Với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, cùng với nó là sự cải thiện đáng kể trong mức sống của dân cư, thì nhu cầu tiêu dùng của phần lớn bộ phận dân cư đặc biệt là dân cư thành thị đang tăng lên rất nhiều với nhiều hình thức tiêu dùng khác nhau. Cho vay phục vụ các mục đích tiêu dùng dưới các hình thức như cho vay mua nhà có thế chấp, cho vay qua thẻ, cho vay trả góp mua các động sản . đang phát triển rất nhanh tại các ngân hàng thương mại. Xét trên giác độ quản trị ngân hàng
32 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển nghiệp vụ cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu hướng hội nhập quốc tế và môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt hiện nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam ngày càng mở rộng các hoạt động của mình trên tất cả các lĩnh vực cả về chiều rộng và chiều sâu. Đặc biệt là lĩnh vực tín dụng ,khi mà các ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn bị đánh giá là đang "độc canh" trong lĩnh vực tín dụng. Theo đánh giá của các tổ chức tài chính trong và ngoài nước, nhu cầu vay tiêu dùng gia tăng mạnh mẽ và có xu hướng ngày càng tăng. Trong khi đó đại bộ phận dân cư có mức thu nhập trung bình và thấp. Để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong dân cư thì một trong những yêu cầu là nghiệp vụ cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng thương mại thực sự cần có sự quan tâm thoả đáng.
Tuy nhiên hiện nay có một số ngân hàng thương mại Việt Nam chỉ chú trọng đến các khách hàng doanh nghiệp, chưa thật sự quan tâm đến đối tượng khách hàng cá nhân, đặc biệt là lĩnh vực cho vay tiêu dùng.Chính vì vậy trong đề án môn học lý thuyết tài chính tiền tệ, em chọn đề tài: Phát triển nghiệp vụ cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Đề tài bao gồm 2 phần chính như sau:
Phần 1: Lý luận về nghiệp vụ cho vay tiêu dùng.
Phần 2: Cho vay tiêu dùng tại Việt Nam.
NỘI DUNG
Phần 1 :Lý luận về nghiệp vụ cho vay tiêu dùng.
1.1 Những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ cho vay của ngân hàng thương mại.
Nghiệp vụ cho vay của ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời gian nhất định với một khoản chi phí nhất định.
Trong nghiệp vụ này luôn chứa đựng ba nội dung:
Thứ nhất, có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang người sử dụng.
Thứ hai, sự chuyển nhượng này có thời hạn.
Thứ ba, sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí.
Khi nền kinh tế càng phát triển thì nghiệp vụ cho vay càng được các ngân hàng quan tâm và mở rộng dưới nhiều hình thức. Nghiệp vụ cho vay có thể phân chia thành nhiều loại khác nhau tuỳ theo những tiêu thức phân loại khác nhau.
1.1.1 Dựa vào mục đích của các khoản cho vay.
Theo tiêu thức này, các khoản cho vay của ngân hàng có thể phân chia thành các loại như sau :
Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp.
Cho vay tiêu dùng các nhân.
Cho vay nông nghiệp.
Cho vay bất động sản.
Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu.
1.1.2 Dựa vào thời hạn cho vay.
Theo tiêu thức này, nghiệp vụ cho vay có thể phân chia thành các loại như sau :
Cho vay ngắn hạn : là loại cho vay có thời hạn dưới một năm. Mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
Cho vay trung hạn : Là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Mục đích của loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
Cho vay dài hạn : Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của loại cho vay này Thường là nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư.
1.1.3 Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng.
Theo tiêu thức này, nghiệp vụ cho vay của ngân hàng có thể phân chia thành các khoản sau :
Cho vay không có bảo đảm : Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.
Cho vay có bảo đảm : Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm của tiền vay như thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác.
1.1.4 Dựa vào phương thức cho vay.
Theo tiêu thức này, nghiệp vụ cho vay của ngân hàng có thể phân chia thành :
Cho vay theo món vay.
Cho vay theo hạn mức tín dụng.
1.1.5 Dựa vào phương thức hoàn trả nợ vay.
Theo tiêu thức này, nghiệp vụ cho vay có thể phân chia thành :
Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần khi đáo hạn.
Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp.
Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tuỳ khả năng tài chính của người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào trước hạn.
1.2 Những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại.
1.2.1 Định nghĩa cho vay tiêu dùng.
1.2.1.1 Định nghĩa.
Cho vay tiêu dùng được hiểu là hình thức tài trợ cho mục đích chi tiêu của cá nhân, hộ gia đình. Các khoản cho vay tiêu dùng là nguồn tài chính quan trọng giúp người tiêu dùng có thể trang trải các nhu cầu trong cuộc sống như nhà ở, phương tiện đi lại,tiện nghi sinh hoạt, học tập, du lich, y tế...trước khi họ có đủ khả năng về tài chính để hưởng thụ.
1.2.1.2 Cơ sở của nghiệp vụ cho vay tiêu dùng.
Xuất phát từ nhu cầu vay tiêu dùng mạnh mẽ gắn liền với nhu cầu về hàng tiêu dùng lâu bền như nhà, xe, đồ gỗ sang trọng, nhu cầu du lịch... đối với lực lượng khách hàng rộng lớn.
Nhiều hãng lớn tự tài trợ chủ yếu bằng phát hành cổ phiếu và trái phiếu, nhiều công ty tài chính cạnh tranh với ngân hàng trong lĩnh vự cho vay làm cho thị phần cho vay các doanh nghiệp của ngân hàng bị giảm sút,buộc ngân hàng phải mở rộng thị trường cho vay tiêu dùng để gia tăng thu nhập.
Người tiêu dùng có thu nhập đều đặn để trả nợ cho ngân hàng, một số tầng lớp người tiêu dùng có thu nhập khá hoặc cao,tương đối ổn định. Nhờ có vay tiêu dùng sẽ giúp họ nâng cao mức sống, tăng khả năng đuậoc đào tạo... giúp họ có nhiều cơ hội tìm kiếm công việc có mức thu nhập cao hơn.
Chính những lý do đó đã làm phát sinh nghiệp vụ cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại.
1.2.2 Phân loại cho vay tiêu dùng.
Với những tiêu thức khác nhau, tín dụng tiêu dùng có thể phân thành nhiều hình thức khác nhau.
1.2.2.1 Căn cứ vào mục đích khoản vay, cho vay tiêu dùng có thể phân chia thành các hình thức :
Cho vay tiêu dùng cư trú : là các khoản cho vay nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng, mua sắm hoặc cải tạo nhà ở của cá nhân, hộ gia đình.
Cho vay tiêu dùng không cư trú : là các khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống như mua sắm phương tiện, đồ dùng, du lịch, học hành hoặc giải trí...
Cho vay theo thẻ tín dụng : khách hàng có thể dễ dàng nhận được một khoản tín dụng tiêu dùng thông qua thẻ tín dụng do công ty VISA,M as,JCB,...phát hành.Những người sở hữu thẻ tín dụng có thể vay trả dần hoặc trả một lần vì họ có thể tính tiền mua hàng vào tài khoản thẻ tín dụng của mình.
1.2.2.2 Căn cứ vào hình thức có thể chia cho vay tiêu dùng thành 2 loại :
Cho vay tiêu dùng gián tiếp : là hình thức cho vay, trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh của các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá hoặc đã cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng. Hình thức này ngân hàng cho vay thông quấcc doanh nghiệp bán hàng hoặc làm các dịch vụ mà không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng.Hình thức cho vay này có ưu điểm sau: dễ dàng mở rộng và tăng doanh số cho vay; tiết kiệm và giảm được các chi phí khi cho vay; làm cơ sở để mở rộng quan hệ với khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động khác của ngân hàng thương mại; nếu ngân hàng thương mại quan hệ tốt với các doanh nghiệp bán lẻ thì hình thức cho vay tiêu dùng có mức đọ rủi ro thấp hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp. Tuy nhiên hình thức cho vay này có các hạn chế là : khi cho vay các ngân hàng thương mại không tiếp xúc trực tiếp với khác hàng mà thông qua các doanh nghiệp bán chịu hàng hoá, dịch vụ: thiếu sự kiểm soát của ngân hàng cảtrước,trong và sau khi vay vốn khi doanh nghiệp thúc hiện nghiệp vụ bán lẻ hàng hoá,dịch vụ; kỹ thuật và quy trình nghiệp vụ với hình thức cho vay này rất phức tạp.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp : là việc ngân hàng và khách hàng trực tiếp gặp nhau để tiến hành cho vay hoặc thu nợ. Hình thức này có những ưu điểm sau : ngân hàng có thể sử dụng triệt để trình độ,kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng của cán bộ tín dụng,do đó các khoản cho vay này thường có chất lượng cao hơn so với cho vay thông qua doanh nghiệp bán lẻ; cán bộ tín dụng khi cho vay đặc biệt coi trọng đến chất lượng các khoản vay; hình thức cho vay tiêu dùng trực tiếp linh hoạt hơn hình thức cho vay gián tiếp vì khi quan hệ trực tiếp với khách hàng, ngân hàng sẽ xử lý tốt hơn các vấn đề phát sinh, có khả năng làm thoả mãn quyền lợi cho cả ngân hàng và khách hàng; do đối tượng khách hàng rất rộng nên việc đưa ra các dịch vụ, tiện ích mới là rất thuận lợi, đồng thời là hình thức để tăng cường quảng bá hình ảnh của ngân hàng đến với khách hàng.
1.2.2.3 Dựa vào phương thức hoàn trả nợ vay có thể chia cho vay tiêu dùng thành :
Cho vay trả góp : những khoản vay này thưòng được dùng để mua những vật dụng đắt tiền hoặc để trang trải các khoản nợ của các hộ gia đình. Những khoản vay này thường dưới dạng cho vay ngắn hạn hoặc trung hạn vì giá trị của khoản vay không lớn lắm.
Cho vay trả một lần : là các khoản vay của cá nhân và hộ gia đình để đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời và được thanh toán một lần khi các khoản vay đáo hạn. Quy mô của khoản vay này tương đối nhỏ và thường là những khoản vay ngắn hạn.
1.2.3 Đặc điểm của cho vay tiêu dùng.
Cho vay tiêu dùng có những đặc điểm riêng khác với nghiệp vụ cho vay của ngân hàng nói chung. Cụ thể là:
Khách hàng vay là cá nhân và các hộ gia đình.
Mục đích vay nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân,hộ gia đình, không phải xuất phát từ mục đích kinh doanh. Do đó phụ thuộc vào nhu cầu, tính cách của từng đối tượng khách hàng và chu kỳ kinh tế của người đi vay.
Khách hàng vay tiêu dùng thường ít quan tâm đến lãi suất mà thường quan tâm đến số tiền họ phải thanh toán.
Về lãi suất, do quy mô các khoản vay thường nhỏ ( trừ những khoản vay đẻ mua bất động sản), dẫn đến chi phí để cho vay cao,do vậy lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn lãi suất cho vay thương mại.
Nguồn trả nợ của khách hàng được trích từ thu nhập,không nhất thiết phải là từ kết quả của việc sử dụng những khoản vay đó.
Những khách hàng có việc làm,mức thu nhập ổn định và có trình độ học vấn là những tiêu chí quan trọng để ngan hàng thương mại quyết định cho vay.
1.2.4 Lợi ích của việc cho vay tiêu dùng.
Lợi ích của việc cho vay tiêu dùng được thể hiện trên các mặt sau:
Đối với ngân hàng thương mại: Tạo thói quen cho nhân dân khi tiếp cận với các dịch vụ, tiện ích ngân hàng; đa dạng hoá các lĩnh vực đầu tư của ngân hàng.Do đó vừa nâng cao thu nhập vừa phân tán được rủi ro cho ngân hàng. Đồng thời, thông qua việc cho vay tiêu dùng sẽ mở rộng đượ quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động vốn của ngân hàng từ những khách hàng cá nhân.
Đối với khách hàng (người tiêu dùng): Lợi ích quan trọng nhất là họ được hưởng các dịch vụ tiện ích trước khi có đủ nguồn tài chính, đặc biệt trong các nhu cầu chi tiêu cấp bách như nhu cầu về y tế...thì lợi ích của việc cho vay tiêu dùng đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Cụ thể, cho vay tiêu dùng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân,của khách hàng vay,tạo điều kiện cho người dân cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống. Hơn nữa phương thức vay và trả nợ theo hình thức trả góp rất thích hợp với đối tượng là khách hàng có thu nhập thấp (đặc biệt đối tượng là công nhân viên chức,có thu nhập ổn định).Thông qua đó,người dân có thể tiếp cận vay vốn để mua và sửa chữa nhà cửa, cải thiện cuộc sống cũng như mua sắm đồ dùng sinh hoạt, phương tiện đi lại như ti vi, tủ lanh, ô tô,...
Đối với nền kinh tế xã hội: Cho vay tiêu dùng là đòn bẩy quan trọng kích thích nền sản xuất phát triển, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần thực hiện xoá đói giảm nghèo. Mặt khác, do đặc thù của cho vay tiêu dùng là thủ tục tương đối đơn giản, nhanh gọn cho nên góp phần quan trọng đẩy lùi nạn cho vay nặng lãi, từ đó giải quyết tốt các mối quan hệ khác trong xã hội.
1.2.5 Những điều kiện để ngân hàng thực hiện một món vay tiêu dùng.
Môi trường kinh tế là một trong những yếu tố tác động mạnh đến nhu cầu cho vay tiêu dùng. Nền kinh tế đang phát triển thì nhu cầu tiêu dùng trong dân cư càng tăng lên. Tuy nhiên để có được thành công cho khoản vay tiêu dùng thì phụ thuộc rất lớn vào đặc điểm của người đi vay và khả năng thanh toán của họ.Cụ thể:
Mục đích của việc vay tiền: Một khoản vay chỉ có thể được chấp nhận khi mục đích vay tiền của khách hàng phù hợp với chính sách cho vay của ngân hàng. Thêm vào đó, ngân hàng chỉ đồng ý cho vay khi nhận thấy rằng khách hàng vay vốn có ý thức rõ ràng về trách nhiệm phải hoàn trả đầy đủ và đúng hạn các khoản nợ. Do vậy, việc tiếp xúc, gặp gỡ với từng khách hàng là rất cần thiết bởi vì qua những cuộc gặp gỡ như vậy, ngân hàng sẽ dễ dàng phát hiện ra những biểu hiện gian dối hoặc nhựoc điểm trong tính cách cũng như sự thành thật của khách hàng đi vay.
Mức thu nhập: Mức thu nhập và sự ổn định trong thu nhập là những thông tin quan trọng trong quá trình đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng
Số dư các tài khoản tiền gửi: Một tiêu thức gián tiếp về tổng thu nhập và sự ổn định thu nhập của khách hàng là số dư tiền gửi trung bình hàng ngày mà khách hàng duy trì trên tài khoản cá nhân của họ.
Sự ổn định về việc làm và nơi cư trú: Trong số những yếu tố chính mà một cán bộ tín dụng sẽ quan tâm là khoảng thời gian làm việc. Hầu hết các ngân hàng không muốn cho vay những người mới chỉ làm việc tại nơi làm hiện tại.
Tuy nhiên vô hình chung với những điều kiện trên đã làm thu hẹp phạm vi cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng thương mại.
1.2.6 Một số phương pháp cho vay tiêu dùng.
Các ngân hàng trên thế giới thường sử dụng 2 phương pháp chính, đó là:
1.2.6.1 Phương pháp hệ thống điểm.
Đây là tập hợp các tiêu thức khác nhau liên quan đến từng đối tượng khách hàng. Mỗi tiêu thức tương ứng với một số điểm nhất định tuỳ theo từng tiêu thức và tầm quan trọng trong hệ thống các tiêu thức.Ví dụ như một số ngân hàng thương mại ở Mỹ, hệ thống điểm số được tính như sau:
Số TT
Các tiêu chí
Điểm số
1
Tình trạng nghề nghiệp của người vay
Chuyên viên hoặc các nhà quản trị điều hành
10
Lao động có tay nghề
8
Nhân viên văn phòng
7
Sinh viên
5
Lao động phổ thông
4
Lao động thời vụ (bán thời gian)
2
2
Tình trạng cư trú
Có nhà riêng
6
Nhà chung cư hoặc nhà thuê
4
Ở với người thân hoặc với bạn
2
3
Quan hệ với các ngân hàng
Tốt
10
Trung bình
5
Không có quan hệ
2
4
Thời gian làm việc với nghề nghiệp
Trên 1 năm
5
Một năm hoặc ít hơn
2
5
Thời gian cư trú tại địa chỉ hiện tại
Trên 1 năm
2
Một năm hoặc ít hơn
1
6
Điện thoại tại nơi ở
Có điện thoại
2
Không có điện thoại
0
7
Số người sống dựa vào người vay
Không
3
Một người
3
Hai người
4
Ba người
4
Nhiều hơn ba người
2
8
Các loại tài khoản có tại ngân hàng
Tài khoản sec và tài khoản tiết kiệm
4
Chỉ có tài khoản tiết kiệm
3
Chỉ có tài khoản sec
2
Không có tài khoản nào
0
Căn cứ vào hệ thống tính điểm trên thì một khách hàng có thể đạt điểm tối đa là 43 điểm và đạt thấp nhất là 9 điểm. Ngân hàng căn cứ vào tổng số điểm của khách hàng để cho vay. Theo như cách tính điểm trên, mức cho vay cụ thể ứng với điểm
Đơn vị tính: USD
Điểm số
Số tiền cho vay tối đa
Từ 0 đến 28 điểm
Từ 29 đến 30 điểm
0
Từ 31 đến 33 điểm
500
Từ 34 đến 36 điểm
1 000
Từ 37 đến 38 điểm
2 500
Từ 39 đến 40 điểm
5 000
Từ 41 đến 43 điểm
8 000
Tuy nhiên phương pháp hệ thống điểm số trên phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như môi trường, kinh tế xã hội...Nếu các yếu tố này có biến động lớn thì ngân hàng cần phải xem xét điều chỉnh lại các tiêu thức cho phù hợp đảm bảo chất lượng cho vay và thu hồi nợ.
1.2.6.2 Phương pháp phán đoán.
Đây là quá trình trong đó ngân hàng tiến hành phân tích, đánh giá toàn bộ thông tin định tính và định lượng về khách hàng nhằm hạn chế các khoản cho vay có rủi ro cao.Bởi vì khi quyết định cho vay, ngân hàng cần phải quan tâm đến nhiều vấn đề khác như khả năng trả nợ của khách hàng, điều kiện kinh tế hiện tại của khách hàng, ...
1.2.7 Lãi suất trong cho vay tiêu dùng.
Ngân hàng có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để xác định mức lãi suất thực tế đối với các khoản cho vay tiêu dùng. Song phần lớn lãi suất được xác định dựa trên lãi suất cơ bản cộng phần lợi nhuận cận biên và phần bù đắp rủi ro, ta có thể đưa ra công thức tổng quát như sau;
Lãi suất cho vay tiêu dùng
Chi phí
= huy động +
vốn
Chi phí
hoạt +
động khác
Rủi ro
tổn thất +
dự kiến
Phần bù kỳ hạn với các khoản cho vay dài hạn
Lợi nhuận
+ cận
biên
Cho vay tiêu dùng có rủi ro rất cao.Nếu người vay bị chết, ốm hoặc bị mất việc ngân hàng sẽ khó thu được nợ. Đó cũng là lý do mà lãi suất các khoản cho vay tiêu dùng thường cao hơn các khoản cho vay thương mại khác.
Phần hai : Cho vay tiêu dùng tại Việt Nam.
2.1 Triển vọng cho vay tiêu dùng tại Việt Nam.
Đẩy mạnh cho vay tiêu dùng là xu hướng tất yếu, là điều kiện khách quan trong điều kiện nền kinh tế thị trường, đồng thời đó cũng là chiến lược,là mục tiêu và là thị trường đầy tiềm năng của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Có thể nối trong hơn 10 năm trở lại đây, Việt Nam là nước có nền kinh tế đang phát triển với tốc độ cao, cao nhất khu vực Đông Nam Á. Trong 5 năm qua, GDP đạt bình quân 7.4%, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện mạnh mẽ. Dân số trên 82 triệu người là điều kiện vô cùng thuận lợi, là thị trường "khổng lồ" cho lĩnh vực cho vay tiêu dùng phát triển. Vừa qua, các tập đoàn kinh doanh lớn của nước ngoài như METRO CASH CARRY, VISA INTERNATIONAL,... đã nghiên cứu và đưa ra các thông tin về nhu cầu tiêu dùng của người ViệtNam hiện tại và dự đoán tương lai. Có thể nói đó là bức tranh tương đối toàn cảnh của người tiêu dùng Việt Nam. Theo kết quả điều tra nghiên cứu của tập đoàn AC Nielsen thì tỷ lệ hộ gia đình có thu nhập trên 3 triệu đồng một tháng ở khu vực thành thị tại 36 thành phố lớn trong cả nước đã tăng từ 36% năm 2002 tăng lên 63% vào năm 2005. Đồng thời mức chi tiêu của các hộ gia đình cũng tăng theo. Nếu như cách đay 3 năm, tỷ lệ hộ gia đình có mức chi tiêu hàng tháng trên 1 triệu đồng là 15.9% thì hiện nay đã tăng lên 40%. Như vậy, có thể thấy tiềm năng về lĩnh vực cho vay tiêu dùng là rất rộng lớn đang mở ra cho hoạt động của các ngân hàng thương mại. Thời gian tới, các ngân hàng cần đẩy mạnh lĩnh vực tín dụng tiêu dùng để thực hiện chiến lược đa dạng hoá hoạt động ngân hàng, phân tán rủi ro, kích thích nền sản xuất trong nước phát triển và cải thiện đời sống nhân dân, góp phần xoá đói giảm nghèo và ổn định trật tự xã hội.
2.2 Khái quát một số loại hình cho vay tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay.
Hiện nay, trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng ở Việt Nam, các ngân hàng thương mại cổ phần tỏ ra năng động và ưu thế hơn các ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng nước ngoài.Tiêu biểu cho việc cung cấp các sản phẩm cho vay tiêu dùng là các ngân hàng thương mại cổ phần như: ACB,Sacombank, Đông Á, Việt Á, Phương Đông... Các sản phẩm cho vay tiêu dùng tiêu biểu như: cho vay sinh hoạt tiêu dùng, cho vay hỗ trợ tiêu dùng, cho vay xây dựng sửa chữa nhà, cho vay mua nhà, nền nhà, hoán đổi nhà, cho vay hỗ trợ du học, cho vay qua thẻ,...
2.2.1 Cho vay sinh hoạt tiêu dùng.
Sản phẩm này được thiết kế và cung cấp nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu gia đình như mua sắm vật dụng gia đình, mua xe, cưới hỏi, du lịch, chữa bệnh... Ngân hàng sẽ đáp ứng nhu cầu quý khách nhanh chóng trong vòng 3 ngày, số tiền vay tối đa 100 triệu đồng và thời hạn cho vay tối đa 5 năm theo phương thức trả góp.
2.2.2 Cho vay hỗ trợ tiêu dùng.
Sản phẩm này được thiết kế và cung cấp cho khách hàng có thu nhập ổn định hàng tháng từ 1,5 triệu đồng trở lên. Số tiền cho vay nhằm hỗ trợ thêm cho tiêu dùng trong khi chờ đợi thu nhập đến kỳ. Loại cho vay này với số tiền tương đối nhỏ, tối đa 10 triệu đồng, và không cần tài sản thế chấp.
2.2.3 Cho vay xây dựng, sửa chữa nhà.
Sản phẩm này được thiết kế và cung cấp nhằm hỗ trợ nhu cầu xây dựng, sửa chữa, trang trí nội thất nhà ở của khách hàng. Số tiền cho vay tối đa bằng 70% chi phí xây dựng hoặc sửa chữa nhà và thời gian cho vay tối đa là 5 năm theo phương thức trả góp. Ngoài ra, ngân hàng còn giới thiệu kèm theo sản phẩm này dịch vụ tư vấn lựa chọn nhà thiết kế và xây dựng chuyên nghiệp, uy tín cho khách hàng.
2.2.4 Cho vay mua nhà, nền nhà, hoán đổi nhà.
Sản phẩm này được thiết kế và cung cấp cho khách hàng có nhu cầu về nhà, đất và sự hỗ trợ tài chính. Số tiền cho vay có thể bằng VND hoặc vàng tối đa là 60% giá trị nhà hoặc nền nhà và thời hạn cho vay tối đa là 7 năm theo phương thức trả góp. Tài sản thế chấp trong trường hợp này chính là căn nhà hoặc nền nhà khách hàng mua.
2.2.5 Cho vay hỗ trợ du học.
Sản phẩm này được thiết kế và cung cấp cho khách hàng có nhu cầuhỗ trợ tài chính cho con em mình đi du học. Số tiền cho vay theo nhu cầu và trên cơ sở giá trị tài sản thế chấp do ngân hàng định giá. Thời hạn cho vay tối đa là 7 năm theo phương thức trả góp. Ngoài ra, ngân hàng còn hỗ trợ cùng với sản phẩm này các dịch vụ du học như giới thiệu công ty tư vấn du học, xác nhận năng lực tài chính để dự phỏng vấn xin visa, xin cấp giấy phép chuyển ngoại tệ ra nước ngoài...
2.3 Phân tích các nghiệp vụ: cho vay mua nhà có thế chấp, cho vay qua thẻ, cho vay đối với cán bộ công nhân viên.
2.3.1 Cho vay mua nhà có thế chấp.
2.3.1.1 Thực trạng cho vay mua nhà có thế chấp.
Lĩnh vực tài chính về nhà ở ở Việt Nam chưa phát triển. Hiện nay chưa đến 20% tín dụng nhà ở được cung cấp qua khu vực ngân hàng chính thức và khu vực chính phủ. Nguồn tài chính chủ yếu để xây dựng nhà ở, mua bán các tài sản của các hộ gia đình chủ yếu là các nguồn tài chính không chính thức bao gồm các khoản tiền gửi tiết kiệm, và các khoản vay từ người thân trong gia đình,bạn bề.Nguồn này chiếm từ 75-80% tổng đầu tư của các hộ gia đình vào lĩnh vực nhà ở. Các hộ gia đình rất ít vay ngân hàng cho các mục đích mua sắm xây dựng nhà cửa, một phần là do thói quen của dân cư, phần nữa là do thị trường tài chính cho mục đích tiêu dùng chưa phát triển.
Trong vòng 3 năm qua đã có nhiều dấu hiệu cho thấy thị trường cho vay tiêu dùng phát triển nhanh, thể hiện ở việc ngày càng có nhiều ngân hàng hơn hướng tới các hộ gia đình với mục đích cung cấp các khoản vay bán lẻ. Các ngân hàng đang tham gia vào cho vay mua nhà bao gồm: ngân hàng Á Châu(ACB), ngân hàng nhà Hà Nội (Habubank), ngân hàng nhà TP Hồ Chí Minh (HHB), ngân hàng Sài Gòn thương tín (Sacombank), ngân hàng nhà đồng bằng sông Cửu Long (MHB), ngân hàng kỹ thương (Techcombank), ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (VBARD). Đa số các khoản cho vay nhà ở là của VBARD, chiếm khoảng 86% trong tổng số khoản cho vay nhà ở. Tiếp đến là MHB (8.4%),và ACB (4.5%).
Phần nhiều các khoản cho vay nhà ở là liên quan đến cho vay chính sách như cho vay đối với nông dân đồng bằn sông Cửu Long của VABRD và MHB. Chỉ riêng có ACB đã đạt được kết quả mạnh mẽ trong cho vay thông qua thế chấp từ nhu cầu vay vốn của cá nhân.
Phần lớn các khoản cho vay nhà ở có thời hạn tương đối ngắn, khoản dài nhất không quá 5 năm, nhiều khoản có thời hạn trên dưới 1 năm và thời hạn thanh toán bình quân không quá 3 năm.
Thông tin từ ngân hàng BIDV chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh cho biết: lượng khách hàng vay mua nhà, tiêu dùng trong 9 tháng đầu năm 2006 tăng gấp 2 lần so với cùng kỳ năm 2005, dự đoán trong 3 tháng cuối năm nhu cầu vay sẽ tăng thêm 20-30%. Trong đó, dự án vay mua chung cư sẽ tăng 16%. Điều đó chứng tỏ nhu cầu nhà ở của người dân không hề chịu tác động của thị trường bất động sản đang đóng băng hiện nay. Nhu cầu vay tăng nhưng trước sức ép phải bảo toàn nguồn vốn, các ngân hàng tỏ ra rất thận trọng, không ngân hàng nào dám mạo hiểm cho dân vay mua nhà để đầu tư, mua bán. Trong khi chờ thị trường nhà đất “ấm” lên, để sống còn các ngân hàng buộc phải tìm ra những hướng kinh doanh mới. Ngân hàng ngoài quốc doanh(VP Bank) chỉ cho những khách hàng cá thể hoặc những công ty nhỏ vay để giảm thiểu rủi ro. Còn Ngân hàng Á Châu (ACB) đã thành lập công ty cổ phần địa ốc ACB, điều này có thể giúp ngân hàng đảm bảo chắc rằng khách hàng của mình không vay tiền để mua bán nhà đất.
Mặt khác, điều kiện phải có hộ khẩu thường trú hoặc KT3 (không có hộ khẩu, song có việc làm ổn định trong thành phố 3 năm trở lên) là một trở ngại lớn cho khách hàng có nhu cầu vay vốn. Anh Nguyễn Hùng Phước, quê ở Đồng Nai, lên thành phố Hồ Chí Minh lập nghiệp đã 5 năm, nhưng vẫn chưa có KT3 thành phố. Anh đang vay vốn ngân hàng để mua một căn hộ chung cư 300 triệu đồng. Anh tâm sự: "Đi vay tiền của ngân hàng, đồng ý là phải có hộ khẩu hoặc KT3. Nhưng mình chưa có nhà thì làm sao có được KT3. Vậy là người dân ngoại tỉnh như tôi vĩnh viễn không có nhà cũng như KT3".
Thủ tục thanh toán đôi khi cũng còn nhiều bất cập. Anh Phạm Long, kỹ sư xây dựng của Tổng công ty cơ khí giao thông vận tải Sài Gòn (Samco) kể anh mua nhà trả góp trong 5 năm, nhưng do làm ăn khấm khá nên trả hết nợ chỉ trong 3 năm rưỡi. Tuy nhiên, ngân hàng vẫn tính mức lãi suất cũ vì nó đã được ghi trong bản hợp đồng. Vì vậy ngân hàng nên nới lỏng việc trả lãi cho khách hàng trong những tháng đầu vì chi phí xây dựng, sửa chữa thường phát sinh ngoài ý muốn, khách hàng khó xoay sở đủ cho chi tiêu và trả nợ.
Một chuyên viên tư vấn ngân hàng Incombank thành phố Hồ Chí Minh khuyến cáo rằng, khách hàng nên tính toán thật kỹ trước khi quyết định vay vốn, cũng như tìm hiểu thật kỹ để có thể sử dụng tốt các dịch vụ của ngân hàng. Nếu chuẩn bị tốt, họ sẽ hạn chế được những khó khăn trong thủ tục hành chính khi tiến hành thỏa thuận hợp đồng.
2.3.1.2 Nguyên nhân hạn chế sự phát triển của thị trường cho vay nhà ở.
Vốn huy động chủ yếu là tiền gửi, thường là ngắn hạn chủ yếu từ 3 tháng đến 1 năm,trong khi nhu cầu vay vốn cho phát triển nhà ở là trung và dài hạn. Vì vậy, các ngân hàng chỉ có thể cho vay với thời hạn tối đa từ 3 đến 7 năm. Như vậy đã hạn chế đến khả năng đi vay cho mục đích nhà ở. Thu nhập hàng tháng cần thiết để trả các nghĩa vụ cho một khoản vay 12 năm chỉ bằng một nửa số tiền cần thiết cho một khoản vay 5 năm.
Các ngân hàng thường có định kiến về khu vực nhóm đan cư có nhu cầu vay mua nhà là một khu vực có mức độ rủi ro cao.Trong khi đó những yêu cầu về tài sản thế chấp lại chưa được đáp ứng đầy đủ do những rắc rối trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận sở hữu nhà. Hơn nữa những khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp cũng hạn chế các ngân hàng cho vay.Mặt khác, cho vay cho mục đích nhà ở hay tiêu dùng thường là những khoản cho vay nhỏ và kéo dài, vì vậy tạo ra nhiều chi phí và nhân lực cho các ngân hàng. Các ngân hàng vì vậy rất ngại cho vay cho các mục đích này.
Các sản phẩm cho vay của ngân hàng thương mại không phù hợp lắm với khả năng trả nợ của khách hàng như thời hạn vay, phương thức trả nợ, các điều kiện đảm bảo. Những yếu tố không phù hợp của các sản phẩm cho vay cho mục đích tiêu dùng thường xuất phất từ cơ cấu nguồn vốn mất cân đối,từ nhu cầu hạn chế rủi ro và các chi phí phát sinh của các ngân hàng do viêc kéo dài thời hạn cho vay với giá trị lớn...
Khả năng thẩm định của các cán bộ tín dụng chưa đáp ứng được yêu cầuvì thiếu kiến thức và kinh nghiệm về các hoạt đọng chuyên môn. Việc đánh giá thu nhập của người dân trong nền kinh tế Việt Nam là rất khó do chưa có được chế tài bắt buộc người dân phải mở tài khoản tại ngân hàng và thực hiện mọi thanh toán qua đó (như trả lương, chuyển tiền, dịch vụ nhà ở). Hiện nay khoảng từ 50-80% tất cả các giao dịch tại Việt Nam được thực hiện bằng tiền mặt. Vì vậy, các ngân hàng rất khó khăn trong việc đánh giá được khả năng trả nợ của khách hàng và nhiều khi đưa ra các điều kiện trả nợ quá cao so với thu nhập của người vay.
2.3.1.3 Tiềm năng phát triển cho vay nhà ở.
Tỷ lệ dân số đô thị trong tổng số dân cả nước tăng nhanh, từ 22% năm1999 lên khoảng 33% năm 2010, và khoảng 45% năm2020 (theo kế hoạch tổng thể định hướng cho phát triển đô thị đến năm 2020). Sự phát triển nhanh chóng của dân số tại đô thị đặt một sức ép ngày càng lớn về vấn đề nhà ở. Trong tổng số hộ có thu nhập thấp ở thành thị, có tới 70% có nhu cầu nâng cấp nhà, 10% có nhu cầu xây lại.Tại Hà Nội, thu nhập hộ gia đình hàng tháng từ 1,1 triệu đồng đến 4,5 triệu đồng tức là 220 000 đến 990000đồng/người/tháng. Số hộ được xếp vào trong nhóm có thu nhập thấp chiếm khoảng 45% tổng số hộ gia đình tại đô thị. Các cuộc điều tra xã hội tiến hành tạiphường Tân Mai và Bạch Đằng (Hà Nội) cho thấy 12-13% số hộ gia đình có thể trả nợvay từ tiền tiết kiệm của họ. Hầu hết các hộ gia đình này vay tiền từ họ hàng và bạn bè, khong phải trả lãi để nâng cấp hay xây dựng nhà mới. Chỉ có 2% số hộ là đi vay ngân hàng. Như vậy trong khi nhu cầu vốn cho nâng cấp, xây nhà mới của các hộ gia đình là rất lớn nhưng khả năng tiếp cận của họ tới nguồn vốn vay ngân hàng còn hạn chế. Điều này đòi hỏi các ngân hàng cần phát triển hơn nữa các hình thức tín dụng tiêu dùng.
2.3.2 Cho vay qua thẻ.
2.3.2.1 Thực trạng nghiệp vụ cho vay qua thẻ.
Năm 1996, hai ngân hàng : ngân hàng ngoại thương Việt Nam (VCB) và ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu 9 (ACB) đã khai trương việc phát hành thẻ tín dụng quốc tế Mastercard đầu tiên ở Việt Nam. Năm 1997, ACB phát hành thêm thẻ tín dụng quốc tế Visa, và VCB phát hành vào năm1998. Cuối năm 2000, ACB bắt đầu phát hành thẻ tín dụng nội địa và đã thu được nhiều kết quả khả quan. Đến nay ACB là ngân hàng chiếm thị phần phát hành thẻ cao nhất nước ta. Đầu năm 2001, ngân hàng cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) đã phát hành thẻ tín dụng quốc tếMastercard, đầu năm 2002 ngân hàng công thương Việt Nam cũng tham gia vào thị trường phất hành thẻ tín dụng với việc phát hành thẻ Master.
Mặc dù số lương thẻ phát hành, doanh số sử dụng thẻ hàng năm tăng nhanh nhưng vẫn còn rất khiêm tốn so với các nước trong khu vực và cũng chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng doanh số thanh toánkhông dùng tiền mặt.Tỷ trọng doanh số sử dụng thẻ ở nước ngoài đang có xu hướng giảm dần nhưng vẫn còn đang ở mức cao, chiếm khoảng 70% tổng doanh số thanh toán. Các ngân hàng mặc dù có nhiều cố gắng trong việc mở rộng mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ nhưng mạng lưới này vẫn chưa đa dạng và phát triển để phục vụ cho chủ thẻ là người Việt Nam nên cũng ảnh hưởng đến việc mở rộng thẻ thanh toán tại Việt Nam.
Từ năm 1990, VCB với tư cách là một ngân hàng đại lý đã bắt đầu triển khai nghiệp vụ thanh toán thẻ ở Việt Nam. Đến năm 1995, ngân hàng mớithực sự trở thành thành viên chính thức của hai tổ chức thẻ Visa và Mastercard. Sau một năm thực hiện thanh toán trực tiếp với các tổ chức thẻ quốc tế, VCB đã triển khai nghiệp vụ phát hành thẻ tín dụng quốc tế VCB-Mastercard (1996) và tiếp đó VCB-Visa (1998). Đối với hai tổ chức thẻ Amex và JCB, VCB vẫn giữ vai trò là ngân hàng đại lý thanh toán. Tuy nhiên, với thẻ JCB,ngân hàng có thể triển khai việc phát hành thẻ khi có đủ điều kiện.
2.3.2.2 Những nguyên nhân hạn chế sự phát triển dịch vụ thẻ.
Thứ nhất, hiện nay các ngân hàng đang phải hoạt động kinh doanh thẻ trong một môi trường đầy khó khăn. Thẻ mới chỉ chủ yếu phục vụ cho đối tượng khách hàng là những người đi công tác,học tập ở nước ngoài, còn phần đong dan cư chưa hiểu biết về thẻ,chưa coi đó là phương tiện thanh toán đa tiện ích của mình, cũng như chưa cố điều kiện sử dụng nó. Điều này xuất phát từ thói quen sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế Việt Nam và cũng xuất phát từ một thực tế là việc sử dụng thẻ ở Việt Nam còn nhiều bất tiện do số cơ sở cháp nhận thẻ quá thấp. Các cơ sở cung ứng hàng hoá, dịch vụ cũng có ý muốn thu tiền mặt vừa nhanh gọn vừa tránh được sự kiểm tra của nhà nước. Chính vì vậy, thanh toán bằng tiền mặt chiếm 30% trong bán buôn và 95% trong bán lẻ. Trong hoàn cảnh đó,công tác marketing, tuyên truyền, quảng cáo cho thẻ lại chưa thực sự tới được người dân. Chưa có một sản phẩm thẻ nào đáp ứng được nhu cầu của đa số dân chúng: hạn mức vừa phải, phạm vi sử dụng rộng rãi, đặc biệt là ở tưong nước... Thẻ là một sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới nên rất cần những hoạt động hỗ trợ, tuyên truyền,quảng cáo,trong khi đó hoạt động của ngân hàng còn hạn chế, chưa mạnh dạn bỏ chi phí ra để tiếp thị sản phẩm thẻ, nghiên cứu tìm ra những loại thẻ phù hợp với thi trường Việt Nam hơn.
Thứ hai, công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu, những vấn đề bảo dưỡng, sửa chữa những loại máy móc này vẫn phải mời nhà cung cấp nước ngoài giúp đỡ, khắc phục.Do đó không sủa chữa được kịp thời, làm gián đoạn việc phát hành thanh toán thẻ, gây tổn hại cả về thời gian và tiền bạc cho cả khách hàng. Điều đó còn dẫn đến sự suy giảm uy tín của ngân hàng. Những khó khăn về công nghệ chủ yếu do thiếu kinh phí đầu tư và kinh nghiệm, trình độ quản lý còn yếu.
Thứ ba, các ngân hàng thương mại còn thiếu kinh nghiệm trong hoạt động thẻ vốn là một lĩnh vực kinh doanh phức tạp. Hoạt động kinh doanh thẻ đòi hỏi những trang thiết bị kỹ thuật cao và hiện đại cùng với một đội ngũ nhân viên có đủ khả năng quản lý và vận hành hệ thống theo các tiêu chuẩn quốc tế. Việt Nam hiện chưa có một hoạt động đào tạo chuyên về thẻ nào cũng như chưa tổ chức việc cập nhật thông tin, kiến thức thường xuyên về sản phẩm thẻ.Nhiều trục trặc, rắc rối đã xảy ra do nthiéu kinh nghiêm, trình đọ chuyên môn của đội ngũ nhân viên.
Thứ tư, hiện nay môi trường pháp lý chưa hoàn thiện đã gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh thẻ. Quy chế chính thức về việc phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ do ngân hàng nhà nước ban hành kèm theo quyết định số 317/1999/QĐ-NHNN vào tháng 11-1999 quy định việc phát hành thẻ phải có bảo đảm tín dụng như đối với tín dụng trung và dài hạn, trong khi đó tín dụng thẻ có tính chất khác với hai loại tín dụng trên. Thêm vào đó, điều kiện cho vay với khách hàng sử dụng thẻ như vậy là quá ngặt nghèo, các cá nhân muốn sử dụng thẻ buộc phải thế chấp, ký quỹ với tỷ lệ khá cao. Điểm này làm hạn chế việc mở rộng phát hành và thanh toán thẻ tại các ngân hàng.
2.3.2.3 Tiềm năng phát triển dịch vụ thẻ.
Với những đặc điểm và thực trạng thị trường Việt Nam hiện nay, các ngân hàng chắc chắn gặp không ít khó khăn trong phát triển phát hành thẻ, ví dụ như việc thay đổi thói quen dùng tiền mặt. Tuy nhiên, thực trạng đó cũng cho thấy thị trường thẻ Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển,và đó là cơ hội để cácc ngân hàng khai thác,phát triển dịch vụ thẻ của mình.Tiềm năng của thị trường được thể hiện ở khả năng thâm nhập của thẻ trong chi tiêu tiêu dùng cá nhân trong nền kinh tế.
Theo thống kê, dân thành thị hiện nay chiếm 24% dân số cả nước, tức là khoảng 20 triệu người. Tại những đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh số dân đông đúc,tổng cộng khoảng 8-9 triệu người, mức thu nhập bình quân khá cao từ 1.5-2 triệu/người/tháng;
nhu cầu tiêu dùng lớn, là những điều kiện tốt để phát triển nghiệp vụ phát hành thẻ, đặc biệt là thẻ có hạn mức thấp.Chỉ cần khuyến khích 5% số người ở thành phố thâm gia sử dụng thẻ là các ngân hàng đã phát hành được 1 triệu thẻ. Với mức chi tiêu tối thiểu cho một cá nhân là 500 000- 1000 000 đồng/tháng tính trên 1 triệu thẻ, các ngân hàng có doanh số sử dụng và thanh toán thẻ nội địa từ 500 đến 1 000 tỷ VND/tháng. Khai thác được việc sử dụng số thẻ đó, các ngân hàng sẽ có một dịch vụ phát hành thẻ tương đối lớn và hiệu quả.
Với mức thu nhập ổn định và đời sống ngày càng phát triển, nhu cầu thăm quan, du lịch của người dân tăng lên. Thêm vào đó ngánh du lịch Việt Nam đang lỗ lực phát triển, hoàn thiện các điểm du lịch trong nước,hợp tác với các nước khác như Trung Quốc và các nước ASEAN đẩy mạnh du lịch nước ngoài; cùng với sự kiện các nước ASEAN phối hợp với nhau trong việc giảm giá vé và thủ tục cho phép thăm quan, đi lại giữa các nước trong khu vực thời gian qua dẫn đến nhu cầu du lịch trong và ngoài nước của người dân có xu hướng gia tăng. Kết quả là nhu cầu sử dụng thẻ cũng được tăng lên vì tính an toàn, tiện lợi của nó trong quá trình sử dụng.
Hiện nay, du học nước ngoài không còn là việc khó khăn cho các gia đình Việt Nam nữa, khả năng tự chu cấp học phí cho con em mình đi du học của phần lớn các gia đình là điều có thể thực hiện. Nhóm khách hàng này từ trước đến nay vẫn là đối tượng chính của công tác phát hành thẻ. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường du học nước ngoài, đối tượng này vẫn là nhóm khách hàng đầy tiềm năng của các ngân hàng phát hành thẻ hướng tới.
Còn một yếu tố nữa làm tăng nhu cầu sử dụng thẻ của công chúng trong tương lai đó là việc phát triển thương mại điện tử,một hình thức mua bánâhngf hoá qua mạng trong đó thẻ tín dụng là phương thức thanh toán chủ yếu.Theo tính toán của VDC-nhà cung cấp dịch vụ internet lớn nhất Việt Nam, trong khoảng thời gian trước mắt, riêng doanh số thanh toán cho dịch vụ trên internet vào khoảng 50 tỷ VND/năm. Có thể nói,triển vọng phát triển thương mại điện tử trong thời gian tới là rất cao. Đây không chỉ là thuận lợi mà còn là cơ hội cho các ngân hàng đẩy mạnh hoạt động phát hành thẻ.
Hiện nay, các ngân hàng nước ngoài chưa được phép phát hành thẻ tại Việt Nam nhưng trong khoảng thời gian 1-2 năm nữa,việc các chi nhánh của các ngân hàng này tham gia phát hanhhf thẻ là điều tất yếu.Sự có mặt của các nhân tố này sẽ là thách thức lớn đối với các ngân hàng thương mại ở Việt Nam đang và sẽ tham gia phát hành thẻ nhưng cũng là cơ hội cho thị trường thẻ Việt Nam phát triển, nâng cao công nghệ cũng như chất lượng dịch vụ của hoạt động thẻ.
2.3.3 Cho vay đối với cán bộ công nhân viên.
2.3.3.1 Thực trạng cho vay đối với cán bộ công nhân viên.
Hầu hết các ngân hàng cho vay tiêu dùng đều nhìn nhận mảng cho vay kích cầu tiêu dùng trong dân cư rất rộng, nhu cầu đi vay của người dân khá lớn. Tuy nhiên, chỉ mới ít ngân hàng thực hiên chương trình cho vay tiêu dùng và cũng chỉ tập trung ở thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,... Đối tượng cho vay tín chấp hiện phổ biến là cán bộ công nhân viên nhà nước. Theo ngân hàng, lý do khiến doanh nghiệp ngoài quốc doanh khó được chấp nhận là do hoạt động kinh doanh khong ổn định, người lao động dễ thay đổi chỗ làm,vì vậy khó khăn cho việc thu hồi nợ.
Nhu cầu vay của cán bộ công nhân viên chủ yếu để sửa chữa nhà cửa,sắm phương tiện đi lại, chữa bệnh,... nên dư nợ chho vay chủ yếu là loại cho vay trung hạn. Các ngân hàng cũng đua nhau đưa ra một hạn mức tín dụng và lãi suất hợp lý để thu hút khách hàng. Trước đây, mức cho vay tín chấp đối với cán bọ công nhân viên thường không quá 10 triệu đồng. Tuy nhiên gần đây một số ngân hàng không cố định hạn mức trên mà căn cứ vào khả năng của người vay để xét cho vay cao hơn. VBARD đã nâng hạn mức cho vay lên đến 30 triệu đồng. Đối với Sacombank, mức cho vay tín chấp cũng đã được nâng lên 30 triệu đồng. Ngoài ra ngân hàng này đã mở rộng đối tượng cho vay đến các hộ tiểu thương. VCB cho vay đối với cán bộ công nhân viên với mức tối đa là 50 triệu đồng và ththời hạn vay có thể kéo dài đến 5 năm.
Hiện tại chưa có số liệu về dư nợ cho vay và số lượng cán bộ công nhân viên có quan hệ tín dụng với toàn hệ thống ngân hàng thương mại Viêt Nam. Tuy nhiên theo VCB, một ngân hàng có các điều kiện vay vốn nhiều ưư điểm hơn so với các ngân hàng thương mại khác đưa ra được một con số sơ bộ về tình hình cho vay tín chấp cán bộ công nhân viên trong năm 2002. Tính đến cuối năm 2002, dư nợ cho vay cán bộcông nhân viên của VCB đạt 399 tỷ VND,tăng 110% so với cuối năm 2001. Số lượng lên đến 23379 khách hàng.Nhìn chung khách hàng vay trả nợ sòng phẳng,thực hiện nghiêm túc các thoả thuận với ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn thực phát sinh không đáng kể, chỉ chiếm 0,7% tổng dư nợ. Tuy nhiên,con số này vẫn còn rất khiêm tốn so với tiềm năng của thị trường cán bộ công nhân viên rộng lớn.
Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) đã triển khai chương trình cho vay cá nhân dài hạn trả trong 10 năm. Theo ông Nguyễn Gia Định-Tổng Giám đốc Eximbank thì trước mắt Eximbank áp dụng chương trình này đối với khách hàng là bác sĩ, giảng viên đại học. Theo đó mức lãi suất sẽ được điều chỉnh tuỳ từng năm nhưng tính theo lãi suất huy động tiết kiệm cộng với tỷ lệ cố định và không khống chế mức vay... Mới đây, Ngân hàng Thương mại cổ phần quốc tế (VIB) đã triểnkhai dịch vụ cho vay tiêu dùng đối với người làm công ăn lương. Theo ông Trịnh Thanh Bình - Phó Tổng Giám đốc VIB, điểm đặc biệt của chương trình này là cho vay dựa trên thu nhập và không cần tài sản bảo đảm với lãi suất 0,74%/tháng. Đây là hình thức cho vay tiêu dùng phục vụ nhu cầu chi tiêu trong cuộc sống của khách hàng, nhất là mua sắm nhà cửa thiết bị gia đình, sửa nhà, nhu cầu tài chính đột xuất... Chúng tôi không giới hạn cho vay mà dựa vào thu nhập thường xuyên của người lao động, mức tối đa bằng 50% thường xuyên của thời hạn cho vay... Việc cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp tác với cơ quan nơi khách hàng đang công tác. Hằng tháng khách hàng không cần đến trả nợ, cơ quan sẽ thay khách hàng trích thu nhập tiền lương để trả nợ cho ngân hàng. Có thể nói, chương trình cho vay tiêu dùng đã phần nào đáp ứng nhu cầu mua sắmđối với CBCNV làm công ăn lương của nhà nước. Về phía ngân hàng, việc cho vay tiêu dùng là những món nhỏ lẻ lợi nhuận ít nhưng bù lại những khoản vay này có độ rủi ro thấp và hầu như các ngân hàng cho vay những đối tượng này thì chưa một ngân hàng nào xảy ra tình trạng nợ xấu, nợ quá hạn khi cho vay tiêu dùng. Cụ thể: Sản phẩm “Cho vay đối với cán bộ nhân viên” là chương trình hợp tác giữa VIB và cơ quan nơi khách hàng đang công tác nhằm mang lại lợi ích cho khách hàng và gia đình của họ. Đặc tính ưu việt của sản phẩm này là người vay không cần có tài sản đảm bảo, lãi suất cho vay rất ưu đãi (0,74%/tháng) và cố định trong suốt thời gian vay vốn. Khách hàng không cần đến trả nợ ngân hàng, cơ quan sẽ thay bạn trích thu nhập tiền lương hàng tháng để trả nợ. Thời hạn vay vốn tối thiểu là 12 tháng và tối đa là 36 tháng. Mức cho vay sẽ căn cứ theo thu nhập và nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Để vay vốn, khách hàng chỉ cần có hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú dài hạn trên cùng địa bàn với trụ sở chính hoặc các chi nhánh của VIB; là nhân viên biên chế hoặc hợp đồng dài hạn tại cơ quan và có thâm niên công tác từ hai năm trở lên và có tài khoản lương tại VIB. Hồ sơ vay vốn của khách hàng bao gồm: chứng minh nhân dân và hộ khẩu, giấy tờ chứng minh thu nhập, giấy tờ chứng minh mục đích sử dụng vốn (nếu có), giấy giới thiệu của cơ quan nơi khách hàng đang làm việc.Ngân hàng không giới hạn mức cho vay mà dựa vào thu nhập thường xuyên của người lao động, mức tối đa bằng 50% thu nhập ổn định thường xuyên của thời hạn vay. Chẳng hạn, thu nhập bình quân của một người lao động là 3 triệu đồng/tháng (36 triệu đồng/năm), nếu vay trong thời hạn 1 năm thì mức vay tối đa là 18 triệu đồng, thời hạn 2 năm là 36 triệu đồng. Tuy nhiên, với những người lao động có thu nhập cao hơn, có nhu cầu vay nhiều hơn thì chúng tôi cũng xem xét đáp ứng.
2.3.3.2 Khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai cho vay đối với cán bộ công nhân viên.
Tuy là các món vay nhỏ song quy trình thẩm định,phát tiền vay, trả nợ không thay đổi so với các khoản vay lớn,thậm chí có phần phức tạp hơn vì khách hàng phải trả nợ theo tháng. Chính vì vậy khối lượng công việc phát sinh nhiều mà lực lương cán bộ tín dụng tại các ngân hàng thương mại còn mỏng.
Các thông tin liên quan đến quá trình thẩm định, theo dõi khoản vay, thu nợ phần lớn phụ thuộc vào đại diện của doanh nghiệp,vì vậýcc trường hợp lừa đảo, khách hàng bị thôi việc bất thường thì ngân hàng khó có điều kiện nắm bắt kịp thời.
Không phải doanh nghiệp nào cũng sẵn sàng cử đại diện thay mặt bên vay thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ đầy đủ với ngân hàng vì vậy phần nào hạn chế việc mở rộng cho vay.
2.3.3.3 Tiềm năng của việc cho vay đối với khách hàng là cán bộ công nhân viên.
Hầu hết đối tượng cho vay của các ngân hàng đều là những người có nguồn trả nợ chắc chắn, thu nhập ổn định và tốt nhất là có tài sản đảm bảo hoặc có bên thứ ba bảo lãnh. Những đối tượng có khả năng vay cao nhất là cán bộ cong nhân viên nhà nước, được cơ quan chứng nhận có thu nhập ổn định và cam kết thu đủ nợ vay trong trường hợp người vay không có khả năng hoàn trả món vay. Theo số liệu thống kê năm 2002, lao động bình quân trong khu vực nhà nước là 3610.5 nghìn người, thu nhập bình quân một tháng là 1 triệu đồng. Tuy nhiên, những người như giáo viên, bác sĩ hoặc một số người làm trong lĩnh vực khác, thu nhập từ lương thấp nhưng thu nhập làm thêm hợp pháp của họ khá cao. Như vậy, nếu chỉ dựa trên mặt bằng lương phổ biến của cán bộ công nhân viên một cách chung chung để khống chế mức vay là không hợp lý.
Từ khi triển khai chương trình cho vay cán bộ công nhân viên, số khách hàng liên hệ vay theo chương trình này tại các ngân hàng gần như quá tải .Thực tế đã cho thấy rằng tiềm năng tín dụng từ khu vực này còn rất cao, các ngân hàng thương mại vì thế cần tạo điều kiện thông thoáng hơn cho người vay, thủ tục vay không quá rườm rà và số tiền tối đa được vay cần được nâng lên cao hơn nhắm đến nhu cầu những người có thu nhập cao.
2.4 Một số hạn chế của nghiệp vụ cho vay tiêu dùng tại Việt Nam.
Nghiệp vụ cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam còn mốt số hạn chế sau:
Thứ nhất: chất lượng tín dụng chưa cao. Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay tiêu dùng vẫn đạt dưới mức quy định (tỷ lệ nợ quá hạn cho vay tiêu dùng chiếm khoảng 0,4% so với tổng dư nợ cho vay tiêu dùng).Tuy nhiên, vẫn còn một số loại cho vay tiêu dùng có tỷ lệ quá hạn còn cao như cho vay mua ô tô,xe máy và phương tiện đi lại khác; cho vay duới hình thức sử dụng thẻ tín dụng...
Thứ hai: cơ cấu cho vay chưa hợp lý. Trong đó dư nợ cho vay tiêu dùng đối với đối tượng sử dụng để mua nhà, sửa chữa nhà ở chiếm tỷ trọng cao nhất,chiếm 58,7% tổng dư nợ cho vay tiêu dùng ; cho vay đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, đời sống khác chiếm 31,7% ; cho vay mua sắm phương tiện đi lại chiếm 7,9% trong tổng dư nợ cho vay tiêu dùng.
Thứ ba: nhu cầu vốn vay của khách hàng vay tiêu dùng chủ yếu là nhu cầu vay trung và dài hạn. Trong khi đó,nguồn vốn trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại còn hạn chế. Việc sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn với đối tượng là vay tiêu dùng thường tiềm ẩn rủi ro cao. Bởi lẽ chi phí quản lý, chi phí liên quan đến quá trình cho vay tiêu dùng thường cao hơn so với các loại hình cho vay khác. Việc xác định nguồn thu nhập của khách hàng vay tiêu dùng là cơ sở để định mức trả nợ vay phù hợp cũng như tạo thuận lợi cho ngân hàng trong quá trình thu nợ .
Thứ tư, quá trình quản lý và xử lý thu hồi nợ, đặc biệt đối với nợ quá hạn thường khó khăn như : thủ tục thụ lý giải quyết của toà án, thủ tục phát mãi tài sản ; khó khăn do khách hàng vay thay đổi địa chỉ, nơi ở, nơi công tác...
KẾT LUẬN
Với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, cùng với nó là sự cải thiện đáng kể trong mức sống của dân cư, thì nhu cầu tiêu dùng của phần lớn bộ phận dân cư đặc biệt là dân cư thành thị đang tăng lên rất nhiều với nhiều hình thức tiêu dùng khác nhau. Cho vay phục vụ các mục đích tiêu dùng dưới các hình thức như cho vay mua nhà có thế chấp, cho vay qua thẻ, cho vay trả góp mua các động sản ... đang phát triển rất nhanh tại các ngân hàng thương mại. Xét trên giác độ quản trị ngân hàng, các ngân hàng triển khai dịch vụ bán lẻ sẽ có điều kiện hạn chế phần nào rủi ro do các nhân tố bên ngoài vì dịch vụ ngân hàng bán lẻ là lĩnh vực ít chịu ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế so với các lĩnh vực khác. Xét trên giác độ kinh tế xã hội, cho vay tiêu dùng sẽ giúp cải thiện đời sống dân cư,góp phần giảm chi phí giao dịch xã hội thông qua việc tiết kiệm chi phí và tiết kiệm thời gian cho cả ngân hàng và khách hàng. Tuy nhiên cho vay tiêu dùng hiện chưa phát triển ở Việt Nam mặc dù thị trường cho vay tiêu dùng ở Việt Nam là rất tiềm năng.Chính vì vậy mà các ngân hàng thương mại ở Việt Nam cần phải tận dụng cơ hội để phát triển nghiệp vụ cho vay tiêu dùng, đó là một trong những biện pháp đa dang hoá hoạt động của ngân hàng thương mại trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
Bài viết này của em còn nhiều thiếu sót, em mong có được sự chỉnh sửa của cô để em hoàn thiện bài tốt hơn.
Tài liệu tham khảo
1. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính_Frederic S.Mishkin.
2. Ngân hàng thương mại_PGS.TS Phan Thị Thu Hà.
3. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại_Lê Văn Tề.
4. Tạp chí ngân hàng số 2/2005, 9/2005.
5. Thị trường tài chính tiền tệ 8/2005.
6. Trang web : www.acb.com.vn, www.dantri.com.vn.
Mục lục
Trang
1
Lời mở đầu
2
Nội dung
Phần 1: Lý luận về nghiệp vụ cho vay tiêu dùng
1.1 Những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ cho vay của ngân hàng thương mại.
1.1.1 Dựa vào mục đích của các khoản cho vay
1.1.2 Dựa vào thời hạn cho vay
1.1.3 Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng.
1.1.4 Dựa vào phương thức cho vay
1.1.5 Dựa vào phương thức hoàn trả nợ vay.
1.2 Những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ cho vay tiêu dùng của NHTM
1.2.1 Định nghĩa cho vay tiêu dùng
1.2.2 Phân loại cho vay tiêu dùng
1.2.3 Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
1.2.4 Lợi ích của việc cho vay tiêu dùng
1.2.5 Những điều kiện để ngân hàng thực hiện một món vay tiêu dùng
1.2.6 Một số phương thức cho vay tiêu dùng
1.2.7 Lãi suất trong cho vay tiêu dùng
Phần 2: Cho vay tiêu dùng tại Việt Nam
2.1 Triển vọng cho vay tiêu dùng tại Việt Nam
2.2 Khái quát một số loại hình cho vay tiêu dùng tại Việt Nam
2.2.1 Cho vay sinh hoạt tiêu dùng
2.2.2 Cho vay hỗ trợ tiêu dùng
2.2.3 Cho vay xây dựng, sửa chữa nhà cửa
2.2.4 Cho vay mua nhà, nền nhà, hoán đổi nhà
2.2.5 Cho vay hỗ trợ du học
2.3 Phân tích các nghiệp vụ: cho vay mua nhà có thế chấp,cho vay qua thẻ, cho vay đối với cán bộ công nhân viên
2.3.1 Cho vay mua nhà có thế chấp
2.3.2 Cho vay qua thẻ
2.3.4 Cho vay đối với cán bộ công nhân viên
2.4 Một số hạn chế của nghiệp vụ cho vay tiêu dùng tại Việt Nam
3
Kết luân.
4
Tài liệu tham khảo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0878.doc