Đề tài nghiên cứu
Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát triển linh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con người Trong các nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính chất quyết định trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay. Một nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì khó có khả năng có thể đạt được sự phát triển như mong muốn.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và ngày nay trong công cuộc hội nhập và phát triển nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng ta luôn xác định: Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam có truyền thông yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh. Vậy nguồn nhân lực là gì?
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1827 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đảng ta luôn xác định: Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam có truyền thông yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh.
Vai trò của nguồn lực con người quan trọng như thế nào đã được chứng minh trong lịch sử kinh tế của những nước tư bản phát triển như Nhật Bản, Mỹ,...nhiều nhà kinh doanh nước ngoài khi đến tham quan Nhật Bản thường chỉ chú ý đến kỹ thuật, máy móc và coi đó là nguyên nhân tạo nên “kỳ tích Nhật Bản”. Nhưng họ đã nhầm, chính người Nhật Bản cũng không quan niệm như vậy. Người Nhật cho rằng kỹ thuật và công nghệ có vai trò rất to lớn nhưng không phải là yếu tố quyết định nhất. Yếu tố quyết định nhất dẫn đến thành công của họ là con người. Cho nên họ đã tập trung cao độ và có những chính sách độc đáo phát triển yếu tố con người.
Ngày nay đối với những nước lạc hậu đi sau, không thể phát triển nhanh chóng nếu không tiếp thu những tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại của các nước phát triển. Nhưng không phải cứ nhập công nghệ tiên tiến bằng mọi giá mà không cần tính đến yếu tố con người. Cần nhớ rằng, công nghệ tiên tiến của nước ngoài khi được tiếp thu sẽ phát huy tác dụng tốt hay bị lãng phí, thậm chí bị phá hoại là hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố con người khi sử dụng chúng. Nhiều công ty chỉ chú ý đổi mới kỹ thuật và công nghệ nhưng vì không chú ý đến yếu tố con người nên đều thất bại. Như mọi quốc gia khác trên thế giới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam cũng phải phụ thuộc vào nguồn lực con người và do nguồn lực này quyết định. Bởi vì:
- Thứ nhất, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý... tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực xã hội khi được kết hợp với nguồn lực con người thông qua hoạt động có ý thức của con người. Bởi lẽ, con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và có ý chí, biết “lợi dụng” các nguồn lực khác, gắn chúng kết lại với nhau, tạo thành một sức mạnh tổng hợp, cùng tác động vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các nguồn lực khác là những khách thể chịu sự cải tạo, khai thác của con người, hết thảy chúng đều phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của con người, nếu con người biết cách tác động và chi phối. Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất, là “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại”.
Chẳng hạn như vốn cũng là một nguồn lực để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng vốn chỉ trở thành nguồn lực quan trọng và cấp thiết của sự phát triển khi nó nằm trong tay những người biết sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả cao.
Tương tự như vậy, sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên và những ưu thế về vị trí địa lý cũng sẽ mất ý nghĩa nếu chủ nhân của nó không có năng lực khai thác.
Ngày nay trước xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự hợp tác nhất là với các nước có điểm xuất phát thấp, nhưng sức mạnh của “cú hích” đầu tư nước ngoài cũng là nguồn lực quan trọng, nó tạo ra “cú hích” kinh tế này đến đâu, tác động tích cực của nó như thế nào còn tuỳ thuộc vào yếu tố con người khi tiếp nhận nguồn lực đó.
Xét đến cùng nếu thiếu sự hiện diện của trí tuệ và lao động của con người thì mọi nguồn lực đều trở nên vô nghĩa thậm chí khái niệm “nguồn lực” cũng không còn lý do gì để tồn tại.
- Thứ hai, các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, trong khi đó nguồn lực con người lại là vô tận. Nó không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà còn tự đổi mới không ngừng, phát triển về chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người phát triển như một quá trình vô tận xét trên bình diện cộng đồng nhân loại. Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, sáng tạo, khám phá ra nhiều nguồn tài nguyên mới, nhiều công cụ sản xuất có hiệu quả hơn, đưa xã hội chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao.
Thứ ba, trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo vĩ đại này của C.Mác đã và đang trở thành hiện thực. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại đang dẫn nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế của trí tuệ. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đã đạt đến mức mà nhờ nó con người có thể sáng tạo ra những người máy “bắt chước” hay “phỏng theo” những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng là bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc con người làm ra mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến những biến đổi thần kỳ trong lịch sử phát triển của mình.
- Thứ tư, kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho thấy sự thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đường lối, chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Đối với những nền kinh tế nông nghiệp chưa công nghiệp hoá thì mặt số lượng của nguồn nhân lực có tầm quan trọng đặc biệt vì nó qui định quy mô của thị trường. Nhưng khi tiến hành công nghiệp hoá thì mặt chất lượng, cơ cấu và cơ chế sử dụng nguồn nhân lực lại quan trọng hơn. Cơ cấu lao động cần cho quá trình công nghiệp hoá phải bao gồm: các chính khách, các nhà hoạch định chính sách, các học giả, các nhà kinh doanh, các nhà kỹ thuật và công nghệ, các công nhân lành nghề... không có các chính khách, các học giả tài ba thì khó có thể có được những chiến lược, chính sách phát triển đúng đắn; không có các nhà kinh doanh lỗi lạc thì cũng sẽ không có người sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn vốn, nhân lực, công nghệ. Sự thiếu vắng hay kém cỏi của một trong các bộ phận cấu thành nhân lực trên đây sẽ có hại cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Qua toàn bộ phân tích trên có thể kế luận rằng nguồn lực con người là nguồn lực có vai trò quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do vậy, muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công thì phải đổi mới cơ bản các chính sách đầu tư cho các ngành khoa học, văn hoá, giáo dục, y tế ở Việt Nam nhằm phát triển nguồn lực con người cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây là nhiệm vụ lớn nhất và khó khăn nhất trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Quán triệt tư tưởng này Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đã đưa ra những điểm mới trong tư duy lãnh đạo của Đảng về phát triển nguồn nhân lực
Nghiên cứu tư duy lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về chiến lược con người có thể khẳng định: Từ rất sớm, Đảng ta đã nhận thức rõ vai trò quan trọng của con người đối với cách mạng Việt Nam và tiến trình phát triển của lịch sử. Tuy nhiên trong từng thời kỳ, nhận thức của Đảng về vấn đề này cũng có những khác biệt và được điều chỉnh cho phù hợp với giai đoạn mới. Đại hội XI (2011) một mặt là sự tiếp nối tư tưởng đó, mặt khác cụ thể hóa, bổ sung, phát triển và làm sáng tỏ thêm một số nội dung mới. Thể hiện ở những điểm sau:
Một là, điều chỉnh đặc trưng về con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng; đồng thời chỉ ra cơ chế để phát huy tối đa nhân tố con người.
So với “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991” và “Văn kiện Đại hội X (2006)” , đặc trưng về con người nêu trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 được diễn đạt gọn hơn song vẫn đảm bảo đúng bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng. Đó là: “ con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”
Để phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại và thực hiện được mục tiêu phát triển con người mà Cương lĩnh bổ sung và phát triển đề ra, Đảng ta nêu ra quan điểm: “ Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển” . Quan điểm này thực chất là sự tiếp nối tư tưởng nhất quán của Đảng coi: con người là chủ thể và là nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự phát triển xã hội và sự nghiệp cách mạng Việt Nam; mọi quá trình phát triển kinh tế - xã hội phải hướng tới mục tiêu nhân văn cao cả là vì con người.
Song điểm mới trong tư duy của Đảng là một mặt khẳng định vai trò chủ thể của con người, mặt khác chỉ rõ để con người có điều kiện phát triển toàn diện và thực sự là chủ thể, cần phải có cơ chế thích hợp. Cơ chế đó là mở rộng dân chủ, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho nhân dân phát huy tối đa quyền làm chủ của mình. Bởi lẽ dân chủ là một trong những điều kiện căn bản nhất để phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người. Đồng thời một khi dân chủ được đảm bảo đầy đủ sẽ tạo ra sự đồng thuận xã hội cao, đó là yếu tố không thể thiếu để tạo động lực phát triển đất nước. Hai là, Đảng ta lựa chọn phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, là khâu đột phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm 2020.Mặc dù Đại hội X (2006) đã chỉ rõ để thực hiện thắng lợi công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức phải phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tức là chuyển hướng chiến lược phát triển nguồn nhân lực theo chiều rộng sang chiều sâu, coi trọng và gia tăng nhanh chất lượng của nguồn nhân lực. Song Đại hội X cũng như các kỳ Đại hội trước chưa xác định đó là khâu đột phá.
Tại Đại hội XI, Đảng ta đã đề ra mục tiêu tổng quát: “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”
. Để đạt được mục tiêu đó, phải xác định đúng những khâu đột phá - tức là những khâu trọng yếu của sự phát triển, nhưng những khâu này hiện lại là những điểm nghẽn đang cản trở, kìm hãm tốc độ và hiệu quả của phát triển, thậm chí, nếu không được khai thông, giải toả nó sẽ triệt tiêu mọi động lực của phát triển. Do vậy, lựa chọn đúng khâu đột phá sẽ tạo ra những tiền đề, những điều kiện và môi trường thuận lợi để giải phóng mọi tiềm năng và khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển. Khi đã xác định trúng những khâu đột phá, cần phải ưu tiên đầu tư thỏa đáng để tạo ra một sự thay đổi mạnh mẽ, căn bản, tạo động lực to lớn và là cú hích quan trọng có ý nghĩa quyết định trong việc thúc đẩy các lĩnh vực khác phát triển và tạo khả năng giành thắng lợi cao. Một trong ba khâu đột phá chiến lược mà Đảng ta xác định thì “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” được xem là khâu đột phá thứ hai.
Vấn đề đặt ra là vì sao, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao lại được coi là khâu đột phá ? Điều này xuất phát từ thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay và từ yêu cầu của thời đại mới với những đổi thay to lớn.
Trước hết, xem xét thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam cho thấy, mặc dù sau 25 năm đổi mới với nhiều nỗ lực, nguồn nhân lực nước ta đã đạt những thành tựu đáng kể. Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, thể lực của con người Việt Nam đã từng bước được nâng lên. Nhưng so với nhiều nước trong khu vực và so với yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức thì chất lượng nguồn nhân lực của nước ta còn rất thấp kém và đang ở mức báo động đáng lo ngại
Ba là, đặt ra yêu cầu phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”
Trong điều kiện khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức phát triển nhanh chóng như hiện nay, những nước có trình độ phát triển thấp vẫn có thể tận dụng thời cơ, ứng dụng những thành tựu của khoa học, công nghệ hiện đại để vươn lên tránh nguy cơ tụt hậu và tạo ra sự phát triển nhanh, bền vững. Song điều đó chỉ trở thành hiện thực nếu có sự gắn kết chặt chẽ giữa đầu tư gia tăng nhanh chóng chất lượng nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ mới, tiên tiến.
Đối với Việt Nam , một nước có xuất phát điểm thấp thì sự gắn kết này là yêu cầu nghiêm ngặt và càng phải được coi trọng, thậm chí là vấn đề sống còn của sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Do vậy, “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ” là một nội dung mới thể hiện tính hướng đích của Đảng ta trong chiến lược phát triển nhanh và bền vững.
3) Tính tất yếu khách quan phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa và hiện đại hóa
3.1 Khái quát thực trạng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực phục vụ việc xây dựng và phát triển nông nghiệp nông thôn nước ta
a) Số lượng (quy mô) nguồn nhân lực VN:
VN là một trong những nước đông dân, dân số với quy mô dân số đứng thứ hai Đông Nam Á và thứ 13 thế giới một đất nước có cơ cấu dân số trẻ với số người trong độ tuổi 16-34 tuổi chiếm 60% trong tổng số 35.9 triệu người lao động: nguồn bổ sung hàng năm là 3% tức khoảng 1.24 triệu người và con số này ngày càng tăng lên và cần tạo thêm chỗ làm việc mới cho số người lao động tăng lên.
Quy mô nguồn nhân lực qua đào tạo của VN và sử dụng nguồn nhân lực này: VN tuy có nguồn lao động dồi dào nhưng lực lượng qua đào tạo lại thiếu, đó là mâu thuẫn về quy mô của nguồn nhân lực nước ta, chúng ta vừa thừa vừa thiếu nguồn nhân lực.
Hiện nay cán bộ công chức thuộc các bộ ngành ở các cơ quan trung ương có 129763 người, trong đó có 74% công chức có trình độ đại học trở lên
b) Chất lượng nguồn nhân lực VN:
Theo số liệu điều tra lao động việc làm từ 1996-1999 thì đối với 35,866-37,784 triệu người lao động trong cả nước thì:
Năm
Số người lao động chưa biết chữ (đv %)
1996
5.75%
1997
5.1%
1998
3.84%
1999
4.1%
Nhìn chung trình độ văn hóa của người lao động đã khá hơn sau 10 năm số người biết chữ nâng lên 84% năm 1998 lên 96% năm 1999.
Qua điều tra cho thấy lực lượng lao động không có trình độ chuyên môn giảm dần thể hiện qua bảng :
Năm
Lực lượng lao động không có trình độ/tổng số lao động (đv%)
1996
87.69%
1997
87.71%
1998
86.69%
1999
86.13%
2000
80-82%
Tuy nhiên ở một số vùng tỷ lệ lao động không có trình độ còn cao như vùng tây bắc 92.36% vùng đồng bằng sông cửu long là 91.7%
Về trí lực và thể lực
Người VN có tính cần cù thông minh ham học hỏi cầu tiến bộ có ý trí và tinh thần tự lực tự cường dân tộc phát triển khá về thể lực và trí lực, có tính cơ động cao có thể tiếp thu nhanh khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại.
Theo nhà xuất bản thống kê Hà Nội thì các chỉ số của VN luôn ở mức thấp so với khu vực nhưng chỉ tiêu liên quan ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển thể chất thể lực của người lao động VN cũng rất thấp điều đó lý giải một phần hạn chế về trí lực của người lao động VN.
Khả năng tư duy của người lao động VN:
Nguồn nhân lực VN với mức xuất phát điểm thấp, từ nền kinh tế nông nghiệp phong cách tư duy còn mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, thủ công, lạc hậu.
Hiện nay công nghệ VN ở mức trung bình kém trong các ngành công nghiệp hệ thống máy móc lạc hậu vì vậy năng xuất lao động công nghiệp chỉ đạt 30% so với thế giới. Số cán bộ khoa học thuộc ngành kĩ thuật liên quan đến công nghệ chiếm 11% tổng số cán bộ trong cơ chế kinh tế cũ nên kinh nghiệm năng lực sáng tạo thực tiễn, khả năng sáng tạo công nghệ yếu.
Sự lạc hậu, non yếu về trình độ của nguồn nhân lực VN so với nhân lực trong khu vực và trên thế giới
Trình độ lao động nước ta vừa yếu vừa thiếu vừa bất hợp lí về cơ cấu đào tạo vừa phân bố không đồng đều giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế. Trình độ non kém về khoa học công nghệ, tác phong lao động kỉ luật, sự thiếu hiểu biết về kinh tế thị trường, tính từ chịu trách nhiệm cá nhân thấp ảnh hưởng đến cạnh tranh của nguồn nhân lực VN khi hòa nhập vào thị trường nhân lực tiên tiến của thế giới.
c) Cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực nước ta:
Cấu trúc đào tạo nguồn nhân lực nước ta không hợp lí cả về cơ cấu lao động và cơ cấu đầu tư ngân sách giữa các bậc học. Trong các năm 1990-1992 ngân sách dành cho giáo dục chỉ chiếm 10-11% so với tổng ngân sách nhà nước so với khu vực thì đầu tư này của chúng ta còn kém xa
d) Phân bổ nguồn nhân lực
- Theo ngành
- Theo khu vực
e) Lợi thế và thách thức của nước ta
Lợi thế nguồn nhân lực nước ta
Dân số đông nguồn nhân lực dồi dào đặc biệt là nguồn lao động trẻ nhóm có ưu thế về sức khỏe, năng động sáng tạo. Đường lối đổi mới của Đảng đã mở ra khả năng phát triển đa phần, đa dạng hóa việc làm, thu hút được nhiều lao động sử dụng tốt hơn nguồn năng lực nguồn nhân lực. Quản lí nguồn nhân lực càng ngày được quan tâm hơn.
Những khó khăn và thách thức trong tương lai
Nền kinh tế thế giới đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức và nước ta cũng phải có một số thay đổi để phù hợp. Nguồn nhân lực trong tương lai sẽ phải được coi trọng về tư duy sáng tạo năng lực tự học hỏi và cần được đào tạo kĩ năng thành thạo linh hoạt về công nghệ mới về quản lí mạng...
Tốc độ tăng lao động còn ở mức cao nên cần giải quyết việc làm mới cho những lao động tăng thêm.
Chính sách của nhà nước còn thiếu đồng bộ, nhất là chính sách thuế, đất đai tín dụng…chưa khuyến khích và tạo ra động lực đẩy mạnh đầu tư trong nước để phát triển sản xuất…
3.2 Yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn và những vấn đề đặt ra phát triển nguồn nhân lực
* Thành tựu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của Việt Nam trong 15 năm qua.
Thực hiện đường lối đổi mới, CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn, hơn mười năm qua nông nghiệp nông thôn nước ta đã có bước phát triển mới đạt được những thành tựu to lớn:
Một là, nền nông nghiệp nước ta cơ bản đã chuyển sang sản xuất hàng hóa, phát triển tương đối toàn diện, tăng trưởng khá:
- Nhìn tổng thể nông nghiệp nước ta không còn là nền nông nghiệp tự cung tự cấp, thiếu lương thực triền miên, mà là nền nông nghiệp có tỷ suất hàng hóa ngày càng cao (lúa gạo 56%, cà phê 98%, cao su 85%, chè 60%...); giá trị kim ngạch xuất khẩu ngày càng lớn, nhiều mặt hàng xuất khẩu có thị phần trong khu vực và trên thế giới như gạo, cà phê...
- Đã hình thành nhiều vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với công nghiệp chế biến: lúa gạo ở đồng bằng Sông Cửu Long, mía đường ở miền trung, chè ở trung du, cà phê ở Tây Nguyên.....
- Tính chất sản xuất hàng hóa còn được thể hiện ở cơ cấu sản xuất ngày càng phát triển đa dạng, chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ; quy mô sản xuất ngày càng tập trung, người sản xuất ngày càng quan tâm đến nhu cầu thị trường.
- Nhịp độ tăng trưởng khá, bình quân 5,2%/ năm.
Tuy nhiên vẫn còn một số vùng nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số phát triển sản xuất hàng hóa chậm, sản xuất còn mang tính tự cung tự cấp.
Hai là, công nghiệp, ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn bước đầu được phục hồi và phát triển; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư xây dựng; môi trường sinh thái và đời sống nông dân ở hầu hết ở các cùng được cải thiện rõ rệt.
- Hiện nay cả nước có 27% số hộ nông dân vừa sản xuất nông nghiệp vừa làm ngành nghề phi nông nghiệp; 13% số hộ chuyên kinh doanh ngành nghề.......
- Hiện có hàng trăm cơ sở công nghiệp, được xây dựng trên địa bàn nông thôn trong đó chế biến nông, lâm, thủy sản chiếm 32,5%; sản xuất vật liệu xây dựng 30.9%; các cơ sở công nghiệp nhẹ 15%; điện - cơ khí 12,8%.....
- Nhiều loại hình dịch vụ ở nông thôn phát triển nhanh như dịch vụ thương mại, tài chính, kỹ thuật nông nghiệp, dịch vụ thông tin, văn hóa....
- Kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội nông thôn được tăng cường góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và nâng cao đời sống cho dân cư nông thôn.
Ba là, quan hệ sản xuất từng bước đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển nền nông nghiệp hàng hóa: hệ thống chính trị ở cơ sở được tăng cường, dân chủ được phát huy tốt hơn, an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội ở nông thôn được đảm bảo.
Vai trò của kinh tế hộ được phát huy, ngày càng có nhiều hộ làm ăn giỏi. Hình thành các mô hình kinh tế tập thể kiểu mới.
Hệ thống chính trị ở cơ sở được tăng cường, dân chủ ở nông thôn được phát huy tốt hơn, an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; môi trường sinh thái được cải thiện một bước.
Những thành tựu trên mặt trận nông nghiệp nông thôn đã góp phần rất quan trọng vào sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền đề đẩy mạnh sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
2.Tính tất yếu khách quan phải thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn
a. Vì sao phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn?
Xuất phát từ nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp phổ biến sản xuất nhỏ, lạc hậu và đang ở trình độ thấp, đó là cơ sở vật chất, kỹ thuật còn lạc hậu, lao động xã hội đại bộ phận tập trung trong nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp còn mang nặng tính tự cấp, tự túc và thu nhập của nông dân thấp, đời sống mọi mặt của họ còn hết sức khó khăn. Trong khi đó đến nay nhiều nước trên thế giới đã có nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao, mọi hoạt động sản xuất nông nghiệp đã được cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá. Nhờ đó năng suất ruộng đất, năng xuất lao động của họ đạt rất cao, tạo sự phân công lao động sâu sắc trong nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Mặt khác do yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhu cầu về nâng cao đời sống con người đó là xã hội càng phát triển, đời sống con người càng được nâng cao thì nhu cầu của con người về lương thực và thực phẩm cũng ngày càng tăng cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Như vậy chỉ có một nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao mới hy vọng đáp ứng được nhu cầu tăng lên thường xuyên đó.
Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, trước hết là quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá các quan hệ kinh tế thế giới, các hoạt động sản xuất thương mại, trao đổi thông tin khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ... buộc chúng ta phải đẩy nhanh việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn để chúng ta có thể tận dụng vốn, khoa học, kỹ thuật kinh nghiệm quản lý nước ngoài vào trong hoàn cảnh thực tiễn vận dụng vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta nhằm để tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế, rơi vào tình trạng "bãi rác công nghiệp" của thế giới, dẫn đến cuộc sống đói nghèo, lệ thuộc kinh tế nước ngoài...v.v.
Như vậy đứng trước những yêu cầu đổi mới đang diễn ra trước mắt ta cần khẳng định trong bối cảnh quốc tế hiện nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển chung của thế giới. trình độ công nghiệp hoá hiện đại hoá biểu hiện trình độ phát triển của xã hội. Vì vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn nói riêng là con đường đúng đắn mà đảng ta đã lựa chọn trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của mình, nó là "nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", nó là con đường tất yếu để đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và "nguy cơ tụt hậu" xã hơn so với các nước trong khu vực.
b. Cần làm gì để thực hiện tốt công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn?
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là một quá trình lâu dài cần được tiến hành theo cách tuần tự, không thể nóng vội, không thể tuỳ tiện. Để thực hiện được quá trình này cần có và thực hiện tốt những chương trình mục tiêu, giải quyết từng vấn đề có liên quan sau:
Trước tiên, đó là những chương trình với mục tiêu cụ thể là thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá một cách có trọng điểm ở một số vùng. Tinh thần chung là việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở mỗi vùng trước hết phải do dân cư các vùng đó chủ động thực hiện theo hướng của nhà nước. Nhà nước có thể hỗ trợ nhưng không làm thay, và cũng chỉ hỗ trợ trên cơ sở năng lực nội sinh của mỗi vùng. Các địa phương, dù là vùng trọng điểm, cũng không thể trông chờ vào nguồn tài trợ của nhà nước, không thể cố gắng "xin" của nhà nước càng nhiều càng tốt như trước kia. Hơn nữa, các khoản hỗ trợ của nhà nước cũng phải được tính toán, quyết định trên cơ sở hiệu quả cụ thể, rõ ràng cuối cùng của mỗi dự án. Như vậy, các dự án thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá không thể không gắn với lợi ích của các chủ thể có liên quan tới việc thực hiện nó. Tuy nhiên công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn không chỉ là sự nghiệp của riêng dân cư nông thôn và nhà nước, mà mỗi ngành đều có trách nhiệm nhận thức rõ sự cần thiết của nó để có các chương trình hành động cụ thể, thích hợp. Họ cần nhận thức rõ rằng tham gia thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn không phải là để "giúp nông thôn phát triển" mà cũng chính là vì lợi ích của họ. Chương trình phục vụ công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn của mỗi ngành, mỗi đơn vị phải phù hợp với khả năng của ngành, đơn vị, phải phục vụ những nhu cầu cụ thể của nông nghiệp và nông thôn, đồng thời cố gắng có những địa chỉ áp dụng thu hưởng cụ thể. Chẳng hạn, các viện nghiên cứu, thiết kế và sản xuất đưa ra các thiết bị phục vụ nông nghiệp (làm đất, chăm sóc hoa màu, thu hoạch, bảo quản, chế biến nông sản). Các cơ quan nghiên cứu, chuyển giao công nghệ có thể nghiên cứu, ứng dụng, giới thiệu, chuyển giao các công nghệ mới, kể cả công nghệ sinh học, cây con, công nghệ chế biến, bảo quản nông sản... và thực hiện các dịch vụ kỹ thuật - công nghệ phục vụ nông thôn. Các cơ sở đào tạo các cấp cũng có thể tham gia vào quá trình này vừa bằng cách đào tạo nguồn nhân lực thích hợp cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn vừa hoạt động như một cơ sở tư vấn, phổ biến kiến thức về các lĩnh vực có liên quan tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá thuộc chuyên ngành của mình...
Nhà nước, với chức năng điều phối các hoạt động của toàn xã hội, cần tăng cường hơn nữa các hoạt động riêng rẽ của các ngành, các địa phương, biến các chương trình mục tiêu riêng rẽ thành chương trình mục tiêu liên ngành, đồng bộ, hướng tới những kết quả thiết thực cuối cùng, có khả năng giải quyết vấn đề một cách bền vững, tránh sự mất cân đối không cần thiết. Chẳng hạn trong thời gian qua, khi đưa máy móc vào nông nghiệp, vấn đề tạo việc làm chưa được giải quyết tốt, dẫn đến khó khăn trong việc duy trì các hoạt động đó. Hoặc khi đã tạm giải quyết được vấn đề việc làm, các loại máy móc lại chưa được thiết kế một cách thích hợp; trong khi ruộng đất bị chia ngày càng nhỏ, các loại máy nông nghiệp (làm đất, bơm nước) lại chưa đựơc thiết kế thích hợp. Tương tự, khi vận động nông dân trồng các loại cây chuyên canh, công nghiệp chế biến lại chưa được xây dựng kịp thời, dẫn đến sự thua thiệt hoặc kinh doanh kém hiệu quả (ví dụ các vùng trồng dưa, vải, mận... mà chúng ta đã thấy đề cập nhiều trên báo). Ngược lại, có nơi chủ động xây dựng trước các cơ sở chế biến thì hoặc nguyên liệu không đủ, hoặc nguyên liệu không đồng nhất, hoặc không đáp ứng nhu cầu về chất lượng... làm chúng không hoạt động được.
Nói tóm lại, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là nhiệm vụ to lớn, cấp bách lâu dài và gian khó. Việc thực hiện nó đòi hỏi những nỗ lực chung của toàn xã hội. Sự nghiệp này đòi hỏi chúng ta phải có bước đi, biện pháp và chính sách hợp lý để thực hiện.
Những vấn đề đặt ra để phát triển nguồn nhân lực
Nhìn nhận lại vấn đề phát triển nguồn nhân lực
Xây dựng được con người như thế nào thì sẽ hình thành một quốc gia và xã tắc như thế. Mặt khác, con người tự giác thường là yếu tố quyết định nhất thay đổi xã hội và quốc gia nó đang sống. Sự hưng vong, thịnh suy của một quốc gia gắn liền với những điều mang tính nguyên lý này. Văn minh nhân loại ở nấc thang toàn cầu hóa ngày nay khiến cho việc làm chủ những điều mang tính nguyên lý này càng trở thành đòi hỏi sống còn của mỗi quốc gia và mỗi công dân của nó.
Vì lẽ vừa trình bày, phát triển nguồn nhân lực về thực chất là ngày càng phải làm tốt hơn việc giải phóng con người. Đòi hỏi này cùng một lúc đặt ra hai yêu cầu: Phải tập trung trí tuệ và nguồn lực cho phát triển nguồn nhân lực, mặt khác phải đồng thời thường xuyên cải thiện và đổi mới môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, gìn giữ môi trường tự nhiên của quốc gia.
Vấn đề lớn nhất đặt ra cho nước ta không phải là cái nghèo, suy nghĩ như vậy sẽ không tìm được lối ra. Vấn đề lớn nhất là những thiếu sót trong cách nhìn về giáo dục và đào tạo, là sự phấn đầu chưa đúng tầm của các cơ quan và cá nhân có trách nhiệm; do đó chưa phát huy được tất cả trí tuệ và nguồn lực đất nước có trong tay cho phát triển nguồn nhân lực như một ưu tiên quốc gia hàng đầu – điều này bao gồm cả ý chí xây dựng một thế chế chính trị và đời sống kinh tế - xã hội – văn hóa hướng vào phát huy những giá trị chân chính của con người, trước hết là phát huy tự do và nghị lực sáng tạo của nó. Vấn đề còn là thiếu ý thức kế thừa, phát huy những thành tựu đất nước đã giành được, là chưa khai thác được một cách sáng tạo những thành tựu của văn minh nhân loại (vấn đề tận dụng lợi thế nước đi sau).
Vì thế phải đặt vấn đề phát triển con người và nguồn nhân lực trong một cách nhìn toàn diện.
Ngày nay không thể quan niệm đơn thuần nguồn nhân lực là lực lượng lao động với nghĩa đơn giản là những người làm công ăn lương, những người nông dân ít có điều kiện học hành...
Cuộc sống ngày nay đòi hỏi phải nhìn nhận nguồn nhân lực bao gồm tất cả mọi người thuộc mọi tầng lớp xã hội và nghề nghiệp khác nhau, mọi địa vị xã hội từ thấp nhất đến cao nhất - kể từ người làm nghề lao động đơn giản nhất, nông dân, công nhân, người làm công việc chuyên môn, người làm khoa học, người làm nhiệm vụ quản lý, nhà kinh doanh, người chủ doanh nghiệp, giới nghệ sỹ, người hoạch định chính sách, quản lý đất nước... Tất cả đều nằm trong tổng thể của cộng đồng xã hội, từng người đều phải được đào tạo, phát triển và có điều kiện để tự phát triển. Phải làm tất cả mọi việc để từng người tìm được chỗ đứng và đứng đúng chỗ của mình, chịu sự sàng lọc tất yếu của cuộc sống.
Thử hình dung, bất kể một bộ phận, một tầng lớp hay một giới nào đó, thậm chí một cá nhân riêng lẻ nào đó có ảnh hưởng trong nguồn nhân lực này yếu kém hay bệnh hoạn, sẽ có hệ quả gì? Ví dụ: Nguồn nhân lực cả nước ta làm sao phát huy hết mức trong tình hình một bộ phận của nó, cụ thể ở đây là đội ngũ trong bộ máy quản lý đất nước – một bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực - để cho năm 2005 nước ta xếp hạng thứ 107 về nạn tham nhũng, năm 2006 thứ 111 và năm 2007 thứ 123 (tham khảo báo cáo hàng năm của Transparency International), nhiều doanh nghiệp hàng năm phải dùng tới khoảng 900 giờ làm việc năm riêng cho một việc nộp thuế cho nhà nước, vv... Trình độ kỹ trị của đội ngũ cán bộ trong bộ máy công quyền còn thấp, nên công việc ùn tắc nhiều và gây nhiều lãng phí; chỗ này chỗ kia còn những Bùi Tiến Dũng đủ các loại... Trong tình hình như thế, giả thử có được một đề án 112 tối tân hiện đại nhất thế giới cũng không thay đổi được bao nhiêu….
Thực ra phải nói: Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong bộ máy công quyền hiện nay phải đặt thành một ưu tiên nếu không cao hơn thì ít nhất cũng không kém gì những ưu tiên khác dành cho những bộ phận khác trong lực lượng lao động của cả nước. Đã có không ít tiếng nói trên báo chí và trong dư luận xã hội đòi hỏi phải nâng cao “quan trí”, nâng cao năng lực kỹ trị, nâng cao ý thức công bộc của đội ngũ cán bộ viên chức ăn lương nhà nước. Người ta hay nói nhiều đến ý thức thấp kém của người nông dân, người công nhân – ví dụ tình trạng ăn cắp vật liệu ở công trình nhà máy lọc dầu Dung Quất… Song hiện tượng đáng lo lắng hơn lại là cuộc sống có không biết bao nhiêu ví dụ về tác trách, về vận dụng hay thi hành sai luật pháp và những chính sách đúng đắn·. Rõ ràng có làm tốt được việc đổi mới đội ngũ cán bộ trong bộ máy công quyền, nhiều việc khác mới hy vọng làm tốt được, mọi người khác mới có điều kiện phát huy được mình. Đấy là chưa nói đến những chủ trương, những chính sách không đúng hoặc bất cập – do con người và cơ chế bất cập làm ra.
Nhìn nhận như vậy, quốc sách về phát triển nguồn nhân lực, về phát huy và sử dụng con người và người tài đòi hỏi phải gắn liền với việc đảy mạnh đổi mới trên nhiều phương diện – về lâu dài là đổi mới toàn diện cả thể chế và xã hội trên nền tảng dân tộc vững chắc đã tạo dựng nên tổ quốc Việt Nam của chúng ta.
Với những điều trình bày trên, phát triển nguồn nhân lực ngày nay không thể chỉ đơn thuần một chiều hiểu theo nghĩa phát triển lực lượng lao động như lâu nay thường làm: mở thêm các trường, các cơ sở đào tạo nghề, cải tiến nội dung dạy, đổi mới chính sách lao động tiền lương, cải tiến công tác công đoàn, phổ biến kỹ thuật nông nghiệp cho nông dân, vân vân… Đây chỉ là một khía cạnh nhất định của nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực đối với những bộ phận nhất định người lao động trong cộng đồng dân cư của đất nước.
Đặt vấn đề với cách nhìn toàn diện, có nghĩa phải đồng thời và từng bước làm rất nhiều việc khác – ví dụ những việc đã liệt kê ra được như cải cách hành chính, xóa bỏ chủ quản, xóa bỏ bao cấp.., giảm biên chế, bổ túc và đào tạo lại đội ngũ cán bộ viên chức các cấp, mở rộng và nâng cao đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, người làm chính sách, đổi mới chính sách để phát huy con người và dùng người…; còn biết bao nhiêu việc chưa liệt kê ra được như trong phát huy dân chủ, vận dụng tri thức tiên tiến trong đổi mới thể chế quốc gia, trong hội nhập sân chơi toàn cầu...
Phát triển nguồn nhân lực hiển nhiên đòi hỏi phải đồng thời đổi mới triệt để toàn xã hội hướng thiện - theo những giá trị chân chính – ví dụ, để có một môi trường xã hội trọng công bằng, kỷ cương, đạo đức; pháp luật được coi làm chuẩn mực; xã hội trở thành xã hội học tập..; tất cả theo nghĩa muốn có nguồn nhân lực nào thì cũng phải đồng thời tạo ra môi trường nấy, văn hóa phải trở thành linh hồn dẫn dắt sự phát triển.
Lẽ đương nhiên không thể tạo ra mọi thứ như thế trong một đêm, nhưng cần có cái nhìn toàn diện để xác định cho đúng cái đích cần lựa chọn rồi mới hoạch định những bước đi, những việc làm.
Như vậy không thể có vấn đề phát triển nguồn nhân lực riêng lẻ tách rời khỏi đời sống chung quanh - như trong một xã hội chân không, mà phải nhìn thẳng vào thực tế: Xã hội nào thì nguồn nhân lực nấy, muốn có cái này tốt, cái kia cũng phải làm cùng tốt theo, tất cả phải trên cái nền văn hóa – dân tộc – dân chủ, tất cả phải hội nhập vào bước đi chung của toàn cầu.
Nói ngắn gọn: Tất cả hướng vào cái đích là có được một nguồn nhân lực phát triển trong một môi trường thân thiện với phát triển. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đúng khi đã nói tới ý nghĩa đổi mới giáo dục thực chất là một cuộc cách mạng chấn hưng đất nước.
4. Các giải pháp chủ yếu để phát triển nguồn nhân lực để phát phục sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa
4.1. Giải pháp nâng cao nhận thức.
Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Để thực hiện được nhiệm vụ “… nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế tri thức” mà Đại hội Đảng lần thứ X đề ra, cần phải sử dụng một hệ thống giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung vào những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục và đào tạo. Giáo dục và đào tạo được coi là khâu then chốt, quyết định chất lượng nguồn nhân lực. Đảng ta xác định “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”(5).
Xuất phát từ vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo đối với tiến trình bồi dưỡng nguồn nhân lực, cần thiết phải nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở tất cả các bậc học. Trong đó, bước quan trọng đầu tiên là phải có sự đổi mới cả về mục tiêu, chương trình và phương pháp dạy học từ bậc phổ thông đến đại học nhằm đảm bảo cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản làm nền tảng cho hoạt động thực tiễn sau này của họ. Phương pháp dạy học phải xuất phát từ mục tiêu đào tạo, gắn với nội dung và phù hợp với điều kiện của học sinh; rèn luyện và tạo điều kiện cho học sinh biểu đạt vấn đề theo quan điểm và cách nhìn của mình, tạo thói quen suy nghĩ độc lập cho người học. Có chính sách đầu tư hợp lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho giáo dục và đào tạo, đặc biệt là về đội ngũ giáo viên; đồng thời, hoàn thiện mạng lưới giáo dục trên toàn quốc, chú trọng đầu tư phát triển vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ điều kiện đáp ứng được yêu cầu giảng dạy, phân công lại lực lượng giáo viên theo các vùng miền cho phù hợp, có chính sách ưu đãi đối với giáo viên hiện đang công tác ở những vùng khó khăn.
Chuẩn hoá đội ngũ giảng viên, đảm bảo sự kết hợp giữa kiến thức chuyên môn với phương pháp sư phạm hiện đại, có tư cách đạo đức tốt, phương pháp tư duy khoa học… Các cơ quan quản lý giáo dục, trước hết là Bộ Giáo dục và Đào tạo, cần xây dựng lộ trình triển khai chuẩn hoá giảng viên cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, cần tăng cường giao lưu và hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo với các nước có nền giáo dục phát triển. Đồng thời, Nhà nước cần có sự đầu tư thoả đáng nhằm hoàn thiện cơ sở vật chất phục vụ công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu ở các trường cao đẳng và đại học, như hệ thống phòng thí nghiệm, thư viện, giảng đường.
Bên cạnh đó, cần chuẩn hoá chương trình và giáo trình đào tạo đảm bảo phù hợp với yêu cầu của thực tiễn xã hội, xác định ngành nghề mũi nhọn nhằm đào tạo đội ngũ chuyên gia có trình độ cao. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học của giảng viên và sinh viên. Đây là một yêu cầu bắt buộc đối với chương trình đại học và cao đẳng. Các đề tài nghiên cứu phải có tính thực tiễn cao. Khắc phục tình trạng phiến diện, chỉ giỏi về lý thuyết nhưng lại kém về thực hành – một thực tế khá phổ biến mà sinh viên nước ta đang mắc phải. Đổi mới công tác quản lý giáo dục một cách cơ bản và toàn diện cả về tư duy lẫn phương thức quản lý theo hướng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo. Tập trung vào quản lý nội dung và chất lượng giáo dục và đào tạo, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo. Nhà nước cần giao quyền tự chủ hơn nữa cho các trường đại học và cao đẳng để các trường có điều kiện chủ động trong việc hợp tác quốc tế và nghiên cứu khoa học.
Thứ hai, cải thiện và nâng cao thể lực cho con người nói chung và lực lượng lao động nói riêng.
Bên cạnh việc nâng cao trình độ văn hoá và chuyên môn thì nâng cao thể lực cho người lao động là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, tạo nền tảng cho việc phát triển trí lực, tâm lực của nguồn nhân lực. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược và lâu dài. Vì vậy, cần phải đảm bảo mức dinh dưỡng cần thiết cho con người ở mọi lứa tuổi, khuyến khích đẩy mạnh phong trào rèn luyện thể dục thể thao trong nhân dân… Chú trọng phát triển công nghiệp dược đủ khả năng đáp ứng được nhu cầu của nhân dân. Đẩy mạnh nghiên cứu dự báo về y tế, các chương trình khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em, phòng chống dịch bệnh, đặc biệt là các bệnh có khả năng lây lan nhanh. Thực hiện có hiệu quả công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân, nâng cao tuổi thọ… góp phần phát triển nguồn nhân lực có chiều sâu.
Thứ ba, khai thác và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực.
Nhà nước cần nghiên cứu và đánh giá đầy đủ, chính xác về thực trạng cơ cấu nhân lực ở từng giai đoạn, làm rõ các nguồn nhân lực thừa và nhân lực thiếu, xác định nguyên nhân của tình trạng trên; từ đó, áp dụng các chính sách và công cụ đòn bẩy phù hợp nhằm khai thác, sử dụng hợp lý và hiệu quả nguồn nhân lực. Đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân luồng trong đào tạo, hướng nghiệp cho học sinh, qua đó tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực, phù hợp với nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh đó, cần có các chính sách ưu đãi, hỗ trợ nhằm thu hút nguồn nhân lực từ nơi thừa sang nơi thiếu; từ thành phố, đồng bằng lên vùng sâu, vùng xa. Trước mắt, cần có kế hoạch sử dụng triệt để và hiệu quả lực lượng lao động đã qua đào tạo, tránh tình trạng lãng phí như hiện nay (không bố trí được công ăn việc làm, sử dụng trái ngành nghề đào tạo,…).
Thứ tư, tăng cường công tác dự báo nguồn nhân lực.
Cần nghiên cứu đánh giá thực trạng cơ cấu nhân lực hiện có cũng như dự báo về nhu cầu nhân lực ở các ngành, lĩnh vực khác nhau nhằm chủ động tránh tình trạng thừa và thiếu nhân lực. Tăng cường công tác dự báo phát triển nguồn nhân lực trên phạm vi vùng, ngành và quốc gia đảm bảo sự phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Nhiệm vụ này cần được tiến hành thường xuyên để có sự điều chỉnh cho phù hợp với những thay đổi của thực tiễn cuộc sống.
Thứ năm, xây dựng chính sách tiền lương hợp lý.
Chính sách tiền lương hợp lý là một trong những động lực quan trọng kích thích người lao động nâng cao trình độ của mình để đáp ứng được nhu cầu của công việc, đảm bảo tăng thu nhập và ổn định đời sống. Lợi ích là khâu nhạy cảm nhất vì mọi hoạt động của con người đều nhằm đạt mục tiêu là lợi ích. Nó là yếu tố quan trọng đối với việc thúc đẩy tính tích cực, sáng tạo của con người. Có nhiều loại lợi ích khác nhau, trong đó lợi ích kinh tế là lợi ích cơ bản, hàng đầu. Vì vậy, chính sách tiền lương, tiền công phải đảm bảo nguyên tắc công bằng xã hội, tránh tình trạng giải quyết lợi ích theo kiểu bình quân chủ nghĩa.
Tóm lại, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế tri thức như Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra, chúng ta cần phải thực hiện đầy đủ và đồng bộ các giải pháp. Giữa các giải pháp có mối quan hệ chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau, coi nhẹ hoặc bỏ qua một giải pháp nào đó sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu quả của các giải pháp khác.r
(*) Phó trưởng khoa Khoa học cơ bản, Trường Cao đẳng Phát thanh Truyền hình I.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.94-95.
4.2 Giải pháp cơ chế chính sách.
Chính sách chung:
Đại hội XI và giải pháp phát triển nguồn nhân lực
Để phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, Đại hội XI cũng nêu ra một số giải pháp căn bản.
- Một là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống giá trị của con người Việt Nam trong thời đại mới
Tiếp tục cụ thể hoá quan điểm của Đại hội X (2006) về sự cần thiết phải “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam” [11] thời kỳ mới, tại Đại hội XI, Đảng ta đã nêu ra những tiêu chí, những chuẩn mực của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cần phải chăm lo xây dựng để có nguồn nhân lực chất lượng cao. Những chuẩn mực đó là: “Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi, sống có văn hoá, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính” [12], có khả năng sáng tạo và ứng dụng khoa học - công nghệ vào quá trình lao động sản xuất và quản lý.
Yêu nước là truyền thống quí báu của dân tộc ta từ ngàn xưa và đã được phát huy cao độ trong thời đại Hồ Chí Minh. Trong thời đại mới hiện nay, truyền thống yêu nước của dân tộc càng phải được giữ gìn, phát huy và bổ sung thêm những nội dung mới – đó là không cam chịu đói nghèo, là phải xây dựng đất nước phồn vinh, là “sánh vai với các cường quốc năm châu” và phải có tinh thần quốc tế chân chính. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng yêu nước chính là sức mạnh to lớn, là điểm tương đồng tạo ra sự đồng thuận xã hội, từ đó khơi dậy và phát huy sức mạnh của người Việt Nam ở trong nước, cũng như ở nước ngoài cùng chung sức, chung lòng, phát huy tài năng và trí tuệ xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh.
Trong thời đại hiện nay, những hoạt động lao động sản xuất nếu không được đào tạo mà chỉ bằng kinh nghiệm, bằng vốn sống thì năng suất lao động sẽ rất hạn chế, kém hiệu quả. Vì vậy, con người Việt Nam trong thời đại mới phải nêu cao tinh thần trách nhiệm công dân để không ngừng học tập, trau dồi tri thức; có ý thức và năng lực làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, nhất là phải có khả năng làm chủ khoa học - công nghệ, vận dụng đúng đắn, thành thạo các kỹ thuật, công nghệ mới hiện đại, các tri thức khoa học để lao động sản xuất giỏi. Hơn nữa, để đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao đó, với cường độ lao động lớn, đòi hỏi mỗi người phải có ý thức rèn luyện sức khoẻ, nâng cao thể lực để đủ sức lao động trong môi trường cạnh tranh gay gắt.
Con người Việt Nam hiện nay ngoài lao động giỏi, trình độ cao..., còn phải coi trọng rèn luyện phẩm chất đạo đức, sống có nghĩa tình, có văn hoá, có lý tưởng. Đó là những giá trị truyền thống của dân tộc còn nguyên giá trị và cần phải được tiếp tục phát huy, nhất là đối với thế hệ trẻ Việt Nam, bởi vì tương lai của đất nước đặt lên vai thế hệ trẻ.
- Hai là, đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân
Để phát triển nhanh nguồn nhân lực cả về lượng và chất, Đại hội XI chỉ rõ phải đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt [13].
Việc khẳng định đổi mới cơ chế quản lý giáo dục là khâu then chốt xuất phát từ thực trạng giáo dục - đào tạo của Việt Nam và yêu cầu mới của thời đại đối với giáo dục - đào tạo. Trong nhiều năm qua mặc dù giáo dục nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định, song nhìn chung, giáo dục Việt Nam chưa theo kịp trình độ phát triển của giáo dục thế giới, thậm chí nhiều tiêu cực nảy sinh và phát triển mạnh trong hệ thống giáo dục. Việc thành lập hệ thống các trường cao đẳng, đại học dưới nhiều hình thức mọc ra như nấm nhưng chương trình và chất lượng đạo tạo dường như khó kiểm soát, dẫn đến hiện tượng tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục – dào tạo, “học giả”, bằng thật diễn ra khá phổ biến... gây bức xúc trong dư luận xã hội. Do vậy, đây là điểm nút cần phải được tháo gỡ một cách nhanh chóng và chỉ khi nào giải quyết tốt điểm nút này thì giáo dục Việt Nam mới có điều kiện và môi trường pháp lý để phát triển lành mạnh.
Đội ngũ giáo viên các cấp và cán bộ quản lý giáo dục là những chiếc “máy cái” trong hệ thống giáo dục. Chất lượng, nhân cách, phẩm chất đạo đức và lý tưởng của đội ngũ này như thế nào ảnh hưởng to lớn và trực tiếp đến sản phẩm mà họ đào tạo ra – đó chính là những con người, những công dân xây dựng xã hội. Do vậy, phát triển đội ngũ này một cách toàn diện thực sự là một trong những khâu then chốt hàng đầu. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời.
- Ba là, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội
Chất lượng của nguồn nhân lực phải được đánh giá một cách toàn diện cả về thể lực, trí tuệ, đạo đức, nhân cách, phẩm chất... của con người. Nhận thức rõ điều đó, tiếp tục quan điểm của Đại hội X, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con người Việt Nam”. Trong đó, lĩnh vực y tế đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Do vậy, tại kỳ Đại hội này, Đảng ta đã tập trung chỉ đạo sát sao và cụ thể hoá hơn những hoạt động của lĩnh vực này nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả chăm sóc sức khoẻ nhân dân, đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập, cạnh tranh gay gắt và cường độ lao động cao.
Trong xã hội tất yếu còn một bộ phận quần chúng nhân dân đời sống còn rất nhiều khó khăn vì những nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan. Với truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa tương thân tương ái của người Việt Nam, Đảng ta khẳng định “tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống” [14]. Trên vấn đề này, tại Đại hội XI, Đảng ta đã đề cập một hệ thống các quan điểm và chính sách khá đồng bộ và toàn diện nhằm tạo hành lang pháp lý và điều kiện kinh tế, xã hội cần thiết cho việc phát triển một hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội hiệu quả và bền vững.
Tóm lại, những điểm mới trong tư duy của Đảng về chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam được nêu trong Đại hội XI một mặt là sự tiếp nối những quan điểm, tư tưởng nhất quán của Đảng về vấn đề này tại các kỳ Đại hội trước, mặt khác là sự bổ, sung, phát triển, cụ thể hoá hơn để triển khai có hiệu quả trong thực tế nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đại hội đề ra.
- bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho nhân dân, Chiến lược lần này đã đề cập một hệ thống các quan điểm và chính sách tương đối đồng bộ và toàn diện làm cơ sở cho việc phát triển một hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội hiệu quả, bền vững.
- Mở rộng, phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương.
- Phải coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. (Vì mục tiêu cuối cùng là vì con người)
- Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nhanh, bền vững. Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu; vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững; từ tăng trưởng chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và sử dụng lao động giá rẻ sang tăng trưởng chủ yếu do áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ công nghệ cao, có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh lớn gắn với phát triển kinh tế tri thức; gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường...
[11] Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H., 2006, tr.106
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_trien_nguon_nhan_luc_069.doc