TTCK là nơi các chứng khoán được mua bán, trao đổi, bởi vậy nhờ các chứng khoán các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền hay các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền) là một trong những yếu tố quyết định tính hấp dẫn của chứng khoán đối với các nhà đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt của chứng khoán. Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán là chức năng quan trọng đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt đọng một cách năng động và có hiệu quả.
98 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1136 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển thị trường chứng khoán Việt nam trong điều kiện hội nhập hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiềm năng, đó là các nhà đầu tư nước ngoài. Thực tế qua hai năm hoạt động cho thấy, tổng giá trị giao dịch cổ phiếu của các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn. Ngoài ra theo quyết định số 139/1998/QĐ-TTg ngày 10/6/1999 về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài chỉ được phép mua bán, nắm giữ tối đa 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của tổ chức phát hành, trong đó một pháp nhân được mua tối đa 7% , thể nhân 3% và không được bán cổ phiếu trong vòng 1 hoặc 3 năm. Chính những ràng buộc này đã làm giảm đi sự nhiệt tình của những nhà đầu tư nước ngoài muốn giao dịch với số lượng lớn vì họ khó có thể mua bán được với số chứng khoán mong đợi.
Vai trò tư vấn đầu tư của các công ty chứng khoán trong thời gianqua còn rất hạn chế trong việc thực hiện chức năng của người tạo thị trường (Marketmaker), hướng dẫn thị trường để bình ổn giá cả. Khi thị trường quá nóng, họ phải là người bán ra cổ phiếu để làm giảm áp lực của thị trường; ngược lại khi thị trường ảm đạm do cổ phiếu liên tục rớt giá, chính họ phải mua vào cổ phiếu, kích thích đầu tư để hâm nóng trở lại thị trường. Vai trò của các nhà tạo thị trường con được biết đến qua việc phân luông các nhà đầu tư, chuyển bớt được phần nào nhu cầu đầu tư cổ phiếu sang trái phiếu để làm giảm áp lực trên thị trường cổ phiếu.
Dịch vụ tư vấn thời gian qua chỉ dừng lại ở khâu cung cấp thông tin sơ bộ cho khách hàng, thông qua việc cung cấp bảng tóm tắt báo cáo tài chính của công ty niêm yết ( đôi khi không có cả những thông tin cần thiết), mà không có những dịch vụ tư vấn cho khách hàng nhằm làm tăng tính hiệu quả của quyết định đầu tư. Tình hình này một phần do sự non kém về trình độ chuyen môn và kinh nghiệm trên thị trường chứng khoán. Từ đó vấn đề đào tạo nhân lực cho đội ngũ nhân viên tác nghiệp trên thị trường chứng khoán là rất cần thiết cho mục tiêu “ kích cầu”.
Dịch vụ quản lý danh mục đầu tư. Thời gian qua các công ty chứng khoán hầu như không thực hiện dịch vụ này bởi vì nguyên nhân chủ yếu là hàng hóa quá ít ỏi nên không có sự lựa chọn và loại trừ trong danh mục đầu tư của các khách hàng.
6. Công tác đào tạo chứng khoán.
Trong giai đoạn khởi đầu, công tác đào đào đã thu được những kết quả hết sức khả quan, nhưng song song với các kết quả đó thì công tác đào tạo cũng còn có rất nhiều tồn tại, bất cập cần phải làm. Đó là :
- Nội dung các loại giáo trình đào tạo: các tài liệu giảng dạy được biên soạn trong giai đoạn đầu chuẩn bị cho thị trường chứng khoán ra đời nên không thể tránh được những bất cạp về nội dung, chưa mang tính chuyên sâu về nghiệp vụ, chưa đề cập đến kỹ thuật nghiệp vụ cho cán của các công ty chứng khoán, tiêu chuẩn đạo đức cho những người hành nghề chứng khoán, mặc dù các chương trình này đã được chỉnh lý một số lần nhưng vẫn không theo kịp sự biến đổi của thực tiễn và khung pháp lý cho thị trường. Còn thiếu các ấn phẩm phục vụ cho công tác tuyên truyền phổ cập kiến thức( tờ rơi, bản tin, tài liệu phổ cập...)
- Về giảng viên: do đội ngũ giảng viên hiện nay chủ yếu là kiêm chức, vừa làm công tác chuyên môn vừa làm công tác giảng dạy, nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc bố trí thời gian giảng dạy, ảnh hưởng không nhỏ tới công tác tổ chức lớp cũng như chất lượng học tập.
- Đối tượng đào tạo rất đa dạng với nhiều trình độ rất khác nhau nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc truyền đạt cũng như lĩnh hội kiến thức.
- Các điều kiện vật chất cũng như trụ sở làm việc, hội trường, trang thiết bị nghiên cứu, đào tạo, kinh phí ... còn thiếu thốn đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác đào tạo.
- Công tác tuyên truyền phổ cập kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán đến địa phương còn nhiều hạn chế do điều kiện thực hiện khó khăn, lực lượng cán bộ mỏng.
7. Quỹ đầu tư chứng khoán
Tính đến thời điểm này, thị trường chứng khoán tập trung đã đi vào hoạt động được 2 năm với những kết quả đáng khích lệ. Tuy vậy cho đến nay người ta vẫn chưa thấy sự xuất hiện của các quỹ đầu tư chứng khoán trong nước, một định chế trung gian quan trọng trên thị trường chứng khoán, đây vốn là chủ thể hoạt động năng nổ nhất trên thị trường chứng khoán với tư cách vừa là người phát hành chứng khoán vừa là nhà đầu tư chuyên nghiệp có tổ chức. Các công ty bảo hiểm với tổng doanh thu hàng năn lên tới hàng nghìn tỷ đồng, mặc dù rất háo hức chờ đón sự ra đời thị trường chứng khoán, nhưng khi thị trường chứng khoán đã chính thức đi vào hoạt động, thì họ vẫn đứng ngoài cuộc chơi do quy mô thị trường chứng khoán Việt nam còn quá nhỏ và chưa thực sự thu hút. Sự chần chừ chưa tham gia vào thị trường chứng khoán của các công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư đã khiến cho các công ty chứng khoán mất đi một đối tượng khách hàng tiềm năng, vì với giá trị giao dịch lớn gấp nhiều lần các nhà đầu tư cá nhân, các tổ chức này có khả năng đem lại phí hoa hồng cao cho thị trường chứng khoán.
III. nguyên nhân các tồn tại trên
* Thứ nhất: Chứng khoán và thị trường chứng khoán là một lĩnh vực mới, thực tiễn và kinh nghiệm quản lý, vận hành của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, TTGDCK, các công ty chứng khoán, công ty niêm yết, và các tổ chức trung gian khác còn hạn chế, đâu cũng là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ đối với công chúng đầu tư.
* Thứ hai: Hệ thống các văn bản pháp luật về thị trường chứng khoán và các văn bản pháp luật liên quan còn thiếu, không đồng bộ thậm chí còn mâu thuẫn cũng làm ảnh hưởng đến hoạt động của thị trường chứng khoán.
* Thứ ba: Môi trường kinh tế, phương thức quản trị kinh doanh cũng như thói quen dè dặt với cái mới làm cho hoạt động của thị trường chứng khoán kém sôi động và hiệu quả.
* Thứ tư: Khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp còn hạn chế, doanh nghiệp chưa có chiến lược huy động vốn dài hạn qua thị trường chứng khoán.
* Thứ năm: Nhà nước đã có chính sách khuyến khích đối với các công ty tham giá niêm yết, các nhà đầu tư có tổ chức, các nhà đầu tư nước ngoài tham giá thị trường; tuy nhiên chính sách này cũng cần tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh để thực hiện lâu dài
Chương 3
một số giải pháp phát triển thị trường
chứng khoán Việt nam
I. Mục tiêu của thị trường chứng khoán Việt nam.
Mục tiêu phát triển thị trường chứng khoán trong những năm tới là: Tiếp tục củng cố, ổn định hoạt động thị trường, nâng cấp, hiện đại hoá thị trường, hoàn thiện vệc quản lý giám sát thị trường nhằm bảo vệ người đầu tư có hiệu quả; tạo kênh huy động vốn dài hạn, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Mục tiêu trước mắt là:
+ Củng cố nâng cấp, hiện đại hoá các hệ thống của TTGDCK : Nâng cấp hệ thống giao dịch tiến tới khớp lệnh liên tục, hiện đại hoá hệ thống giám sát thị trường, xây dựng hệ thống giám sát tự động kết nối với các hệ thống giao dịch, công bố thông tin, lưu ký , thanh toán.
+ Nâng cấp hệ thống công bố thông tin, đảm bảo có một hệ thống công bố thông tin có thể truyền phát rộng và truy cập dễ dàng cho các đối tượng tham gia thị trường, đặc biệt là các nhà đầu tư.
+ Tự động hoá một bước hệ thống lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. Phấn đấu cổ phiếu của các công ty niêm yết đều được lưu ký , thanh toán tập trung. Thực hiện dụch vụ lưu ký cho các công ty chưa niêm yết.
+ Đa dạng chủng loại hàng hóa : Ngoài cổ phiếu phổ thông sẽ đưa thêm các cổ phiếu ưu đãi , quyền mua cổ phiếu vào giao dịch. Đối với trái phiếu, ngoài trái phiếu Chính phủ, trái phiếu ngân hàng đầu tư, sẽ đưa thêm trái phiếu công trình, trái phiếu doanh nghiệp vào niêm yết. Thúc đẩy hình thành các quỹ đầu tư để đưa vào niêm yết.
+ Nâng cao chất lượng chứng khoán niêm yết thông qua việc tăng cường hoạt động quản lý phát hành và niêm yết để lựa chọn những công ty đủ chất lượng đưa vào thị trường, hỗ trợ áp dụng các biện pháp quản trụ doanh nghiệp hiện đại, chế độ kế toán, kiểm toán và thúc đẩy giám sat chặt chẽ việc công bố thông tin.
+ Khuyến khích các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng. Nghiên cứu ban hành các chính sách khuyến khích phát hành ra công chúng của các doanh nghiệp cổ phần hoá và các công ty tư nhân, công ty liên doanh với nước ngoài như : chính sách ưu đãi thuế, chính sách ưu đãi cho vay thương mại.
+ Củng cố và phát triển các công ty chứng khoán. Nâng cấp quy mô vốn và mở rộng hoạt động nghiệp vụ của các công ty chứng khoán. Khuyến khích các công ty chứng khoán mở rộng nghiệp vụ bảo lánh phát hành quản lý danh mục đầu tư, tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán. Mở rộng mạng lưới dịch vụ chi nhánh, đại lý nhận lệnh của các công ty chứng khoán.
+ Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty chứng khoán hiện đại hoá hệ thống thông tin nối mạng giữa công ty chứng khoán với TTGDCK và người đầu tư. Công ty chứng khoán cung cấp đấy đủ, kịp thời thông tin về giao dịch, về công ty niêm yết cho các nhà đầu tư ngay tại trụ sở, chi nhánh đại lý nhận lệnh.
+ Xây dựng thị trường giao dịch chứng khoán cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đưa TTGDCK Hà nội vào hoạt động với chức năng tổ chức, quản lý, vân hành thị trường giao dịch các cổ phiếu doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng trở lên.
+ Tăng cường các hoạt động giám sát thị trường nói chung thông qua ciệc tăng cường tổ chức các hoạt động theo dõi, kiểm tra, thanh tra các hoạt động trên thị trường để kịp thời ban hành chính sách điều chỉnh phù hợp và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.
+ Tiến tới thành lập Hiệp hội Chứng khoán Việt nam hoạt động như tổ chức tự quản, có vai trò và chức năng tự quản, tự giám sát đảm bảo hoạt động ổn định của các công ty chứng khoán phát triển thị trường, thúc đẩy sự phát triển công ty chứng khoán.
II. giải pháp phát triển đối với thị trường chứng khoán Việt Nam
Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn đầu hình thành và phát triển thị trường chứng khoán, tuy nhiên chúng ta cũng thực sự gặt hái được những thành công nhất định. Để củng cố những thành công ban đầu, khắc phục hạn chế trong thời gian qua, không ngừng hoàn thiện và thúc đẩy thị trường phát triển theo định hướng của Đảng và Nhà nước trên cơ sở thực tiễn hoạt động của thị trường, với mục tiêu là huy động tối đa nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới, một số các giải pháp và phương hướng phát triển trong thời gian tới được đúc kết trên cơ sở các giải pháp phát triển thị trường như sau:
1. Giải pháp vĩ mô
1.1. Hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường chứng khoán
Sau khi TTGDCK Tp.HCM đi vào hoạt động được 2 năm, thực tế cho thấy Nghị định 48/CP cân được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp. Vì vậy, trong thời gian tới, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước sẽ trình Chính phủ ban hành Nghị định mới để thay thế cho Nghị định 48, trong đó các quy định về phát hành chứng khoán sẽ được sửa theo hướng sau:
-Đối tượng mua bán trên thị trường chứng khoán là chứng khoán , theo ngôn ngữ tài chính được gọi là công cụ, còn theo ngôn ngữ bình dân thì gọi là hàng hóa. Để đa dạng hoá các công cụ, Nghị định mới, ngoài định nghĩa cổ phiếu, trái phiếu, còn bổ sung thêm chứng quyền và quyền mua bán cổ phần. Như vậy, công cụ bây giờ có thể bao gồm các loại trái phiếu kèm theo quyền, như trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu quyền mua cổ phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi. Việc đa dạng hoá các công cụ có ý nghĩa lớn đối với việc mở rộng phạm vi thị trường. Tuy vậy, các sản phẩm của cồng cụ phái sinh, như quyền lựa chọn, chỉ số, một số các sản phẩm cổ phiếu, trái phiếu kết hợp chưa được đề cập đến. điều này cũng dễ hiểu vì thị trường chứng khoán Việt nam mới thành lập và còn ở dạng sơ khai.
-Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước sẽ thay mặt Chính phủ quản lý toàn bộ việc phát hành chứng khoán ra công chúng của các doanh nghiệp ngoại trừ các trường hợp phát hành theo các luật pháp chuyên ngành( như luật các tổ chức tín dụng, pháp luật về cổ phần hoá). Vì vậy, Nghị định mới sẽ tách biệt việc phát hành chứng khoán ra công chúng với việc niêm yết trên TTGDCK. Theo dự thảo Nghị định mới, định nghĩa phát hành chứng khoán ra công chúng là việc chào bán một đợt chứng khoán có thể chuyển nhượng cho ít nhất trên 100 nhà đầu tư mà có sử dụng tổ chức trung gian hoặc hình thức quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
-Điều kiện phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ được nới lỏng nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc huy động vốn. Cụ thể là doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra công chúng chỉ cần số vốn điều lệ là 5 tỷ đồng, hoạt động kinh doanh liên tục trong 2 năm liên tục, trong đó năm gần nhất có lãi; ngoài ra các điều kiện khác giữ nguyên như trước đây.
-Việc niêm yết chứng khoán sau khi phát hành ra công chúng sẽ được thực hiện trên hai trung tâm giao dịch Tp.HCM và Hà nội với các tiêu chuẩn khác nhau, TTGDCK Tp.HCM dành cho các doanh nghiệp có vốn điều lệ từ 10 tỷ đồng trở lên, hoạt động kinh doanh có lãi trong hai năm liên tục, 20% vốn cổ phần được phát hành ra ngoài công chúng. Các doanh nghiệp đã được phép phát hành chứng khoán ra công chúng còn lại sẽ được niêm yết trên TTGDCK Hà nội. Các chứng khoán phát hành theo pháp luật về cổ phần hoá ( doanh nghiệp Nhà nước và liên doanh với nước ngoài) và Luật các tổ chức tín dụng nếu đủ điều kiện và muốn niêm yết sẽ phải đăng ký lại với Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước.
-Hoạt động giao dịch là hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán, vì vậy Nghị định mới quy định các hình thức giao dịch, tạm ngừng giao dịch, chứng khoán bị kiểm soát, giao dịch của những người nội bộ trong công ty niêm yết, giao dịch cổ phiếu quỹ, giao dịch thâu tóm doanh nghiệp.
-Thị trường chứng khoán hoạt động công khai, công bằng, vì vậy bên cạnh việc quản lý, giám sát thì việc công bố các thông tin của công ty niêm yết, thông tin thị trường cho các nhà đầu tư là hết sức quan trọng. Khi quản lý chuyển sang hình thức công khai thông tin là chủ yếu, thì vai trò của thông tin lại càng quan trọng. Vậy Nghị định phải quy định loại thông tin phải công bố, thời điểm công bố và nơi công bố. Về thông tin của công ty niêm yết được chia ra 3 loại : thông tin định kỳ, thông tin bất thường khi xảy ra các sự kiện đặc biệt quan trọng và thông tin theo yêu cầu của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, TTGDCK. Nghị định cũng quy định các loại thông tin thị trường mà TTGDCK phải công bố và thông tin mà công ty chứng khoán phải cung cấp.
-Về thị trường giao dịch tập trung, Nghị định mới tập trung vào hình thức pháp lý, chức năng, nhiệm vụ của TTGDCK là đơn vị sự nghiệp có thu thực hiện chức năng quản lý giao dịch, quản lý giám sát hoạt động niêm yết, công bố thông tin của công ty niêm yết và thông tin thị trường. Trước mắt, chức năng đăng ký, lưu ký, thanh toán bù trừ thuộc TTGDCK, nhưng về lâu dài cần có trung tâm lưu ký tách biệt với TTGDCK, vì vậy Nghị định cũng quy định chức năng của trung tâm lưu ký.
-Bên cạnh các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán trước đây, Nghị định mới sẽ bổ sung thêm nghiệp vụ tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán , là nghiệp vụ cung cấp dịch vụ cho khách hàng trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán , tái cơ cấu tài chính, chia tách sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp, lập phương án giúp đỡ các tổ chức niêm yết. Bên cạnh việc quản lý cấp phép hoạt động thì quản lý hoạt động công ty chứng khoán là đặc biệt quan trọng, vì vậy Nghị định mới quy định về quyền và nghĩa vụ của công ty chứng khoán. Nghị định mới quy định không cho phép các công ty chứng khoán hoạt động động tín dụng và cho vau chứng khoán, vì trong giai đoạn đầu phát triển thị trường các loại giao dịch bán khống và vay thế chấp để mua chứng khoán là hoạt động tạo ra rủi ro lớn, có thể làm mất ổn định thị trường.
-Về quỹ đầu tư chứng khoán, Nghị định mới quy mở thêm hình thức quỹ tư nhân có số nhà đầu tư từ 3 đến 30 người; hình thưc quản lý quỹ vẫn là hình thức hợp đồng uỷ thác, thông qua hình thức đại hội đồng người đầu tư và ban đại diện quỹ...các quy định này làm cơ sở pháp lý cho việc thành lập quỹ đầu tư tư nhân, quỹ đầu tư tập thể. Hy vọng rằng các quy định mới về quỹ đầu tư chứng khoán sẽ mở đường cho việc thành lập quỹ đầu tư tại Việt nam.
-Để làm cơ sở cho việc thành lập Hiệp hội Chứng khoán, Nghị định mới quy định về đĩa vị pháp lý và chức năng nhiệm vụ của Hiệp hội Chứng khoán. Trước mắt Hiệp hội Chứng khoán bao gồm các thành viên là các công ty chứng khoán , công ty quản lý quỹ và ngân hàng lưu ký.
-Về địa vị pháp lý của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã có Nghị định 75/CP quy định là cơ quan thuộc Chính phủ. Kinh nghiệm nhiều nước coi Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan độc lập và là một chế tài độc lập (như ngân hàng TW), vì cơ quan này chịu trách nhiệm giám sát một mảng lớn trong thị trường tài chính , đó là thị trường chứng khoán.
-Nghị định mới cũng quy định về thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm, trong đó quy định về đối tượng, phạm vi thanh tra, giám sát, về giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm, và một số quy định về tội danh trong hoạt động thị trường chứng khoán, phân biệt giữa hoà giải, xử lý hành chính, xử lý hình sự.
1.2. Xúc tiến thành lập Hiệp hội Chứng khoán
Cần nhanh chóng hình thành Hiệp hội Chứng khoán để tạo cơ chế quản lý, giám sát hoạt động của các công ty chứng khoán, từ đó từng bước nần cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động của các công ty chứng khoán, tạo ra sự hợp tác, phối hợp hoạt động giữa các công ty chứng khoán, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty chứng khoán.
1.3. Xúc tiến thành lập Quỹ đầu tư Chứng khoán
Quỹ đầu tư là một tổ chức chuyên nghiệp do các nhà đầu tư cùng góp vốn. Quỹ đầu tư được quản lý bởi công ty quản lý quỹ hay còn gọi là công ty đầu tư. Công ty đầu tư là một doanh nghiệp thuộc loại hình công ty cổ phần, nó phát hành và bán cổ phiếu để lấy vốn hoạt động ...Đối với các nhà đầu tư khi đầu tư vào quỹ thì mục tiêu là đạt được lợi tức tối ưu, còn đối với thị trường chứng khoán thì sự có mặt của các quỹ đầu tư sẽ tăng tính hiệu quả và ổn định hay nói cách khác là tính cơ bản(fundamentalism) của thị trường.
Cổ phiếu quỹ đầu tư còn gọi là Chứng chỉ quỹ đầu tư. Hoạt động của công ty đầu tư là kinh doanh vốn bao gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
+Đầu tư trực tiếp là thâm nhập trực tiếp vào các công ty, các dự án bằng cách góp vốn cổ phần, mua cổ phiếu phát hành lần đầu với tư cách là cổ đông sáng lập.
+Đầu tư gián tiếp là các quỹ đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán với tư cách của một nhà kinh doanh chứng khoán, mua đi bán lại chứng khoán , nhằm hưởng chênh lệch giá hoặc nhận cổ tức từ các công ty.
Với phương thức các quỹ đầu tư như vậy, những khoản tiền tiết kiệm nhàn rỗi phân tán trong dân chúng được tập trung lại thành các nguồn vốn lớn cho các nhà doanh nghiệp sử dụng trong lĩnh vực đầu tư kiếm lời và phân chia cổ tức cho các cổ đông góp vốn. Các khoản tiền tiết kiệm thay vì được các nhà đầu tư đưa cho môi giới chứng khoán để trực tiếp mua chứng khoán trên thị trường thì lại được góp vào quỹ đầu tư để thực hiện việc đầu tư tập thể. Tính ưu việt của việc đầu tư tập thể ở chỗ nó có khả năng quản lý và phát huy hiệu quả vốn đầu tư tốt hơn nhiều so với đầu tư riêng lẻ, bởi vì khả năng chuyên môn phân tích thị trường, đầu tư đa dạng hoá, làm giảm thiểu và phân tán rủi ro. Nhà nước cần chú ý việc xây dựng một mô hình công ty đầu tư trong nước phù hợp với luật pháp và thị hiếu người dân Việt nam. Với sự ra đời và hoạt động của mình, các công ty đầu tư sẽ góp phần giải quyết một số vướng mắc sau:
+Người dân Việt nam chưa có kinh nghiệm trong việc đầu tư cổ phiếu và cũng chưa biết cách thức đầu tư như thế nào để tránh rủi ro đồng thời bảo toàn và sinh lợi cho đồng vốn của mình.
+Các công ty cổ phần chưa có chế độ công khai thông tin nên khó có thể rao bán cổ phần rộng rãi ra công chúng.
+Việc tập trung đầu tư thông qua quỹ giúp cho các nhà đầu tư phân tán rủi ro thông qua việc đa dạng hoá đầu tư trên cơ sở danh mục đầu tư của quỹ.
+Các chứng chỉ đầu tư có khả năng thanh khoản cao thông qua mua bán trên thị trường chứng khoán. +Có thể huy động được kể cả các khoản đầu tư nhỏ nhất vào thị trường. Người đầu tư được tư vấn và trợ giúp bởi các chuyên gia, các nhà quản lý quỹ giỏi.
Các quỹ đầu tư với kinh nghiệm và chuyên môn của mình sẽ là chiếc cầu nối giữa cung và cầu chứng khoán, góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển qua việc tăng cường cung cấp hàng hóa chứng khoán; đồng thời là những nhà đầu tư có tổ chức chuyên nghiệp mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường sẽ kích thích đầu tư tăng doanh số giao dịch cho thị trường.
Ngoài ra cần khuyến khích hơn nữa việc thành lập các quỹ đầu tư nước ngoài ở nước ta. Thực tế cho thấy, từ khi chưa có thị trường chứng khoán tại Việt nam cũng đã xuất hiện nhiều quỹ đầu tư như Beta Việt nam Fund, Lazard Việt nam Fund, Việt nam Frontier Fund...Đặc biệt, có một quỹ đầu tư đã hoạt động thành công trong công cuộc đầu tư của mình vào Việt nam là Quỹ Dragon Capital Fund, với việc nắm giữ một tỷ lệ cổ phiếu tương đối lớn của 3 công ty cổ phần đang hoạt động rất hiệu quả là Công ty Cơ Điện lạnh, Công ty Đồ hộp Hạ Long và công ty xuất nhập khẩu lương thực Long An.
Nên có cơ chế thông thoáng cởi mở hơn đối việc thành lập quỹ đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện thuận tiện cho họ chuyển lợi nhuận từ việc đầu tư chứng khoán về nước , thực hiện tỷ lệ cho phép người nước ngoài được nắm giữ tối đa 30% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một số cổ phiếu phát hành.
Với các giải pháp thành lập và phát triển các định chế tài chính trung gian trên thị trường chứng khoán sẽ góp phần cải thiện tình hình trì trệ hiện nay của thị trường chứng khoán Việt nam.
1.4. Thay đổi mô hình ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán.
Đối với hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán hiện nay chúng ta đang theo mô hình kiểu Mỹ và Nhật. Đó là có sự tách biệt pháp lý giữa công nghiệp ngân hàng và công nghiệp chứng khoán, nghĩa là các ngân hàng thương mại muốn tham gia vào thị trường chứng khoán ngoài tư cách là tổ chức phát hành thì phải thành lập ra công ty chứng khoán trực thuộc hoạt động độc lập và hạch toán độc lập.
Nhưng trong điều kiện như hiện nay, khi mà các công ty chứng khoán chỉ bó hẹp phạm vi hoạt động ở các trung tâm và thành phố lớn như Tp.HCM, Hà nội....do chi phí cho việc mở rộng phạm vi hoạt động là quá lớn mà các công ty chứng khoán không thể đảm đương được thì việc chúng ta thay đổi hoạt động của các ngân hàng thương mại trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán là hợp lý. Tức là không có sự phân biệt giữa công nghệ ngân hàng và công nghệ chứng khoán. Bởi vì hệ thống ngân hàng có những thuận lợi sau:
Thứ nhất, hiện nay hệ thống ngân hàng của Việt nam đã có mặt ở hầu hết ở 61 tỉnh thành và thành phố, quy mô của ngân hàng có thể thoả mãn bất kỳ điều kiện nào của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước . Đây là một lợi thế rất lớn của ngân hàng so với các định chế tài chính khác, chỉ cần dựa vào phạm vi hoạt động rộng lớn của các ngân hàng thương mại là chúng ta có thể đưa thị trường chứng khoán đến tất cả các nơi trên lãnh thổ của đất nước khắc phục được những hạn chế về chi phí trong quá trình mở rộng phạm vi hoạt động của các trung gian môi giới trên thị trường chứng khoán.
Thứ hai, ngân hàng có quan hệ hợp tác với rất nhiều các tổ chức tài chính và phi tài chính ở rất nhiều quốc gia khác nhau, điều này tạo điều kiện trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt nam.
Thứ ba, hệ thống ngân hàng đang sử dụng một hệ thống thông tin nhanh nhất và hiện đại nhất đáp ứng mọi yêu cầu về thanh tóan, chi trả... của tất cả các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán.
Thứ tư, hệ thống ngân hàng đang sở hữu một đội ngũ chuyên gia về kinh tế có trình độ cao, điều này cũng là một lợi thế của ngân hàng so với các tổ chức khác.
Tuy nhiên để ngân hàng có thể tham gia trực tiếp vào thị trường chứng khoán thì ngoài những thuận lợi trên thì ta phải thấy được vai trò các nghiệp vụ của việc ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán:
* Ngân hàng là nhân tố góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước và hình thành các công ty cổ phần
Ngân hàng tham gia vào việc thành lập công ty cổ phần hoặc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước với 1 tỷ lệ cổ phiếu đáng kể để có đủ điều kiện tham gia quản trị kinh doanh,tư vấn vê mặt tài chính cho hoạt động công ty tăng thêm độ tín nhiêm. Công ty cổ phần dù mới thành lập hay cổ phần hoá, vốn vẫn còn hạn hẹp so với yêu cầu kỹ thuật và công nghệ hiện đại , do đó ngân hàng phải là trợ thủ đắc lực cho các công ty cổ phần tạo điều kiện cho các công ty cổ phiếu vay tín dụng. Như vậy, chính chế độ tín dụng và ngân hàng đã xã hội hoá các nguồn vốn, giải quyết mâu thuẫn trong sự vận động của nguồn vốn giữa các thành phần kinh tế , coá bỏ thính chất tư nhân cá biệt của nguồn vốn trong công ty cổ phần. Một doanh nghiệp có thể bắt đầu hoạt động của mình bằng một mõn vay nợ ngân hàng. Vay ngân hàng là là một cơ sở hoạt động của các doanh nghiệp và năng lực kinh doanh của họ. Các ngân hàng là người đầu tiên đã lập ra việc kiểm tra các hoạt động của công ty , họ quyết định có nên cho vay hay không và có nên cung cập tín dụng hay không. Ngân hàng sẽ cung cấp vốn kinh doanh nếu biết được tằng một công ty thành công cuối cùng có thể hoạt động kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Như vậy kỷ cương tài chính của ngân hàng sẽ đưa công ty vào thị trường chứng khoán, và sau đó thị trường chứng khoán sẽ bổ sung một kỷ luật tài chính đối với công ty.
* Ngân hàng giúp các công ty phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp
Khi một công ty nào đó muốn phát hành chứng khoán để thu hút vốn, họ có thể dựa vào uy tín, và kinh nghiệm của ngân hàng để ký hợp đồng về việc phát hành và bán các chứng khoán của mình. Như vậy ngân hàng thực hiện chức năng môi giới phát hành chứng khoán giữa những người muốn bán và những người mua chứng khoán. Khi đảm nhận vai trò này, ngân hàng sẽ tư vấn cho công ty nên phát hành lại chứng khoán nào, tư vấn về lãi suất về thời hạn và các vấn đề kỹ thuật khác.
* Ngân hàng làm trung gian mua bán chứng khoán ở thị trường thứ cấp
Đây là dịch vụ ngân hàng rất phát triển ở các nước trên thế giới, goi là dịch vụ trung gian chứng khoán (Brokerge service). Hoạt động loại này của ngân hàng trên thị trường thứ cấp cần phải có luật pháp bảo đảm với các quy định chặt chữ, nhằm tránh những trường hợp đầu cơ gây lộn xộn trên thị trường chứng khoán. Ngâ hang làm được những việc này bởi vì ngân hàng có những ưu thế sau:
Ngân hàng là người hiểu biết khá tường tận về các doanh nghiệp phát hành chứng khoán ( thông qua cc quan hệ tín dụng, thanh toán..)
Ngân hàng là người sẵn có những phương tiện kỹ thuật cần thiết phù hợp với yêu cầu của người môi giới.
Ngân hàng có đội ngũ cán bộ, nhân viên có nghiệp vụ chuyên môn liên quan chặt chẽ và gần gũi với những nghiệp vụ về chứng khoán .
* Cung cấp các dịch vụ lưu giữ và quản lý chứng khoán cho khách hàng
Dịch vụ này được thể hiện theo hai cách :
Ngân hàng có thể được giữ các chứng khoán được sử dụng như vật thế chấp cho một khoản vay của khách hàng; các ngân hàng thương mại nhỏ không có đủ điều kiện để giữ chứng khoán cho khách hàng, có thể giữ chứng khoán tại một ngân hàng lớn; các doanh nghiệp công ty cũng có thể có yêu cầu này; những cá nhân có nguồn tiền lớn cũng có thể nhờ ngân hàn quản lý sinh lời tài sản của họ và giao chứng khoán cho ngân hàng quản lý.
Mặt khác, ngân hàng cũng được yêucầu bởi những người có chứng khoán thực hiện những dịch vụ có liên quan dến chứng khoán khi họ vắng mặt một thời gian dài như thu hồi vốn các chứng khoán đến hạn, hoặc thu lãi cổ tức...
* Thực hiện việc thanh toán các chứng khoán
Nghiệp vụ thanh toán tiếp nối dịch vụ quản lý chứng khoán đã nêu trên. Ngân hàng có thể mở cho khách hàng của mình các tài khoản chứng khoán để theo dõi việc mua bán, chuyển nhượng chứng khoán kể cả việc thu lãi. Rõ ràng những tài khoản chứng khoán sẽ giúp ích rất nhiều cho những hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường. Các nhà đầu tư và kinh doanh chứng khoán, các trung gian, môi giới không phải bận tâm với việc lưu giữ và theo dõi việc mua bán chứng khoán hàng ngày. Ngân hàng sẽ đảm bảo cho khách hàng vấn đề này. Nhờ có ngân hàng mà hoạt động thanh toán sẽ nhanh chóng và dễ dàng hơn.
* Thực hiện công tác thanh toán bù trừ
Việc thực hiện công tác thanh toán đều do các ngân hàng đảm nhận, nếu công tác này được thực hiện tốt sẽ là một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự thành công của thị trường chứng khoán
1.5. Tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán
Hợp tác quốc tế trên các phương diện: tư vấn xây dựng các chính sách phát triển và quản lý thị trường, xây dựng khuôn khổ pháp luật cho thị trường chứng khoán, đào tạo đội ngũ cán bộ: từng bước mở cửa và hội nhập với các thị trường chứng khoán trên thế giới theo lộ trình đã cam kết.
Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính triển khai dự án phát triển thị trường vốn trong khuôn khổ tài trợ của ADB và các tổ chức quốc tế khác
2. giải pháp ở tầm vi mô
2.1. Hoàn thiện cơ sở vật chất, kỹ thuật thị trường
Nâng cấp, hiện đại hoá hệ thống giao dịch và giám sát thị trường của TTGDCK; tự động hoá một bước hệ thống lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. Phấn đấu trong năm 2006 đưa TTGDCK Hà Nội cho các cổ phiếu Doanh nghiệp vừa và nhỏ vào hoạt động, năm 2004 hoàn thành dự án và đưa vào hoạt động hệ thống giao dịch hiện đại của TTGDCK Tp.HCM.
Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty chứng khoán; đảm bảo tính thống nhất với hệ thống giao dịch, công bố thông tin của các TTGDCK
2.2. Phát triển hàng hóa và khuyến khích đầu tư
Đây không chỉ là giải pháp mang tính tạm thời mà thực sự là cốt yếu cho hiện tại và lâu dài của thị trường. Chủ trương là thực hiện tăng cung, kích cầu trên cơ sở xây dựng các chính sách khuyến khích nhà đầu tư, tạo điều kiện tối đa trong việc luân chuyển vốn đầu tư, cơ hội đầu tư cho các nhà đầu tư. Cụ thể là khuyến khích các tổ chức có quy mô về vốn, có kinh nghiệm trong đầu tư tham gia thị trường, đặc biệt các tổ chức và các nhà đầu tư nước ngoài. Công việc này đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ với các cơ quan ban ngành, nhất là Ngân hàng Nhà nước, Bộ tài chính, Bộ kế hoạch và đầu tư ...Từ những vấn đề trên việc phát triển hàng hóa trong thời gian tới cần chú ý những vấn đề sau::
-Tăng cường công tác đào tạo và phổ biến kiến thức, bởi chỉ khi nào thực sự có kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán thì các doanh nghiệp mới có đủ tự tin và quyết tâm cần thiết để tham gia vào thị trường. Và cũng chỉ khi nào có kiến thức về thị trường thì việc tham gia thị trường mới có thể thực sự mang lại lợi ích kinh tế cho từng doanh nghiệp và cho cả nền kinh tế.
-Đẩy mạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Trong thời gian trước mắt Chính phủ cần cho phép tiến hành thí điểm đưa một số doanh nghiệp liên doanh và ngân hàng thương mại cổ phần ra niêm yết. Việc thí điểm này có ưu điểm là sẽ rút ngắn được thời gian thực hiện, đồng thời cũng rút ra được nhiều kinh nghiệm để việc sửa đổi, bổ sung văn bản pháp lý sau này được chính xác và hợp lý hơn.
-Nhà nước cần có những thay đổi về cơ chế xác định lãi suất trái phiếu Chính phủ hiện hành, đồng thời có chính sách xác lập và hỗ trợ các tổ chức tạo lập thị trường cho trái phiếu Chính phủ. Điều này sẽ giúp tăng tính hấp dẫn của trái phiếu Chính phủ và tạo điều kiện huy động được nhiều vốn hơn nữa cho đầu tư và phát triển. Đối với trái phiếu doanh nghiệp , Nhà nước cũng cần tăng cường hơn nữa tính tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước bằng việc giảm và tiến dần đến loại bỏ hoàn toàn việc ưu đãi đối với các doanh nghiệp không thuộc diện các doanh nghiệp công ích. Điều này ngoài mục đích làm tăng tính cạnh tranh và hiệu quả trong hoạt động của nền kinh tế mà còn giúp bổ sung một lượng hàng hóa trái phiếu doanh nghiệp cho thị trường chứng khoán.
-Việc tăng cung hàng hóa trên thị trường cần phải làm đồng thời với việc tăng cầu đối với hàng hóa. Các doanh nghiệp không thể đưa hàng hóa ra thị trường khi mà ở đó lượng cầu la không đáng kể. Do đó , việc tăng cung hàng hóa trên thị trường cần thực hiện đồng thời với việc tăng cầu, thể hiện ở những khía cạnh sau:
+Tăng cường kiến thức cho các nhà đầu tư thông qua các chiến lược đào tạo và phổ biến kiến thức cho công chúng.
+Tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trên thị trường bằng cách công bố thông tin, nâng cao chất lượng kiểm toán, đồng thời thông qua sự giúp đỡ của quốc tế tưng bước phổ biến và áp dụng những thông lệ về quản trị công ty tốt trên thế giới vào các doanh nghiệp Việt nam.
+Giảm chi phí giao dịch và thời gian cho các nhà đầu tư , đồng thời đa dạng hoá các phương thức giao dịch trên thị trường giúp các nhà đầu tư có thể dễ dàng tiếp cận với thị trường bất kể thời gian và không gian.
+Khuyến khích sự ra đời của các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như các quỹ đầu tư cá nhân và tập thể , quỹ hưu trí và sự tham gia của các công ty bảo hiểm nhằm tăng cường yếu tố đầu tư dài hạn, khắc phục xu hướng đầu tư ngắn hạn nhằm mục đích đầu cơ.
-Xây dựng môi trường đầu tư thông thoáng, đặc biệt xem xét chỉnh sửa, bổ sung các quy định, quy trình liên quan đến việc đầu tư chứng khoán. Xây dựng các chính sách chặt chẽ trên cơ sở lợi ích nhà đầu tư.
-Nhanh chóng triển khai thị trường các loại chứng khoán vừa và nhỏ đi vào giao dịch với mục tiêu huy động tối đa khả năng hiện có. Thị trường giao dịch các loại chứng khoán vừa và nhỏ này sẽ phát triển song song cùng với thị trường hiện tại, kích thích và ổn định thị trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ hơn.
2.3. Phát triển nâng cao năng lực các tổ chức tài chính trung gian
Xây dựng phát triển hệ thống các định chế trung gian trên cơ sở nâng cao chất lượng các hoạt động động dịch vụ phục vụ đầu tư , các mô hình quản lý quỹ đầu tư , hỗ trợ đầu tư. Khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các công ty chứng khoán hiện có trên cơ sở các nghiệp vụ đăng ký, tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán trong việc hoàn thiện quy trình nghiệp vụ, nâng cao chất lượng dịch vụ. Tiếp tục phát triển hình thành các công ty chứng khoán mới hướng theo nhu cầu và đinh hướng phát triển chung cuả thị trường, trong đó có cả công ty chứng khoán liên doanh hoặc theo hình thức 100% vốn nước ngoài. Không ngừng nâng cao trình độ các công ty chứng khoán trong tất cả các nghiệp vụ nhằm mục tiêu hỗ trợ tốt nhất khả năng của mình cho thị trường cũng như cho các nhà đầu tư.
Hiện nay, chúng ta có 9 công ty chứng khoán, sắp tới sẽ có thêm 1 công ty nữa. Như vậy số lượng công ty chứng khoán tham gia trong thời gian này là tương đối khá nhiều. Điều cần thiết hiện nay không phải là tăng thên số lượng công ty chứng khoán mà là nâng cao hoạt động công ty chứng khoán băng nhiều cách như mở rộng phạm vi hoạt động, đại lý nhận lệnh , lưu ký chứng khoán, cổ phần phép hợp pháp hoá chứng từ điện tử, băng ghi âm, bảng fax...trong khi đặt lệnh từ xa.
Phát triển dịch vụ tư vấn. Dịch vụ tư vấn thời gian qua chỉ dừng lại ở khâu cung cấp thông tin sơ bộ cho khách hàng , qua việc cung cấp bảng tóm tắt báo cáo tài chính của công ty niêm yết ( đôi khi không có cả những thông tin cần thiết), mà không có những dịch vụ tư vấn cho khách hành nhằm làm tăng tính hiệu quả của quyết định đầu tư. Tình hình này là do sự non kém về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm trên thị trường chứng khoán và đặc biệt là sự không hợp lý trong việc lựa chọn những trung gain môi giới của các công ty chứng khoán. Từ đó vấn đề đào tạo nhân lực và thay đổi những nhân lực cho đội ngũ nhân viên tác nghiệp trên thị trường chứng khoán là rất cần thiết cho mục đích kích cầu.
Phát triển dịch vụ quản lý danh mục đầu tư. Thời gian qua các công ty chứng khoán hầu như không thực hiện việc dịch vụ này bởi vì nguyên nhân chủ yếu là hàng hóa quá ít ỏi nên không có sự lựa chọn trong việc đầu tư của khách hàng. Nhưng khi thị trường chứng khoán phát triển , hàng hóa đa dạng hơn, dịch vụ này sẽ giúp các nhà đầu tư gia tăng tài sản của mình bằng cách nhờ các công ty chứng khoán thiết lập một danh mục đầu tư có chọn lọc, nắm giữ và điều hành danh mục đầu tư đó qua dịch vụ quản lý danh mục đầu tư (Investment Portfolio Management).
Ngoài việc tăng cường các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán nhằm nâng cao chất lượng phục vụ các nhà đầu tư cũng là thực hiện mục tiêu kích cầu cho thị trường chứng khoán, các công ty chứng khoán phải thực hiện một nhiệm vụ cơ bản mà thời gian qua chưa thực hiện đó là nhà tạo thị trường ( Market makers). Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước phải đưa ra những quy định bắt buộc các công ty chứng khoán thành viên phải hoạt động như các nhà tạo thị trường cho một số chứng khoán nhất định, để góp phần điều tiết thị trường.
Khuyến khích sự tham gia của các định chế trung gian khác, kể cả nước ngoài, có chính sách ưu đãi thích hợp đối với các định chế này
2.4. Phát triển nâng cao hiệu quả công bố thông tin
* Đối với các tổ chức niêm yết : Các cán bộ phụ trách công bố thông tin cần phải là người có thẩm quyền trong công ty. Các tổ chức niêm yết cần phải có bộ phận chuyên trách công bố thông tin.
Cần phải đảm bảo cung cấp đầy đủ các thông tin định kỳ, tức thời và theo yêu cầu. Trong đó thông tin tức thời là quan trọng nhất vì có tác dụng trực tiếp đến giá chứng khoán trên thị trường. Thông tin tức thời bao gôm các thông tin tốt và không tốt của tổ chức niêm yết. Việc cung cấp thông tin tức thời trong thời gian qua chưa đượccác tổ chức niêm yết thực hiện một cách nghiêm túc.
Bên cạnh những thông tin về tổ chức niêm yết phải công bố theo quy định, tổ chức niêm yết có thể tiến hành công bố thông tin tự nguyện. Công bố thông tin tự nguyện là việc tổ chức niêm yết tự nguyện công bố những thông tin không thuộc những vấn đề quy định phải công bố. Tổ chức niêm yết có thể vận dụng công bố thông tin tự nguyện vừa góp phần cung cấp thông tin cho thị trường, vừa là hình thức quảng cáo cho chính mình.
*Hình thức công bố thông tin: Thiết lập các mẫu công bố thông tin để tạo sự đồng nhất và tránh trường hợp công bố thông tin sai sót, thiếu chính xác.
Phát triển và hoàn thiện hệ thống truyền thông nối mạng giữa TTGDCK với các công ty chứng khoán.
Xây dựng hệ thống cung cấp thông tin qua mạng Internet : phương án xây dựng một trang chủ của TTGDCK trên mạng Internet cung cấp tất cả các thông tin về thị trường và các thông tin liên quan đến các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán , trong đó thông tin từ các tổ chức niêm yết được công bố trên hệ thống mạng cùng thời gian với hệ thống công bố thông tin hiện nay là một điều tất yếu. Điều này sẽ trợ giúp thông tin cho tất cả những nhà đầu tư không có nhiều thời gian đến các công ty chứng khoán cũng như những nhà đầu tư ở các vùng xa trụ sở của TTGDCK và các công ty chứng khoán.
Phát hành các ấn phẩm chính thức của thị trường : bản tin “Tin thị trường chứng khoán,“ các brochure giới thiệu và quảng bá về các mặt hàng chủ yếu trên thị trường và các ấn phẩm phân tích, thống kê hàng tháng, quý , năm của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và TTGDCK .
*Phương tiện công bố thông tin: Thiết lập hệ thống cung cấp thông tin tự động: đây là hệ thống công bố thông tin trả lời tự động bằng điện thoại khi người đầu tư có yêu cầu. Với hệ thống này người đầu tư có thể tiếp nhận và cập nhật thông tin 24/24 giờ. Khi TTGDCK tiến hành công bố thông tin trên hệ thống mạnh, đồng thời sẽ tiến hành thu âm và lưu trữ thông tin trên hệ thống cung cấp thông tin tự động này cho nhà đầu tư tham khảo khi truy cập bằng cách gọi điện thoại. Khi hệ thống nối mạnh nội bộ và hệ thống nối mạng truyền thông của TTGDCK phát triển và hoạt động ổn định, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và TTGDCK sẽ thiết lập hệ thống công bố thông tin hoàn toàn tự động. Hệ thống này nối mạng trực tiếp từ tổ chức niêm yết đến TTGDCK và các công ty chứng khoán ; thành viên llưu ký, ngân hàng chỉ định thanh toán cho đến từng nhà đầu tư. Hệ thống này cung cấp cho TTGDCK và tổ chức niêm yết mã số truy cập và cung cấp thông tin, còn những đối tượng khác chỉ cung cấp mã số truy cập thông tin này hiệu quả của việc đảm bảo chất lượng thông tin và thời gian công bố sẽ được nâng cao và đạt hiệu quả tốt nhất.
*Đối với các văn bản pháp quy về công vố thông tin trên thị trường : Ban hành văn bản pháp quy quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm từng đối tượng liên quan trong kênh công bố thông tin. Trong đó, nêu rõ phạm vi, quyền hạn và nghĩa vụ của từng đối tượng , từng bộ phận liên quan. Từng đối tượng liên phải chịu trách nhiện trước pháp luật về các hành vi liên quan trong công bố thông tin ra công chúng.
*Xử lý vi phạm: Công khai xử lý vi phạm và xử lý vi phạm về công bố thông tin của các tổ chức niêm yết và các đối tượng khác có liên quan trên phương tiện thông tin đại chúng
2.5. Nâng cao công tác quản lý thị trường
Không ngừng nâng cao năng lực, hiệu lực quản lý trên cơ sở tăng cường hiệu lực và khả năng quản lý Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa kết hợp các cơ chế quản lý, thanh tra giám sát hợp lý. Thực hiện có hiệu quả các công tác quản lý, thanh tra giám sát trên thị trường nhằm tạo môi trường, lành mạnh, cạnh tranh, ổn định tâm lý, lòng tin của các nhà đầu tư nói chung trong quá trình phát triển và hội nhập thị trường chứng khoán.
2.6. Nâng cao công tác đào tạo chứng khoán
Chú trọng công tác bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ điều hành, quản lý, đội ngũ những người trực tiếp tham gia hoạt động trên thị trường, các cán bộ làm công tác tuyên truyền, giản dạy theo hướng chuyên môn hoá. Do đó, cần tăng cường hợp tác đào tạo với nước ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau như vừa cử đi học nhắn hạn lẫn dài hạn , mời các chuyên gia nước ngoài sang giảng dạy, tranh thủ sự hỗ trợ của các nước về nghiệp vụ và kỹ thuật. Bên cạnh đó, còn phải nghiên cứu các kinh nghiệm của họ về hệ thống đào tạo, mô hình tổ chức, mối quan hệ giữa các bộ phận trong hệ thống đào tạo nguồn nhân lực để có thể áp dụng vào Việt nam.
Đổi mới, hoàn thiện nội dung các loại giáo trình chương trình đào tạo hiện có và xây dựng thêm các loại giáo trình, chương trình mới phù hợp với các hình thức đào tạo và phải phù hợp với mọi đối tượng tham gia. Ngoài ra, trong các chương trình đào tạo, cũng phải quan tâm đến các nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia thị trường chứng khoán Việt nam, nhất là vấn đề luật pháp áp dụng trong lĩnh vực này..
Mặt khác, để đảm bảo chất lượng học tập , cũng như nâng cao giá trị của các loại chứng chỉ chứng khoán và thị trường chứng khoán do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp, thì cần phải có các quy định cụ thể cho các đối tượng theo học và xét cấp chứng chỉ.
Mở rộng các hình thức đào tạo, tăng cường công tác phổ cập kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho công chúng băng nhiều phương thức khác nhau; trong đó nên chú ý tới việc tổ chức tập huấn nghiệp vụ, nói chuyện chuyên đề, phổ biến tuyên truyền.. cho các công ty chứng khoán, các công ty niêm yết, các nhà đầu tư và công chúng.
Tăng cường cơ sở vật chất, cơ chế , chính sách tài chính hỗ trợ ; xây dựng quy trình đào tạo từ việc quản lý, ra đề thi, tổ chức thi, chấm thi, cấp chứng chỉ... đáp ứng được yêu cầu đào tạo ngày một cao hơn, phù hợp với tiến trình phát triển của thị trường.
Cần có cơ chế phối hợp, hỗ trợ chặt chẽ về đào tạo chứng khoán giữa Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước các Trường Đại học, các cơ quan, đơn vị, các ngành, các cấp chín quyền.. để công tác này có thể thu được hiệu quả cao hơn.
2.7. Củng cố và tăng cường bộ máy tổ chức hoạt động của cơ quan quản lý vận hành thị trường
Sắp xếp, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, TTGDCK nhằm nâng cao khả năng quản lý điều hành giám sát thị trường một cách linh hoạt, có hiệu quả, đồng thời thực hiện cải cách hành chính của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước theo chương trình cải cách tổng thể hành chíh đến năm 2010 của Chính phủ.
2.8. Hướng thị trường chứng khoán Việt Nam hội nhập với thế giới
Bên cạnh việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng các nghiệp vụ, cũng như việc mởi rộng thêm các nghiệp vụ; áp dụng các phương thức và phương tiên giao dịch hiện đại vào thị trường chứng khoán Việt Nam nói chung, thì việc định hướng để đưa thị trường chứng khoán Việt Nam hội nhập với thị trường chứng khoán thế giới là cần thiết.
Khi nói đến thị trường chứng khoán, người ta nghĩ ngay đến tính quốc tế của nó. Thị trường chứng khoán không đóng khung trong phạm vi một nước mà nó ảnh hưởng và chịu sự ảnh hưởng của rất nhiều các yếu tố quốc tế.
Hiện nay, thị trường chứng khoán Việt Nam về cơ bản là nhỏ và chỉ mới hoạt động trong phạm vi quốc gia. Việc đưa thị trường chứng khoán Việt Nam tham gia vào thị trường quốc tế là rất hạn chế. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu của các hoạt động kinh tế trong quá trình hội nhập với khu vực và quốc tế, thì thị trường chứng khoán Việt Nam phải từng bước phát triển hội nhập với thị trường chứng khoán quốc tế; về lâu dài xây dựng thị trường chứng khoán Việt Nam ngang tầm với thị trường chứng khoán các nước bạn.
Kết luận
T
oàn cầu hoá đã mang đến cơ hội phát triển cho tất cả, không loại trừ quốc gia nào. Những thực tiễn và kinh nghiệm từ thị trường mới nổi, từ các nước có nền kinh tế chuyển đổi ở Đông Âu, và đặc biệt là thực tiễn, kinh nghiệm từ Trung Quốc và các nước trong khu vực, là những minh chứng thuyết phục nhất cho khả năng phát triển thị trường chứng khoán Việt nam.
Nhằm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2004-2010, trên cơ sở những kết quả ban đầu đạt được, chúng ta tin tươngt rằng dưới sự chỉ đạo thường xuyên, chặt chẽ của Chính phủ, sự phối hợp có hiệu quả giữa các Bộ, ngành, địa phương liên quan, sự quan tâm tin tưởng của các nhà đầu tư và sự trưởng thành của các tổ chức kinh doanh-dịch vụ chứng khoán, sự phát triển không ngừng của các công ty niêm yết, sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp, thị trường chứng khoán Việt Nam nhất định sẽ vượt qua những khó khăn, thách thức và phát triển vững chắc trong những năm tới, trở thành một kênh huy động và phân bổ vốn dài hạn hiệu quả của nền kinh tế, đóng góp ngày càng to lớn cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, ta có thể tóm tắt sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo trong 6 chữ sau: “ vững chắc-an toàn-hiệu quả”.
Phụ lục
Các sơ đồ về thị trường chứng khoán ở Việt nam
Thị trường chứng khoán Việt nam và các tổ chức liên hệ
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước
Cơ quan tư
vấn
Trungtâm thông tin
-Thông tin
-Thanh toán
-Quản lý chứng khoán
Sở giao dịch chứng khoán tp. hcm
Công ty kiểm toán
Cty. Chứng khoán 1
Cty. Chứng khoán 2
Cty. Chứng khoán 3
Dân chúng
Người t.kiệm
Nhà đầu tư
Doanh nghiệp
Quỹ đầu tư
Quỹ bảo hiểm
Quỹ tương hỗ
Kho bạc Nhà nước
C/quyền địa phương
Sơ đồ tổ chức
Chánh văn phòng
P.Nghiên cứu và chính sách
P.Đào tạo và thông tin
P.Tổ chức và thị trường
Ban thanh tra và pháp chế
Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố hồ chí minh
Bộ máy văn phong Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước
Sở giao dịch chứng khoán hồ chí minh
Ban điều hành
Giám đốc
điều hành
P.giám đốc 1
P.giám đốc 2
P.đăng ký & phát triển ck
P.tổ chức môi giới ck
P.kiểm toán
P.
thông tin
P.pháp chế
P.giám sát giao dịch
P.điện toán
P.quản lý ck
P.
thanh toán bù trừ
P.
thanh tra xử lý
Tổ
Tổng hợp
p.quan hệ quốc tế
p.kế toán tài vụ
Phương thức tổ chức và hoạt động của công ty ck
Sở giao dịch
Hệ thống thương lượng đấu giá
Lệnh thu (lệnh chi)
Kết quả giao dịch
đại diện cty chứng khoán
Công ty chứng khoán
Tổng hợp đơn đặt hàng
Vp.đại diện cty.ck
Vp.đại diện cty.ck
Công ty chứng khoán
Vp.đại diện cty.ck
Công ty chứng khoán
Đơn đặt hàng
Doanh nghiệp
Quỹ
đầu tư
Người
đầu tư
Người tiết kiệm
Quỹ tương hỗ
Kho bạc Nhà nước
C/quyền địa phương
Kinh doanh chứng khoán trên thị trường
Sở giao dịch chứng khoán
Ck
Chưa đăng ký
Ck
đã đăng ký
Thị trường otc
Tổng hợp đơn đặt hàng
Ck ct “a”
Vp. đại diện
ct ck “a”
Người mua
Người bán
Vp. đại diện
ct ck “b”
Ck ct “b”
Ck
Chưa đăng ký
Ck
đã đăng ký
Tổng hợp đơn đặt hàng
Phương thức giao dịch mua bán chứng khoán
Sàn giao dịch
Môi giới A
Bảng điện
Thông báo kết quả
Đấu giá (chuyên gia)
Công ty chứng khoán
Phòng tiếp thị
Phòng kinh doanh
Phòng thanh toán
Trung tâm quản lý ck
Và Thanh toán bù trừ
Ngân hàng uỷ thác A
Chứng khoán
Vốn
Khách hàng (người mua)
Hợp đồng
Lệnh mua
Công ty chứng khoán
Phòng tiếp thị
Phòng kinh doanh
Phòng thanh toán
Khách hàng (người bán)
Hợp đồng
Lệnh bán
Ngân hàng uỷ thác B
Vốn
Chứng khoán
Môi giới b
Sự tuần hoàn và thanh toán trong thị trường chứng khoán
Sở giao dịch
đạidiện cty ck A
Hệ thống thương lượg đấu giá
Kết quả giao dịch
Lệnh thu
Trung tâm quản lý chứng khoán
Trung tâm thanh toán bù trừ
Ngân hàng uỷ thác a
Vốn
Chứng khoán
Công ty
chứng khoán a
Người mua ck
Lệnh mua
Công ty
chứng khoán b
Người bán ck
Lệnh bán
Lệnh chi
đạidiện cty ck b
Ngân hàng uỷ thác a
Chứng khoán
Vốn
Danh mục tài liệu tham khảo
.............o0o.............
PGS. Bạch Đức Hiển, PGS-PTS. Nguyễn Công Nghiệp, Thị trường chứng khoán, NXB Tài Chính 1998
TS.. Nguyễn Sơn, TS. Nguyễn Quốc Việt, Thị trường chứng khoán Việt Nam mô hình và bước đi, NXB Chính trị Quốc gia 2003
Học viện ngân hàng, Giáo trình thị trường chứng khoán, NXB Thống kê 2004
Trường Đại học Ngoại thương, Giáo trình thị trường chứng khoán, NXB Giáo dục 1998
Trường Đại học Kinh tế TPHCM, Giáo trình thị trường chứng khoán
Uỷ ban Chứng khoán, Giáo trình phân tích và đầu tư chứng khoán
Uỷ ban Chứng khoán, Giáo trình Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và Thị trường chứng khoán
PGS.TS. Nguyễn Văn Nam, Thị trường chứng khoán, Hà Nội 1996
PGS. Đinh Xuân Hạ, Quản lý và các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán, NXB Thống kê 1999
PGS.TS. Lê Văn Tề, Phân tích thị trường tài chính, NXB Thống kê 2003
TS. Trần Thị Thái Hà, Nghề môi giới chứng khoán, NXBCTQG 2004
Huy Nam, Thị trường chứng khoán tại sao, NXB Trẻ 2004
Vũ Ngọc Dung, Hồ Ngọc Cẩn, 144 câu hỏi đáp về Thị trường chứng khoán Việt Nam, NXB Thống kê 2005
TS. Lưu Thị Hương, Giáo trình tài chính doanh nghiệp, NXB Giáo dục 1998
TS. Lưu Thị Hương, Giáo trình tài chính doanh nghiệp, NXB Giáo dục 2005
PGS.TS. Lê Văn Tư, Hiểu và sử dụng thị trường chứng khoán, NXB Thống kê 1999
Tạp chí Ngân hàng, Thời báo ngân hàng, Thời báo kinh tế, Tạp chí Tài chính tiền tệ, Tạp chí Tài chính, Tạp chí kinh tế phát triển, Tạp chí chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Thương mại........ các số từ năm 1998-8/2005.
Nghị định 48/CP/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3675.doc