Đề tài Phát triển nguồn lao động Việt Nam đáp ứng yêu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế

MỤC LỤC Phần mở đầu Trang 1 Phần nội dung Trang 3 Chương 1: Tổng qua về nguồn nhân lực Trang 3 1.1 Khái quát về lao động nguồn lao động Trang 3 1.2 Cấu trúc nguồn lao động Trang 4 1.3. Trình độ giáo dục của nguồn lao động Trang 5 1.4 Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động Trang 6 1.5 Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế Trang 6 Chương 2: Đặc điểm nguồn lao động Việt Nam Trang 9 2.1Qui mô dân số Trang 9 2.2 Phân bổ dân số theo vùng miền Trang 11 2.3 Đặc điểm định lượng của nguồn lao động Trang 13 2.4 Đặc điểm định tính của nguồn lao động Trang 15 2.5 Thói quen, nếp nghĩ, tác phong của người lao động Trang 23 2.6 Giá cả sức lao động Trang 24 Chương 3: Can thiệp của chính phủ để phát triển nguồn lao động Việt Nam Trang 25 3.1 Về vấn đề dân số và phân bổ nguồn nhân lực Trang 25 3.2 Về phương diện thể lực Trang 26 3.3 Về phương diện trí lực Trang 27 3.4 Về phương diện phẩm chất tâm lý xã hội của nguồn nhân lực Trang 29 3.5 Về chính sách sử dụng nhân lực Trang 29 Phần kết luận Trang 30 Danh mục tài liệu tham khảo Trang 31 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý‎ do chọn đề tài Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã có những sự chuyển biến tích cực. Những nhân tố tạo nên những bước tiến đó là: chúng ta đã biết khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên vốn có, đưa ra những chính sách kinh tế thông thoáng, tận dụng những cơ hội đầu tư, đặc biệt là những cơ hội đầu tư nước ngoài. Một trong những nhân tố quan trọng không thể thiếu đã đóng góp vào sự tăng trưởng của đất nước đó là nguồn nhân lực. Cùng với sự phát triển của đất nước, nguồn nhân lực cũng có những bước tiến bộ quan trong cả về mặt số lượng và chất lượng . Nguồn nhân lựcViệt Nam đang được đánh giá là một trong những yếu tố thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài. Vậy chúng ta hãy xem xét một vài đặc điểm của nguồn nhân lực Việt Nam để có thể biết tại sao nguồn nhân lực lại là một trong những yêu tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu Thông qua việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi hi vọng cung cấp cho các bạn những thông tin về nguồn lao động và đặc điểm nguồn lao động Viêt Nam hiện nay. Từ đó đưa ra một số giải pháp để khắc phục và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để có thể đáp ứng những yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại đất nước trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là đặc điểm của nguồn lao động và các yếu tố ảnh hưởng đến đặc điểm đó. 3.2 Phạm vi nghiên cứu Trong bài tiểu luận này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu vào nguồn lao động thuộc dân số hoạt động kinh tế 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1 Cơ sở lý thuyết Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng lý thuyết về dân số học, lý thuyết về lao động và nguồn lao động. 4.2 Phương pháp nghiên cứu Trong bài tiểu luận này, chúng tôi chủ yếu sưu tập và tổng hợp các bài viết từ sách báo, mạng internet Sau đó dùng phương pháp phân tích, tổng hợp kết hợp với liệt kê để làm sáng tỏ vấn đề. Ngoài ra chúng tôi còn dùng phương pháp mô hình hóa qua việc sử dụng các bảng số liệu liên quan về dân số và nguồn nhân lực Việt Nam. 5. Nội dung và kết cấu bài luận Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, bài luận này gồm ba chương: Chương 1: Tổng quan về nguồn nhân lực Chương 2: Đặc điểm nguồn nhân lực Việt Nam Chương 3: Can thiệp của chính phủ để phát triển nguồn nhân lực nước ta hiện nay

doc37 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1861 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển nguồn lao động Việt Nam đáp ứng yêu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp hoặc là nói chung của toàn xã hội. Nguồn nhân lực hay nguồn lao động là dân số có khả năng lao động cả về trí lực và thể lực. Hay nói cách khác đó là một phần dân cư đang làm việc và không làm việc nhưng có khả năng lao động. Từ khái niệm đó có thể hiểu rằng, nguồn lao động bao gồm, một mặt, những người đang hoạt động kinh tế trong những ngành nghề khác nhau, mặt khác, cả những người không làm việc nhưng có khả năng lao động. Tóm lại, nguồn lao động bao gồm những người đang lao động thực tế và những người có tiềm năng lao động. Những thay đổi về số lượng nguồn nhân lực được đặc trưng bởi các chỉ tiê như tăng trưởng tuyệt đối, tố độ tăng trưởng nguồn nhân lực. Trị số tăng tuyệt đối được xác định là hiệu số giữa số lượng nguồn nhân lực ở thời kỳ đầu và thời kỳ cuối. Tốc độ tăng trưởng là hệ số giá trị tuyệt đối nguồn nhân lực ở kỳ cuối so với giá trị của chúng kỳ đầu. Phần cơ bản của nguồn lao động là dân số trong độ tuổi lao động, và được xác định bởi luật pháp của mỗi quốc gia. Đa số các nước trên thế giới độ tuổi bắt đầu lao động từ 14 đến 15, còn tuổi về hưu trung bình là 65 đối với nam và 60 đối với nữ. Ở Việt Nam độ tuổi lao động được xác định đối với nam từ 15 đến 60, nữ từ 15 đến 55 Bảng 1: Dân số trong độ tuổi lao động của một số nước trên thế giới năm 1995 Tên nước Độ tuổi lao động Tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động so với tổng dân số (%) Nam Nữ Anh 16 - 65 16 - 60 61,0 Pháp 15 - 60 15 - 60 61,0 Mỹ 16 - 65 16 - 65 65,0 Nhật Bản 15 - 65 15 - 65 70,0 Canada 15 - 65 15 - 65 68,0 Nga 16 - 60 16 - 55 57,0 Ba Lan 18 - 65 18 - 60 58,0 Việt Nam 15 - 60 15 - 55 59,5 1.2 Cấu trúc nguồn lao động Sơ đồ cấu trúc nguồn lao động NGUỒN LAO ĐỘNG DÂN SỐ HOẠT ĐỘNG KINH TẾ DÂN SỐ TRONG ĐỘ TUỔI LAO ĐỘNG DÂN SỐ KHÔNG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ 1.2.1 Khái niệm dân số hoạt động kinh tế Dân số hoạt động kinh tế là tập hợp những người đang làm việc trong nền kinh tế và những người thất nghiệp (hay chính xác hơn là những người đang tích cực tìm kiếm việc làm. Dân số hoạt động kinh tế là phần dân số đảm bảo nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất hàng hóa và dịch v, bao gồm những người đang lao động và những người thất nghiệp, hay chính xác hơn là những người làm công ăn lương, người thuê lao động và những người tự tổ chức lao động. Nói cách khác, đó là một phần dân số, bao gồm những người đang hoạt động lao động công ích, có thu nhập, và những người thất nghiệp, đang tích cực đi tìm kiếm việc làm và luôn sẵn sàng làm việc. Cấu trúc dân số hoạt động kinh tế DÂN SỐ HOẠT ĐỘNG KINH TẾ DÂN SỐ HOẠT ĐỘNGKINH TẾ DÂN SỐ HOẠT ĐỘNGKINH TẾ NGƯỜI ĐANG LÀM VIỆC NGƯỜI THẤT NGHIỆP NGƯỜI ĐANG LÀM VIỆC Người tự tạo việclàm cho mình Người thuê lao động Người lao dộng làm thuê 1.2.2 Khái niệm dân số không hoạt động kinh tế Dân số không hoạt động kinh tế là hiệu giữa nguồn lao động và phần dân số hoạt động kinh tế. Thành phần dân số hoạt động kinh tế bao gồm những người từ 15 tuổi trở lên, nhưng không thuộc vào số những người lao động và thất nghiệp, đó là học sinh sinh viên, quân nhân sắp được giải ngũ, những người nội trợ, cán bộ hưu trí, cùng với những người không có khả năng lao động. và những người khác. Bảng 2: Cấu trúc nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn 1993 – 2006 Năm 1993 1998 2002 2004 2006 Nguồn lao động (ngàn người) 47.358 51.306 56.623 60.557 64.378 Cơ cấu chia ra (%) 1. Dân số không hoạt động kinh tế 19,4 15,3 16,7 17,2 19,5 2. Dân số đang hoạt động kinh tế 80,6 84,7 83,3 82,8 81,5 1.3. Trình độ giáo dục của nguồn lao động Trình độ giáo dục của người lao động là sự hiểu biết của người lao động đối với những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội. Trình độ giáo dục của nguồn lao động là chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh chất lượng của nguồn lao động. Chỉ tiêu này được xác định bởi số năm học trung bình, số học sinh và sinh viên, tỷ trọng chuyên gia có trình độ giáo dục trung cấp và cao cấp… Để xã hội phát triển đòi hỏi không chỉ sự tương thích trình độ tư liệu sản xuất, mà còn cả sự phát triển vượt trội của người lao động, của các cá nhân, trước hết bằng con đường học tập. Vai trò và ý nghĩa của đất nước trong thế giới ngày nay xác định không chỉ là tiềm năng an ninh và kinh tế, mà còn là tiềm năng trí tuệ. Kinh nghiệm đã chỉ ra rằng, con đường ngắn nhất đi đến sự phồn vinh là thông qua giáo dục. Trình độ giáo dục cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn. 1.4 Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động Trình độ chuyên môn, kỹ thuật là sự hiểu biết, có khả năng thực hành về chuyên môn, kỹ thuật nghề nghiệp để tham gia các họat động lao động. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động được thể hiện qua tỷ lệ dân số đã qua các lớp đào tạo nghề, qua đào tạo sơ cấp kỹ thuật, công nhân kỹ thuật. Thực tế cho thấy chỉ có lực lượng lao động đông và rẻ không thể tiến hành được công nghiệp hóa mà đòi hỏi phải có đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ. 1.5 Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế Trong những năm 1950 và 1960, tăng trưởng kinh tế là do công nghiệp hoá: thiếu vốn và nghéo nàm về cơ sở vật chất là khâu chủ yếu ngăn cản tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy chỉ có một phần nhỏ của sự tăng trưởng kinh tế có thể giải thích bởi khía cạnh đầu vào là nguồn vốn. Phần rất quan trọng của sản phẩm thặng dư gắn liền với chất lượng nguồn lao động (trình độ giáo dục ,sức khoẻ ,và mức sống). Đầu tư cho con người nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội từ đó nâng cao năng suất lao động. Lịch sử các nền kinh tế trên thế giới cho thấy không có một nước giàu có nào đạt được tỷ lệ tăng tưởng kinh tế cao trước khi thành đạt được mức phổ cập giáo dục phổ thông . Cách thức để thúc đẩy sản xuất ,đến lượt nó thúc đẩy cạnh tranh, là phải tăng hiệu quả giáo dục. Các nước và lãnh thổ công nghiệp hoá mới thành công nhất như Hàn Quốc, Singapo và Hồng Kông và một số nước khác có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong những thập kỉ 1970 và 1980 thường đạt múc độ phổ cập tiểu học trước khi các nền kinh tế đó cất cánh. Mặc dù vậy ,các nghiên cứu cũng cho thấy thành công của Nhật Bản và Hàn Quốcc trong kinh tế không chỉ do phần đông dân cư có học vấn mà còn do các chính sách kinh tế ,trình độ quản lý của họ. Do đó giáo dục phải được đề cao hơn nữa (đặc biệt là giáo dục đại học) như là một điều kiện cần để phát triển kinh tế . Kết quả giáo dục cùng với sự cạnh tranh trong giáo dục đại học sẽ thúc đẩy các ngành kinh doanh của các nước đang phát triển thu hút những nhà khoa học sáng giá nhất của họ và của nước ngoài. Khi cân bằng về sức mạnh khoa học kĩ thuật trên từng khu vực được thiết lập, những mơ ước và những ý đồ đổi mới kỹ thuật công nghệ của các nước đang phát triển sẽ được thực hiện ngay trên đất nước của mình. Thực tế cho thấy gần đây nhiều sản phẩm của các nước Châu Á sản xuất ra không cần giấy phép và mang nhãn của công ty nước ngoài, hàng hoá do người Châu Á sản xuất ra đã đi khắp thị trường thế giới. Tiềm năng kinh tế của một đất nước phụ thuộc vào trình độ khoa học và công nghệ lại phụ thuộc vào điều kiện giáo dục .Đã có rất nhiều bài thất bại khi một nước sử dụng công nghệ ngoại nhập tiến tiến khi tiềm lực và khoa học công nghệ yếu ,thiếu đội ngũ kỹ thuật và công nhân lành nghề và do đó không thể ứng dụng các công nghệ mới. Không có sự lựa chọn nào khác, hoặc là đào tạo các nguồn nhân lực quý giá cho đất nước để phát triển hoặc phải chịu tụt hậu so với các nước khác . Như vậy ,cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại không chỉ nhằm biến đổi cơ sở kỹ thuật của nền sản xuất như trong thời kỳ cách mạng công nghiệp. Cuộc cách mạng đó mang nội dung mới trên cơ sở các quan hệ sản xuất, khoa học và công nghệ. Những phát minh khoa học ở thời kỳ này ngay lập tức được ứng dụng vào sản xuất và làm xuất hiện một hệ thống sản xuất linh hoạt đủ khả năng thay đổi nhanh chóng quy trình sản xuất . Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ tạo ra hàm lượng thông tin và tri thức trong tổng chi phí sản xuất cao. Yếu tố mới xuát hiện và trở thành yếu tố cốt lõi của cả hệ thông sản xuất hiên đại chính là thông tin và tri thức . Các số liệu thống kê năm 1990 phản ánh phần đóng góp thông tin , tri thức trong thu nhâp quốc dân của Hoa Kỳ la 47,4% , Anh 45,8% ,Pháp 45,1% , Đức 40,4%. Trí tuệ trở thành động lực cho toàn bộ tương lai nhân loại , thúc đẩy sự tiến bộ vừa sâu vừa rộng của xã hội trên nền tảng khoa học và công nghệ để tạo ra bước tăng trưởng mới , hiếm thấy so với trước đây. Kinh nghiệm về quản lý và sử dụng nguồn nhân lực của các nước trên thế giới lá bài học quý báu cho chúng ta trong việc khai thác tiềm năng của nguồn lao động nước ta. CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NGUỒN LAO ĐỘNG VIỆT NAM Qui mô dân số Có thể thấy, trong những năm đổi mới, Việt Nam không chỉ đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, mà trong lĩnh vực dân số cũng đạt được những kết quả đáng khích lệ. Những kết quả của công tác dân số kế hoạch hoá gia đình như giảm đáng kể tỷ lệ tăng dân số, tăng cường nhận thức về chăm sóc và nâng cao chất lượng dân số, chăm lo phát triển nguồn lực con người... đã có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhìn khái quát, dân số nước ta hiện nay có một số đặc điểm cơ bản sau: Quy mô dân số lớn, phát triển nhanh. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2002, Việt Nam có 80 triệu dân, là nước đông dân thứ 13 trên thế giới; mật độ dân số là 242 người/km2. Năm 2007 tổng dân số Việt Nam là 85,3 triệu người. Dự báo đến năm 2020 quy mô dân số sẽ đạt khoảng 100 triệu và đến năm 2050 sẽ lên đến khoảng 123,7 triệu người. Chính vì thế mà Việt Nam đứng thứ 62 về diện tích, nhưng đứng thứ 11 về dân số và đứng thứ 40 về mật độ dân số trên thế giới. Cũng chính vì thế mà nhiều chỉ tiêu bình quân đầu người của Việt Nam còn đứng ở thứ hạng thấp trên thế giới, thấp xa so với thứ hạng về dân số (đứng thứ 146/185 về GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái, thứ 122/177 về GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương). Bảng 3: Nhịp độ tăng dân số trung bình và dân số trong độ tuổi lao động của Việt Nam giai đoạn 1976-2007 Năm Dân số Dân số trong độ tuổi lao động Cơ cấu dân số(%) Tổng số (ngàn người) Nhịp độ tăng Tổng số (ngàn người) Tỷ trọng trong tổng dân số(%) Nam Nữ Thành thị Nông thôn 1976 49.160,1 3,20 22.122,0 45,0 47,92 52,08 20,61 79,39 1980 53.772,2 2,47 25.141,9 46,8 48,50 51,50 19,20 80,80 1985 59.872,1 2,15 29.600,1 49,4 48,91 51,09 19,01 80,99 1990 66.016,7 1,92 37.695,5 57,1 48,78 51,22 19,51 80,49 1991 67.242,4 1,86 38.866,1 57,8 48,80 51,20 19,67 80,33 1992 68.450,1 1,80 39.695,5 58,1 48,83 51,17 19,85 80,15 1993 69.644,5 1,74 40.811,6 58,6 48,86 51,14 20,05 79,95 1994 70.824,5 1,69 41.573,9 58,7 48,90 51,10 20,37 79,63 1995 71.995,5 1,65 42.189,4 58,6 48,94 51,06 20,75 79,25 1996 73.156,7 1,61 42.869,8 58,6 49,01 50,99 21,08 78,92 1997 74.306,9 1,57 43.469,5 58,5 49,08 50,92 22,66 77,34 1998 75.456,3 1,55 44.141,9 58,5 49,15 50,85 23,15 76,85 1999 76.596,7 1,51 44.962,2 58,7 49,17 50,83 23,61 76,39 2000 77.635,4 1,36 46.193,1 59,5 49,16 50,84 24,18 75,82 2001 78.685,8 1,35 47.132,7 59,9 49,16 50,84 24,74 75,26 2002 79.727,4 1,32 48.362,6 60,6 49,16 50,84 25,11 74,89 2003 80.902,4 1,47 49.083,5 60,7 49,14 50,86 25,80 74,20 2004 82.031,7 1,40 50.695,1 61,8 49,14 50,86 26,50 73,50 2005 83.106,3 1,31 52.439,8 63,1 49,15 50,85 26,88 73,12 2006 84.155,8 1,26 54.784,9 65,1 49,14 50,86 27,12 72,88 2007 85.195,0 1,23 57.251,1 67,2 49,14 50,86 27,40 72,60 Nguồn: Tổng hợp từ Niêm giám thống kê 2003. Số liệu Dân số - lao động, Tổng cục Thống Kê 2007 và số liệu thống kê lao động – việc làm ở việt Nam năm 2004, 2007 của Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã hội. Dân số Việt Nam tương đối trẻ với tốc độ tăng tự nhiên hằng năm cao( thời kỳ 1960 – 1986 là 2,2%; 2000 – 2002 là 1,35; 2003 – 2004 là 1,35%; năm 2007 là 1,23%). Nói một cách hình tượng là mỗi năm nước ta tăng thêm dân số của một tỉnh trung bình. Năm 2007 tỷ lệ thanh niên trong nhóm 15-29 tuổi chiếm 47,5% tổng số người trong tuổi lao động. Dân số trẻ về lâu dài là một thế mạnh, song trước mắt sẽ bất lợi về kinh tế , do số người phải nuôi dưỡng (trẻ em) trên một lao động cao hơn các nước khác, kéo theo đó là những khó khăn về việc làm, giáo dục, y tế và các dịch vụ xã hội khác. Cơ cấu dân số theo giới tính: mặc dù về tổng số thì tỷ trọng nữ nhiều hơn nam (50,85% so với 49,15%), nhưng chủ yếu là lứa tuổi từ 35 - 40 trở lên, còn lứa tuổi thấp hơn, đặc biệt là giới tính của trẻ em mới sinh thì nam giới đang nhiều hơn so với nữ giới. Năm 2007 so với 1995, trong khi nam giới tăng 18,8% thì nữ giới chỉ tăng 17,8%, trong đó có nhiều năm tốc độ tăng của nam giới cao hơn so với nữ giới. Tình hình trên có nguyên nhân từ tư tưởng trọng nam khinh nữ còn tồn tại khá nặng nề trong một bộ phận dân cư. Đây là điều cảnh báo về tình trạng mất cân bằng về giới tính trong tương lai không xa. Đây cũng là khía cạnh cần quan tâm trong việc đào tạo đáp ứng nguồn nhân lực cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. 2.2 Phân bổ dân số theo vùng miền Dân số Việt Nam phân bố không đều và có sự khác biệt rất lớn theo vùng địa lý-kinh tế. Bảng 4: Dân số và mật độ dân số Việt Nam 2007 phân theo vùng Dân số trung bình Diện tích Mật độ dân số ( Nghìn người) (Km2) (Người/km2) Cả nước 85154.9 331211.6 257 Đồng bằng Sông Hồng 18400.6 148462.5 1238Bottom of Form Đông Bắc 9543.9 64025.5 149 Tây Bắc 2650.1 37533.8 71Bottom of Form Bắc Trung Bộ 1100722.7 51551.9 208Bottom of Form Duyên Hải Nam Trung Bộ 7185.2 33166.1 217Bottom of Form Tây Nguyên 4935.2 54659.6 90Bottom of Form Đông Nam Bộ 14193.2 34807.8 408Bottom of Form Đồng Bằng sông Cửu Long 17524 40604.7 432 Nguồn: Số liệu thống kê dân số _ lao động Việt Nam 2007. Tổng cục thống kê. Dân số sống tập trung ở hai vùng châu thổ Sông Hồng và Sông Cửu Long nơi có 43% dân số của cả nước sinh sống, nhưng chỉ chiếm gần 17% đất đai của cả nước. Ngược lại, hai vùng Tây Bắc và Tây Nguyên, chỉ có dưới một phần mười (8,8%) dân số của cả nước, nhưng chiếm tới hơn một phần tư (27%) diện tích đất của toàn quốc. Mật độ cao nhất là đồng bằng sông Hồng (1.238 người/km2), trong đó có 8/11 địa phương có mật độ trên 1.000 người/km2; đồng bằng sông Cửu Long 432 người/km2, Đông Nam Bộ 408 người/km2, duyên hải Nam Trung Bộ 217 người/km2, Đông Bắc 149 người/km2, Tây Nguyên 90 người/km2, Tây Bắc 71 người/km2. Cơ cấu dân số theo thành thị/nông thôn cũng có một số vấn đề đáng lưu ý. Một mặt, tỷ lệ dân số thành thị tuy đã tăng lên trong thời gian qua (năm 1995 là 20,75%, năm 2000 là 24,18%, năm 2005 là 26,88%, năm 2007 là 27,44%), nhưng vẫn thuộc loại thấp so với mức bình quân của thế giới (49%), của châu Mỹ (79%), châu Âu (72%), châu Đại Dương (72%), châu Á (41%), châu Phi (37%); thấp hơn cả của Đông Nam Á (39%); đứng thứ 8/11 nước ở Đông Nam Á, thứ 42/50 nước và vùng lãnh thổ ở châu Á, thứ 177/208 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Mặt khác, đô thị hóa về mặt dân số tăng lên nhưng sự chuẩn bị về các mặt quy hoạch, nhà ở, việc làm, giao thông công chính, vệ sinh môi trường,... chưa tương xứng. Bảng 5: Cơ cấu dân số Việt Nam phân theo thành thị và nông thôn Thành Thị Nông Thôn Người % Người % 2000 18771.9 24.18 58863.5 75.82 2001 19469.3 24.74 59216.5 75.26 2002 20022.1 25.11 59705.3 74.89 2003 20869.5 25.80 60032.9 74.20 2004 21737.2 26.50 60294.5 73.50 2005 22336.8 26.88 60769.5 73.12 2006 22792.6 27.09 61344.2 72.91 Sơ bộ 2007 23370.0 27.44 61784.9 72.56 Nguồn: Số liệu thống kê dân số _ lao động Việt Nam 2007. Tổng cục thống kê. Ngoài ra, sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, miền đặc biệt là giữa nông thôn và thành thị, các khu công nghiệp tập trung như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh , Vũng Tàu, Đồng Nai… dẫn đến dòng người di dân tự phát từ nông thôn vào các thành phố lớn với quy mô và tốc độ ngày càng tăng. Số này vào thành phố chủ yếu là tìm kiếm việc làm có thu nhập cao hơn ở nông thôn, nên họ chấp nhận những việc làm nặng nhọc, vất vả, từ đó tạo ra nhiều phức tạp cho việc quản lý đô thị, làm quá tải các dịch vụ hạ tầng xã hội như: giao thông, y tế, trường học, điện nước… Đặc điểm định lượng của nguồn lao động Việt Nam hiện có một đội ngũ nhân lực khá dồi dào so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Đến hết năm 2007, cả nước có trên 44 triệu lao động trên tổng số 85,3 triệu dân. Sức trẻ là đặc điểm nổi trội của tiềm năng nguồn nhân lực Việt Nam. Nước ta là một trong số ít quốc gia trong khu vực có tỷ lệ về cơ cấu độ tuổi của dân số và lao động khá lý tưởng : nhóm trẻ, từ 15 – 34 tuổi chiếm hơn 50%; nhóm người ở độ tuổi trung niên từ 35 – 54 tuổi chiếm hơn 42%; số nhân lực cao tuổi chiếm khoảng 7%. Mỗi năm Việt Nam có hơn 1,2 triệu người đến tuổi lao động và được bổ sung vào lực lượng lao động của đất nước. Nguồn nhân lực trẻ gắn với những điểm mạnh như sức khỏe tốt, năng động, dễ tiếp thu cái mới, nắm bắt công nghệ nhanh, di chuyển dễ dàng. Nếu được học văn hóa, đào tạo nghề, họ sẽ phát huy tác dụng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là yếu tố rất thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội. Theo số liệu thống kê, tính đến cuối năm 2005, tổng số công nhân, lao động làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp và cơ sở kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế ở nước ta là 11,30 triệu người, chiếm 13,5% dân số, 26,46% lao động xã hội. Trong đó 1,84 triệu công nhân làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước, 2,95 triệu công nhân trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, 1,21 triệu công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; 5,29 triệu lao động làm việc trong các cơ sở kinh tế cá thể. Bảng 6: Dân số và lực lượng lao động trong doanh nghiệp 1995 - 2005 Đơn vị: triệu người Tiêu chí 1995 2002 2003 2004 2005 Dân số cả nước 71,996 78,686 79,727 80,900 83,110 Tổng số lao động xã hội 33,030 39,507 40,573 41,586 42,709 Tổng số lao động trong DN 2,806 4,658 5,175 5,770 6,006 a) LĐ DN nhà nước 1,778 2,261 2,264 2,249 1,844 b) LĐ DN ngoài nhà nước 0,430 1,706 2,049 2,476 2,950 c) LĐ DN có vốn ĐTNN 0,098 0,691 0,862 1,045 1,211 Lao động trong các cơ sở kinh tế cá thể 3,241 4,436 4,842 4,988 5,297 Nguồn:- Tổng cục Thống kê,Niên giám thống kê 2005,NX B Thống kê, Hà Nội, 2006. So với năm 1995 Số lượng công nhân làm việc trong các doanh nghiệp đã tăng 2,14 lần. Trong đó, công nhân trong doanh nghiệp nhà nước tăng 1,03 lần, trong doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 6,86 lần, trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 12,3 lần, lao động thuộc các cơ sở kinh tế cá thể tăng 1,63 lần . Công nhân các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 70,9%, ngành dịch vụ và thương mại chiếm 24,3%, các ngành khác chiếm 4,8%. Trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh cá thể công nhân chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực dịch vụ và thương mại, ước tính chiếm 66,67%; còn lại 33,33% hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. 2.4 Đặc điểm định tính của nguồn lao động 2.4.1 Thể trạng sức khoẻ nguồn nhân lực Việt Nam Thể lực của người Việt Nam nhìn chung còn thấp kém, phần lớn chưa đáp ứng yêu cầu cường độ làm việc của xã hội công nghiệp hiện đại và các chuẩn quốc tế. Theo đánh giá của Viện Khoa học Thể dục-Thể thao (Uỷ ban Thể dục-thể thao), so với thể lực của thanh thiếu niên các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Inđônêsia thì thể chất người Việt Nam từ 6-20 tuổi còn kém hơn về chiều cao, cân nặng, sức mạnh, sức bền và chỉ tương đương về sức nhanh, sự khéo léo và mềm dẻo. Theo kết quả điều tra năm 2000 số người lao động không đủ tiêu chuẩn về cân nặng là 48,7%, số người suy dinh dưỡng là 28%, số phụ nữ thiếu máu là 40%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi theo chiều cao (tỷ lệ thấp còi) còn cao (năm 2005 là 26%), cao hơn nhiều so với các nước Trung Quốc (17%), Philippin (11%) và Thái Lan (16%); và điều này sẽ còn tiếp tục tác động tiêu cực đến thể trạng và thể lực của người lao động trong tương lai. Bảng7: Kết quả điều tra chiều cao, cân nặng học sinh nam 15 tuổi (1999) Tên nước Chiều cao(cm) Cân nặng(kg) Việt Nam 147 34,4 Thái Lan 149 40,5 Philippin 153 45,5 Ấn Độ 155 49,5 Nhật Bản 164 53,3 Nguồn: Viện Dinh Dưỡng bộ Y Tế, Dinh dưỡng con người Việt Nam,1999 Như vậy tình trạng sức khoẻ người Việt Nam ở mức trung bình kém, điều này làm giảm chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá của đất nước và giảm sức cạnh tranh của lao động Việt Nam trên thị trường lao động thế giới. 2.4.2 Trình độ giáo dục của nguồn lao động Việt Nam Trình độ giáo dục của nguồn nhân lực ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng nguồn nhân lực, nó phản ánh khả năng tiếp thu và vận dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Tuy nhiên, trình độ giáo dục nguồn lao động của Việt Nam chưa đáp ứng được những đòi hỏi phát triển trong giai đoạn hiện nay thông qua nhiều thông số. Tính trong cả nước, vào năm 2004 dân số hoạt động kinh tế có tới 32,8% mới tốt nghiệp tiểu học; 19,7% tốt nghiệp trung học phổ thông; tỷ lệ mù chữ là 5,01%; các tỷ lệ tương ứng của nữ là 30,6; 18,1 và 6,2% Trình độ học vấn của lao động nước ta trong những năm gần đây đã được nâng lên đáng kể. Nếu như năm 1985, tỷ lệ lao động có học vấn phổ thông trung học là 42,5% thì năm 2003, lao động có trình độ trung học phổ thông chiếm 62,2%. Năm 2005, số lao động có trình độ phổ thông trung học tăng lên đến 69,3%. Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, so với trình độ của lao động các nước trong khu vực và quốc tế thì trình độ học vấn của lao động nước ta còn thấp. Bảng 8:Trình độ giáo dục dân số hoạt động kinh tế của các nước Châu Á 1996 (%). Trình độ Việt Nam Singapore Malaixia Hàn Quốc Đài loan Hồng Kông Giáo dục đại học 5,1 23 5 50 40 40 Giáo dục trung học 9,8 30 48 20 20 23 Giáo dục tiểu học 85,1 47 47 30 40 37 Nguồn: Báo cáo của Bộ Lao Động, Thương bing và Xã hội Việt Nam 1996 Theo chỉ số phát triển giáo dục, Việt Nam xếp thứ 64/127 trong khi Hàn Quốc xếp thứ 4, Trung Quốc xếp thứ 54, Thái Lan thứ 60… Bảng 9: So sánh quốc tế về các chỉ tiêu giáo dục Tên nước Chỉ số phát triển giáo dục ( EDIT) Tỷ lệ phổ cập giáo dục tiểu học Tỷ lệ biết chữ của người lớn từ 15 tuổi trở lên Mức cân bằng về giới Chất lượng giáo dục Điểm số Xếp thứ/127 Việt Nam 0,914 64 94 90,3 92,5 89 Trung Quốc 0,93 54 94,6 91 88,5 98 Philipine 0,904 70 93 93 96,7 79,3 Inđônêxia 0,912 65 92,1 88 95,7 89,2 Malaixia 89 Thái Lan 0,921 60 86,3 93 95,5 94,1 Hàn Quốc 0,99 4 99,9 98 99,2 99 Singapore 93 Thế giới 81,7 Nguồn: Báo cáo của Bộ lao động, Thương binh, Xã hội Việt Nam, 2002 Mặt khác, lực lượng lao động có trình độ học vấn cao phân bố không đồng đều, thường tập trung ở một số thành phố lớn và một số ngành kinh tế mũi nhọn. Bảng10: Cơ cấu trình độ dân số hoạt động kinh tế thường xuyên chia theo vùng 2003 Đơn vị: % Khu vực Chưa biết chữ Chưa tốt nghiệp tiểu học Tốt nghiệp tiểu học Tốt nghiệp trung học cơ sở Tốt nghiệp trung học phổ thông Cả nước 4,23 15,48 31,51 30,40 18,37 Chia ra theo giới tính Nam 2,89 16,41 32,01 30,99 19,51 Nữ 4,61 17,35 31,64 29,10 17,30 Chia theo vùng lãnh thổ Đồng bằng sông Hồng 0,53 4,59 19,16 49,69 26,03 Đông Bắc 6,57 12,78 26,81 35,52 18,32 Tây Bắc 20,00 22,16 27,79 19,66 10,39 Bắc Trung Bộ 1,74 10,13 29,90 39,16 19,07 Duyên hải Nam Trung Bộ 3,02 17,30 38,48 24,19 17,02 Tây Nguyên 11,38 16,64 32,30 24,91 14,77 Đông Nam Bộ 2,74 25,67 36,34 22,16 23,09 Đồng Bằng sông Cửu Long 5,64 29,11 42,07 13,80 9,38 Nguồn: Số liệu thống kê lao động – việc làm ở Việt Nam 2003, NXB Lao Động – Xã hội, 2004, Hà Nội, tr 21 - 23 Số liệu theo bảng cho thấy cơ cấu trình độ học vấn cả nước năm 2003 như sau: Số lao động chưa biết chữ chiếm 4,23%; chưa tốt nghiệp tiểu học 15,48%; đã tốt nghiệp THCS 30,4%; đã tốt nghiệp THPT 18,37%. Đây là tỷ lệ trung bình của cả nước. Phân tích cơ cấu theo từng vùng, ta thấy, có sự khác biệt rất lớn. Có bốn vùng lực lượng lao động có trình độ học vấn trung bình cao hơn mức trung bình của cả nước là: Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, duyên hải Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ; Trong đó Đồng bằng sông Hồng đạt tỷ lệ cao nhất. Bốn vùng còn lại gồm Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long có trình độ học vấn thấp hơn mức trung bình cả nước, trong đó thấp nhất là Tây Bắc (với lao động chưa biết chữ chiếm 20% lực lượng lao động trong vùng) Tỷ lệ này cũng có sự cách biệt giữa nam và nữ. Số lao động nữ chưa biết chữ cao gần gấp đôi nam, trong khi đó số lao động tốt nghiệp THPT ở nam là 19,51còn ở nữ là 17,30. 2.4.3 Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nguồn lao động Việt Nam. Chất lượng về mặt trí lực của nguồn nhân lực không chỉ thể hiện ở trình độ học vấn, quan trọng hơn là trình độ chuyên môn kỹ thuật, thông qua số lượng và chất lượng của lao động đã qua đào tạo. Trong những năm vừa qua, tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật có xu hướng tăng lên. Năm 2001, có 17,05% tổng lực lượng lao động cả nước có chuyên môn kỹ thuật; năm 2002 là 19,62%; năm 2003 là 21,22% và đến năm 2005, tỷ lệ lao động cả nước có trình độ chuyên môn kỹ thuật tăng lên 24,79%. Bảng 11: Chuyển dịch cơ cấu lao động theo trình độ CMKT (%) Các chỉ tiêu 1979 1989 1999 2003 2005 1. Không có trình độ CMKT 95,03 92,7 91,9 78,78 75,21 2. Công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ có bằng 3,39 2,2 2,4 12,65 15,22 3. Trung học chuyên nghiệp 1,06 3,2 3,0 4,01 4,3 4. Cao đẳng trở lên 0,52 1,9 2,7 4,77 5,27 Tổng 100 100 100 100 100 Nguồn: Tổng điều tra dân số Việt Nam 1-10-1997, Hà Nội – 1983; Tổng điều tra dân số toàn diện 1-4-1989, Hà Nội – 1992; Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999. Kết quả điều tra mẫu H.2000.; Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Số liệu thống kê lao động việc ở ở Việt Nam năm 2005, Hà Nội 11-2005. Tuy nhiên, con số này còn thấp so với yêu cầu. Tính đến 2005, lao động qua đào tạo ở Việt Nam chiếm một tỷ lệ rất thấp (24,79%), lao động chưa qua đào tạo còn chiếm một tỷ lệ rất cao (75,21%). Đối với công nhân kỹ thuật (CNKT), tỷ lệ tăng dần từ 1989 trở đi. Giai đoạn 1999 đến 2005 có sự tăng đột biến (một phần do số liệu năm 2005 có tính cả số người có chứng chỉ nghề và sơ cấp). Trong thời gian đó, tỷ lệ số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp cũng tăng, nhưng tăng chậm hơn (+1,3%/6 năm). Đối với lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên, tỷ lệ này so với tổng số lao động (năm 2005: 44,4 triệu người) tăng nhanh hơn cả. Giai đoạn 1999 – 2005 tăng bình quân 0,43%. Như vậy, trong 5 năm gần đây có sự tăng nhanh về quy mô đào tạo cao đẳng, đại học trở lên đến 5,4 lần, so với tốc độ tăng trung bình thời kỳ 1989 – 1999 (0,08%). Tình hình đó đưa đến sự chuyển dịch theo xu hướng từ “hình thang thuận sang hình thang ngược”. Cấu trúc giữa công nhân kỹ thuật, trung cấp và cao đẳng, đại học trở lên trong thời gian 1979 đến 2005 được thể hiện qua bảng sau: Bảng 12: Cơ cấu đào tạo nghề nghiệp hợp lý và thực tế ở Việt Nam Đại học Trung học chuyên nghiệp Công nhân kỹ thuật Cơ cấu đào tạo hợp lý của thế giới 1 4 10-15 Cơ cấu đào tạo của Việt Nam Năm 1979 1 2.25 7.10 Năm 1995 1 1.60 3.60 Năm 2002 1 0.98 2.66 Năm 2005 1 1.13 0.92 Nguồn: Báo cáo của Bộ Lao dộng, Thương binh và Xã hội tại hội thảo “Phát triển thị trường lao động ở Việt Nam, HN 2002. Văn kiện đại hội Đảng X, Nxb CTQG, H. 2006, tr.146. Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,13 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 1, 4 và 10. Các con số này chỉ ra một hiện tượng “thầy” nhiều hơn “thợ”, nói lên sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu trình độ lao động trong nền kinh tế giai đoạn công nghiệp hóa hiện nay. Hiện nay cũng có quan điểm cho rằng, để bắt kịp nền kinh tế tri thức cần phải phát triển số lượng cán bộ có trình độ Đại học. Nhưng cần phải thấy rằng, nước ta có cơ sở hạ tầng và dịch vụ còn thấp kém. Vì vậy, dù muốn “đi tắt”, “đón đầu” trong quá trình công nghiệp hóa để tiến tới nền kinh tế tri thức thì trước hết nước ta phải thực hiện tuần tự những bước đi cơ bản, vững chắc, tạo nền tảng ban đầu, từ đó mới có thực lực cho những “bước nhảy” tiếp sau quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngoài ra, tình trạng khác biệt giữa nông thôn và thành thị về tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, đặc biệt là tỷ lệ công nhân kỹ thuật có bằng cấp trở lên, không những chưa được cải thiện mà còn có xu hướng gia tăng. Năm 2002 cứ 100 người thuộc lực lượng lao động thì ở nông thôn có 8 người và thành thị có 41 người được đào tạo từ trình độ công nhân kỹ thuật có bằng cấp trở lên; trong khi năm 2001, con số tương ứng là 6 và 30. Khu vực nông thôn đang ngày càng gặp nhiều khó khăn trong việc khai thác nguồn nhân lực để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bảng 13: Cơ cấu lao động chuyên môn kỹ thuật theo từng vùng năm 2003 Đơn vị: % Khu vực Không có trình độ chuyên môn kỹ thuật Sơ cấp, học nghề trở lên Công nhân kỹ thuật có bằng trở lên Cả nước 78,78 21,22 11,84 Đồng bằng sông Hồng 71,59 28,41 15,49 Đông Bắc 82,24 17,76 12,37 Tây Bắc 89,35 10,65 8,12 Bắc Trung Bộ 84,21 15,79 10,03 Duyên hải Nam Trung Bộ 78,88 21,12 10,77 Tây Nguyên 85,12 14,88 9,36 Đông Nam Bộ 66,62 33,38 18,03 Đồng Bằng sông Cửu Long 86,57 13,43 6,03 Nguồn: Số liệu thống kê lao động – việc làm ở Việt Nam 2003, Nxb. Lao động – Xã hội, 2004, Hà Nội, tr. 39-41. Trong số tám vùng của cả nước, vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nhất cả nước 33,38%; tiếp đến là Đồng bằng sông Hồng 28,41%; Duyên hải Nam Trung Bộ 21,12%; thấp nhất là Tây Bắc 10,65%. Trình độ giáo dục và đào tạo chuyên nghiệp nguồn lao động của Việt Nam còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn: Một mặt, thiếu hẳn đội ngũ lao động có chuyên môn cao; mặt khác, việc đào tạo sinh viên tốt nghiệp chưa đáp ứng với yêu cầu của xã hội phát triển trong giai đoạn hiện nay. Điều tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2006 cho thấy cả nước có tới 63% số sinh viên ra trường không có việc làm, 37% số còn lại có việc làm thì hầu hết phải đào tạo lại và có nhiều người không làm đúng nghề mình đã học, trong khi đó nhiều doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp có FDI và nhiều dự án kinh tế quan trọng khác rất thiếu nguồn lực chuyên nghiệp. Việt Nam thiếu trầm trọng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật có tay nghề cao trong các lĩnh vực như quản lý, thương mại và công nghệ cao. Đặc biệt trong những năm qua nhiều sinh viên, chuyên gia được nhà nước cho đi đào tạo ở nước ngoài, sau khi tốt nghiệp không quay trở về để làm việc. Trong khi đó ờ các doang nghiệp và công sở nhà nước những lao động dư thừa bởi không có chuyên môn, kỹ thuật chiếm tỷ lệ khá cao. Nước ta hiện cần có khoảng 250 – 300 ngàn người lao động có tay nghề cao như kỹ sư, các nhà quản lý cho các khu công nghiệp, khu chế xuất ở trong các vùng kinh tế trọng điểm bắt đầu hoạt động từ năm 2000, nhưng chúng ta chỉ mới đáp ứng được khoảng 30 – 40%. Thêm vào đó, những công nhân qua đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp, các trường dạy nghề, về cơ bản, không thoả mãn các nhu cầu của các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. Về cơ cấu cán bộ khoa học công nghệ trình độ cao: tính tới tháng 12-2000, Việt Nam đã có trên 1,3 triệu người có trình độ đại học – cao đẳng; trên 10.000 thạc sỹ; 13.500 tiến sỹ và tiến sỹ khoa học (trong đó 610 tiến sỹ khoa học). Bình quân 190 cán bộ khoa học công nghệ/10.000 dân (năm 1989 là 105). Theo đó, cơ cấu tỷ lệ cán bộ (theo trình độ chuyên môn): 98% đại học, cao đẳng; 0,75% thạc sỹ; 0,97% tiến sỹ và tiến sỹ khoa học (tiến sỹ khoa học: 0,05%). Tỷ lệ đó thể hiện mối tương quan giữa các loại trình độ là: 1 tiến sỹ: 0,8 thạc sỹ: 105 đại học, cao đẳng. Đến 2006, Việt Nam đã đào tạo ra được trên 1,8 triệu cán bộ đại học, cao đẳng trở lên, trong đó có trên 14 nghìn tiến sỹ và 16 nghìn thạc sỹ. Số lượng cán bộ khoa học công nghệ trên đại học đã tăng từ 23,500 nghìn (2000) lên trên 20 nghìn (2006). Theo thống kê của Bộ Nội vụ, tính đến 11-2004, cả nước có khoảng 5.479 giáo sư, phó giáo sư được công nhận, trong đó số lượng giáo sư, phó giáo sư đang làm việc là 3.075, chiếm 56,1%. Mối tương quan giữa các loại trình độ ở thời điểm năm 2006 là: 1 tiến sỹ : 1,14 thạc sỹ : 128 đại học, cao đẳng trên cho thấy số lượng tiến sỹ và tiến sỹ khoa học có tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, khoảng 2/3 số người có học vị tiến sĩ trong cả nước không làm khoa học mà đang làm công tác quản lý; số bài báo khoa học được công bố hằng năm chỉ bằng khoảng 1/4 của Thái Lan và bằng 0,00043% của thế giới, mặc dù số người nhận bằng tiến sỹ hằng năm của ta thường nhiều hơn của Thái Lan, có năm cao gần gấp đôi. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ trẻ kế cận có trình độ cao, chuyên gia giỏi, cán bộ đầu đàn giỏi ngày càng thiếu, đặc biệt là chuyên gia về công nghệ. Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, tỷ lệ số người có trình độ trên đại học trên tổng số cán bộ giảng dạy hiện mới đạt 12,7% (cần đạt 30%). Thêm vào đó, có một số khá đông cán bộ khoa học có trình độ chuyên môn cao, đạt “độ chín” về mặt trí tuệ thì lại ở độ tuổi về hưu, dễ dẫn đến nguy cơ hụt hẫng cán bộ trình độ cao và là sự lãng phí chất xám lớn. Điều này đặt ra vấn đề cấp bách phải tích cực đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ trẻ, kế cận, đồng thời phải có chính sách sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ có trình độ cao đã đến tuổi nghỉ hưu, nhằm phát huy được trí tuệ của toàn bộ đội ngũ. 2.5 Thói quen, nếp nghĩ, tác phong của người lao động Người lao động còn mang nặng sức ỳ từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung nên chậm phản ứng đối với những biến động trên thị trường lao động. Có thể xem xét các khía cạnh này thông qua các chỉ số về mức độ thay đổi chỗ làm việc với tiếp nhận công việc mới và mức độ di chuyển sức lao động. Hàng năm ở Việt Nam có khoảng hơn một triệu người có việc làm mới và khỏang 1,3 triệu lượt người thay đổi chỗ làm việc, như vậy tính chung là khoảng 2,5 triệu người có chỗ làm việc mới hoặc thay đổi chỗ làm việc, tức là chiếm khoảng 6% dân số đang hoạt động kinh tế. Trong khi đó ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển cao như Mỹ, Anh, Nhật con số này thường chiếm 50%. Nếp nghĩ và tác phong của người lao động vẫn còn mang nặng thói quen của nền sản xuất nhỏ, một bộ phận lớn lao động làm việc ở nông thôn, nên tính tổ chức, kỷ luật còn yếu, tác phong công nghiệp chưa cao, tùy tiện về giờ giấc và hành vi, trình độ văn hóa công nghiệp còn thấp. Việc có tỷ lệ khá cao người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài tự ý bỏ hợp đồng để tìm kiếm công việc khác đã và đang làm đau đầu các nhà quản lý, tác động không tốt đến hình ảnh người lao động Việt Nam ở nước ngoài. Sự kiện rất nhiều người lao động làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất ở các khu công nghiệp trong vùng Đông Nam Bộ về quê ăn Tết rồi bỏ việc diễn ra thường xuyên hàng năm trong mấy năm gần đây là một minh chứng, làm cho nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn về lao động, ảnh hưởng đến việc thực hiện các hợp đồng giao hàng. Đó là điều rất bất lợi trong cạnh tranh trên thị trường lao động, nhất là thị trường lao động khu vực và quốc tế. Kỹ năng làm việc của lao động Việt Nam thiếu chuyên nghiệp, đặc biệt các lao động mới ra trường . Nguyên nhân chính của thực trạng này nảy sinh ngay từ trong giảng đường, sinh viên chỉ được học kiến thức mà chưa được rèn luyện kỹ năng, thiên về lý thuyết hơn thực hành. Nhiều doanh nghiệp đã phải đào tạo lại sinh viên khi ra trường và vừa đào tạo vừa phải lo lắng vì nhân viên luôn có ý định nhảy việc, tìm công việc mới để có thêm "kinh nghiệm". Tinh thần hợp tác, kỹ năng làm việc theo nhóm còn thấp (vốn là đặc trưng của người làm nông.) Một bộ phận không nhỏ nguồn nhân lực bị nghèo đói, thất nghiệp đang là thách thức rất lớn hiện nay ở nước ta. Bên cạnh đó, một bộ phận khác lại sa vào tệ nạn xã hội, nhất là nghiện hút, mãi dâm và tội phạm. Mặc dù còn những điểm hạn chế, yếu kém như trên, song nhìn chung, nguồn nhân lực Việt Nam vẫn được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao vì có những phẩm chất vượt trội như: hiếu học, thông minh, cần cù, chịu khó, khéo tay, khả năng nắm bắt các kỹ năng lao động, đặc biệt là kỹ năng sử dụng các công nghệ hiện đại tương đối nhanh. Đây là lợi thế cạnh tranh quan trọng của nguồn nhân lực nước nhà trong quá trình hội nhập và tham gia thị trường lao động quốc tế. 2.6 Giá cả sức lao động Chi phí lao động ở Việt Nam thấp hơn so với các nước khác trong khu vực. Theo kết quả điều tra của Tổ chức xúc tiến Thương mại Nhật Bản năm 2005, lương bình quân của lao động ở Việt Nam là 135 USD/tháng/người, còn ở Trung Quốc là 184 USD và Thái Lan là 146 USD. Với mức thu nhập eo hẹp này người lao động Việt Nam chỉ có thể đáp ứng các nhu cầu tối thiểu là ăn, mặc, ở… hầu như chẳng ai dám nghĩ đến nhu cầu giải trí, càng khó tích lũy hoặc đầu tư học tập nâng cao trình độ. Chính sách phân phối tiền lương và tiền công còn nhiều bất hợp lý không đủ sống và mất dần động lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, làm hạn chế khả năng lao động sáng tạo, năng suất lao động, hiệu quả lao động rất thấp và phát sinh tiêu cực, tham nhũng nhất là ở bộ phận có chức, có quyền. Đồng thời lại có xu hướng ngày càng tăng hiện tượng chảy máu chất xám từ khu vực nhà nước sang khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, khu vực tư nhân, là nơi có thu nhập cao hơn. Bảng 14: Cơ cấu công nhân, lao động phân theo loại hình doanh nghiệp Loại hình DN Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 DN nhà nước 53,8 % 48,5% 43,8% 39,0% 30,7% DN ngoài nhà nước 33,8% 36,6% 39,6% 42,9% 49,1% DN có vốn đầu tư NN 12,4% 14,9% 16,6% 18,1% 20,2% Nguồn:- Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2005,NX B Thống kê, Hà Nội, 2006 _Vụ thống kê công nghiệp và xây dựng- Tổng cục Thống kê- 2006 Nhìn vào bảng số liệu ta thấy chỉ trong một thời gian ngắn từ năm 2001 đến năm 2005 đã có sự chuyển biến rõ rệt. Cụ thể, tỷ lệ người lao động trong khu vực nhà nước giảm từ 53.8% xuống còn 30.7% .Trong khi đó khu vực ngoài nhà nước tăng từ 33.8% lên đến 49.1% và khu vực nhà nước có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 12.4% đến 20.2% . Hiện nay, lạm phát tăng cao, giá cả điều chỉnh theo thị trường, nhưng tiền lương vẫn vận hành theo cơ chế cũ. Nếu không sớm cải cách chính sách tiền lương tận gốc, lao động Việt Nam sẽ khó có điều kiện cải thiện cuộc sống, sức khoẻ và trình độ để có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. CHƯƠNG 3: CAN THIỆP CỦA CHÍNH PHỦ ĐỂ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng cho sự nghiệp CNH – HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, Chính Phủ phải tác động cả trên các phương diện: dân số, thể lực, trí lực, phẩm chất tâm lý xã hội và sử dụng nguồn nhân lực. 3.1 Về vấn đề dân số và phân bổ nguồn nhân lực Để giải quyết tốt vấn đề dân số và phân bổ nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần quan tâm một số vấn đề sau: Xã hội hoá công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình. Đưa giáo dục dân số và chất lượng cuộc sống thành môn học trong các loại hình nhà trường. Từng bước thống nhất việc đăng ký và quản lý dân cư làm cơ sở cho việc lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng chính sách, góp phần kiểm soát biến động dân cư, giải quyết tốt mối quan hệ giữa phân bố dân cư hợp lý với quản lý dân số và phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt quan tâm đến các vùng có mức sinh cao như Tây Bắc, Đông Bắc và Tây Nguyên. Phân bố lại dân cư và nguồn lao động giữa các vùng để vừa tạo thêm việc làm vừa khai thác tốt tiềm năng mỗi vùng bằng các biện pháp như xây dựng các vùng kinh tế mới, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, vùng cao, vùng sâu; có chính sách tín dụng ưu đãi cho các vùng này. Đa dạng hoá các hoạt động kinh tế ở nông thôn : chuyển nông nghiệp tự túc thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá; phát triển kinh tế hộ gia đình; khôi phục và phát triển các nghề thủ công truyền thống và các hoạt động dịch vụ ở nông thôn Phát triển công nghiệp vừa và nhỏ để thu hút lao động; di chuyển các cơ sở sản xuất cần nhiều lao động về các vùng nông thôn, vùng cao như Tây Bắc, Đông Bắc và Tây Nguyên. 3.2 Về phương diện thể lực CNH - HĐH gắn liền với việc áp dụng phổ biến các phương pháp sản xuất công nghiệp, các thiết bị và công nghệ hiện đại, do đó đòi hỏi sức khỏe và thể lực cường tráng của người lao động trên các khía cạnh: sức chịu đựng dẻo dai, đáp ứng những quá trình sản xuất liên tục, kéo dài; Có các thông số nhân chủng học đáp ứng được các hệ thống thiết bị công nghệ được sản xuất phổ biến và trao đổi trên thị trường khu vực và thế giới; Luôn luôn có sự tỉnh táo, sảng khoái tinh thần, những điều này lại phụ thuộc chủ yếu vào trạng thái sức khỏe của người lao động. Kỹ thuật công nghệ càng tinh vi, đòi hỏi sự chính xác và an toàn cao độ; mặt khác giá trị của nhiều loại sản phẩm rất lớn, chỉ một sơ suất nhỏ trong động tác lao động có thể gây tổn thất to lớn. Do đó, Chính phủ có thể đặt ra các giải pháp để nâng cao trạng thái sức khỏe nguồn nhân lực, phát triển toàn diện thể chất, tăng cường thể lực người lao động, hướng tới thực hiện những mục tiêu phát triển toàn diện con người Việt Nam, đáp ứng những yêu cầu tổ chức lao động khoa học và cường độ làm việc của xã hội công ngiệp như: Nâng cao số lượng và chất lượng bữa ăn của cư dân ( đặc biệt là nguồn nhân lực trẻ) bằng việc tạo ra nhiều việc làm để tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho người lao động. Cần có chế độ tiền lương hợp lý phù hợp với công sức người lao động. Phát triển mạnh mẽ dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cho người dân tạo điều kiện để mọi người dân đều được khám chữa bệnh đầy đủ, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh ở mọi vùng miền, địa phương. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về sức khỏe dinh dưỡng cho cộng đồng, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Cần trau dồi thêm kiến thức đối với phụ nữ mang thai và cho con bú, nhằm đề phòng các bệnh còi xương, suy dinh dưỡng… Phát triển các hoạt động thể dục thể thao, rèn luyện sức khoẻ cộng đồng. Ban hành các chính sách triệt để bài trừ các tệ nạn xã hội và phòng ngừa dịch bệnh. Cải thiện môi trường sống: các dự án đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội phải tuân thủ luật bảo vệ môi trường; các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường trầm trọng cần mạnh dạn đóng cửa hoặc phải thay đổi quy trình công nghệ. Nhà nước cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề bảo hộ lao động. 3.3 Về phương diện trí lực Ta thấy: Nguồn lao động ở nước ta hiện nay thiếu về số lượng lẫn chất lượng đối với lao động có trình độ cao, có chuyên môn nghiệp vụ. Một lực lượng lao động đông đảo có trình độ chuyên môn kỹ thuật ngày càng cao là đòi hỏi hàng đầu và là nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH – HĐH và hội nhập của đất nước. Đi vào CNH - HĐH thì không có lĩnh vực hoạt động nào lại không đòi hỏi người lao động phải có trình độ văn hóa, chuyên môn, kỹ thuật cao, nhất là lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ tin học, tự động hóa và công nghệ sinh học hiện đại. Vì vậy, đòi hỏi mặt bằng dân trí của nguồn nhân lực phải cao và phải được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật. Và điều đó có thể thực hiện bằng cách cải cách mạnh mẽ hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hiện đại. Việc chuẩn bị đủ lực lượng lao động có chất lượng tốt hiện nay gắn liền với quyết tâm cao và bước đi đúng đắn của công cuộc cải cách hệ thống giáo dục, trong đó có hệ thống giáo dục đại học bằng các biện pháp cụ thể: Thứ nhất, tăng cường các nguồn lực cho giáo dục đào tạo thông qua nhiều hình thức tích cực khác nhau, mở rộng các trường dạy nghề, các ngành nghề đa dạng, đào tạo theo chiều rộng và cả chiều sâu để tăng về quy mô số lượng lao động có trình độ cao, nghĩa là làm giảm bớt đi ít nhiều lao động có trình độ tay nghề kém ( mà Việt Nam hiện nay dư thừa do có nguồn lao động dồi dào _dân số trong độ tuổi lao động cao ). Thứ hai, hiện đại hoá chương trình và nội dung, phương pháp dạy, học theo hướng gắn với nhu cầu thực tế của thị trường lao động (trong nước và ngoài nước) và lấy người học làm trung tâm, áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong dạy và học, gắn giáo dục, đào tạo với thực tiễn. Mở rộng việc dạy và nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ ngay từ cấp giáo dục phổ thông, hướng tới đạt được mục tiêu sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, phần lớn học sinh có thể sử dụng ngoại ngữ trong giao tiếp thông thường hoặc tiếp tục theo học tiếp ở trình độ cao hơn bằng ngoại ngữ. Thứ ba, xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên, giáo viên các cấp từ giáo dục phổ thông đến dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp và cao đẳng, đại học, đảm bảo về số lượng, giỏi chuyên môn nghiệp vụ và có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, đủ năng lực tạo ra những chuyển biến tích cực, tiến bộ về chất lượng giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu thực tế xây dựng đất nước, học tập của người dân trong điều kiện hội nhập quốc tế. Có chính sách sử dụng và đãi ngộ đúng giá trị nguồn nhân lực được đào tạo, trọng dụng người tài... Thứ tư, tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới công tác quản ly giáo dục. 3.4 Về phương diện phẩm chất tâm lý xã hội của nguồn nhân lực CNH - HĐH đòi hỏi người lao động phải có phẩm chất tâm lý sau: có tác phong công nghiệp (khẩn trương, đúng giờ giấc...); có ý thức kỷ luật tự giác cao; có niềm say mê nghề nghiệp chuyên môn; sáng tạo, năng động trong công việc; có khả năng chuyển đổi công việc cao, thích ứng với những thay đổi trong lĩnh vực công nghệ và quản lý. Trong khi đó, đại đa số lao động Việt Nam vẫn còn mang tác phong, nếp nghĩ, thói quen… của mô hình sản xuất nhỏ, lạc hậu. Cho nên, thiết nghĩ Chính Phủ có thể tác động bằng cách xác định: Đổi mới phương pháp giáo dục để ngay từ cấp giáo dục phổ thông, học sinh phải được dạy và học về tư duy chủ động, độc lập suy nghĩ, phương pháp làm việc theo nhóm, phương pháp tổng hợp, cách trình bày, thuyết trình, cách ứng xử, những kiến thức và kỹ năng tự học và tự chủ trong việc thích ứng với hoàn cảnh không ngừng thay đổi… Chú trọng thúc đẩy quá trình đào tạo ngoài nước, đưa các sinh viên xuất sắc, giáo viên, cán bộ quản lý học tập, tu nghiệp ở các trường đại học/ viện nghiên cứu quốc tế có uy tín sẽ góp phần tích cực trong việc hình thành đội ngũ lao động trong tương lai mang đẳng cấp quốc tế. Mở rộng hợp tác quốc tế, đa dạng hoá hình thức, phương pháp hợp tác, liên doanh, liên kết và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để phát triển nguồn nhân lực. Mạnh dạn thuê giảng viên và chuyên gia giỏi là người nước ngoài và Việt Kiều tham gia đào tạo nguồn nhân lực ở trong nước có điều kiện tiếp cận và học hỏi tác phong làm việc của lao động nước ngoài. Cần tạo ra môi trường công nghiệp cạnh tranh lành mạnh, gắn lý luận với thực tiễn để phát huy tích cực tính năng động sáng tạo vốn có của người Việt Nam. 3.5 Về chính sách sử dụng nhân lực Sự phát triển nhân lực KH-CN chất lượng cao bên cạnh những nét chung, trong quá trình phát triển còn có những con đường riêng. Nhân tài chỉ có được sau khi trải qua thời gian dài giáo dục, đào tạo và thực tế làm việc đúc rút kinh nghiệm, kỹ năng thực hành và nâng cao trình độ chuyên môn. Để có nhân tài, cần phải có thời gian từ phát hiện đến đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, theo dõi giám sát, Những năm qua, chúng ta mới chú trọng đến giáo dục đào tạo (giải pháp đầu vào) mà chưa quan tâm đúng mức đến sử dụng đãi ngộ (giải pháp đầu ra). Vì vậy, theo chúng tôi, định hướng chính sách cần theo hướng kích thích sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ phản ánh kết quả cuối cùng của chất lượng nguồn nhân lực. Đã đến lúc chính sách sử dụng nhân tài phải cụ thể, thiết thực chứ không nên chung chung như trước đây, cụ thể là : Thiết lập và hoàn thiện ngân hàng dữ liệu  về nhân lực trong cả nước về trình độ, ngành nghề, lĩnh vực… trong các thành phần kinh tế, theo dõi thường xuyên sự biến động (tăng, giảm) từ đó xác định nguyên nhân khách quan, chủ quan … tìm giải pháp cụ thể, thiết thực. Trẻ hoá đội ngũ cán bộ KH-CN, xoá bỏ quan niệm phải có thâm niên công tác mới được đề bạt các chức danh quan trọng. Đây đang là tư duy cản trở sự phát triển nhân lực KH-CN chất lượng cao. Ưu tiên những ngành công nghệ cao, những ngành đang thiếu cán bộ tài năng; có chính sách thu hút những chuyên gia giỏi là Việt kiều trong những lĩnh vực mà  nước ta đang thiếu và cần thiết trong tiến trình hội nhập. Thực hiện cơ chế đấu thầu rộng rãi các chương trình, đề tài nghiên cứu. Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho cán bộ chủ trì thực hiện các đề tài, công trình nghiên cứu KH-CN. KẾT LUẬN Chưa có lúc nào vấn đề phát triển con người và nguồn nhân lực trở thành vấn đề thời sự nóng bỏng ở nước ta như giai đoạn hiện nay. Đất nước đang bước vào một thời kỳ phát triển mới, những cơ hội thách thức chưa từng có. Vì vậy, Đảng ta đã xác định: “Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của đất nước ta, coi việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa. Qua đó, hiện nay Nhà nước ta đã và đang có những biện pháp hỗ trợ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để lao động Việt Nam trở thành yếu tố chủ đạo trong việc phát triển kinh tế- xã hội. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Phạm Đức Chính, Thị trường lao động: cơ sở l‎ý luận và thực tiễn ở Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Nguyễn Thị Cành (chủ biên), Thị trường lao động TP. HCM trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và kết quả điều tra doanh nghiệp về nhu cầu lao động, NXB Thống kê, 2001. Lê Thị Ái Lâm, Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo – kinh nghiệm Đông Á, NXB KHXH, HN, 2003. Đại học kinh tế TP.HCM, Kinh tế học lao động, Bản dịch, 2000

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docphat trien nguon nhan luc Viet Nam.doc
Tài liệu liên quan