như: đĩa, khay đựng hoa quả, bánh kẹo, là (túi xách), cơi đựng trầu... đến các sản phẩm cao cấp như lọ hoa, ủ nước... đều có các kiểu dáng khác nhau như: vuông, dài, cao, thấp, dẹt, to, nhỏ... Thị trường tiêu thụ cũng không chỉ dừng lại ở các nước châu Âu như Pháp, Đức, Liên Xô (cũ), Bỉ... nữa mà đã chuyển sang các nước châu á như Hồng Kông, Đài Loan, thậm chí mở rộng ra cả một số nước ở Nam Mỹ. Phú Nghĩa đang trở thành xã điển hình về phát triển kinh tế nhờ vào làm nghề. Hiện xã có một Công ty TNHH thủ công mỹ nghệ của anh Nguyễn Đức Thịnh đang hoạt động rất mạnh. Cơ sở của anh thu hút hơn 300 lao động. Đặc biệt, Công ty anh đã giao hợp đồng và ứng tạo vốn cho dân cùng làm. Bình quân mỗi năm thu nhập đầu người từ nông nghiệp đạt 700-800 ngàn đồng. Nhờ có làm nghề, thu nhập của người dân tăng lên gấp 3,4 lần so với làm nghề nông đơn thuần. Năm 1995, tổng thu nhập của Phú Nghĩa đạt 5 tỷ đồng, đến năm 2000 tăng lên 7,5 tỷ đồng. Đời sống nhân dân ngày một được nâng cao, hầu hết các hộ khá và giầu đều đi lên từ làm nghề.
Bên cạnh việc nghề của xã phát triển, kinh tế hộ đi lên, làng nghề Phú Nghĩa vẫn còn những bất cập. Do mặt bằng sản xuất không có, chỉ dựa chủ yếu vào các hộ gia đình có sẵn, vì vậy khó có thể làm hàng với quy mô rộng. Hơn nữa, việc vay vốn đầu tư cho sản xuất còn đang rất khó khăn (mỗi hộ chỉ được vay từ 1 đến 2 chục triệu). Để bảo quản hàng khỏi mốc, mọt phải sấy qua diêm sinh. Vì vậy, vấn đề ô nhiễm môi trường còn ảnh hưởng đến sức khoẻ người dân. Hạn chế được những khó khăn đó, hy vọng làng nghề mây tre giang Phú Nghĩa ngày một phát triển mạnh hơn. Sản phẩm làm ra sẽ là người bạn hàng tin cậy của nhiều nước trên thế giới.
Làng nghề nón lá, mũ lá thôn Văn La (xã Văn Võ).
Văn La thuộc vùng sâu vùng xa của huyện và xa các tuyến giao thông của tỉnh, của quốc gia. Nên chủ yếu số nhân dân sống nghề làm ruộng và nghề làm nón lá. Đặc điểm phía đông bắc là dòng sông đáy giáp xã Kim Thư, xã Phương Trung thuộc huyện Thanh Oai, phía Nam giáp xã Phú Nam An và phía Tây giáp thôn Võ Lao xã Văn Võ. Làng Văn La có Đình Thượng, chùa Đại Quang được Bộ văn hoá thông tin công nhận Di tích văn hoá. Đời sống nhân dân ổn định , văn hoá xã hội từng bước phát triển, tệ nạn xã hội không có đó là nhờ một phần vào việc phát triển nghề nón lá phụ ở làng để tận dụng nguồn lao động vốn thường dư thừa theo mùa vụ ở nông thôn.
Xã Văn Võ có hai thôn, riêng thôn Văn La có 745 hộ với 3.049 khẩu. Nghề làm nón lá + mũ du nhập vào địa phương từ xa xưa (trước năm 1945). Lúc đầu chỉ có vài người tham gia, các hộ tự làm, tự tìm nguồn tiêu thụ và nguyên vật liệu, do đó doanh thu còn hạn chế. Đến năm 1975 nghề nón lá + mũ lá được xã, thôn quan tâm nên đã thành lập được các đơn vị sản xuất nón theo đội sản xuất, nghề nón lá + mũ lá phát triển, làm cho thu nhập của người dân nơi đây ngày một cải thiện. Đó là sức hút của nghề đối với người dân nơi đây, thậm chí có nhiều gia đình có nguồn thu chủ yếu là nghề nón lá + mũ lá. Đến nay trong làng số hộ làm nghề chiếm trên 98%. Làng Văn La có nghề làm nón cùng với làng Chuông (xã Phương Trung) từ xa xưa. Chính vì vậy những ngày nông nhàn đã tận dụng được thời gian dư thừa, mọi đối tượng trong dân từ cháu nhỏ 5-6 tuổi đến các cụ 60 tuổi đều có thể tham gia làm nón kể cả buổi tối. Nên góp phần quan trong trong thu nhập chính của mỗi gia đình và tổng thu nhập của toàn xã. Hiện nay 100% các hộ trong làng tham gia làm nón và doanh thu từ 350.000 - 500.000 đồng (đã trừ chi phí), tạo việc làm cho trên 3000 lao động phụ và lao động chính trong lúc nông nhàn. Sản phẩm nón lá + mũ lá của địa phương đã được tiêu thụ ở nhiều nơi. Theo chủ trương chung của Đảng bộ nghề nón được phát triển trong toàn xã, thông qua nghề nón lá + mũ lá đã góp phần xoá đói, giảm hộ nghề trong xã, trong làng. Đến nay địa phương không còn hộ đói, hộ nghèo chỉ còn 1,5%.
Về tiêu thụ sản phẩm: Thời kỳ bao cấp nhập bán nón + mũ lá cho Sở thương nghiệp tỉnh, thời kỳ xoá bao cấp nón + mũ được bán tại chợ Chuông hoặc một số hộ có điều kiện mua gom chở đi bán ở một số tỉnh trên miền bắc kể cả xuất sang Trung Quốc. Như vậy nón + mũ lá sản xuất bán gọn trong tháng hoặc theo phiên chợ, và số tiền thu được phục vụ ngay cho đời sống sinh hoạt hàng ngày ở mỗi gia đình cũng như đóng góp vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng của thôn, xã.
Để nón + mũ lá phát triển ổn định, nhất là tiêu thụ sản phẩm, đề nghị cấp trên nên đặt điểm thu mua tại xã hoặc cho vay vốn ban đầu những hộ có khả năng kinh doanh thì người sản xuất nón không bị ép giá. Đấy cũng là biện pháp hỗ trợ xoá đói giảm nghèo các xã vùng sâu vùng xa, kinh tế chậm phát triển. Đồng thời huyện tạo điều kiện giao lưu các làng nghề trong tỉnh để học tập kinh nghiệm và cấy thêm nghề mới có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Làng nghề mây tre đan _ nghề mộc Phù Yên (xã Trường Yên).
Phù Yên là một làng của xã Trường Yên, làng nhỏ nằm cạnh quốc lộ 6A về giao thông rất thuận lợi.
Trước cách mạng tháng Tám là một làng nhỏ, số hộ có khoảng 200 hộ, gồm 1.020 khẩu. Theo điều tra dân số năm 2000 số khẩu có 570 hộ, gồm 2.888 nhân khẩu, diện tích canh tác có 273 mẫu, năm 2995 giao ruộng cho mỗi khẩu chỉ được 14 thước rưỡi. Đời sống của nhân dân chủ yếu là làm nghề và làm ruộng.
Từ xa xưa khi lập làng đã có nghề thợ mộc và nghề làm bún, nhân dân làm ăn sinh sống chủ yếu bằng những nghề trên. Vào những năm 1960 đến 1974 một số hộ trong làng đã tìm tòi học nghề may tre đan xuất khẩu cộng với một số con gái xã Phú Nghĩa về làm dâu của làng, đồng thời cũng mang nghề về quê chồng. Như vậy, những năm ấy đã hình thành tự phát một nhóm gồm 18 hộ làm nghề may tre giang xuất khẩu.
Năm 1974 chi bộ và Ban quản trị HTX nông nghiệp thôn Phù Yên đã lắm bắt được nhu cầu của nhân dân và tổ chức mở lớp đón thầy về làng dạy truyền nghề hàng nan. Từ đó hàng năm hộ làm nghề được tăng lên gấp bội. Đặc biệt từ năm 1993 tới nay cùng đi lên trong cơ chế đổi mới của Đảng và Nhà nước các doanh nghiệp được hình thành, các hộ trong làng tự học nghề lẫn nhau, đã có bước phát triển vượt bậc. Hiện nay có 3 doanh nghiệp, có 541 hộ làm nghề mây tre đan xuất khẩu, chiếm 95% số hộ trong thôn. Song song với nghề mây tre giang xuất khẩu làng còn có nghề mộc cổ truyền từng bước phát triển. Năm 1995 được sự quan tâm của UBND xã, chi uỷ và Ban đại diện thôn đã tổ chức lớp điêu khắc tại làng, tạo cho nghề mộc được phát triển tinh xảo hơn, đáp ứng với khách hàng trong cơ chế thị trường. Đặc biệt đã xuất hiện thợ mộc là nữ giới, các ngành nghề dịch vụ khác như: xay sát, vận tải, thương nghiệp nhỏ cũng từng bước phát triển.
Ước tính giá trị thu nhập của các ngành nghề trong làng như sau:
Tổng giá trị chung toàn thôn là: 1,12 tỷ đồng trong đó:
Thủ công, dịch vụ chiếm hơn 95% tổng giá trị chung.
+ Thủ công_dịch vụ: 1,057 tỷ đồng
+ Nông nghiệp : 0,063 tỷ đồng
Nghề may tre đan xuất khẩu:
- Có 3 doanh nghiệp
Có 541 hộ làm nghề, chiếm 95%
Có 1.261 lao động làm nghề (1.261 lao động * 3.600.000/năm = 4.539 triệu đồng, chiếm 64,8% thu nhập)
Thợ mộc:
Có 10 xưởng sản xuất.
Lao động làm mộc 303 lao động (303 lao động * 3.960.000/năm = 1.199,88 triệu đồng chiếm 17,1% thu nhập)
Dịch vụ khác 409 triệu đồng chiếm 5,8%
Nông nghiệp chiếm 20%
Chăn nuôi chiếm 12,2%
Tổng thu nhập: 7.003.180.000 đồng
Bình quân đầu người: 202.076(đồng/tháng)
Từ khi phát triển làng nghề đến nay đời sống của nhân dân trong làng tăng lên rõ rệt. Để cho làng nghề phát triển hơn nữa, các cấp đảng Uỷ và các ban ngành liên quan cần có sự quan tâm, tạo điều kiện cho đầu vào, đầu ra của sản phẩm từ làng, nhất là nghề mộc vốn rất non yêu và chất lượng thấp.
chương III
một số giải pháp góp phần tăng cường sự phát triển của các làng nghề truyền thống ở Chương mỹ-Hà tây.
I. Những chủ chương, biện pháp thúc đẩy Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp phát triển tại địa bàn của Huyện.
Những năm qua Huyện uỷ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đã có nhiều nghị quyết chuyên đề, chương trình hành động nhằm thúc đẩy công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp phát triển.
UBND huyện đã có kế hoạch triển khai cụ thể từng chủ trương của Huyện uỷ, thường xuyên kiểm tra sơ tổng kết rút ra kinh nghiệm.
Lập quỹ khuyến công để mở lớp học nghề (huyện Chương Mỹ có từ năm 1996, tỉnh Hà Tây có từ năm 1999). Hàng năm huyện trích từ 30-50 triệu đồng kết hợp với nguồn kinh phí khuyến công của Tỉnh hỗ trợ các lớp học nghề cho các xã.
Động viên các chủ doanh nghiệp đỡ đầu các lớp học nghề, trực tiếp tuyển chọn giáo viên dạy nghề, đồng thời tiêu thụ sản phẩm do các lớp sản xuất ra.
Mục tiêu của Huyện năm 2004 và những năm tiếp theo:
(theo báo cáo tóm tắt tình hình phát triển CN-TTCN trên địa bàn Huyện)
Căn cứ vào các chỉ tiêu do đại hội Đảng bộ huyện Chương Mỹ lần XX, các chương trình hành động của Huyện uỷ – UBND huyện về việc thực hiện nghị quyết của Đảng, Nghị quyết củ HĐND huyện khoá 16 kỳ họp thứ 10.
Ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp Huyện Chương Mỹ phấn đấu:
Mục tiêu năm 2004:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế 10% trở lên. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp – XDCB đạt: 788 tỷ đồng, tăng 14% so với cùng kỳ.
Trong đó: Giá trị sản xuất công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp: 182 tỷ tăng 20% so với cùng kỳ.
Giá trị xuất khẩu đạt 96 tỷ tăng 27% so với cùng kỳ.
Cơ cấu công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp xây dựng cơ bản đạt 214 tỷ chiếm 28%, tăng 17% so với năm 2003.
Tiếp tục khảo sát đề nghị trên công ngận 5 làng nghề.
Mục tiêu năm 2005:
Tôc độ tăng trưởng là 13% trở lên. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp –XDCB đạt 945 tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kỳ.
Trong đó: Giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp 215 tỷ tăng 18% so với cùng kỳ.
Giá trị xuất khẩu 120 tỷ tăng 25% so với cùng kỳ.
Cơ cấu công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp xây dựng cơ bản đạt 257 tỷ chiếm 30%, tăng 20% so với năm 2004.
Phát triển nhân rộng ngành nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp, năm 2005 có 70% số làng trong Huyện có nghề, 20 làng được UBND tỉnh công nhận, 12.000 hộ sản xuất Tiểu thủ công nghiệp.
II. Các giải pháp góp phần tăng cường sự phát triển của các làng nghề trên địa bàn huyện Chương Mỹ-Hà tây.
Quy hoặch và giải quyết mặt bằng sản xuất cho các làng nghề cần được làm sớm.
Sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp ngoài quốc doanh nói chung và làng nghề nói riêng là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Do vậy, phát triển làng nghề phải gắn với quy hoạch kinh tế – xã hội, quy hoạch phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp của Tỉnh, huyện, xã, thậm chí của từng vùng. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể làng nghề, cần xây dựng quy hoạch chi tiết cho từng làng nghề về khu dân cư, khu sản xuất, giao thông, điện nước phòng Công nghiệp phố hợp với Sở công nghiệp phố hợp với các ngành xây dựng, Địa Chính, Giao thông, Thương mại, Du lịch và các xã, vùng trong huyện để xây dựng công nghiệp theo hướng phát triển ngành nghề, công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp theo định hướng phát triển kinh tế của huyện, mục tiêu của tỉnh, phòng công nghiệp phối hợp với các ban ngành có liên quan hướng dẫn các làng nghề xây dựng quy hoạch, xây dựng nông thôn mới, UBND Huyện kết hợp với Sở văn hoá-thông tín giúp các làng nghề xây dựng làng văn hoá, kết hợp với Sở Khoa học công nghệ môi trường giúp các làng nghề xây dựng phương án xử lý chất thải và bảo vệ môi trường.
Từ năm 1999, các dự án phát triển làng nghề từ UBND tỉnh được đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng năm của địa phương và được các cấp, các ngành chỉ đạo, tạo điều kiện cho vay vốn, giúp tiêu thụ sản phẩm đầu ra.
Mặt bằng cho các làng nghề đang trở thành vấn đề bức xúc. Do tính chất quan trọng của làng nghề hiện tại và những năm tới, cần có nhận thức đúng và đầy đủ vấn đề này. Nghĩa là giải quyết mặt bằng cho các làng nghề phải bình đẳng như giải quyết mặt bằng đối với doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH
Về thị trường thiêu thụ sản phẩm.
Uỷ ban nhân dân huyện, tỉnh hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế nói chung và làng nghề nói riêng tiếp cận, tìm kiếm, khai thác, mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước, tạo cơ hội giao lưu thương mại thông thoáng, thành lập tổ chức xúc tiến thương mại, thành lập Hiệp hội ngành nghề từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Sở công nghiệp phối hợp với Sở thương mại, Hội đồng liên minh HTX, Ban dân vận Huyện, Tỉnh và các ngành có liên quan để nhằm hướng dẫn tổ chức các làng nghề, ngành nghề thành lập Hiệp hội ngành nghề góp phần làm tăng sức mạnh, tăng sức cạnh trang trên thị trường trong sản xuất kinh doanh cũng như ở khâu tiêu thụ sản phẩm. Nhất là ngành hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, cũng có thể thành lập công ty cổ phần ở cấp tỉnh với sự tham gia của nhà nước (Công ty xuất nhập khẩu) và các tư nhân có tư cách pháp nhân, có vốn đang hoạt động trong việc bán hàng ra nước ngoài. Tổ chức này có đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và là tổ chức đại diện cho lĩnh vực xuất khẩu trong toàn Huyện. Có như vậy mới tập hợp được sức mạnh về vốn, trí tuệ và kinh nghiệm.
Tổ chức hội chợ (trong nước và nước ngoài) hàng năm dành một khoản ngân sách của cấp tỉnh, huyện, xã cho lĩnh vực này. Các thị trấn dành vị trí thuận tiện để tổ chức các trung tâm, cửa hàng để giới thiệu sản phẩm.
Tổ chức tiếp thị, thông tin dự báo thị trường tiêu thụ sản phẩm, chống ép cấp, ép giá đối với sản phẩm làng nghề. Sở tài chính-Vật giá phối hợp với Sở thương mại, Sở công nghiệp để có bản tin hàng tháng về vấn đề này. Các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động tiêu thụ sản phẩm làng nghề được tạo mọi điều kiện thuận lợi như đối với cơ sở sản xuất làng nghề.
Để thực hiện chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất của làng nghề và lành mạnh hóa thị trường trong tỉnh, các ngành: Công An, Quản lý thị trường, Hải quan và các ngành khác có liên quan cần kiên quyết chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận trong thương mại.
Sở thương mại chỉ đạo Công ty xuất nhập khẩu tỉnh tìm thị trường và tập trung cho việc xuất khẩu hàng địa phương, nhất là hàng thủ công mỹ nghệ và nông sản thực phẩm.
Về nguyên liệu cho quá trình sản xuất.
Xúc tiến quy hoạch và hình thành sớm các vùng nguyên liệu tập trung. Thực hiện có hiệu quả chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Trước mắt chú ý chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, đảm bảo số lượng và chất lượng tốt nhất cho phát triển công nghiệp chế biến nói chung và công nghiệp chế biến trong làng nghề nói riêng.
Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế – xã hội của từng vùng, cần hình thành các tổ chức dịch vụ khai thác, cung cấp vật tư, nguyên liệu, đảm bảo ổn định cho sản xuất. Chi cục kiểm lâm nhân dân có kế hoạch xin chỉ tiêu gỗ hàng năm của Trung Ương và ưu tiên bán gỗ thu hồi từ vận chuyển trái phép cho các cơ sở sản xuất hàng mộc xuất khẩu.
Uỷ ban nhân dân tỉnh sớm có chủ trương bảo hiểm, trợ giá đối với một số loại cây trồng, nguyên liệu, khuyến khích phát triển, cung cấp nguyên liệu ổn định cho công nghiệp chế biến xuất khẩu.
Về nguồn vốn đầu tư.
Các nguồn vốn tín dụng đầu tư, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, quỹ quốc gia xúc tiến việc làm, ngân hàng phục vụ người nghèo, các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các tổ chức xã hội có vốn cho vay cần ưu tiên cho các làng nghề vay vốn với lãi suất thấp và thời hạn vay hợp lý.
Tổ chức cơ quan tư vấn giúp đỡ cơ sở sản xuất làng nghề xây dựng các dự án đầu tư chiều sâu, đầu tư phát triển sản xuất khả thi, hiệu quả và tạo điều kiện để cơ sở được vay vốn thuận lợi. Trước mắt, Cục Đầu tư và phát triển tỉnh phối hợp với Sở Kế hoạch-Đầu tư cần xem xét một số hộ ở các làng nghề lập dự án cho vay vốn quỹ hỗ trợ quốc gia, vốn tín dụng ưu đãi.
Thành lập công ty cổ phần, HTX cổ phần, doanh nghiệp tư nhân ở các làng nghề; đây là điều kiện để thu hút vốn của nội bộ và đầu tư từ bên ngoài.
Các cơ sở sản xuất trong làng nghề đầu tư phát triển ngành nghề mà Nhà nước và địa phương khuyến khích do Uỷ ban nhân dân quy định, thì được dùng tài sản hình thành từ vốn vay (nếu tài sản hiện có không đủ để thế chấp) để thế chấp vay vốn ngân hàng và được Uỷ ban nhân dân huyện tái bảo lãnh vốn, với mức bảo lãnh tối đa 120 triệu đồng trên một dự án. Nừu vốn vay thế chấp (nếu tài sản hiện có không đủ để thế chấp). Các ngành hàng thương mại và các quỹ đầu tư, tổ chức tín dụng nâng cao trách nhiệm trong việc tạo điều kiện cho sản xuất trong các làng nghề vay trên cơ sở thẩm định các dự án khả thi và hiệu quả.
ở các cấp, nhất là cơ sở cần hình thành các quỹ khuyến khích phát triển nghề, nguồn vốn này ưu tiên cho vay với lãi suất thấp để đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ.
Trên cơ sở tăng cường kiểm tra may móc thiết bị của các doanh nghiệp nhà nước, nếu xét thấy không cần dùng thì ưu tiên bán với giá hạ cho các làng nghề nếu có yêu cầu với phương thức trả chậm.
Đối mới công nghệ thiết bị và bảo vệ môi trường.
Uỷ ban nhân dân Tỉnh sớm ban hành quy định khuyến khích các cơ sở sản xuất trong các làng nghề đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ thiết bị theo phương châm: Kết hợp hợp lý công nghệ tiên tiến và công nghệ cổ truyền, lựa chọn công nghệ phù hợp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế, vốn vay đối với các làng nghề sản xuất công nghiệp tiểu thủ công nghiệu vay vốn đổi mới thiết bị công nghệ mang lại hiệu quả kinh tế cao. Uỷ ban nhân dân Tỉnh ban hành chính sách hỗ trợ về tư vấn pháp lý dịch vụ, tư vấn quản lý kinh doanh, cung cấp thông tin chuyển giao công nghệ, kỹ thuật. Hàng năm có kế hoạch đầu tư nghiên cứu khoa học, công nghệ cho các chương trình đầu tư đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm, hỗ trợ vốn để trang bị kỹ thuật, nghiên cứu ứng dụng, thiết kế chế tạo, cải tiến mẫu mã sản xuất truyền thống; Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của các cơ sở sản xuất. Huyện phối hợp với Sở công nghiệp, phối hợp với Sở khoa học-công nghệ môi trường và các ngành có liên quan để hướng dẫn các làng nghề thực hiện có hiệu quả vấn đề trên.
Thường xuyên tuyên truyền, vận động, hướng dẫn hỗ trợ về thông tin kỹ thuật để các cơ sở sản xuất có điều kiện xử lý, giảm gây ô nhiễm môi trường từ sản xuất. Mặt khác Nhà nước cần có sự hỗ trợ thông qua quy hoạch xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp ở huyện thị trấn, với hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh dễ dàng cho việc kiểm tra soát ô nhiễm, xử lý chất thải, bảo vệ môi trường. Sở Khoa học-công nghệ-môi trường cần có cuộc điều tra mức ô nhiễm ở các làng nghề để có giải pháp xử lý kịp thời.
Về thuế.
Về nguyên tắc các làng nghề cũng như các đối tượng khác phải thực hiện các luật thuế và quy định của Chính phủ. Nhưng để khuyến khích các làng nghề khôi phục và phát triển, cần thực hiện một số chính sách ưu đãi sau đây:
Không thu thuế từ 2-3 năm đối với những cơ sở sản xuất mới thành lập, làng nghề mới được khôi phục, nghề mới, được phát triển còn gặp nhiều khó khăn, chưa ổn định. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc diện được áp dụng chế độ khoán thuế, thì được ổn đinh mức thuế trong thời gian dài áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với các sản phẩm trong các làng nghề để tráng đống thuế trùng lặp trong sản xuất kinh doanh.
Các làng nghề sản xuất khó khăn được xét giảm, miến thuế.
Chăm lo đến đời sống tinh thần của người làm nghề.
Xác định làng nghề là một sản phẩm văn hoá của dân tộc do vậy cần chỉ đạo các làng nghề xây dựng các điểm sinh hoạt văn hoá liên quan đến nghề. Có chính sách cấp đất xây dựng nhà thờ tổ, câu lạc bộ làng nghề, nhà xưởng sản xuất, nhà văn phòng giao dịch
Khuyến khích các hoạt động văn hoá bồi dưỡng lòng yêu nghề giữ gìn bản sắc văn hoá nghề nghiệp.
Tổ chức các cuộc thi tài nghệ, để nghị UBND Huyện có hình thức khen thưởng động viên các cơ sở sản xuất hiệu quả, các nghệ nhân tài ba.
Tổ chức hoạt động giao lưu văn hoá giữa các làng nghề, trao đổi kinh nghiệm phát triển nghề.
Trên cơ sở tiêu chí làng nghề, tổ chức phát động thi đua, và gửi đơn đến UBND Huyện đề nghị UBND Tỉnh xét công nhận làng nghề. Tổ chức đón nhận danh hiệu hình thành những thuần phong mỹ tục ở các làng nghề.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nghệ nhân, công nhân lành nghề.\
Lao động làm việc trong các làng nghề hiện nay chủ yếu là cách truyền nghề trực tiếp của bố mẹ, anh chị em và người lớn tuổi, do đó khả năng sáng tạo và đảm bảo chất lượng sản phẩm chưa cao. Vởy để sản xuất kinh doanh có hiệu quả, lao động trong các làng nghề cần phải được đào tạo về kỹ thuật, tiếp thị phù hợp với nghề và sản phẩm sản xuất. ở mỗi huyện, thị xã hoặc khu vực, cần có trung tâm hay trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật, thủ công lành nghề để đáp ứng yêu cầu phát triển các làng nghề.
Ngành giáo dục đào tạo hàng năm cần dành kinh phí hỗ trợ ở lớp đào tạo nghề. Hình thức đào tạo đa dạng; đào tạo tập trung hoặc kèm cặp truyền nghề tại cơ sở sản xuất theo một chương trình thống nhất.
Thực hiện miễn phí đào tạo hoặc giảm 50% đối với những người học nghề ở các trường, trung tâm đào tạo của Nhà nước, khi học xong sẽ trực tiếp làm việc cho các cơ sở sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp ở các làng nghề.
Người lao động tại các làng nghề được thực hiện đầy đủ các chế độ về BHXH, bảo hiểm y tế, các chế độ khác theo quy định hiện hành.
Thực hiện tuyển chọn và công nhận các nghệ nhân và các thợ tài hoa để có chính sách bồi dưỡng, sử dụng phù hợp với điều kiện của địa phương.
Tổ chức mời các chuyên gia, nghệ nhân giỏi về địa phương dạy nghề mới.
Tổ chực cho đi tham quan nước ngoài, tham gia triển lãm, giới thiệu sản phẩm đối với cán bộ và người lao động có nhiều công lao xây dựng và phát triển làng nghề.
Tổ chức sản xuất ở các làng nghề
Khuyến khích và tạo điều kiện cho các hộ, cơ sở sản xuất trong các làng nghề tham gia các hình thức hợp tác sản xuất, đa dạng hoá các hình thức (hộ, liên hộ, công ty TNHH, DNTN, HTX) nhằm tăng sức cạnh trang và củng cố quan hệ sản xuất.
Khuyến khích tạo điều kiện cho các làng nghề thành lập trung tâm (hoặc một doanh nghiệp, công ty TNHH) đảm nhiệm giới thiệu đầu ra, đầu vào của sản phẩm; Hoặc đảm nhận các việc đầu tư các khâu sản xuất mang tính chuyên môn hoá tập trung, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho vay vốn, mặt bằng, cơ sở pháp lý
Tăng cường hợp tác, kinh doanh, liên kết giữa các thành phần kinh tế trong Huyện, ngoài Huyện, trong tỉnh và ngoài nước.
Thành lập các hiệp hội ngành nghề có nhiều thành phần kinh tế tham gia.
Tăng cường quản lý Nhà nước đối với làng nghề.
Phải coi việc hướng dẫn, giúp đỡ phát triển làng nghề, coi đây là trách nhiệm của các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sở. Thường xuyên tổ chức tuyên truyền, phổ biến rộng rãi các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất của Nhà nước, của tỉnh để mọi người yên tâm bỏ vốn đầu tư sản xuất làm giầu cho mình và góp phần làm giầu cho xã hội.
Các cơ sở, ban, ngành của tỉnh cần phối hợp với các huyện, thị xã để tranh thủ sự giúp đỡ của các ngành Trung Ương trong việc định hướng quy hoạch, kế hoạch đầu tư các nguồn hỗ trợ cho việc xử lý ôi trường, nước sạch nông thôn, cải tạo lưới điện, đào tạo nhân lực, thị trường, xây dựng các dự án
Nâng cao vai trò, chức năng, thẩm định quản lý Nhà nước của cấp xã, phường, thị trấn theo tinh thần Nghị định 02-1997 của Chính phủ và các văn bản có liên quan khác.
Chính quyền từ tỉnh đế xã cần tạo điều kiện để người lao động được làm chủ hoạt động sản xuất kinh doanh theo pháp luật. Tạo điều kiện về mặt bằng sản xuất, vay vốn thủ tục hành chính, thông tin kinh tế kỹ thuật, đào tạo, chính sách xã hội. Quy định rõ chế độ thành tra, kiểm tra của các cơ quan Nhà nước đối với các cơ sở sản xuất làng nghề ngăn chặn tình trạng tuỳ tiện gây phiền hà, sách nhiễu.
Hàng năm, các cơ quan chức năng tổ chức đánh giá, bình chọn các làng nghề thành đạt nhất để động viên, khen thưởng.
Kết luận
Làng nghề tồn tại, phát triển và mở rộng đã góp phần không nhỏ vào đời sống kinh tế – xã hội của huyện. Đặc biệt đã góp phần làm tăng thu nhập cho từng hộ gia đình và từng người lao động, cũng như từng doanh nghiệp hiện có trong địa bàn.
Các sản phẩm của làng nghề rất đa dạng, phong phú hợp với thị hiếu của người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Sự có mặt các sản phẩm từ làng nghề truyền thống đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Huyện Chương Mỹ nói chung và ở nông thôn nói riêng theo hướng tích cực. Các làng nghề đã tự vận động rất linh hoạt để thích ứng với cơ chế thị trường, trước hết là tiêu thụ sản phẩm, lựa chọn hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phù hợp. Đối với nguyên liệu cho quá trình sản xuất dễ tìm kiếm, lao động tại chỗ rồi rào, kinh nghiệm sản xuất là những điều kiện tốt để các xã, làng nghề phát huy khả năng, nội lực của mình. Các làng nghề tạo ra các sản phẩm với giá hợp lý, phù hợp với khả năng người tiêu dùng. Làng nghề truyền thống tồn tại và phát triển, làng nghề mới ra đời chính là do tìm được nghề phù hợp với địa phương, sản phẩm sản xuất ra phù hợp với thị trường và đủ sức cạnh tranh với những mặt hàng cùng loại, ngoài những kỹ thuật độc đáo và truyền nghề sớm, rèn luyện tay nghề có kỹ năng kỹ xảo ở trình độ cao. Hiệu quả kinh tế rất rõ ràng như: tăng thu nhập, đóng góp cho ngân sách tăng, đời sống nhân dân được ổn định. Về mặt xã hội, giải quyết được nhiều việc làm, giảm di dân từ nông thôn ra thành phố, thị xã. Rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, góp phần xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Các làng nghề giữ được thuần phong mỹ tục, tập quán sinh hoạt văn hoá riêng của làng. Hiện tại, có nhiều làng lập đền thời ông tổ nghề hàng năm có ngày hội tụ, thông qua nét đẹp văn hoá làng nghề mà giáo dục cho mọi người yêu lao động, yêu nghề, sống vì nghề./
Tài liệu tham khảo
Nghề thủ công truyền thống – Bài báo cáo của Phòng KTHT nông thôn.
Phan Gia Bền : Sơ khảo lịch sử phát triển thủ công nghiệp Việt Nam-Nhà xuất bản Văn Sử Địa Hà Nội 1957.
Hồ sĩ Vịnh: Sức sống văn hoá làng nghề truyền thống – in trong tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 1/1996.
Điều tra các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Chương Mỹ – Phòng Thống kê Huyện Chương Mỹ.
Hà Tây làng nghề – làng văn, tập 1: Làng nghề – Sở văn hoá thông tin Hà Tây .
Các báo cáo thành tích từ các làng nghề của các UBND cá xã.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp – Phòng nông nghiệp Huyện Chương Mỹ.
Các quyết định của UBND Tỉnh Hà tây về việc công nhận làng nghề truyền thống.
Làng nghề Hà Tây và xu hướng phát triển – Bài viết của Khuất Hữu Sơn (Uỷ viên trung ương Đảng, bí thư tỉnh uỷ Hà Tây)
Bài viết “Lâu đời nghề mây tre giang đan Phú Nghĩa”- Nguyễn Việt Hồng.
Và một số tài liệu khác....
Phụ lục
Lời nói đầu 1
Chương I. Nghiên cứu chung về làng nghề truyền thống
Khái niêm và đặc điểm làng nghề truyền thống 4
Một số khái niệm. 4
Đặc điểm của làng nghề truyền thống 4
Sự hình thành và phát triển của làng nghề truyền thống 5
Phân loại làng nghề và các nhân tố ảnh hướng đến làng nghề 5
Phân loại 5
Những nhân tố ảnh hưởng 6
Nhóm nhân tố xã hội. 6
Nhóm nhân tố kinh tế. 7
Vai trò của làng nghề trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. 8
Kinh nghiệm phát triển làng nghề truyền thống ở một số nước và ở Việt Nam. 9
Tổng quan về làng nghề trên thế giới. 9
Khái quát làng nghề ở Việt Nam. 13
Chương II. Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống ở Chương Mỹ-Hà Tây
Đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội. 16
Điều kiện tự nhiên. 16
Điều kiện kinh tế xã hội. 17
Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống ở Chương Mỹ. 19
Các điều kiện công nhận là làng nghề truyền thống. 19
Thực trạng phát triển của làng nghề truyền thống. 21
Tình hình phát triển, số lượng, quy mô của làng nghề. 21
Cơ cấu kinh doanh của làng nghề. 30
Tình hình tổ chức của làng nghề 31
Hộ gia đình. 31
Doanh nghiệp, công ty. 32
Thực trạng về các điều kiện sản xuất của các làng nghề. 32
Về nguồn vốn. 32
Về lao động. 34
Về việc cung ứng và sử dụng nguyên liệu đầu vào. 36
Về thị trường tiêu thụ sản phẩm. 37
Về tổ chức quản lý 38
Đánh giá thực trạng phát triển của làng nghề. 38
Kết quả về mặt kinh tế. 38
Kết quả về mặt xã hội môi trường. 39
Những khó khăn thách thức đối với sự phát triển của làng nghề. 40
Sơ lược một vài làng nghề tiêu biểu. 41
Chương III. Một số giải phát góp phần phát triển làng nghề truyền thống của huyện Chương Mỹ – Hà Tây.
Những chủ trương, biện pháp thúc đẩy công nghiệp – TTCN phát triển trên địa bàn huyện Chương Mỹ 47
Một số giải pháp góp phần tăng cường sự phát triển của làng nghề truyền thống. 48
Quy hoạch và giải pháp giải quyết mặt bằng sản xuất cho làng nghề cần được làm sớm. 48
Về thị trường tiêu thụ. 49
Về nguyên liệu cho sản xuất. 50
Về vốn đầu tư. 50
Đổi mới công nghệ thiết bị và bảo vệ môi trường. 51
Về thuế. 52
Chăm lo đến đời sống tinh thần của người làm nghề. 52
Đào tạo bồi dưỡng cán bộ, nghệ nhân, công nhân lành nghề. 52
Tổ chức sản xuất ở các làng nghề. 53
Tăng cường quản lý Nhà nước đối với làng nghề. 53
Kết luận... 55
Tài liệu tham khảo... 56
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0048.doc