Đề tài Phát triển thị trường cho mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty Mỹ thuật Trung ương

Độc quyền bán là một thị trường trong đó chỉ có một người bán nhưng có nhiều người mua. Thị trường này có những đặc điểm sau: - Một người bán và nhiều người mua - Sản phẩm là độc nhất, không có hàng thay thế gần gũi - Có sức mạnh thị trường: là quyền định giá và sản lượng bán - Việc gia nhập thị trường là cực kỳ khó khăn, có trở ngại rất lớn. Độc quyền mua là một thị trường trong đó có nhiều người bán nhưng chỉ có một người mua. Khi thị trường có một người mua thì thị trường có độc quyền mua. Đó là khả năng thay đổi giá của hàng hoá, cho phép người mua có thể mua hàng ở mức thấp hơn giá trong thị trường cạnh tranh

doc60 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1286 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển thị trường cho mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty Mỹ thuật Trung ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mẫu đó. Khi thị trường xuất khẩu càng mở rộng, điều này sẽ gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp bởi tính độc đáo của sản phẩm không còn và dễ xảy ra cạnh tranh không lành mạnh. Nhiều doanh nghiệp đã nhận thức được những vấn đề nêu trên, nhưng việc đăng ký thương hiệu cho sản phẩm thủ công không hề dễ dàng. Nếu đăng ký một nhãn hiệu chung cho cả lô thì rất dễ bị làm nhái, còn đăng ký kiểu dáng cho từng sản phẩm thì doanh nghiệp không thể theo kịp hoặc tốn rắt nhiều chi phí vì hàng thủ công phải thường xuyên thay đổi mẫu mã. Vì vậy, hiện nay chỉ có một số ít các doanh nghiệp là có đăng ký nhãn hiệu, kiểu dáng cho những mặt hàng truyền thống lâu năm để xuất khẩu. Đối với các nhà quản lý hiện nay cũng chưa thực sự có biện pháp hữu hiệu để bảo hộ mẫu mã cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ, vì việc xét duyệt đăng ký kiểu này chưa xong, cơ sở đã cho ra kiểu mới. Bên cạnh đó, vấn đề nguyên liệu đầu vào cũng là một vấn đề khó khăn. Nguồn tài nguyên thì ngày càng cạn kiệt, lại được bán thô qua Trung Quốc nên nguyên liệu vốn đã thiếu lại càng thiếu. Nguyên liệu thực vật, do được xử lý chưa tốt, thường biến dạng khi có thay đổi về thời tiết, thậm chí phát sinh mốc, mọt ngay trên đường vận chuyển. Nhiều mặt hàng về gỗ của chúng ta khi đem ra các nước châu âu( các nước có thời tiết khô) rất dễ bị nứt nẻ. Có thể nói các sản phẩm chất lượng còn kém và chưa đồng đều. Sản xuất phân tán góp phần làm cho khâu hoàn thiện sản phẩm trở nên không đồng đều, lô tốt lô xấu lẫn lộn . Hoạt động sản xuất kinh doanh còn mang tính tự phát, thiếu sự tổ chức hướng dẫn của các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp lớn. Hiện nay, cả nước có hàng nghìn làng nghề sản xuất thủ công mỹ nghệ(riêng sản xuất đồ gỗ gia dụng có khoảng 1000 làng nghề). Các cơ sở sản xuất thì chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc là hộ sản xuất kinh doanh vốn ít, không đủ điều kiện để đổi mới công nghệ, máy móc, thiết bị; thiếu thông tin về thị trường về cả trong và ngoài nước. Công nghệ lạc hậu, vốn ít, hoạt động mang tính tự phát đã dẫn đến một vấn đề mang tính xã hội. Tình trạng ô nhiễm môi trường khá phổ biến ở các nơi sản xuất. Vấn đề môi trường không chỉ ảnh hưởng tới những người lao động mà còn ảnh hưởng tới cả người dân sống trong vùng. Có thể thấy ở làng gốm Bát Tràng một làng sản xuất gốm khá nổi tiếng ở nước ta. Với diện tích sản xuất khoảng 43ha/164 ha của toàn xã (không gian khá chật hẹp), nhưng lại có đến 1400 lò hộp và lò ga thường xuyên hoạt động, có khoảng 2430 lao động xã và 5500- 6000 lao động từ nơi khác đến. Nhiệt độ của vùng cao, khí CO2 (một loại khí độc hại), bụi được thải ra khá nhiều gây ảnh hưởng tới sức khoẻ của người dân trong vùng. Sản xuất ra một tấn sản phẩm thì thải ra 1,4 tấn xỉ- 0,8 tấn bụi- 0,14 tấn phế phẩm. Theo ước tính mỗi ngày ở nơi đây 1,4 tấn bụi và 11,99 tấn CO2. Đối với nơi tiêu thụ Thị trường trong nước Có thể thấy thị trường trong nước hiện nay còn khá nhiều bất cập trước yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và những đòi hỏi khắt khe của việc hình thành một thị trường lưu thông hàng hoá, dịch vụ theo hướng văn minh hiện đại phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thị trường mặt hàng thủ công mỹ nghệ trong nước còn xuất hiện những bất ổn về quan hệ cung cầu (cung lớn hơn cầu). Mặt hàng chỉ chủ yếu được tiêu thụ ở thành thị, ở các khu vực nông thôn sức mua còn kém. Và đây là mặt hàng trang trí ( không phải là mặt hàng thiết yếu) lại có nhiều hàng hoá thay thế nên đa số cầu tập chung vào những người có thu nhập cao. Hơn nữa, hàng hóa của Việt Nam lại đang phải cạnh tranh với một lượng lớn hàng hoá của Trung Quốc. Đây là những mặt hàng có chất lượng không tốt nhưng hình thức đẹp, giá rẻ, phù hợp với thu nhập của đại đa số người dân. Nhìn chung sức tiêu thụ mặt hàng này trong nước còn yếu, cần có những mục tiêu, nhiệm vụ về phát triển thị trường trong nước trong những năm tới. Để thị trường trong nước giữ vai trò quan trọng là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển và là nhân tố quyết định đẩy mạnh xuất khẩu cần phải giữ cho thị trường trong nước ổn định, văn minh phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra, thị trường tiêu thụ còn có thị trường du lịch. Đây cũng là một thị trường hết sức quan trọng, là một thị trường tiềm năng cần khai thác nhiều hơn. Hiện nay, lượng khách du lịch vào nước ta ngày càng đông, điều này cũng có nghĩa là cầu của mặt hàng thủ công mỹ nghệ càng tăng. Vì sản phẩm thủ công mỹ nghệ mang tính nghệ thuật cao, tính đặc thù của văn hoá Việt, nên khách du lịch rất thích để mua làm quà. Thực tế cho thấy các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của chúng ta tiêu thụ trong nước chủ yếu là bán cho khách du lịch. 1.2.2 Thị trường nước ngoài Trước đây thị trường của chúng ta chủ yếu là các nước Đông âu, các nước Liên Xô cũ. Trong giai đoạn mở cửa hội nhập hiện nay, sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đã có mặt và có chỗ đứng ở nhiều nước trên thế giới. Nhưng khách hàng chủ đạo vẫn là các nhà nhập khẩu và các nhà phân phối. Bảng 4: Số lượng thị trường nước ngoài của sản phẩm Năm 1990-1997 2000 Tỷ lệ tăng 2000 so với giai đoạn trước 2002 Tỷ lệ tăng năm 2002/2000 Quốc gia 50 100 50 133 33 Nguồn: Làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà nội- 2004 Bảng 5: Giá trị xuất khẩu một số sản phẩm năm 2002- 2003 Mặt hàng 2002 2003 Lượng trị giá (1000 USD) Lượng trị giá (1000 USD) Gốm sứ 123480 336757 Mây tre cói 107921 Sơn mài, mỹ nghệ 50996 Thảm 5344 Thêu 52673 Nguồn: Kỷ yếu xuất nhập khẩu hàng hoá Việt Nam 2002, nhà xuất bản thống kê- 2004 Giá trị xuất khẩu của các sản phẩm trong những năm gần đây đều cao. Tiêu biểu là mặt hàng mây tre đan có tổng giá trị xuất khẩu là 107921 (1000 USD) trong đó chủ yếu là xuất sang Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan; sản phẩm gốm sứ có tổng giá trị xuất khẩu là 123480 (1000 USD); sơn mài mỹ nghệ là 50996 (1000 USD); sản phẩm thêu là 52673 (1000 USD). Cụ thể giá trị xuất khẩu của từng thị trường như sau Bảng 6: Giá trị xuất khẩu các sản phẩm ở một số thị trường chính năm 2002 Mây tre, cói: 107921 (1000 USD) Gốm sứ: 123480 (1000 USD) stt Thị trường Giá trị xuất khẩu (1000 USD) stt Thị trường Giá trị xuất khẩu (1000 USD) 1 Nhật Bản 23330 1 Đức 19813 2 Hồng Kông 12645 2 Pháp 12477 3 Đài Loan 10392 3 Anh 12300 4 Đức 7493 4 Mỹ 11011 5 Pháp 5806 5 Hà Lan 10451 6 Tây Ban Nha 4880 6 Nhật Bản 9284 7 Mỹ 4665 7 Ôxtrâylia 6966 8 Hàn Quốc 4143 8 Hàn Quốc 4583 Sơn mài mỹ nghệ: 50996 (1000 USD) Thêu: 52673 (1000 USD) stt Thị trường Giá trị xuất khẩu (1000 USD) stt Thị trường Giá trị xuất khẩu (1000 USD) 1 Pháp 30656 1 Nhật Bản 25553 2 Hồng Kông 8720 2 Đài Loan 6774 3 Ôxtrâylia 3459 3 Mỹ 5008 4 Nhật Bản 3242 4 Hàn Quốc 3410 5 Hàn Quốc 1683 5 Đức 2986 6 Mỹ 1040 6 ý 1610 7 Thái Lan 951 7 Anh 1571 8 ý 251 8 Pháp 891 Nguồn: Kỷ yếu xuất nhập khẩu hàng hoá Việt Nam 2002, nhà xuất bản thống kê- 2004 Thị trường của mặt hàng tương đối lớn, nhưng nhìn chung có thể phân chia thành những nhóm thị trường chính như sau: Thị trường Nga và các nước SNG. Đây là thị trường truyền thống của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam. Các nước này từng một thời là thị trường rất rộng lớn đối với Việt Nam. Từ sau 1990, do biến động kinh tế, chính trị nên việc xuất hàng qua khu vực này bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Mấy năm trở lại đây, thị trường này từng bước được khôi phục. Đây là thị trường khá dễ tính và quen thuộc đối với các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam, nếu được khôi phục sẽ tạo ra sức hút lớn đối với doanh nghiệp. Bởi thực tế, Việt Nam đã xuất hàng qua thị trường này từ hồi bao cấp, hầu như phía bạn không đòi hỏi gì nhiều về chất lượng kiểu dáng sản phẩm, chủ yếu là nhập hàng giá rẻ. Thị trường Nhật Bản Nhật Bản là nước có nhu cầu lớn nhất đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam, trong suốt 10 năm qua. Đó là các mặt hàng đồ gỗ, gốm sứ, mây, tre, lá. Hàng năm người Nhật nhập khẩu đồ gốm sứ từ các nước khác lên tới 80 triệu USD, trong đó nhập từ Việt Nam khoảng 60 triệu USD. Ngoài ra, không ít các sản phẩm như thảm len, các loại hàng thủ công cỡ nhỏ, đồ nội thất bằng mây tre của các nước đang chiếm ưu thế trên thị trường Nhật trong những năm gần đây. Mặc dù là thị trường lớn nhưng hàng Việt Nam hiện chỉ chiếm 1,45% trong tổng kim ngạch hàng nhập khẩu của Nhật. Đây là con số khá khiêm tốn. Tuy nhiên thì hiện nay người tiêu dùng Nhật khá ưa chuộng hàng thủ công mỹ nghệ và đồ lưu liệm nhập khẩu từ Việt Nam. Và theo một số ý kiến thì hình thành “mốt” mua hàng tạp hoá của Việt Nam tại Nhật. Đây đúng là thời điểm thích hợp để các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào thị trường khó tính này. Thị trường Mỹ Đến nay, hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có mặt tại Mỹ chủ yếu qua các kênh mua hàng đơn lẻ và các cửa hàng kinh doanh bán lẻ. Các hệ thống phân phối lớn ở Mỹ chưa nhập hàng hoặc nếu có nhập hàng thì nhập qua nước thứ 3 chứ chưa quan hệ trực tiếp với các doanh nghiệp Việt Nam. Người tiêu dùng Mỹ không đòi hỏi những sản phẩm mây tre cầu kỳ hay có tính mỹ thuật cao, nhưng đặc biệt quan tâm tới tính tiện ích của sản phẩm. Các nhà nhập khẩu Mỹ cũng không thích làm ăn với các công ty thương mại đơn thuần ở các nước xuất khẩu, mà thích quan hệ trực tiếp với nhà sản xuất. Trên thực tế, nhiều công ty nhập khẩu Mỹ đến nước ta mua hàng của các công ty thương mại, nhưng sau đó lại tự tìm đến các cơ sở sản xuất để mua hàng. Thị trường Mỹ có nhu cầu rất lớn đối với mặt hàng gốm sứ và đồ dùng bằng gỗ nguyên liệu lâm sản. Xét riêng đối với hàng gốm sứ, năm 1997 Mỹ nhập khẩu 3,1 tỷ USD và dự báo hàng năm tăng từ 7%-15%. Năm 1998, Trung Quốc xuất khẩu vào thị trường Mỹ 756 triệu USD hàng gốm sứ. Trong khi đó nước ta chỉ xuất khẩu được một số chủng loại, đạt kim ngạch 2,5 triệu USD tăng gấp đôi năm 1997. Tương tự như vậy đối với mặt hàng gỗ mỹ nghệ, năm 1999 tổng giá trị nhập khẩu các loại đồ dùng làm từ gỗ, nguyên liệu lâm sản khác của Mỹ là 20,4 tỷ USD ( kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ, mây tre đan là 5,5 tỷ USD, ghế các loại có khung gỗ là 4,9 tỷ USD) nhưng tổng giá trị nhập khẩu từ các doanh nghiệp Việt Nam chỉ ở mức 4 triệu USD ( trong đó đồ gỗ, mây, tre chiếm 2,9 triệu USD, ghế các loại có khung là 0,7 triệu USD). Nguyên nhân là mặt hàng này khi xuất sang Mỹ phải chịu mức thuế xuất nhập khẩu rất cao vì chưa được hưởng quy chế MFN. Thị trường Mỹ là một thị trường tiêu thụ lớn và có thể thu lợi ích xuất khẩu cao, nhưng chế độ mậu dịch chặt chẽ và khả năng tiếp cận thị trường bị hạn chế. Do đó, các sản phẩm của chúng ta khi xuất sang thị trường này phụ thuộc nhiều vào chính sách mậu dịch của Mỹ, nhất là việc áp dụng quy chế Tối huệ quốc đối với các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam. Trước đây để thâm nhập vào thị trường này hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam chủ yếu là phải thông qua các nước trung gian như Đài Loan, Hồng Kông Tuy vậy, sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam hiện nay vẫn được các doanh nghiệp nhập khẩu và người tiêu dùng Mỹ đánh giá cao về chất lượng và mẫu mă. Sau khi hiệp định Việt- Mỹ được ký kết ngày 13/7/2000, đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ kinh tế- thương mại giữa hai nước. Cũng từ đây các doanh nghiệp và hàng hoá của Việt Nam có điều kiện thuận lợi mở rộng thị trường, đặc biệt là thị trường Mỹ. Khi Hiệp định được thực thi, các hàng rào thuế quan và phi thuế quan được cắt giảm đáng kể. Các hàng hoá Việt Nam xuất sang thị trường Mỹ (gồm 42) mặt hàng khi đã được hưởng MFN sẽ giảm từ 35% xuống còn 4,9%. Nhưng sau khi Việt Nam và Mỹ thực hiện việc cắt giảm thuế quan và giảm thiểu các biện pháp phi thuế quan thì Việt Nam phải đối mặt với một vấn đề là sự cạnh tranh của hàng hoá cùng loại ở trên thị trường Việt Nam và thị trường Mỹ. Năm 2003, xuất khẩu hàng mây tre của Việt Nam vào thị trường Mỹ đạt 31,2 triệu USD, chiếm khoảng gần 10% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre của cả nước. Tại thị trường Mỹ, hàng mây tre của nước ta đứng thứ 8 về giá trị sau các nước Trung Quốc, Philippin, Inđônêxia, ấn Độ, Canada Hàng mây tre của Việt Nam vào Mỹ có mức thuế 5%, một số sản phẩm được miễn thế như chiếu cói, thảm, mành làm từ song mây Hàng mây tre của Việt Nam đang gặp phải sự cạnh tranh không nhỏ từ sản phẩm cùng loại của Philippin, Inđônêxia, Thái Lan và một số nước khác đang được hưởng mức thuế suất bằng 0. Nhìn chung hàng mây tre của Việt Nam vào Mỹ không cần phải giấy phép nhập khẩu, nhưng lại bị điều chỉnh bởi một số luật khác trong đó có Luật kiểm dịch thực vật, Luật về các loài có nguy cơ tuyệt chủng, Công ước quốc tế về động thực vật hoang dã. Các cơ quan chức năng của Mỹ có thể còn yêu cầu bên xuất khẩu phải đảm bảo rằng lô hàng xuất đi không được sản xuất từ những thực vật có nguy cơ tuyệt chủng hoặc những thực vật có chứa mầm bệnh gây hại cho nông nghiệp và môi trường sinh thái. Thị trường EU Theo đánh giá của các nhà chuyên môn, EU là thị trường có tiềm năng lớn đối với hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam, trong đó tập chung vào một số loại sản phẩm chính là đồ gỗ mỹ nghệ, đồ gốm sứ, các mặt hàng mây tre đan. Những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm đồ gỗ gia dụng của nước ta tăng tới 50%/năm. EU là thị trường tiêu thụ lớn nhất các sản phẩm này của Việt Nam, trong đó Pháp đứng đầu với 29,1%; Anh 24,3%; Italia 12,6%; Hà Lan 9%; chiếm 4% là các nước Bỉ, Đan Mạch, Đức, áo, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển Phân tích thị phần của công ty. Công ty Mỹ thuật Trung ương kể từ ngày thành lập ngày 12/5/1978 đến nay đã nhiều năm được vinh dự là một trong 3 Công ty cấp 1 trực thuộc Bộ văn hoá- thông tin. Với các chức năng chính là: Lập dự án đầu tư, khảo sát thiết kế, sáng tác thi công các tượng đài, tranh hoành tráng, tranh nghệ thuật lịch sử, bảo tàng, sản xuất kinh doanh các mặt hàng mỹ thuật, mỹ nghệ, vật tư thiết bị chuyên ngành mỹ thuật văn hoá, trang trí nội thất Hiện nay, trụ sở chính của công ty đặt tại số 1 Giang Văn Minh- Ba Đình – Hà Nội. Bảng 7: Tài sản và vốn của công ty Mỹ thuật Trung ương (1/1/2000) Mã đơn vị Lao động Tổng tài sản (triệu đồng) Vốn kinh doanh (triệu đồng) 909128 141 13914 4285 Nguồn: số liệu về tài sản và vốn của doanh nghiệp nhà nước (1/1/2000) Hà Nội, 2001 2.1 Phân tích về sản phẩm của công ty trên thị trường hiện nay Phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại thời kỳ1996- 2010 của Việt Nam là tiếp tục mở rộng hoạt động ngoại thương theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, tích cực hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới. Đây vừa là thời cơ cũng vưà là thác thức đòi hỏi các cơ quan quản lý cũng như các doanh nghiệp phải có các định hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu và các biện pháp phù hợp hoàn thiện chính sách ngoại thương, nhằm thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, năm 1996 công ty đã thành lập phòng kinh doanh xuất nhập khẩu. Công việc chính của phòng là xuất khẩu, nhập khẩu dưới hình thức trực tiếp và uỷ thác các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, các sản phẩm chuyên ngành văn hoá. Hiện tại công ty không sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ nhưng lại có rất nhiều bạn hàng là các cơ sở sản xuất, các làng nghề thông qua công ty để xuất khẩu sản phẩm của mình. Công ty nhận xuất khẩu uỷ thác cho rất nhiều các cơ sở sản xuất, với rất nhiều các mặt hàng: gốm, mây tre đan, thảm tranh thêu, sơn mài, sơn dầu, sừng, đá, bạc trong đó chủ yếu là gốm Bát Tràng. Các làng nghề, cơ sở sản xuất chính của công ty hiện nay: Làng nghề mây tre đan Phú Vinh (xóm Thượng- Phú Vinh- Phú Nghĩa- Chương Mỹ- Hà Tây): chuyên sản xuất các sản phẩm mây độc đáo, mang tính nghệ thuật cao. Đỗ Xuân Thi- phụ trách. Cơ sở sản xuất tranh ghép gỗ ADZ (số 1 Lý Nam Đế- Hà Nội) Cơ sở sản xuất Độ Vân (Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội) Xí nghiệp mộc mỹ nghệ hợp thịnh (Đồng Kỵ- Đồng Quang- Từ Sơn- Bắc Ninh). Giám đốc: Ngô Minh Hải Cơ sở đục khắc, tượng gỗ, đá mỹ nghệ truyền thống Thanh Bình (làng Dư Dụ- Hà Tây). Nguyễn Liên Bình- chủ cơ sở Hợp tác xã khảm Ngọ Hạ (xã Chuyên Mỹ- Phú Xuyên- Hà Tây). Nguyễn Thị Vui- chủ nhiệm. Xưởng tranh tre Việt Nam (Mai Hiên- Mai Lâm- Đông Anh- Hà Nội). Nguyễn Kim Xuân- Giám đốc. Tổ hợp sản xuất hàng guột- mây tre- lá xuất khẩu Thành Công (thôn Lưu Thượng- xã Phú Túc- Phú Xuyên- Hà Tây Làng nghề mây tre Bình Phú ( Bình Phú- Thạch Thất- Hà Tây) Làng nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống (Thôn Trung- xã Chuyên Mỹ- Phú Xuyên- Hà Tây) Cơ sở sản xuất mây tre đan (đại Lộ- Ninh Sở- Thường Tín- Hà Tây) Ngoài ra còn có rất nhiều các công ty TNHH, các cửa hàng xuất khẩu mặt hàng này thông qua công ty: Hạnh Phương handicraft (tầng 1 trung tâm VKO, triển lãm Giảng Võ) cung cấp các mặt hàng thủ công mỹ nghệ tinh xảo Công ty TNHH Tân Hưng (2B- Xuân Hoà- Mê Linh- Vĩnh Phúc) Công ty TNHH Thịnh Tài (53 Hàng Lược- Hà Nội) Có thể thấy nguồn cung ứng của công ty hiện khá lớn. Sản phẩm mây tre đan : nguồn hàng chủ yếu ở các làng nghề ở Ninh Bình, Hà Tây; sản phẩm gốm sứ: nguồn hàng chủ yếu lại là ở làng Bát Tràng Các sản phẩm của công ty nhìn chung phong phú về chủng loại, mẫu mã, kiểu dáng do các nghệ nhân rất khéo léo làm ra (xem phụ lục- một số sản phẩm của công ty). Các sản phẩm không những thể hiện được đậm nét bản sắc văn hoá của người Việt Nam mà còn thể hiện được sự tinh xảo khéo léo của những người thợ. Chẳng hạn như các sản phẩm từ gốm sứ, có rất nhiều chủng loại: ấm chén, bát đĩa, bình, lọ và trên các sản phẩm đều được trang trí bằng các hoa văn, hình ảnh đất nước và con người Việt Nam vì vậy ngoài việc để dùng trong sinh hoạt hàng ngày các sản phẩm còn có thể dùng để trang trí; các sản phẩm từ mây tre gỗ cũng vậy, có rất nhiều chủng loại: giỏ , lọ hoa, con vật, bàn ghế, bát đĩa, tranh Các sản phẩm này rất dễ vỡ, nứt khi đem ra nước ngoài đặc biệt là các nước Châu Âu vì thế đã được xử lý chống mốc, mọt đáp ứng đúng tiêu chuẩn kỹ thuật. Nguyên liệu sản xuất đều là những nguyên liệu tự nhiên, sẵn có (đất, tre, mây, gỗ, đá) 2.2 Phân tích về khách hàng Công ty hiện có quan hệ làm ăn với rất nhiều bạn hàng tại các nước như: Mỹ, Đức, Canada, Pháp, Bỉ, Nhật, Hàn Quốc Các sản phẩm xuất khẩu của công ty được khách hàng ở đây rất ưa chuộng. Và hiện nay thì công ty đã có các đại lý giới thiệu sản phẩm ở gần 30 nước. Thị trường Mỹ Mặc dù như đã nói đây là một thị trường cầu rất lớn, nhưng lại khó thâm nhập. Vì thế nếu doanh nghiệp nào có sản phẩm xuất sang thị trường này thì cơ hội phát triển là rất lớn. Một may mắn là công ty đã xâm nhập vào thị trường này và đây cũng là một thị trường chủ yếu cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của công ty. Cầu của thị trường là rất lớn, lại là một thị trường không cầu kỳ về hình thức, quan trọng là chất lượng. Sản phẩm của công ty xuất sang thị trường này chủ yếu là mặt hàng gốm Bát Tràng, sản phẩm mây tre đan từ các cơ sở sản xuất ở Ninh Bình, Hà Tây Thị trường Nhật Bản Người Nhật nói chung không thích gam màu chói mà thích những mầu trầm, thích sự phong phú về mẫu mã kiểu dáng. Các sản phẩm cần phải được thiết kế riêng cho phù hợp với điều kiện sinh hoạt và làm việc của người Nhật. Nắm bắt được tâm lý và phong tục tập quán sinh hoạt của người Nhật, công ty đã đáp ứng được những sản phẩm phù hợp. Các cơ sở sản xuất của công ty đã phối hợp nhiều loại nguyên liệu trong một sản phẩm để tạo sự phong phú hơn về mẫu mă. Chính vì thế mà sản phẩm của công ty đã có mặt trên thị trường này từ rất lâu. Nhìn chung nhu cầu của người Nhật về sản phẩm thủ công mỹ nghệ là rất lớn. Nhưng họ lại là những khách hàng khó tính. Hàng hoá khi xuất sang Nhật Bản phải phong phú chứ không phải với số lượng lớn mà chủng loại lại ít. Nhu cầu chủ yếu của người dân Nhật là thảm len, thảm thêu được cung cấp bởi các làng nghề ở tỉnh Hà Tây. Thị trường khác (Đức, Canada, Pháp, Bỉ, Hàn Quốc) Khách hàng ở thị trường này có nhu cầu rất phong phú. Đây là thị trường gần như là truyền thống của công ty. Các thị trường này là nơi tiêu thụ sản phẩm thủ công mỹ nghệ của công ty ngay từ những ngày đầu khi sản phẩm của công ty được mở rộng ra thị trường thế giới. Cầu thị trường tương đối lớn, nhưng các đối thủ cạnh tranh cũng nhiều. Đó là những sản phẩm đồng chủng loại của các nước Trung Quốc, Inđônêxia và sản phẩm của các doanh nghiệp khác trong nước. Sản phẩm của công ty xuất sang thị trường này gồm rất nhiều sản phẩm như: ấm chén, đĩa, hộp, tranh sơn mài, tranh sơn dầu, thảm thêu, mây tre đan, sừng đá bạc Có thể nói từ lâu công ty đã có một hệ thống khách hàng khá lớn ở nhiều nước trên thế giới. Sức mua của những khách hàng ở các thị trường này tương đối lớn, khá ổn định. Thị phần của công ty so với các công ty khác cũng lớn. Nguyên nhân là do công ty luôn đặt việc phân tích thị trường hiện tại và tương lai là quan trọng hàng đầu. Từ đây biết được những thay đổi của thị trường và có phản ứng nhanh hiệu quả trước mỗi biến động đó. Qua tìm hiểu về thực trạng của công ty trong lĩnh vực kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ chúng ta có thể nhìn thấy được điểm mạnh, điểm yếu, thời cơ, thách thức của công ty khi tham gia vào thị trường thủ công mỹ nghệ: Điểm mạnh (S): Công ty được thành lập khá sớm (1978) Ban lãnh đạo có chuyên môn cao, cùng với một đội ngũ hoạ sĩ, kỹ sư, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, và đội ngũ các cán bộ có trình độ chuyên môn về hoạt động kinh doanh và xuất nhập khẩu Có đội ngũ sáng tác, thiết kế riêng nên mẫu mã các sản phẩm có tính độc đáo, riêng có Có quan hệ làm ăn (liên doanh, hợp tác) với nhiều bạn hàng trong và ngoài nước Có hệ thống đại lý, văn phòng đại diện ở nhiều quốc gia trên thế giới. Điểm yếu(W): Công ty không tự sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ mà chủ yếu là xuất khẩu uỷ thác các sản phẩm đó Thời cơ(O): Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cơ hội mở ra cho các doanh nghiệp nói chung và cho công ty nói chung là rất lớn. Công ty có thể phát triển thị trường của mình một cách dễ dàng hơn. Đặc biệt từ sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức ASEAN năm 1995, ASEM năm 1996, APEC năm 1998 và sắp tới sẽ tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sẽ không bị bó hẹp trong phạm vi quốc gia hay khu vực mà sẽ có thị trường toàn cầu. Các doanh nghiệp và hàng hoá của ta sẽ không bị đối xử so với doanh nghiệp và hàng hoá của các nước khác. Với môi trường kinh doanh tương đối ổn định tạo điều kiện cho các nhà đầu tư yên tâm đầu tư vào Việt Nam, tăng khả năng thu hút vốn và công nghệ. Ngoài ra, việc giảm bớt các hàng rào thương mại sẽ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty. Công ty có cơ hội xuất khẩu hàng hoá của mình ra nhiều nước hơn nữa. Thách thức(T): Hàng thủ công mỹ nghệ của công ty xuất khẩu sẽ phải cạnh tranh không chỉ với hàng hoá của các doanh nghiệp khác trong nước mà còn phải cạnh tranh với các sản phẩm nước ngoài. Sản phẩm khi đem ra thị trường mỗi nước lại phải có những đặc tính riêng phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của nước bạn và cũng có những khó khăn riêng. Chẳng hạn sau khi ký hiệp định song phương Việt- Mỹ, cơ hội thâm nhập vào thị trường Mỹ nhiều hơn, nhưng khi thâm nhập vào thị trường này thì lại gặp phải khó khăn về hệ thống luật và những quy định riêng của nước Mỹ Hơn nữa hệ thống hàng rào thuế quan và phi thuế quan của ta còn nhiều bất cập, thường xuyên phải điều chỉnh nên gây mất lòng tin cho cả người trong nước và ngoài nước. Từ những khó khăn, thuận lợi trên công ty đã đưa ra phương hướng, chiến lược hoạt động cho tương lai của công ty mình. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và phát triển thị trường cho hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng. Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu cho công ty 1. Định hướng phát triển thị trường cho hàng thủ công mỹ nghệ và những vấn đề đặt ra cho việc mở rộng thị trường. 1.1. Hướng phát triển thị trường Từ những thực trạng nêu trên, để đẩy mạnh xuất khẩu của các làng nghề Việt Nam trong những năm tới, trước hết cần phải xác định rõ vai trò và vị trí mới của làng nghề trong chiến lược khuyến khích xuất khẩu của Đảng và Nhà nước. Theo đó, các làng nghề có vai trò lớn, góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, tăng thu ngoại tệ, đẩy nhanh tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu, thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đây là ngành hàng mà ta có nhiều tiềm năng, dung lượng thị trường thế giới còn lớn. Nếu có những chính sách đúng đắn để khơi dậy tiềm năng thì có thể nâng kim ngạch lên. Thị trường định hướng là EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ. Các thị trường như Trung Đông, Châu Đại Dương cũng là thị trường tiềm năng cần nỗ lực phát triển. Từ một nước chủ yếu sản xuất theo kiểu tự cung, tự cấp hiện nay đã có tên tuổi trong kim nghạch xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Tuy vậy, công nghệ của chúng ta vẫn còn lạc hậu chủ yếu là gia công, chưa tạo được động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế cho mặt hàng này. Sản phẩm của Việt Nam chưa có sự cạnh tranh với hàng trong khu vực đặc biệt là Trung Quốc. Thị trường trong và ngoài nước chưa được rộng mở, giá thành cao ( do công nghệ lạc hậu), chất lượng thấp. Để khắc phục những yếu kém nêu trên và trở thành độc lực thúc đẩy phát triển ngành, cần phải theo hướng chủ đạo sau: Tiếp tục phát triển ngành trên cơ sở sử dụng nguồn nguyên liệu chủ yếu trong nước để tỷ lệ thu ngoại tệ xuất khẩu cao (trước đây thường đạt từ 95-97%). Từng bước thay đổi thị hiếu của người tiêu dùng. Công nghệ là điều kiện tiên quyết nhất để nâng cao chất lượng sản phẩm, năng lực sản xuất Tận dụng nguyên liệu để nâng cao hiệu quả sản xuất Phấn đấu đạt mục tiêu xuất khẩu được 500 triệu USD vào năm 2005 Nâng cao thu nhập bình quân đầu người Tạo nhiều công ăn việc làm Để đạt được những hướng phát triển này, Nhà nước cần có những chính sách hợp lý , tạo mọi điều kiện thuận lợi cho những làng nghề và doanh nghiệp kinh doanh nghề này 1.2. Một vài kiến nghị để phát triển thị trường Về đất đai: Nhà nước cần quy hoạch dài hạn đất đai. Đối với các làng nghề, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong làng nghề chuyển một phần đất nông nghiệp sang sản xuất tiểu thủ công nghiệp; giảm tiền thuê đất cho các làng nghề; cần quy hoạch một khu chuyên sản xuất cho các làng nghề có quy mô nhỏ từ 5-7 ha, một phần để ổn định mặt bằng sản xuất, mặt khác cũng để giải quyết vấn đề chất thải. Về nguyên liệu: Trước mắt cần sử dụng hợp lý và tái tạo lại các vùng nguyên liệu. Các cơ quan chức năng cần quan tâm hướng dẫn người dân khai thác sử dụng thu mua nguyên liệu hiệu quả. Các trung tâm nghiên cứu, các trường đại học nghiên cứu tìm ra những loại nguyên liệu có hiệu quả cao đồng thời phổ biến cho người dân từ đó hình thành nên những vùng nguyên liệu tập trung. Giao đất, giao rừng cho nhân dân để phát triển nguồn nguyên liệu mây, tre, lá. Đối với nguyên liệu nhập khẩu, Nhà nước xem xét miễn, giảm thuế nhập khẩu. Đối với nguyên liệu phải vận chuyển từ địa bàn xa cần được hỗ trợ thêm chi phí vận chuyển hoặc bớt giảm VAT (thuế giá trị gia tăng)đầu vào cho các làng nghề. Về vốn: Nhà nước cần áp dụng chính sách vay vốn rộng rãi đối với các hộ làm nghề truyền thống, đồng thời tháo gỡ các thủ tục rườm rà khi vay vốn, tăng tỷ lệ các khoản vay trung và dài hạn từ 5-10 năm, tăng cường các sự án của quỹ hỗ trợ xuất khẩu đối với làng nghề; khuyến khích thành lập các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, hợp tác xã kiểu mớiĐây là một giải pháp quan trọng nhằm thu hút vốn nhàn rỗi trong dân. Ngoài ra, cần tranh thủ sự giúp đỡ, đầu tư của các cơ quan Liên hiệp quốc và các tổ chức quốc tế. Về thị trường: Cần lập một cơ quan chuyên cung cấp miễn phí thông tin về thị trường, thị hiếu, qui cách phẩm chất cho các sản phẩm làng nghề. Chính phủ cần tăng cường công tác xúc tiến thương mại qua các tham tán thương mại, tổ chức xúc tiến thương mại, internet, các tổ chức du lịch. Cần có trung tâm internet phục vụ miễn phí cho các doanh nghiệp trong làng nghề có nhu cầu quảng bá sản phẩm. Hàng năm tổ chức ít nhất 2-3 cuộc triển lãm trưng bày giới thiệu hàng thủ công mỹ nghệ trong nước và mời khách nước ngoài đến tham dự. Tổ chức cá nhân nào xuất khẩu được vào thị trường mới hay có kim ngạch xuất khẩu lớn thì nên trích thưởng theo tỷ lệ thích đáng trong tổng hợp đồng ký kết được. Về lao động: Thành lập các lớp dạy nghề trong làng nghề; các trung tâm dạy nghề nên ưu tiên đào tạo lao động làm nghề truyền thống, chú ý đến các lớp nghề trình độ cao đẳng và đại học; ưu tiên đào tạo đội ngũ thiết kế mẫu. Đội ngũ quản lý cũng cần được đào tạo để đáp ứng tình hình mới. Có chính sách thu hút đội ngũ tri thức trẻ của các trường đại học về làm việc cho các làng nghề. Hàng năm nên tổ chức thi “ bàn tay vàng” nhằm tôn vinh các nghệ nhân. Về cơ sở hạ tầng: Với chủ trương Nhà nước và nhân dân cùng làm, trong đó sức dân là chính, hoàn thiện dần hệ thống giao thông, thông tin nông thôn. Tiếp tục thực hiện chương trình nước sạch nông thôn. Về thuế: Đề nghị miễn giảm thuế thu nhập thấp hơn 30% để doanh nghiệp có điều kiện tích luỹ đầu tư; xem xét khấu trừ VAT đầu vào hợp lý hơn và giảm thuế VAT đối với hàng thủ công mỹ nghệ thấp hơn 8%; đề nghị giảm thuế xuất khẩu đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuống khoảng còn 3% chứ không phải là 5% như hiện nay. Chính phủ quy định mức thuế cụ thể đối với từng mặt hàng và thống nhất thực hiện giữa ngành thuế và ngành hải quan. Về khoa học công nghệ: Các làng nghề cần tiến hành đầu tư công nghệ, cách thức áp dụng công nghệ, và làng nghề cần trú trọng khả năng chế tạo của ngành cơ khí trong nước. Ngoài ra Nhà nước cần giải quyết mọi vướng mắc về cơ chế, chính sách sản xuất- kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ, đặc biệt là đối với hàng đồ gỗ, thêu, đan, móc. Dành một phần ODA để phát triển ngành nghề, đổi mới công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Do đầu tư trong lĩnh vực này chủ yếu là tư nhân nên rất cần tới sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua các chính sách như cho vay ưu đãi, miễn giảm thuếVai trò của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là rất quan trọng bởi ngân hàng có mạng lưới ngân hàng cơ sở rộng khắp tạo điều kiện cho thợ thủ công và nông dân vay. Tiến tới thành lập Ngân hàng xuất nhập khẩu của Chính phủ: Đây là một tổ chức tín dụng xuất khẩu quốc gia trực tiếp thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm, bảo lãnh cho vay. Với loại hình này, những khoản tín dụng cấp cho nhà xuất khẩu thường với lãi suất cố định ưu đãi hơn và với kỳ hạn dài hơn. Mô hình này đang được áp dụng rất thành công ở Mỹ và ở Trung Quốc. Việc phát triển thị trường không chỉ phải là công việc của các nhà quản lý mà cả các doanh nghiệp, các làng nghề đều phải quan tâm, chú trọng. Với bản thân mỗi doanh nghiệp, hộ sản xuất trong làng nghề: Cần tham lớp học quản lý kinh tế để có những hiểu biết về tối thiểu về quản lý, nắm vững các quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh của nền kinh tế Có đội ngũ chuyên môn xuất nhập khẩu; chủ động tìm kiếm thị trường Tổ chức lớp học nghề ngay trong cơ sở sản xuất, cho thợ giỏi đi bồi dưỡng, đào tạo thêm Phối hợp với ban quản lý giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường Nâng cao uy tín của mình đối với các tổ chức tín dụng 1. 3. Triển vọng các thị trường xuất khẩu của Việt Nam tới 2010 Thị trường Châu á- Thái Bình Dương: Tại Châu á ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã hết. Các nền kinh tế trong khu vực đang dần dần phục hồi như: Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore Khi cuộc khủng hoảng sảy ra vào năm 1997, Hàn Quốc là một trong số các nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất. Hàn Quốc đang dẫn đầu quá trình phục hồi với mức tăng GDP năm 1998 là âm 6% đến năm 1999 mức tăng đã là 9%. Tiếp đó phải kể đến Singapore từ mức âm 0,2% (1998) đã tăng lên mức 5% vào năm 1999; Inđônêxia từ âm 7,5% đến 2%; Hồng Kông từ âm 4,7% (1998) đến năm 1999 đã là 0,7%; Thái Lan tăng 4% (1999) so với mức âm 8% (1998)Các năm tiếp theo các nước này vẫn giữ được mức tăng trưởng cao và ổn định. Các nước Nam á (ấn Độ, Trung Quốc) vẫn tiếp tục tăng trưởng ổn định. Nhật Bản là nước vẫn nhập khẩu phần lớn hàng xuất khẩu của các nước Đông Nam á, trong đó có Việt Nam. Nhất là từ sau khi hai nước dành cho nhau quy chế tối huệ quốc(giữa năm 1999), kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này tăng đáng kể. Một trong những mặt hàng đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn từ thị trường này phải kể đến mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Đây là một thị trường tiêu thụ rộng lớn cho sản phẩm gỗ, được đánh giá là thị trường tiêu thụ gỗ lớn nhất thế giới, với mức tiêu thụ khoảng 1000 USD/hộ/ tháng. Đây cũng được đánh giá là mặt hàng mà các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều lợi thế nhất, đặc biệt là về mẫu mã và giá cả. Hơn nữa, Nhật Bản không đánh thuế nhập khẩu mặt hàng này cũng phần nào kích thích doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu. Trong xu thế hội nhập quốc tế Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN từ ngày 25/7/1995, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do AFTA vào năm 2003 và là thành viên của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dương(APEC) từ tháng 11/1998 chắc chắn cơ hội mở rộng thị trường vào khu vực này đối với hàng hoá Việt Nam sẽ có nhiều triển vọng hơn nữa. Thị trường các nước SNG và Đông âu vẫn là thị trường truyền thống của Việt Nam. Đây là thị trường tiềm năng, khá dễ dãi, chưa có hạn ngạch hạn chế nhập khẩu cho các mặt hàng của Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay còn có những khó khăn vướng mắc về cơ chế điều hành xuất nhập khẩu nhất là cơ chế thanh toán đang là khâu cản trở việc mở rộng xuất nhập khẩu đối với thị trường truyền thống này. Có thể trước mắt chưa thấy được hy vọng đạt kim ngạch xuất khẩu lớn ở thị trường này nhưng cũng rất cần thiết có bước thâm nhập ngay từ bây giờ để chuẩn bị cho những năm tiếp theo. Các mặt hàng tiêu dùng có điều kiện tăng trưởng lớn nếu hàng được cải tiến về mẫu mã và chất lượng hợp thị hiếu và giá cả cạnh tranh, trong đó có các mặt hàng như: cà phê, gia vị thực phẩm các mặt hàng giày dép, dệt may, thủ công mỹ nghệ có triển vọng tăng nhanh nếu được cải tiến phương thức kinh doanh và được trợ giá xuất khẩu qua hình thức liên doanh đầu tư sản xuất chế biến tại Nga trên cơ sở tay nghề của Việt Nam. Thị trường EU thật sự là một thị trường đầy tiềm năng: Hiện nay, chính sách thương mại của EU đối với Việt Nam có nhiều chuyển biến tích cực, nhất là sau khi hai bên ký hiệp định khung hợp tác kinh tế thương mại và Việt Nam được đưa vào danh sách các nước được ưu tiên hợp tác phát triển. Việc ký kết hiệp định nói trên cũng như các văn bản thoả thuận quan trọng đã tạo ra các khung phấp lý cần thiết để ổn định sản xuất và xuất khẩu các nhóm hàng có giá trị xuất khẩu lớn của Việt Nam. EU được xác định là khu vực thị trường rộng lớn phát triển cao, là nơi cung cấp các loại thiết bị chuyên dùng, công nghệ cao, là trung tâm tài chính tài chính tiền tệ lớn, có số dân lên đến 374,2 triệu người (2000) với GDP hơn 9000 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu trong những năm gần đây của Việt Nam sang khu vực này năm 1999 tăng 18,6 lần so với năm 1989, đặc biệt là các mặt hàng như dệt may, thủ công mỹ nghệ EU thật sự là một thị trường đầy tiềm năng. Thị trường Mỹ, Bắc Mỹ và Mỹ La Tinh tiếp tục được khai thông và là cơ hội xuất khẩu lớn. Hiệp định song phương Việt- Mỹ được ký kết năm 2000 là nhân tố mới mở đường cho kim ngạch xuất khẩu Việt Nam vào thị trường Mỹ tăng nhanh trong những năm tới. Nếu như năm 1993 trị giá hàng Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ gần như không có thì chỉ sau 7 năm Việt Nam đã xuất sang Mỹ gần 600 triệu USD. Vì vậy có thể tin tưởng rằng Hiệp định thương mại sẽ làm tăng sức hấp dẫn cũng như mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp của hai nước và là cơ hội để hàng xuất khẩu của Việt Nam có thể tiếp cận được với thị trường Mỹ. Do đó việc tăng xuất khẩu vào thị trường này phụ thuộc nhiều vào năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Ngoài thị trường Mỹ thì Canada vẫn là thị trường tương đối lớn của Việt Nam. Trong những năm qua nước này đã nhập khẩu của Việt Nam các mặt hàng nông sản, thủ công mỹ nghệ, giày dép Dự báo kim ngạch xuất khẩu của hàng Việt Nam vào thị trường này trong giai đoạn 2001- 2010 bình quân sẽ tăng 2%/ năm Riêng thị trường Mỹ La Tinh có kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam khoảng 120 triệu USD/mỗi năm với các mặt hàng chủ yếu là gạo, than đá, cao su, hàng may mặc, gốm sứ, mây tre, thủ công mỹ nghệ. Thị trường các nước Trung Đông và Tây Nam á: Đây là những thị trường mới rộng lớn, nhu cầu đa dạng về hàng tiêu dùng và nguyên liệu sản xuất. Kuwait có nhu cầu nhập khẩu từ Việt Nam các mặt hàng: gạo, chè, cà phê, thịt, hàng may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ, rau quả hộp. Nam Phi thì có nhu cầu nhập chè, gia vị, thực phẩm, thức ăn gia súc Các thị trường trong khu vực này như: Tiểu vương Quốc ả Rập thống nhất, Thổ Nhĩ Kỳ, Senegal, ấn Độ, Ai Cập là các thị trường tiềm năng cho các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Dự kiến giá trị xuất khẩu vào khu vực này sẽ chiếm khoảng 5%-7% tổng kim ngạch hàng xuất khẩu của Việt Nam. Tóm lại triển vọng xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 là rất lớn với khả năng thực hiện cao trên cả 2 mặt thị trường xuất khẩu và sản phẩm xuất khẩu. Tuy nhiên, vấn đề cần phải đặt ra là triển vọng và khả năng hiện thực trong việc nâng cao giá trị xuất khẩu cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam trên thị trường thế giới. Đây là vấn đề lớn về một góc độ nào đó phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm của Việt Nam, bởi vì cơ hội xuất khẩu các sản phẩm là hoàn toàn có thực. 1.4. Định hướng của công ty Mỹ thuật Trung Ương Căn cứ vào triển vọng của mặt hàng thủ công mỹ nghệ trong những năm tới, công ty đã đưa ra những định hướng phát triển thị trường cho mặt hàng này như sau: Mở rộng thị trường trên cơ sở xác định rõ thị trường mục tiêu là các thị trường Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Canada Đây là một việc làm quan trọng vì cho dù sản phẩm của công ty có tốt đến thế nào đi chăng nữa thì cũng không thể hấp dẫn được hết tất cả mọi người. Do đó việc cố gắng mở rộng thị trường kinh doanh có thể làm cho phạm vi của thị trường và khối lượng bị co lại. Xây dựng mối liên kết chặt chẽ với các thị trường này. Từ đây đưa ra những giải pháp cụ thể cho các thị trường này. Tạo dựng các mặt hàng chủ đạo để phát triển thị trường xuất khẩu. Đó là các mặt hàng hiện đang được thị trường các nước ưa chuộng như: sản phẩm gốm sứ, đồ mây tre đan, đồ gỗ mỹ nghệ Phát triển thị trường sang các thị trường triển vọng như thị trường các nước EU, thị trường Châu á, thị trường Châu Phi Định hướng phát triển tương lai của công ty được tóm tắt qua véc tơ tăng trưởng sau: Sản phẩm Sản phẩm hiện thời Sản phẩm cải tiến Sản phẩm mới Thị trường Thị trường hiện tại Thâm nhập thị trường Hiệu quả và năng động Duy trì vị trí Cải tiến sự khác biệt hoá sản phẩm Cải tiến sự nhận biết vế nhãn mác Tăng cường R&D Thêm một số đặc tính Khuyến khích các cách sử dụng khác của sản phẩm Mở rộng gam sản phẩm Thay thế sản phẩm hiện tại Đa dạng hoá Cải tiến sử dụng nguồn lực Thị trường mở rộng Xúc tiến một cách ồ ạt Sử dụng giá phòng thủ Thu hút người mua mới Mở thêm các kênh phân phối Phân đoạn thị trường Khác biệt hoá sản phẩm Tăng cường quảng cáo Thay đổi giá Cải tiến chất lượng và dịch vụ Mở rộng gam sản phẩm Đa dạng hoá chiều dọc Cải thiện tính linh hoạt Sử dụng công nghệ Thị trường mới Mở rộng thị trường mới Tăng mức hấp dẫn của sản phẩm Tăng quảng cáo và đẩy mạnh xúc tiến thương mại Chấp nhận lỗ khi thâm nhập Làm nổi bật các thay đổi của sản phẩm, đối với các loại khách hàng khác nhau Sử dụng kênh phân phối và phương tiện quảng cáo mới Đa dạng hoá trong các lĩnh vực không liên quan Hội nhập hoặc mua lại các công ty sử dụng cùng công nghệ hoặc không Đa dạng trong lĩnh vực “ngoài lề” về mặt bán hàng và lợi nhuận Bảng 7: Ma trận tăng trưởng “sản phẩm- thị trường” Chiến lược của công ty đặt ra trong những năm tới là chiến lược khác biệt hoá sản phẩm bởi công ty có các nhà thiết kế riêng nên ngoài sự khác biệt hoá về chất lượng sản phẩm còn có sự khác biệt hoá về mẫu mã kiểu dáng. Đây là một điểm rất quan trọng bởi như đã nói ở trên mẫu mã đóng góp tới 85% việc ra quyết định mua của khách hàng. Hơn nữa, công ty khó có thể áp dụng chiến lược chi phí thấp bởi công ty không trực tiếp sản xuất ra sản phẩm. Các cơ sở sản xuất, các làng nghề hiện nay thì phân bố khắp nơi, mỗi cơ sở sản xuất lại có những điều kiện sản xuất riêng của mình. Để thực hiện được những phương hướng cũng như những chiến lược trên công ty đã đưa ra các giải pháp phát triển thị trường như sau: 2. Giải pháp của công ty để phát triển thị trường Thị trường đầu vào là yếu tố quan trọng đối với các nhà sản xuất, thị trường đầu ra lại là yếu tố quyết định sự tồn tại của các cơ sở sản xuất đó. Để phát triển thị trường trước hết công ty cần nắm rõ đặc điểm của các thị trường mà sản phẩm đã có mặt, cũng như các thị trường tiềm năng. Cần nắm bắt được thị hiếu từng năm, từng quý của thị trường để từ đó đưa ra những mẫu thiết kế phù hợp. Để làm được này trên cơ sở “dựa vào sức mình là chính” công ty phải tích cực tìm kiếm thị trường, tìm kiếm thông tin. Hàng năm nên trích ra một khoản khoảng 10% lợi nhuận để hỗ trợ cho công tác thị trường. Tăng cường hợp tác liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác, với các làng nghề. Tiếp tục nhận xuất khẩu uỷ thác các mặt hàng mà đặc biệt là các mặt hàng các doanh nghiệp khác không được quyền xuất khẩu. Đào tạo thêm các chuyên gia thiết kế mẫu sản phẩm của riêng công tyđể thiết kế cho các làng nghề truyền thống mà công ty lấy hàng. Đặc biệt cần tham khảo, học hỏi ý kiến của các chuyên gia thiết kế của thị trường nước ngoài. Vì những chuyên gia thiết kế này sẽ am hiểu hơn về phong tục, tập quán, sở thích của người tiêu dùng nước họ. Các mẫu thiết kế sẽ đem tham dự các cuộc thi sáng tạo mẫu thiết kế cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ như giải: “Golden V”, tham dự giải “ mẫu thiết kế đẹp ASEAN 2005”, Tham gia nhiều lễ hội ở trong nước cũng như ở ngoài nước để quảng bá cho sản phẩm của mình: Hội chợ thường niên Craft- Link do Tổ chức hỗ trợ thủ công nghiệp (Canada) tổ chức vào trước dịp giáng sinh. Đây là cơ hội để công ty quảng bá sản phẩm của mình với du khách quốc tế đang sống và làm việc tại Việt Nam. Tham dự hội trợ chuyên ngành (triển lãm hàng thủ công mỹ nghệ tại Pháp) MAISON ET OBJET được tổ chức 2 lần một năm vào tháng 1 và tháng 9 Hội chợ Frankfurt tổ chức tại Đức Tham dự lễ hội Việt Nam tại Nhật Bản do Bộ Thương mại, Bộ Văn hoá- Thông tin, tổng cục du lịch hàng không Việt Nam và một số cơ quan chức năng khác đồng tổ chức. Khả năng tiếp thị tốt là một trong những tiêu chuẩn không thể thiếu được đối với mỗi đội ngũ cán bộ. Vì thị trường mà công ty tiếp cận là thị trường ngoài nước, ở đó đòi hỏi tiêu chuẩn của thị trường cao hơn thị trường trong nước và luôn phải ở mức ngang với tiêu chuẩn chung của thị trường thế giới. Do vậy đội ngũ xuất nhập khẩu cần phải có một khả năng tiếp thị tốt. Thực hiện tốt các quy định quy chế của nhà nước trong việc sản xuất cũng như xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Ngoài ra đối với từng thị trường thì nên có những giải pháp riêng vì đặc điểm của các thị trường là rất khác nhau: Thị trường Nhật Bản: Đây là một thị trường rất khó tính vì vậy để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm của công ty trên thị trường này công ty luôn phải quan tâm tới các vấn đề dù là rất nhỏ: nêu rõ các chi tiết về hàng hoá ngoài việc nêu tên sản phẩm (loại sản phẩm thông thường, loại sang trọng). Không những thế việc nêu khung giá cũng là rất cần thiết vì các nhà phân phối Nhật khi đó sẽ biết phân phối sản phẩm của mình đến địa điểm nào (cửa hàng bách hoá, thị trường bình dân). Nếu trong trường hợp sản phẩm của công ty không cạnh tranh được với sản phẩm cùng loại thì sẽ tiến hành cạnh tranh bằng giá cả và giải thích cụ thể rõ ràng những điểm khác biệt. Giải thích về sản phẩm bằng những từ ngữ dễ hiểu, không dùng từ ngữ chuyên môn, từ viết tắt. Khi thâm nhập thị trường này công ty luôn đặt uy tín lên hàng đầu (vì người Nhật Bản đánh giá cao sự tin tưởng và quá trình ra quyết định thì từ cấp dưới lên cấp trên). Thị trường Mỹ: Với mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam thì thị trường này vẫn còn tương đối mới mẻ. Khi thâm nhập thị trường này cần phải hết sức chú ý tới hệ thống luật pháp, thuế quan, hạn ngạchcủa nước Mỹ. Đây là một thị trường đầy triển vọng nhưng lại khó thâm nhập, vì vậy đối với thị trường này điều quan trọng trước tiên là phải tìm hiểu rõ về hệ thống luật pháp (luật chống bán phá giá, luật kiểm dịch thực vật, luật về các loài có nguy cơ tuyệt chủng). Với các thị trường khác cũng vậy, mỗi thị trường cần có những giải pháp riêng để việc phát triển thị trường có hiệu quả hơn. Chẳng hạn như với thị trường EU, do thời tiết khí hậu khô nên các sản phẩm làm bằng gỗ nói chung khi mang sang dễ nứt, vỡ nên phải có cách xử lý tốt cho các sản phẩm này. Nhìn chung các sản phẩm khi đem ra thị trường các nước ngoài đều được kiểm tra chặt chẽ về chất lượng, mẫu mă. Phần kết luận 1. Thủ công mỹ nghệ là một ngành truyền thống đã có từ lâu đời. Cùng với sự phát triển của kinh tế-xã hội, ngành cũng có những bước phát triển theo. Các làng nghề ngày càng nhiều, các doanh nghiệp, công ty, các cá nhân tham gia vào thị trường ngày một lớn. Trước thực trạng như vậy, để có chỗ đứng trên thị trường đòi hỏi mỗi một doanh nghiệp, một cơ sở sản xuất phải có những chiến lược cạnh tranh riêng của mình. Mỗi một đơn vị sản xuất hay kinh doanh ngành nghề này đều phải có những giải pháp và những hướng đi riêng. 2. Thị trường tiêu thụ là vấn đề cốt lõi để đảm bảo cho sản xuất phát triển. Trước đây đã có một thời gian dài chúng ta dùng thị trường để áp đặt cho nhu cầu sản xuất; chỉ sản xuất những thứ chúng ta có nhu cầu sử dụng theo khối lượng và địa chỉ định sẵn. Ngày nay, các nhà sản xuất phải tự tìm hiểu và nắm bắt nhu cầu thị trường, sản xuất ra những gì mà thị trường đòi hỏi; với ý nghĩa đó thị trường có vai trò quyết định đối với các nhà sản xuất kinh doanh hàng hoá, đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Thật vậy, từ khi chuyển sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Việt Nam đã từng bước tham gia thị trường thế giới. Mọi chủ trương chính sách của nước ta ít nhiều tác động đến thị trường khu vực và thế giới. Ngược lại kinh tế của nước ta cũng chịu ảnh hưởng của thị trường bên ngoài. Những thách thức và cơ hội diễn ra trên thế giới, trong nước, trong các lĩnh vực không đâu có thể thấy rõ và nhạy cảm bằng trên lĩnh vực thương mại xuất nhập khẩu. Vì vậy trong sự nghiệp đổi mới, việc hoạch định chiến lược phát triển sản xuất phải gắn chặt với thương mại và thị trường xuất khẩu theo xu thế hội nhập và.. toàn cầu hoá. 3. Nắm bắt được điều này các doanh nghiệp cũng đã chủ động tìm mọi cách để phát triển thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp mình. Công ty Mỹ thuật Trung ương mặc dù hiện nay là một trong những công ty có thị phần xuất khẩu lớn mặt hàng thủ công mỹ nghệ, nhưng vẫn không ngừng thăm dò tìm kiếm thị trường. Bên cạnh đó công ty còn không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm của mình, không ngừng sáng tạo ra những kiểu dáng cho các sản phẩm nhằm đáp ứng được thị hiếu của các khách hàng truyền thống cũng như khách hàng tiềm năng. 4. Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa và mở cửa hội nhập quốc tế giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói chung diễn ra hết sức khắc nghiệt. Các doanh nghiệp của chúng ta không chỉ phải cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước mà còn phải cạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiệp nước ngoài. Điều này đang gây sức ép lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam khi mới tham gia vào cạnh tranh quốc tế, đặc biệt là đối với các hoạt động xâm nhập và mở rộng thị trường nước ngoài. Trong bối cảnh ấy, để có thể tiếp thêm sức và tạo đà hợp lý cho các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới, vai trò của nhà nước trong quản lý xuất nhập khẩu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nó góp phần thoá gỡ kịp thời các vướng mắc trong hoạt động xuất nhập khẩu và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động xuất nhập khẩu trong thời gian tới. Chính vì vậy mà nâng cao xuất nhập khẩu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay đang được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “ Tiếp tục mở rộng, quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, tiến tới gia nhập WTO”. 5. Thực chất của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là mở rộng thị trường xuất khẩu khai thác, tìm kiếm thị trường, nhiều bạn hàng trên thế giới và thu hút ngày càng nhiều các nguồn đầu tư quốc tế vào xây dựng và phát triển nền kinh tế nước ta. 6. Thủ công mỹ nghệ là một trong những ngành có kim ngạch xuất khẩu cao. Để những năm tới kim ngạch này có thể tăng cao hơn nữa cần phải có sự nỗ lực của tất cả từ các nghệ nhân, các lực lượng lao động trong ngành, cũng như các nhà kinh doanh. Trước mắt cơ hội cho ngành là rất nhiều nhưng thách thức đối với ngành cũng lớn vì vậy cân phải có sự phối hợp của cả các cơ quan chức năng. Tài liệu tham khảo Cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu đồ gỗ và hàng thủ công mỹ nghệ (tạp chí thương mại-2004) Hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu , Hà Nội- 1980 Hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu Việt Nam tới năm 2010, nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội- 1997 Kinh tế vi mô Làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội- 2004 Thương mại quốc tế và phát triển thị trường xuất khẩu, chủ biên- Nguyễn Duy Bột Tạp chí công nghiệp số 23/1999 Tạp chí thương mại số 25/ 2001 Tạp chí thương mại số 32+33/ 2001 Tạp chí thương mại số 26/2004 Tạp chí thương nghiệp thị trường Việt Nam số tháng 5/2000 Tạp chí thương nghiệp thị trường Việt Nam số tháng 6/2000 Tạp chí thương nghiệp thị trường Việt Nam số tháng 9/ 2001 Tạp chí thương nghiệp thị trường Việt Nam số tháng 10/2001 Tạp chí thương nghiệp thị trường Việt Nam số tháng 5/2002 Tạp chí thương nghiệp thị trường Việt Nam số tháng 7/2003 Tạp chí thương nghiệp thị trường Việt Nam số tháng 8/2003 Tạp chí thương nghiệp thị trường Việt Nam số tháng 10/2003 Các trang web: ôimoi.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3050.doc
Tài liệu liên quan