Theo quan điểm của Đảng đề ra trong đại hội Đảng IX thì: Thị trường lao động là nơi mua bán các dịch vụ của người lao động, về thực chất là mua bán sức lao động trong một phạm vi nhất định.
Như vậy, có rất nhiều các quan niệm khác nhau về thị trường lao động và trong khóa luận này thị trường lao động được hiểu là: “ thị trường lao động là môi trường thực hiện các quan hệ mua – bán sức lao động thông qua các hình thức thỏa thuận về tiền công và điều kiện lao động”.
Lao động là phạm trù trừu tượng không thể cân, đo, đếm được . Vì vậy, không thể là hàng hóa trên thị trường sức lao động. Thị trường lao động khác thị trường hàng hóa. Về bản chất, thị trường lao động là thị trường sức lao động trong những điều kiện lao động và quan hệ lao động cụ thể. Thị trường lao động được cấu thành bởi ba bộ phận: cung, cầu và giá cả sức lao động.
Cung về sức lao động là tổng nguồn sức lao động do người lao động tự nguyện đem ra tham dự vào quá trình tái sản xuất xã hội. Từ khía cạnh thực tiễn, cung về sức lao động được hiểu là cung về lao động, và được tính bằng khối lượng người lao động ( số lượng, chất lượng và cơ cấu của lực lượng lao động ) tham gia vào thị trường lao động trong một thời gian nhất định.
70 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1040 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển thị trường lao động tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o động, khiến người lao động có thể tìm được những công việc phù hợp với khả năng, tạo cơ hội cho người lao động tham gia đông đảo vào thị trường lao động.
Năm 2005 Thành phố đã đầu tư 276 triệu đồng để khảo sát nhu cầu tuyển dụng lao động của 1.038 doanh nghiệp. Ngày 1/4/2006 Website thông tin thị trường lao động đầu tiên của thành phố được khai trương và chính thức đưa vào hoạt động với tên gọi: “ vieclamhanoi.net” nhằm hỗ trợ cho người lao động tìm việc làm và hỗ trợ cho người sử dụng lao động cần tuyển dụng.
* Hội chợ việc làm.
Hội chợ việc làm là nơi cung cấp cho mọi tầng lợp nhân dân thủ đô các thông tin về thị trường lao động nhằm hỗ trợ người lao động đồng thời giúp các doanh nghiệp tuyển dụng lao động, các cơ sở dạy nghề trong tuyển sinh và cung ứng, giới thiệu việc làm của các đơn vị dịch vụ việc làm. Mặt khác hội chợ việc làm là dịp để người lao động có cơ hội tìm hiểu về chỗ làm việc, các ngành nghề đào tạo, yêu cầu và nhu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghêp. Chính vì vậy từ năm 2002 đến nay, Thành phố Hà Nội đã 4 lần tổ chức Hội chợ việc làm. Năm 2002: 1 lần; năm 2003: 1 lần; năm 2004: 1 lần; năm 2005: 1 lần.
3.2. Đánh giá thực trạng phát triển thị trường lao động ở Thành phố Hà Nội
2.3.1. Những kết quả đạt được.
Trong 7 năm từ năm 2001 đến năm 2007 trung bình mỗi năm toàn thành phố giải quyết việc làm cho 45839 người.
Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị giảm từ 7,39% năm 2001 xuống còn 5,74% năm 2007 ( giảm 1,65% ).
Cơ cấu lao động chuyển dịch phù hợp với cơ cấu kinh tế ( tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ tăng 47,05% năm 2001 lên 51,88% năm 2007 và tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp giảm 25,88% năm 2001 xuống còn 18,76 năm 2007)
Hiện nay trên địa bàn thành phố Hà Nội có hơn 70 doanh nghiệp có chức năng xuất khẩu lao động. Từ năm 2001 đến nay toàn thành phố đã đưa được 332.506 người đi xuất khẩu lao động.
Hiện nay trên địa bàn thành phố đang tồn tại 2 hệ thống dịch vụ việc làm: Hệ thống dịch vụ việc làm được thành lập theo nghị định 72/CP gồm 11 trung tâm đã được thành phố quy hoạch từ năm 1998 và hệ thống dịch vụ việc làm hoạt động theo luật doanh nghiệp gồm 677 doanh nghiệp có chức năng giới thiệu việc làm.
Kết quả từ năm 2001 đến năm 2005 đã có 269485 người được các trung tâm dịch vụ việc thành lập theo nghị định 72/CP tư vấn việc làm ( bình quân 53897 người/năm). 109.928 người được giới thiệu và cung ứng việc làm ( bình quân: 21985 người/năm ) và 71414 người được dạy nghề ngắn hạn (bình quân: 14282 người/năm).
Năm 2005 Thành phố đã đầu tư 276 triệu đồng để khảo sát nhu cầu tuyển dụng lao động của 1.038 doanh nghiệp. Trang Web “ vieclamhanoi.net” ra đời nhằm hỗ trợ cho người lao động tìm việc làm và hỗ trợ cho người sử dụng lao động cần tuyển dụng.
Toàn thành phố đã tổ chức được 4 hội chợ việc làm nhằm cung cấp cho mọi tầng lợp nhân dân thủ đô các thông tin về thị trường lao động nhằm hỗ trợ người lao động đồng thời giúp các doanh nghiệp tuyển dụng lao động, các cơ sở dạy nghề trong tuyển sinh và cung ứng, giới thiệu việc làm của các đơn vị dịch vụ việc làm.
2.3.2. Những tồn tại và nguyên nhân.
Số người có nhu cầu giải quyết việc làm hàng năm lớn, tỷ lệ thât nghiệp luôn ở mức cao so với các địa phương khác.
Số ngoại tỉnh nhập cư tự do vào Hà Nội tìm việc ngày càng lớn ( hiện tại số người ngoại tỉnh đang sinh sống và làm việc trên địa bàn Hà Nội chiếm trên 7% dân số thành phố ).
Số lao động dôi dư khi thực hiện sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước có nhu cầu tìm việc làm mới khoảng trên 10.000 người.
Số lao động bị mất, thiếu việc làm do chuyển đổi mục đích sử dung đất nông nghiệp bình quân mỗi năm xấp xỉ 20.000 người.
> Tất cả đã làm tăng sức ép dân số, việc làm, làm cho tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm ở Hà Nội ngày càng bức xúc hơn.
Kết quả xuất khẩu lao động thấp do:
Tâm lý kén chọn việc làm, không đi làm những công việc giản đơn, nặng nhọc và không đi những nước có đời sống thu nhập thấp.
Các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động của Hà Nội chưa đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và nguồn lực cho hoạt động xuất khẩu lao động ( trong
8 doanh nghiệp của Hà Nội có chức năng xuất khẩu lao động thì chỉ có 4 doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả ).
Công tác quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động còn buông lỏng, việc kiểm tra, giám sát hoạt động xuất khẩu của cơ quan quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp chưa thường xuyên và kịp thời, nên đã xảy ra mộ số hiện tượng môi giới trong hoạt động xuất khẩu lao động làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động và tác động xấu đến hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
Hoạt động của hệ thống dịch vụ việc làm còn nhiều bất cập.
Năng lực hoạt động của 11 trung tâm dịch vụ việc làm đã được thành phố quy hoạch còn nhiều hạn chế, thiếu sự gắn kết trong quá trình hoạt động, đặc biệt là trong lĩnh vực trao đổi, cung cấp thông tin về lao động việc làm; nhiều hoạt động chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động do trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế, trang thiết bị và cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu chưa xứng với nhiệm vụ được giao.
Hệ thông dịch vụ việc làm tư nhân tuy số lượng nhiều nhưng hoạt động không hiệu quả do nghiệp vụ thấp, hoạt động chạy theo lợi nhuận, thu phí tùy tiện, có doanh nghiệp còn lợi dụng chức năng dịch vụ việc làm ghi trong giấy phép đăng ký kinh doanh để lừa đảo làm thiệt hại cho người lao động và gây khó khăn cho thành phố trong công tác quản lý Nhà nước về dịch vụ việc làm.
Hệ thống thông tin thị trường lao động còn yếu kém.
Chưa thiết lập được hệ thống thông tin đồng bộ về thị trường lao động từ thành phố tới các quận, huyện, phường, xã; đặc biệt công tác thống kê số lượng, chất lượng nguồn lao động và kiểm soát kết quả việc làm còn nhiều khó khăn, việc cập nhật thông tin, báo cáo ở cấp cơ sở không nghiêm túc, không thường xuyên do thiếu đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác lao động xã hội phường, xã, dẫn đến việc đánh giá giải quyết việc làm hàng năm và dự báo về thị trường lao động
còn chưa chính xác và kịp thời làm ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động của thành phố Hà Nội.
->> Từ thực trạng của thị trường lao động tại Hà Nội như trên, sau đây là một số giải pháp nhằm đẩy nhanh sự phát triển của thị trường lao động của thành phố.
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI ĐẾN NĂM 2015.
3.1. Mục tiêu, quan điểm và phương hướng phát triển thị trường lao động ở thành phố Hà Nội.
3.1.1. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và phát triển thị trường lao động của thành phố Hà Nội.
*Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội.
Tốc độ tăng GDP bình quân năm: năm 2015 là 14%.
GDP bình quân đầu người: năm 2015 là 3000 USD/người.
Cơ cấu kinh tế: năm 2015 cơ cấu kinh tế theo thứ tự công nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp là: 43 % - 57% - 0,5%.
Tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên là 1%, tăng cơ học ở mức dưới 1%.
Hàng năm có 47000 người bước vào độ tuổi lao động.
Diện tích nhà ở đô thị: năm 2015 là 11m2/người.
Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới: năm 2015 là 0,5%.
* Mục tiêu phát triển thị trường lao động của thành phố Hà Nội.
Ưu tiên đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao năng suất lao động, chất lượng việc làm và giá trị lao động, đảm bảo phát triển thị trường lao động khách quan, lành mạnh, ổn định, tạo ra nhiều việc làm, khuyến khích các hình thức tạo việc làm tại chỗ, đẩy mạnh xuất khẩu lao động chất lượng cao, xuất khẩu chuyên gia.
Mở rộng quy mô, chất lượng công tác đào tạo nghề đảm bảo hợp lý về cơ cấu, ngành nghề và phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động kết hợp với nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho lực lượng lao động, xây dựng đội ngũ nhân viên, công nhân kỹ thuật lành nghề, đội ngũ các nhà quản trị kinh doanh giỏi.
* Chỉ tiêu cụ thể đến năm 2015
Hàng năm giải quyết việc làm cho 82000 đến 85000 người lao động.
Giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị xuống dưới 5,5 và nâng tỷ lệ sử dụng thời giam lao động khu vực nông thôn lên 90%.
Cơ cấu lực lượng lao động trong các ngành Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp đạt tỷ lệ: 52%-33%-15%.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55% - 56% trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt: 25% - 30%.
Tỷ lệ lực lượng lao động tham gia trên thị trường lao động khoảng 60%. 3.1.2. Quan điểm của thành phố Hà Nội trong việc phát triển thị trường lao động.
Vai tò của thị trường lao động trong các thị trường ngày nay được nhận thức như một yếu tố năng động nhất. Thị trường lao động là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Vì vậy trong quá trìn phát triển kinh tế xã hội của thành phố phải đặt người lao động vào vị trí trung tâm, tạo điều kiện khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng của người lao động cho công cuộc xây dựng thủ đô.
Phát triển thị trường lao động là quá trình tạo việc làm cho người lao động để tham gia vào quá trình phát triển của quốc gia nói chung và của địa phương nói riêng. Phát triển thị trường lao động chính là quá trình tạo lập và sử dụng lao động vì sự tiến bộ kinh tế và xã hội. Phát triển thị trường lao động có ý nghĩa phát huy nguồn lực con người theo phương trâm phát triển bền vững, gắn phát triển thị trường lao động với phát triển giáo dục đào tạo và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động.
Hình thành và phát triển thị trường lao động, đa dạng các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh tạo ra những khả năng to lớn để tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm. Vấn đề rất cơ bản trong đổi mới toàn bộ hệ thống quản lý lao động và giải quyết việc làm nước ta theo đòi hỏi khắt khe của thị trường lao động là phải tổ chức toàn bộ lao động xã hội, tạo một đội ngũ lao động có cơ cấu số lượng và chất lượng phù hợp với cấu trúc kinh tế mới. Tổ chức hoạt động của thị trường lao động có tổ chức, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động, phổ cập kiến thức về xã hội cho lao động trước hết là thanh niên.
Nhà nước có vai trò trong việc tạo môi trường thuận lợi và bình đẳng cho người lao động ở mọi khu vực có việc làm và việc làm có hiệu quả. Nhà nước phải quan tâm đến toàn bộ lực lượng lao động xã hội, phải soạn thảo chế độ chính sách và cơ chế quản lý không chỉ trong khu vực Nhà nước, mà còn trong toàn bộ xã hội. Nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi cho mọi người lao động, tạo điều kiện cho họ được bình đẳng trong việc tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, bình đẳng trong hưởng thụ những thành quả lao động của mình. Nhà nước có trách nhiệm tổ chức và khuyến khích mọi người lao động, các cấp các ngành các điạ phương, các tổ chức xã hội tạo nhiều việc làm và việc làm có hiệu quả, ở đây Nhà nước phải giải quyết hai vấn đề cơ bản:
Tạo nhiều chỗ làm cho người lao động theo các hướng: phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế, khuyến khích thuê mướn lao động, tự do di chuyển, tự do hành nghề.
Chính quyền các cấp các ngành chức năng có chính sách tạo khuyến khích việc làm nhằm phát triển thị trường lao động.
Nhà nước có vai trò chủ đạo trong việc hỗ trợ nguồn vốn cho người lao động, chỉ đạo hệ thống ngân hàng kinh doanh tiền tệ hướng vào việc tạo việc làm để thực hiện cho vay. Kêu gọi và tranh thủ các tổ chức Quốc tế đầu tư vào cho vay theo chương trình dự án kinh tế, khuyến khích, động viên mọi thành viên, mọi tổ chức xã hội trong cộng đồng góp vốn, góp những nguồn nhân lực khác vào sự nghiệp tạo việc làm.
Nhà nước trung ương cũng như chính quyền các cấp các ngành kinh tế, kỹ thuật phải tổng kết các mô hình việc làm thích hợp có hiệu quả để nhân ra diện rộng nhằm mục tiêu thay đổi cơ cấu lao động xã hội hiện nay.
Nhà nước có vai trò chủ yếu trong việc tổ chức mạng lưới thông tin thị trường lao động, phổ biến mô hình. Khuyến khích các cấp các ngành các tổ chức đoàn thể phát triển mạnh mạng lưới môi giới và dịch vụ việc làm giúp cho người lao động những thông tin cần thiết nhằm nhanh chóng tạo những công ăn việc làm.
Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc đào tạo tay nghề cho người lao động, tổ chức mạng lưới dạy nghề rộng khắp để đào tạo mới, đào tạo lại nghề cho phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động. Đặc biệt Nhà nước cần quan tâm đến việc nâng cao năng lực cho những nhà doanh nghiệp về vốn, thiết bị, kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra nhiều việc làm mới và ổn định.
3.1.3. Phương hướng phát triển thị trường lao động ở thành phố Hà Nội.
Tập trung phát triển các lĩnh vực, ngành nghề, khu vực hoạt động kinh tế làm sao đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Gắn chương trình phát triển các doanh nghiệp quy mô lớn, các tập đoàng xản xuất mạnh với các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Kết hợp hướng đầu
tư lớn, thu hút lao động có trình độ chuyên môn lành nghề, tạo ra các tầng thu hút lao động trình độ thấp, trước hết là lao đông dịch vụ, phục vụ.
Xây dựng và ban hành chính sách đào tạo, đào tạo lại, dạy nghề và di chuyển người lao động sao cho phù hợp với cơ cấu nền kinh tế đang chuyển đổi.
Định hướng phát triển và kết hợp hài hòa, sắp xếp, quy hoạch các hoạt động trong khu vực phi chính thức Hà Nội đã, đang và sẽ là một hướng quan trọng để tự tạo việc làm cho người động.
Xây dựng các chính sách khuyến khích người sử dụng lao động tăng cường tuyển chọn và sử dụng lao động.
3.2. Giải pháp phát triển thị trường lao động ở Hà Nội đến năm 2010 định hướng đến năm 2015.
Sau đây là một số giải pháp nhằm phát triển thị trường lao động tại thành phố Hà Nội đến năm 2010 định hướng đến năm 2015. Chúng ta cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
3.2.1. Giải pháp về cung lao động.
3.2.1.1. Quản lý lao động nhập cư
Phải tiếp tục thực hiện công tác dân số - kế hoạc hóa gia đình đặc biệt đối với việc nâng cao chất lượng dân số và kiểm sóat tốc độ tăng cơ học bằng chính sách hạn chế có chọn lọc các nguồn di dân vào thành phố. Thực hiện các chính sách y tế, khám chữa bệnh để nâng cao tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của dân cư đặc biệt ở các vùng ngoại thành. Đối với lao động ngoại tỉnh nhập cư vào Hà Nội cần phải quy định các quy tắc, tiêu chuẩn đối tượng được phép về Hà Nội sinh sống và làm việc, ngoài ra thành phố cần ban hành các quy định về quản lý lao động ngoại tỉnh, có chế tài đối với người lao động và người sử dụng lao động thực hiện không đúng các quy định của thành phố. Có chính sách khuyến khích, khai báo tạm trú. Tuy nhiên thủ tục khai báo đăng ký tạm trú phải đơn giản, thuận tiện cho người lao động vào sử dụng lao động. Quy hoạch cụ thể về quyền hạn và nghĩa vụ của người dân di xư khi sống và làm việc tại thành phố, nghĩa vụ của người di cư đối với thành phố nơi họ sinh sống và trách nhiệm của cơ sở sử dụng lao động ngoại tỉnh vào làm việc bằng các khoản chi phí nhất định để thành phố tiến hành các chương trình và dịch vụ nhằm giúp đỡ người di cư. Có cơ chế chính sách nhằm kiểm soát quản lý người lao động tự do đặc biệt là các chợ lao động và người lang thang không có nơi cư trú nhất định.
Ngoài ra thành phố phải có chương trình áp dụng công nghệ tin học trong công tác quản lý di dân. Quy chế về quản lý sinh viên các trường chuyên nghiệp và dạy nghề; quy định về quản lý lao động tự do ở các tỉnh, thành phố khác về Hà Nội; quy định quy chế phối hợp giữa Ủy ban nhân dân các cấp với các ngành chức năng trong quản lý dân cư, quản lý các đối tượng hình sự, tệ nạn xã hội. Đặc biệt quy định chặt chẽ hơn về trách nhiệm đăng ký khai báo tạm trú của các hộ gia định, nhà trọ, khách sạn.
Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế vùng Hà Nội trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội nông thôn ngoại thành và phát triển các đô thị vệ tinh trong vùng Hà Nội. Thực hiện dịch chuyển các doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh các ngành nghề như công nghiệp, dệt may sử dụng nhiều lao động ngoại thành, ngoại tỉnh ra ngoại thành nhằm tạo ra nhiều cơ hội việc làm tăng thêm tu nhập, đới sống vật chất, tinh thần cho người lao động nông thôn nhằm hạn chế động lực thúc đẩy di cư vào đô thị.
3.2.1.2. Đầu tư phát triển sản xuất tạo việc làm cho người lao động.
Trong những năm tới thành phố cần phải có những giải pháp đầu tư phát triển và mở rộng sản xuất đối với các ngành Dịch vụ, Công nghiệp, xây dựng và nông nghiệp để tạo mở việc làm và thu hút lao động trên cơ sở thực hiện lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế xã hội với chương trình giải quyết việc làm, xây dựng các chính sách ưu đãi về đầu tư, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch và xuất khẩu lao động, phát triển các dịch vụ trình độ cao, chất lượng cao thuộc lĩnh vực tài chính, ngân hàng, giao thông công chính, y tế, giáo dục để thu hút đầu tư nước ngoài vào Hà Nội và thu hút lực lượng lao động có trình độ, chuyên môn kỹ thuật của Thành phố. Cụ thể:
Thứ nhất đối với ngành dịch vụ
Thực hiện đa dạng hóa, nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ, chú trọng phát triển các dịch vụ kỹ thuật cao trên cơ sở hình thành một số Tổng công ty lớn đa sở hữu kinh doanh thương mại và dịch vụ đô thị ( phát triển hệ thống siêu thị, cải tạo sắp xếp lại hệ thống chợ, xây dựng một số chợ đầu mối quy mô lớn ). Trong quy hoạch sử dụng đất cần bố trí các khu thương mại dịch vụ để tạo việc làm cho người lao động vùng bị thu hồi đất, đặc biệt là đối tượng lao động nữ từ 35 tuổi trở lên không có khả năng đào tạo để chuyển đổi nghề nghiệp.
Nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế trọng điểm của thủ đô, khuyến khích phát triển các dịch vụ chất lượng cao thuộc lĩnh vực tài chính, ngân hàng, giao thông, môi trường nhằm nâng cao chất lượng sống của người dân và khách du lịch đến Hà Nội.
Thứ hai đối với Công nghiệp, Xây dựng
Tiếp tục phát triển các cụm công nghiệp phù hợp với quy hoạch để phù hợp với quy hoạch để giải quyết mặt bằng sản xuất cho doanh nghiệp, thực hiện các dự án di chuyển cơ sở sản xuất gây ô nhiễm ra khỏi khu vực nội thành.
Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước, phát triển một số tập đoàn kinh tế mạnh của Hà Nội và phát triển có chọn lọc các ngành hàng, các sản phẩm có giá trị cao, sử dụng công nghệ hiện đại, ít gây ô nhiễm môi trường ( có khí, điện, điện tử, công nghệ thông tin, chế biến lương thực, thực phẩm ).
Có các chính sách và cơ chế hợp lý khuyến khích phát triển kinh tế ngoài quốc doanh, tăng cường cải cách các thủ tục hành chính tạo điều kiện cấp giấy đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp nhanh chóng và thuận tiện.
Có biện pháp hỗ trợ các tổ chức, cá nhân phát triển sản xuất, tạo mở việc làm nhất là lao động các vùng bị thu hồi đất có nhu cầu tự tạo việc làm tại chỗ, Thành phố sẽ cho vay các nguồn vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm để sản xuất kinh doanh tự tạo việc làm đồng thời sẽ mở các lớp hướng dẫn phương thức làm ăn phù hợp với yêu cầu của thị trường, mở các lớp đào tạo chủ doanh nghiệp, tổ chức các hội thảo trao đổi kinh nghiệm làm kinh tế cho các đối tượng có nhu cầu và học tập các điển hình về gương tự làm giàu.
Thứ ba đối với ngành Nông nghiệp
Quy hoạch ổn định các vùng sản xuất nông nghiệp, phối hợp đồng bộ giải quyết việc làm, giảm nghèo, khuyến nông
Đẩy mạnh phổ biến kiến thức kinh doanh, phương thức làm ăn mới cho người lao động, phát triển nông nghiệp sạch với công nghệ cao, đặc biệt hỗ trợ nông dân đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường ( sản xuất rau sạch, thực phẩm sạch).
3.2.1.3. Mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo nghề.
Hàng năm các trường Đại học, trung học, cao đẳng, các trường dạy nghề cung cấp một số lượng lớn người lao động, song hiện nay hiện tượng thừa thầy thiếu thợ đang là phổ biến. Hiện tượng có nhiều chỗ làm việc cho ngưồn lao động không đáp ứng được yếu cầu công việc dẫn đến việc làm thì vẫn có, những người lao động vẫn thất nghiệp. Chính vì vậy chúng ta cần phải xem xét một cách nghiêm túc về quá trình đào tạo. Để khắc phục tình trạng trên chúng ta cần phải coi đầu tư cho đào tạo nghề là đầu tư cho phát triển cần được ưu tiên trong chiến lược phát triển nguồn lực thủ đô. Phải gắn đào tạo nghề với thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế thủ đô, phát triển các ngành mũi nhọn, các khu công nghiệp, khu chế xuất và cho xuất khẩu lao động.
Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn lao động không những có vai trò quyết định trong việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa phát triển toàn diện kinh tế - xã hội mà còn tạo điều kiện cho mỗi người có thể tìm được công việc phù hợp, có thu nhập cao hơn từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống của mình. Đầu tư cho đào tạo nghề là đầu tư có bản, lâu dài. Trong đào tạo chuyên môn nghề nghiệp cũng phải nhất quán theo nguyên tắc của cơ chế thị trường nhiều thành phần với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, có chọn lọc, có cạnh tranh. Người học có thể chọn thầy, chọn lớp, chọn nghề phù hợp để học. Cần phải tăng cường sự quản lý, kiểm soát của Nhà nước trong lĩnh vực đào tạo, dạy nghề, hạn chế những hiện tượng tiêu cực trong lĩnh vực này. Có chính sách ưu tiên đối với các đối tượng chính sách như: con thương binh, liệt sỹ, những người có công. Để nâng cao chất lượng nguồn lao động ở thủ đô trong những năm tới nhằm đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe của thị trường lao động chúng ta cần tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau đây:
Quy hoạch lại hệ thống mạng lưới đào tạo nghề theo hướng xã hội hóa tập trung xây dựng các trường nghề chất lượng cao phù hợp với nhu cầu phát triển thông qua một số giải pháp:
Nhà nước sẽ tập trung đầu tư xây dựng các trường cao đẳng nghề có máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ cao mà tư nhân không có khả năng đầu tư để đào tạo công nhân kỹ thuật cao nhằm đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật cho các ngành kinh tế mũi nhọn, các ngành công nghệ cao và phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu lao động kỹ thuật cao.
Thực hiện cơ chế ưu đãi về tín dụng, đất đai, thủ tục đầu tư để khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế tham gia công tác đào tạo nghề, tạo điều kiện cho các Tổng công ty, doanh nghiệp, quận, huyện liên kết mở thêm các cơ sở dạy nghề để dạy nghề cho người lao động theo điạ chỉ và đào tạo lại tay nghề cho đội ngũ công nhân lao động hiện có trên cơ sở tận dụng và phát huy lợi thế về đất đai, máy móc thiết bị hiện có của doanh nghiệp.
Có chính sách thu hút tài năng, bổ sung đội ngũ giáo viên giỏi cho các trường dạy nghề:
Ưu tiên tuyển dụng học sinh tốt nghiệp đại học loại giỏi thuộc các chuyên ngành kinh tế kỹ thuật đồng thời có chính sách ưu đãi để thu hút giáo viên dạy nghề giỏi của các tỉnh về các trường, cơ sở dạy nghề thuộc Thành phố Hà Nội quản lý.
Ưu tiên đối tượng học viên tốt nghiệp bằng nghề giỏi được đào tạo liên thông lên cao đẳng, đại học và sau khi tốt nghiệp sẽ bố trí làm giáo viên dạy nghề.
Có kế hoạch hợp tác với các trường đào tạo kỹ thuật, đào tạo nghề Quốc tế nhằm tăng cường cơ hội giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề, ngoại ngữ cho đội ngũ giáo viên các trường dạy nghề của Hà Nội. Bố trí cho các giáo viên dạy nghề của thành phố có cơ hội học tập nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng giảng dạy trong và ngoài nước.
Đổi mới chương trình đào tạo, biên soạn lại giáo trình, giáo án, đổi mới trang thiết bị dạy và học cho phù hợp với yêu cầu thực tế của doanh nghiệp và đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.
Tăng cường chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đào tạo nghề, đặc biệt mở rộng hệ thống thông tin thị trường lao động trên phạm vi toàn thành phố nhằm mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, tăng cường đào tạo nghề dài hạn theo địa chỉ, đào tạo gắn với yêu cầu của thị trường lao động và phục vụ nhu cầu xuất khẩu lao động chất lượng cao.
Ứng dụng khoa học công nghệ vào công tác quản lý đào tạo nghề.
3.2.2. Giải pháp phát triển cầu lao động.
3.2.2.1. Chuyển đổi cơ cấu lao động.
Chuyển dịch cơ cấu lao động là sự chuyển dịch đồng bộ trên các mặt, cả về cơ cấu ngành nghề, trình độ kỹ thuật các vùng nội, ngoại thành và các thành phần kinh tế Tất cả đều nhất quán theo hướng vừa đảm bảo việc phát triển hiện đại, tiên tiến, vừa khai thác tiềm năng, thế mạnh sẵn có của thủ đô và các cùng xung quanh.
Những năm tới các doanh nghiệp Nhà nước sẽ tiếp tục phát triển nhưng chủ yếu đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hóa thiết bị, công nghệ, số lao động thu hút thêm không nhiều và chủ yếu sử dụng lao động có kỹ thuật cao. Phần lớn số lao động sẽ tiếp tục thu hút mạnh vào các cơ sở sản xuất kinh doanh ở mọi thành phần kinh tế. Mỗi năm khu vực này ở Hà Nội có thể thu hút được hơn 30000 lao động. Cần nhất quán chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở cả nội thành và các vùng nông thôn, tạo điều kiện cho khu vực kinh tế này phát triển mạnh hơn nữa. Đẩy mạnh phát triển các loại hình dịch vụ kinh doanh nhỏ để tạo việc làm, đây là hướng cơ bản để tạo việc làm ở cả thành thị và nông thôn. Liên quan đến vấn đề này là hàng loạt các biện pháp đồng bộ từ Luật Doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư, chính sách hộ khẩu, chính sách thuế, vốn đến quy hoạch tổ chức lại các vỉa hè, chợ, quản lý đô thị đặc biệt là đào tạo các chủ doanh nghiệp trẻ, các chủ hộ sản xuất kinh doanh, trang bị cho họ những kiến thức cơ bản về thị trường và quản trị doanh nghiệp.
Để thực hiện các mục tiêu trên, cần chuyển đổi cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu nền kinh tế, tổ chức lại lao động xã hội để khai thác và phát triển tiềm năng các thành phần kinh tế. Trước hết là vấn đề việc làm ở khi vực nông nghiệp và nông thôn: Trong quá trình chuyền dịch cơ cấu kinh tế đây là khu vực thiếu việc làm và thừa lao động phổ biến nhất. Cần phải nhanh chóng đa dạng hóa việc làm, đa dạng hóa thu nhập như là hình thức phổ biến ở nông thôn. Phải giảm dần số hộ thuần nông, giải phóng đất đai, khắc phục tình trạng diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người quá thấp. Đa dạng hóa các ngành nghề, thực hiện người lao động nào giỏi việc gì làm việc ấy, tạo việc làm tại chỗ cho người lao động. Giao đất ổn định lâu dài cho nông dân, phát triển kinh tế hộ gia đình theo hướng sản xuất, kinh doanh nông sản hàng hóa, phát triển các trang trại là hình thức tạo việc làm phổ biến và thích hợp nhất. Phát triển kinh tế hộ gia đình từ đó sẽ dẫn đến liên kết các hộ sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp, các hình thức liên doanh, liên kết các Hợp tác xã tự nguyện, hình thành các xí nghiệp nhỏ ở nông thôn, khuyến khích các hộ gia đình mở mang cơ sở sản xuất kinh doanh, đầu tư công nghệ, vốn và kinh nghiệm tiếp cận thị trường, thúc đẩy việc tuyển lao động để trở thành doanh nghiệp nhỏ. Tạo việc làm phải gắn với khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống.
3.2.2.2. Thúc đẩy giao dịch trên thị trường lao động.
Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế, thị trường lao động cũng hình thành và phát triển. Thị trường lao động ra đời tất yếu hình thành hệ thống dịch vụ việc làm với vai trò cầu nối giữa cung và cầu lao động nhằm đảm bảo cho thị trường lao động phát triển ở thế cân bằng, hạn chế những tác động xấu về mặt xã hội. Chính vì vậy, các trung tâm giới thiệu việc làm có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển thị trường sức lao động, giải quyết việc làm: vừa tạo điều kiện cho sự tiếp xúc giữa cung – cầu lao động, vừa đào tạo dạy nghề, nâng cao chất lượng lao động, hơn nữa còn cung câp thông tin và góp phần điều tiết sự hoạt động của thị trường sức lao động. Để hệ thống dịch vụ việc làm thực sự trở thành cầu nối giữa người lao động và người sử dụng lao động góp phần điều tiết được sự hoạt động của thị trường lao động cần tác động các giải pháp như tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ việc làm trên địa bàn thành phố, rà soát lại chức năng của trung tâm dịch vụ việc làm, đặc biệt là các trung tâm dịch vụ Nhà nước theo hướng tăng cường chức năng tư vấn và giới thiệu việc làm, thông tin và phân tích thị trường lao động, trợ cấp người thất nghiệp. Tiếp tục thực hiện cơ chế chính sách về hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm trong điều kiện có sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân và các tổ chức xã hội theo hướng cấp giấy phép hoạt động có điều kiện. Chấm dứt hoạt động của các trung tâm không đủ điều kiện thực hiện các chức năng và nhiệm vụ về dịch vụ việc làm. Củng cố mạng lưới về dịch vụ việc làm trên địa bàn thành phố, trong đó chú trọng mở rộng mạng lưới các trung tâm dịch vụ việc làm ở khu vực ngoại thành, gần các khu công nghiệp để cung cấp lao động có kỹ thuật cao cho các khu công nghiệp này. Đầu tư tăng cường năng lực đào tạo nghề cho một số trung tâm dịch vụ việc làm có kinh nghiệm đào tạo nghề để có thể tham gia đào tạo nghề với các trường và trung tâm dạy nghề. Mỗi trung tâm dịch vụ việc làm tập trung vào 2 – 3 nghề ngắn hạn chủ yếu có thế mạnh, đặc biệt là đào tạo nghề bổ sung để phục vụ nhu cầu chuyển đổi nghề và nâng nghề cho người lao động.
Với mục tiêu hệ thống dịch vụ việc làm phải thực sự trở thành cầu nối giữa người lao động và người sử dụng lao động nhằm hỗ trợ có hiệu quả cho chương trình giải quyết việc làm, thành phố cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, thực hiện quy hoạch, củng cố lại hệ thống các trung tâm giới thiệu việc làm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giới thiệu việc làm phù hợp với thị trường lao động của thành phố thông qua các giải pháp sau:
Đối với hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm thành lập theo nghị định 72/CP của chính phủ:
Thành lập lại hoặc thỏa thuận thành lập lại theo nghị định 19/2005/NĐ – CP của Chính phủ, trung tâm nào đủ điều kiện, có khả năng phát triển và có phương hướng hoạt động phù hợp với thị trường lao động của thành phố cho thành lập lại, Trung tâm không đủ điều kiện và phương hướng hoạt động không rõ ràng, không phù hợp sẽ chuyển hướng hoạt động (Hệ thống này sẽ duy trì 7 trung tâm, trong đó sẽ đầu tư nâng cấp hiện đại hóa một trung tâm thành trung tâm giao dịch lao động đạt tiêu chuẩn tương đương với các nước phát triển trong khu vực).
Đối với hệ thống dịch vụ việc làm thuộc các doanh nghiệp hoạt động theo
luật doanh nghiệp:
Thực hiện cấp giấy phép hoạt động, giới thiệu việc làm cho các Doanh nghiệp có đủ điều kiện quy định tại Nghị định 19/2005/NĐ – CP, các Doanh nghiệp không đủ điều kiện Thành phố sẽ rút chức năng giới thiệu việc làm ghi trong giấy phép đăng ký kinh doanh ( Hệ thống này sẽ quy hoạc từ 80 – 100 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giới thiệu việc làm theo hướng mở rộng mạng lưới dịch vụ việc làm ra các vùng ngoại thành đặc biệt là các vùng đô thị hóa, khu công nghiệp, cụm công nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lao động ). Chỉ doanh nghiệp nào có giấy phép hoạt động giới thiệu việc làm do sở Lao động Thương binh và Xã hội cấp mới được phép hoạt động trong lĩnh vực giới thiệu việc làm.
Sau khi quy hoạch sẽ tuyên truyền rộng rãi hệ thống giới thiệu việc làm của thành phố trên phương tiện thông tin đại chúng để người lao động và người sử dụng lao động biết và liên hệ nhằm hạn chế tình trạng lộn xộn, tự phát trong hoạt động giới thiệu việc làm hiện nay.
Nâng cao chất lượng hoạt động của các trung tâm và các Doanh nghiệp trong lĩnh vực giới thiệu việc làm theo hướng: Tăng cường chức năng tư vấn, giới thiệu việc làm, cung ứng lao động, thu nhập, cung cấp và phân tích thông tin thị trường lao động nhằm trợ giúp những người thất nghiệp, thiếu việc làm.
Thứ hai, từng bước thiết lập hệ thống thông tin thị trường lao động, nối mạng hệ thống giới thiệu việc làm trên địa bàn toàn thành phố, duy trì và phát triển Website “ Vieclamhanoi.net” nhằm cung cấp mọi thông tin cung – cầu lao động trên thị trường lao động cho người sử dụng lao động có nhu cầu tuyển lao động, người lao dộng có nhu cầu tìm việc làm và giải đáp pháp luật cho người lao động.
Thứ ba, tăng cường vai trò Quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ việc làm, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng giới thiệu việc làm cho đội ngũ giám đốc và cán bộ công nhân viên trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tư vấn, giới thiệu việc làm của các trung tâm giới thiệu việc làm và các doanh nghiệp.
Thứ tư, thường xuyên tổ chức thanh tra, kiểm tra các hoạt động của hệ thống giới thiệu việc làm trên địa bàn thành phố nhằm phát hiện và uốn nắn các sai phạm trong hoạt động giới thiệu việc làm đồng thời xử lý nghiêm minh và kiên quyết đối với các đơn vị có sai phạm, hoạt động kém hiệu quả với các hình thức ( xử phạt hành chính, rút chức năng giới thiệu việc làm,)
Thứ năm, Sở Lao Động Thương Binh và Xã Hội Hà Nội phối hợp với Bộ, Sở, Ngành có liên quan kết hợp chặt chẽ với các quận, huyện, phường, xã triển khai thực hiện việc kiểm tra thường xuyên hoạt động dịch vụ việc làm trên địa bàn, tham mưu cho ủy ban nhân dân thành phố có biện pháp xử lý đối với những cơ sở không có giấy phép hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ việc làm và không có tên trong hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm ở Hà Nội theo quy định tại thông tư số 08/LĐTBXH – TT ngày 10/03/1997 của Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội.
3.2.2.3. Phát triển mạnh quan hệ kinh tế với các nước và xuất khẩu lao động.
Phát triển mạnh quan hệ kinh tế với nước ngoài là một giải pháp tăng cầu lao động trên thị trường lao động dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng và là hướng đi quan trọng để giải quyết việc làm, đồng thời còn nâng cao chất lượng nguồn lao động. Có thể nêu ra những hình thức cơ bản sau đây: đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu; nhận đầu tư trực tiếp từ nước ngoài; liên doanh, hợp tác sản xuất gia công chế biến; phát triển dịch vụ du lịch quốc tế; xuất khẩu lao động sang các nước.
Mỗi hình thức đều có những đòi hỏi riêng, đều có tác dụng trực tiếp đến giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng nguồn lao động. Trong điều kiện hiện nay của nước ta, sản xuất và gia công hàng hóa xuất khẩu có ý nghĩa to lớn, khai thác đươc thế mạnh của ta là lao động trẻ, khéo tay, nguyên liệu trong nước phong phú Cần có chính sách khuyến khích và ưu đãi cho các cơ sở gia công xuất khẩu ,nhất là đối với loại hàng hóa sử dụng nhiều lao động, giải quyết được nhiều việc làm cho nhiều người như may mặc, thêu, giày da, lắp ráp điện tử, Coi đây là một trong những giải pháp quan trọng, mũi nhọn của thủ đô, vừa tạo ra tích lũy ban đầu, vừa giải quyết việc làm cho người lao động.
Xuất khẩu lao động là một trong những giải pháp được nhiều nước trên thế giới quan tâm và khai thác tối đa. Đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là hướng quan trọng vừa giải quyết việc làm cho thanh niên, vừa tạo nguồn thu ngoại tệ, phát triển kinh tế xã hội trong nước, vừa góp phần tạo việc làm nâng cao trình độ tay nghề, kiến thức của người lao động. Vì vậy, chúng ta cần nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về công tác xuất khẩu lao động, đặc biệt là theo dõi việc thi tuyển, đưa đi và đánh giá hiệu quả của công tác xuất khẩu lao động của các đơn vị xuất khẩu lao động và xử lý các sai phạm trong hoạt động xuất khẩu lao động. Nâng cao năng lực của các đơn vị làm công tác xuất khẩu lao động trực tiếp, đặc biệt là công tác tìm kiếm thị trường va nắm bắt nhu cầu đào tạo đối với từng loại ngành nghề, thị trường cụ thể, tiến hành rà soát và đánh giá lại hệ thống xuất khẩu lao động trên địa bàn thành phố. Gắn hoạt động xuất khẩu lao động với công tác đào tạo nghề. Nâng cao chất lượng công tác đào tạo nghề để đảm bảo các yêu cầu về trình độ, tác phong và ngoại ngữ đối với thị trường cụ thể.
Tăng cường mối liên hệ giữa các doanh nghiệp với các cơ sở xuất khẩu lao động để tiết kiệm kinh phí đào tạo cũng như đảm bảo các phẩm chất khác của người lao động. Xây dựng các cơ chế, chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp trong nước tham gia vào việc đào tạo lại lao động cho xuất khẩu cũng như đảm bảo việc làm cho người lao động sau khi về nước.
Đổi mới nhận thức về tầm quan trọng của xuất khẩu lao động trong các ngành, các cấp và người lao động, đồng thời làm rõ trách nhiệm của gia đình, của các cấp cơ sở xã, phường, quận, huyện trong việc chuẩn bị nguồn lực cho xuất khẩu lao động của thành phố, nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản trong hoạt động xuất khẩu lao động của thành phố. Chủ động nắm bắt thông tin thị trường lao động ngoài nước và nhu cầu đi xuất khẩu của người lao động qua đăng ký ở các phường, xã đồng thời chủ động quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, trên cơ sở đó chuẩn bị sẵn sàng nguồn lao động đủ điều kiện về tay nghề, ngoại ngữ, sức khỏe, để kịp thời đáp ứng yêu cầu lao động của các doanh nghiệp.
Gắn trách nhiệm của gia đình, cấp ủy chính quyền cơ sở để tuyển chọn lao động có chất lượng, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu lao động của các nước. Phối hợp với các ngân hàng chính sách xã hội thành phố, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tạo điều kiện thuận lợi để người lao động vay vốn đi xuất khẩu lao động.
Để thực hiện được những điều trên chính quyền thành phố Hà Nội cần có các giải pháp về xuất khẩu lao động sau đây:
Thứ nhất, mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu lao động, đặc biệt là lao động có trình độ tay nghề cao theo hướng mở rộng và duy trì các thị trường truyền thống phù hợp với đặc điểm của lao động Hà Nội như : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,, khai thác và tạo mở một số thị trường mới có nhiều tiềm năng, chú trọng xuất khẩu lao động chất lượng cao và chuyên gia.
Thứ hai, đa dạng hóa các hình thức xuất khẩu lao động, nghiên cứu thí điểm hình thức hợp tác xuất khẩu lao động giữa Hà Nội với một số vùng, thủ đô của các nước thông qua việc gắn kết hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư với xúc tiến xuất khẩu lao động.
Thứ ba, chấn chỉnh, quy hoạch, sắp xếp lại các doanh nghiệp xuất khẩu lao động thuộc địa phương quản lý phù hợp với đề án phát triển thị trường lao đông của thành phố giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng đến năm 2015 theo hướng: thành phố sẽ giữ lại 4-5 doanh nghiệp mạnh hoạt động có hiệu quả trên cơ sở tạo điều kiện hỗ trợ về vốn, ưu tiên mở rộng mặt bằng đủ điều kiện để doanh nghiệp có cơ sở mở địa điểm đào tạo, giáo dục định hướng từ 3-4 tháng cho người lao động trước khi xuất cảnh, đồng thời hỗ trợ kinh phí để các doanh nghiệp đào tạo, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác xuất khẩu lao động và xúc tiến mở thị trường mới phù hợp với đặc điểm của lao động Hà Nội, những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả phải chuyển hướng kinh doanh hoặc sắp xếp lại.
Thứ tư, có chính sách khuyến khích đủ mạnh để các doanh nghiệp chuyên doanh xuất khẩu lao động trên địa bàn tuyển chọn lao động Hà Nội (chính sách hỗ trợ kinh phí đào tạo giáo dục định hướng cho người lao động, hỗ trợ kinh phí khám sức khỏe, làm hộ chiếu cho lao động nghèo, chính sách thưởng khuyến khích đối với các doanh nghiệp dành hợp đồng và thị trường phù hợp cho lao động Hà Nội, chính sách thưởng cho các doanh nghỉệp đưa được nhiều lao động Hà Nội đi xuất khẩu lao động,)
Thứ năm, tăng cường chức năng quản lý Nhà nước trong hoạt động xuất khẩu lao động, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trên địa bàn thành phố.
Thứ sáu, chỉ đạo ủy ban nhân dân các phường, xã trong việc tín chấp cho lao động nghèo vay vốn đi xuất khẩu lao động.
Thứ bảy, hàng năm ngân sách thành phố dành một khoản kinh phí nhất định phục vụ công tác tập huấn nghiệp vụ thông tin, tuyên truyền về xuất khẩu lao động trên địa bàn thành phố.
Thứ tám, cần đào tạo chủ doanh nghiệp. Đây là một trong những giải pháp cấp bách vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Do đặc thù của nền kinh tế trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta chưa có đội ngũ những nhà kinh doanh lành nghề, chưa có kiến thức, kinh nghiệm quản trị doanh nghiệp theo nguyên tắc thị trường. Đối với những người làm kinh tế tư nhân, kinh doanh nhỏ lại càng hụt hẫng trong lĩnh vực này. Cùng với những khó khăn khác thì thiếu kiến thức, kinh nghiệm quản trị doanh nghiệp đang là một trở ngại lớn, cản trở nhiều chủ doanh nghiệp nhỏ và nhiều người muốn lập doanh nghiệp mới. Cần có các chiến lược quốc gia về đào tạo các chủ doanh nghiệp với nhiều hính thức phù hợp. Đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, hỗ trợ thành lập doanh nghiệp và giúp đỡ các chủ doanh nghiệp nhỏ xác định các phương án kinh doanh, tiếp cận các nguồn vốn.
3.2.2.4. Xây dựng và kiện toàn hệ thống thông tin thị trường lao động.
Cần đẩy mạnh công tác nắm thông tin về thị trường lao động như: khảo sát thống kê về số lượng, chất lượng nguồn lao động, tổ chức hội chợ việc làm hàng năm để nắm cung cầu lao động và tạo quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động. Muốn vậy cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, thiết lập hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động, thống nhất từ thành phố đến quận, huyện, xã, phường gồm:
Hệ thống thông tin hướng nghiệp, dạy nghề: cung cấp các thông tin về cơ hội đào tạo, các chương trình giáo dục, đào tạo, hướng dẫn lựa chọn nghề nghiệp. đồng thời thông qua hệ thống này tuyên truyền nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành và bản thân người lao động về vị trí, vai trò và nhu cầu đào tạo của xã hội trong từng giai đoạn.
Hệ thống thông tin dịch vụ việc làm: thông qua Website vieclamhanoi.net cung cấp các thông tin về cơ hội việc làm, nhu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp, nhu cầu của người tìm việc, khả năng việc làm trên thị trường, đăng tải các thông tin liên quan đến chính sách lao động việc làm, tư vấn pháp luật, thi tuyển công chức, viên chức tiến tới tổ chức hội chợ việc làm trên mạng.
Hệ thống thông tin thống kê thị trường lao động: cung cấp các thông tin về cung, cầu lao động, điều kiện việc làm, an toàn lao động, quan hệ lao động, giá trị lao động và năng xuất lao động.
Thứ hai, hàng năm ngân sách thành phố bố trí kinh phí tổ chức thu thập, cập nhật, đăng tải và xử lý thông tin về nhu cầu tuyển dụng lao động dưới nhiều hình thức:
Gửi phiếu cho các doanh nghiệp, cập nhật các thông tin về cung, cầu lao động trên thị trường để đăng tải trên Website.
Xây dựng cơ chế hỗ trợ miễn phí đăng tải thông tin cung – cầu lao động của Website vieclamhanoi.net để Website này thực sự trở thành cầu nối giữa doanh nghiệp tuyển dụng lao động và người lao động có nhu cầu tìm việc làm, từ đó khuyến khích doanh nghiệp tự giác hợp tác trao đổi thông tin với trung tâm dịch vụ việc làm.
Hướng dẫn, tổ chức thực hiện các quy định về chế độ báo cáo định kỳ, các thông tin về lao động việc làm từ thành phố đến quận, huyện, xã, phường.
Thứ ba, xây dựng đề án thành lập trung tâm giao dịch lao động và hệ thống quản lý thông tin thị trường lao động từ thành phố xuống quận, huyện và các trung tâm dịch vụ việc làm.
Thứ tư, bổ sung định xuất cán bộ chuyên trách công tác Lao động Thương binh Xã hội cho các phường, xã để duy trì chế độ quản lý, theo dõi, báo cáo công tác lao động việc làm hàng quý, năm và thông tin thị trường lao động.
Thứ năm, bố trí ngân sách tổ chức hội chợ việc làm hàng năm tại các quận, huyện đặc biệt là các quận, huyện có nhiều lao động bị mất việc làm do chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp, có nhiều doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lao động.
3.2.2.5. Giải quyết việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp.
Thứ nhất, đầu tư phát triển sản xuất tạo việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
Thực hiện phổ biến kiến thức kinh doanh, phương thức làm ăn mới, mở các lớp đào tạo chủ doanh nghiệp cho người lao động, tạo điều kiện cho việc chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động nhằm phát triển sản xuất, thu hút lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
Thực hiện khôi phục, phát triển các làng nghề truyền thống, phát triển các làng nghề mới trên cơ sở dành Quỹ hỗ trợ việc làm địa phương 41,95 tỷ đồng, ưu tiên cho đối tượng ở những vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất vay vốn để chuyển nghề và tự tạo việc làm mới.
Thứ hai, xây dựng và ban hành chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thu hút lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp vào làm việc:
Hỗ trợ các doanh nghiệp có khả năng thu hút nhiều lao động được vay vốn phát triển sản xuất từ nguồn Quỹ hỗ trợ việc làm địa phương.
Tạo điều kiện thông thoáng về thủ tục cho các cơ sở thu hút nhiều lao động được thuê mặt bằng trong các khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp vừa và nhỏ để mở rộng sản xuất kinh doanh tạo việc làm cho người lao động.
Thứ ba, thành phố thành lập Quỹ đào tạo nghề để hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp, nguồn hình thành quỹ trên cơ sở đóng góp của các chủ dự án, doanh nghiệp sử dụng đất, đóng góp của người lao động và trích một tỷ lệ thích hợp trong nguồn kinh phí đền bù giải phóng mặt bằng trên cơ sở điều chỉnh lại mức đền bù cho phù hợp thực tế và thay đổi lại phương thức đền bù trực tiếp bằng hình thức đền bù dưới dạng cấp thẻ ưu đãi học nghề cho người lao động trong độ tuổi đảm bảo cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất phải sử dụng tiền đền bù cho đào tạo nghề để chuyển đổi việc làm.
Thứ tư, xây dựng và triển khai cơ chế phối hợp, giám sát để các chủ dự án nghiêm túc thực hiện Quyết định 99/2003/QĐ-UB ngày 21/08/2003 của UBND Thành phố (mỗi ha đất thu hồi, chủ dự án có trách nhiệm tuyển dụng ít nhất 10 lao động tại chỗ). Chủ đầu tư có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ sở đào tạo nghề giới thiệu lao động đi học nghề trước khi tuyển dụng lao động (thời gian đào tạo nghề từ 3- 6 tháng trước thời điểm doanh nghiệp bắt đầu đi vào hoạt động).
3.3. Đề xuất, kiến nghị.
Cho phép Thành phố Hà Nội được vận dụng một số chính sách, chế độ tiền lương, trợ cấp xã hội phù hợp với điều kiện của Thành phố.
Chính phủ và các Bộ, Ngành Trung ương xây dựng và triển khia kịp thời các chương trình Quốc gia về giải quyết việc làm.
Đảm bảo đầy đủ và kịp thời các nguồn kinh phí để thực hiện các chương trình mục tiêu về việc làm, đầu tư cho các cơ sở dạy nghề và các trung tâm dịch vụ việc làm, hỗ trợ kinh phí, phương tiện về thông tin thị trường lao động.
Đề nghị liên Bộ Tài chính, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Ngân hàng sớm nghiên cứu, sửa đổi bổ sung các quy định về thủ tục thế chấp tài sản khi vay vốn cho phù hợp với thực tế.
Để có thể tạo được nhiều việc làm, đề nghị Trung ương cho phép thành phố mở rộng đối tượng được vay vốn từ quỹ Quốc gia giải quyết việc làm như: các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu có nhiều lao động dôi dư, các tổ chức công đoàn thuộc doanh nghiệp Nhà nước.
Cần có chính sách công bằng đối với các doanh nghiệp tư nhân và Nhà nước trong việc sử dụng đất, tránh việc đối với các doanh nghiệp Nhà nước thì được Nhà nước cấp đất trong khi sử dụng không đúng mục đích, trong khi đó doanh nghiệp tư nhân không được hưởng chính sách trên mặc dù nghĩa vụ thuế các bên vẫn phải thực hiện như nhau.
Có chính sách phân luồng học sinh hợp lý, khuyến khích người học nghề, phát triển dịch vụ hướng nghiệp và đào tạo nghề mới.
Có quy định cụ thể các chính sách về thuế, tín dụng cho các cơ sở sản xuất kinh doanh của người tàn tật, các cơ sở dạy nghề và các trung tâm dịch vụ việc làm. Đặc biệt, Chính phủ cần có chính sách thích hợp về quản lý các cơ sở dạy nghề và dịch vụ việc làm tư nhân. Đề nghị Bộ giáo dục đào tạo và tổng cục dạy nghề hỗ trợ tài liệu, chuyên gia, chương trình mẫu cho việc biên soạn chương trình, giáp trình dạy nghề.
Kết luận
Trên đây là một số vấn đề về thị trường lao động của thành phố Hà Nội. Việc phát triển thị trường lao động là một trong những nhiệm vụ quan trọng không thể thiếu được trên con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Xác định rõ được tầm quan trọng của nhiệm vụ trên, trong thời gian qua, chính quyền thành phố đã có nhiều cố gắng để sửa chữa những thiếu sót mang tính chủ quan còn tồn tại bằng những chính sách, những hành động cụ thể nhằm cân bằng thị trường lao động và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tuy rằng những cố gắng của thành phố, của doanh nghiệp, của người lao động là đáng ghi nhận, song do hoàn cảnh kinh tế, do nhu cầu lao động trong và ngoài nước thay đổi mỗi ngày nên chúng ta cần phải cập nhật một cách thường xuyên những cái mới để có kế hoạch phản ứng kịp thời. Trên đây em cũng đã đề cập một số giải pháp nhằm phát triển thị trường lao động, tuy rằng chưa đầy đủ song chúng tôi hi vọng rằng những giải pháp đó sẽ phần nào giải quyết được những khó khăn, khắc phục được những yếu kém mà thị trường lao động Hà Nội còn mắc phải.
Để thực hiện được những giải pháp trên đòi hỏi có sự cố gắng của thành phố, của doanh nghiệp và của cả nhân dân lao động. Những cải cách trên thị trường lao động của thành phố cần phải được tính toán thật kĩ càng sao cho vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế, vừa phải đạt được công bằng xã hội. Những tính toán của doanh nghiệp phải đảm bảo tính hợp pháp nhưng vẫn phải đảm bảo hiệu quả kinh tế cao. Những quyết định làm việc của người lao động cũng phải đảm bảo được mức sống cho mình và gia đình nhưng cũng phải hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Để thực hiện được những yêu cầu trên không phải lầ vấn đề dễ dàng bởi quyền lợi của các bên ở đây là xung đột. Do vậy cần phải có sự điều chỉnh cân bằng ở mức tối ưu. Những giải pháp nêu trên chưa thể coi là lời giải cho bài toán khó này song có thể coi đó là những sự gợi ý để chúng ta tiếp tục tìm lời giải cho vấn đề phát triển thị trường lao động Hà Nội.
Tài liệu tham khảo
TS. Nguyễn Thị Thơm: Thị trường lao động Việt Nam thực trạng và giải pháp. NXB Chính trị Quốc Gia, năm 2006.
TSKH. Phạm Đức Chính: Thị trường lao động cơ sở lý luận và thực tiễn ở Việt Nam. NXB Chính trị Quốc Gia, năm 2005.
Lê Xuân Bá – Nguyễn Thị Kim Dung – Trần Hữu Huân: Một số vấn đề về phát triển thị trường lao động ở Việt Nam. NXB Khoa học kỹ thuật , năm 2003.
Giáo trình Kinh tế lao động, trường Đại học Kinh tế quốc dân. NXB Lao động Xã hội, năm 2000
Thực trạng lao động – việc làm ở Việt Nam. NXB Lao động – Xã hội, năm 2001
Số liệu thống kê lao động – việc làm ở thành phố Hà Nội 2001 – 2007. Sở Lao động Thương binh và Xã hội.
Giáo trình kinh tế học phát triển, đại học Kinh tế quốc dân. NXB Lao động – Xã hội, năm 2005.
Văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX, X.
Tạp chí kinh tế và dự báo, số 10/2003.
Tạp chí con số và sự kiện, số 12/2003.
Tạp chí lao động và xã hội, số 2/9/2003
Tạp chí kinh tế và phát triển, số 71, 71, 77/2003.
Internet.
Niên giám thống kê thành phố Hà nội năm 2006, 2007.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7444.doc