Kinh tế HTX nói chung, HTXTM nói riêng vẫn tiếp tục khẳng định được vị trí, vai trũ quan trọng trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Trên địa bàn nông thôn hiện nay, các HTX đó hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển kinh tế hộ gia đỡnh ở cả hai lĩnh vực sản xuất - dịch vụ và kinh doanh thương mại. Quá trỡnh chuyển đổi và phát triển mới các HTXTM theo Luật đó diễn ra hết sức phong phỳ, đa dạng về hỡnh thức, trỡnh độ với nhiều quy mô khác nhau, đặc biệt trong ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm ở thị trường trong nước nói chung và thị trường nông thôn nói riêng.
+ Hầu hết các HTXTM không những kinh doanh các lĩnh vực đó đăng ký mà cũn mở rộng sang cỏc lĩnh vực khỏc, xuất hiện xu hướng liên doanh, liên kết với các loại hỡnh HTX khỏc và với cỏc doanh nghiệp thuộc cỏc thành phần kinh tế. Ngược lại, hầu hết các loại hỡnh HTX khỏc (HTX nụng nghiệp, HTX cụng nghiệp, HTX vận tải v.v.) đều kinh doanh thương mại và dịch vụ.
+ Trên thực tế, trong tổng số các HTX, có 16,27% hoạt động thương mại và dịch vụ (HTXTM: 2,28%; HTX dịch vụ vận tải: 7,50%; HTX tín dụng: 6,49%); đó là chưa tính hoạt động thương mại-dịch vụ trong hầu hết các HTX nông nghiệp, các hoạt động này chiếm vị trí quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của HTXNN trong thời gian qua (xem bảng 2).
122 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1321 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển thị trường trong nước ở nước ta - Thực trạng và giải phỏp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
người tiêu dùng từ xây dựng thị trường, xây dựng thương hiệu khách hàng mục tiêu, nâng cao khả năng sáng tạo tên thương hiệu và ngân hàng tên thương hiệu.
Ba là, cần chú trọng đăng ký bảo hộ thương hiệu ở cả trong nước và ngoài nước một cách đầy đủ và kịp thời. Đây là yếu tố không thể thiếu đối với doanh nghiệp để phát triển lâu dài và bền vững, là cơ sở pháp lý để bảo vệ thương hiệu, đồng thời là thước đo đánh giá sự phát triển của doanh nghiệp.
Bốn là, thương hiệu là tài sản vô hình, vô giá nên cần được quản lý giám sát chặt chẽ từ trong doanh nghiệp. Khi đã tạo dựng được thương hiệu mạnh, cần coi trọng, giữ gìn “chữ tín” bằng cách không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển màng lưới khách hàng, gắn với xây dựng văn hoá trong kinh doanh, và đấu tranh mạnh mẽ, có hiệu quả với nạn hàng giả, hàng nhái, hàng lậu.
Năm là, tăng cường quản bá, giới thiệu tên thương hiệu của hàng hoá, của doanh nghiệp trên các phương tiện thông tin đại chúng nhất là trên mạng Internet, thậm chí các doanh nghiệp có thể xây dựng các trang Web có thông tin thường xuyên, liên tục, đa dạng và sống động. Mục tiêu đặt ra là phải tạo cho khách hàng có đầy đủ thông tin và có những ấn tượng tốt đẹp về tên thương hiệu.
Sáu là, tăng cường và mở rộng liên kết với các tên thương hiệu mạnh ở cả trong nước và ngôài nước để thu hút khách hàng và chiếm lĩnh thị trường của hàng hóa, dịch vụ.
Bảy là, nâng cao vai trò của nhà nước và các hội nghề nghiệp trong việc xây dựng và phát triển thương hiệu. Chúng ta chưa có những thương hiệu đủ mạnh để cạnh tranh với các hãng tên tuổi trên thế giới ở thị trường trong và ngoài nước. Nhà nước cần có chương trình tổng thể tầm quốc gia nhằm tăng cường nhận thức và hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình xây dựng và bảo vệ thương hiệu, quảng bá và phát triển thương hiệu. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, xây dựng năng lực kinh doanh cho doanh nghiệp giúp doanh nghiệp vươn lên như: khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào thương hiệu, đơn giản hoá thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đăng ký thương hiệu nhanh chóng, hỗ trợ doanh nghiệp trong đào tạo, huấn luyện, cung cấp thông tin, tư vấn cho doanh nghiệp xây dựng và quảng bá doanh nghiệp, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ quyền sở hữu thương hiệu, có chính sách bảo vệ hình ảnh đất nước, con người, sản phẩm Việt Nam thông qua thương hiệu của sản phẩm, hàng hoá, của doanh nghiệp. Hiện nay, Chính phủ đã phê duyệt Chương trình xúc tiến Thương mại trọng điểm quốc gia năm 2005. Chương trình có nhiệm vụ trọng tâm là các doanh nghiệp Việt Nam phải tiếp cận, hiểu rõ các định chế của thương mại quốc tế, làm quen với môi trường cạnh hơn nữa; đồng thời phải phấn đấu để đạt được mục tiêu xuất khẩu mà Quốc hội đã thông qua. Các doanh nghiệp cần có sự phối hợp chặt chẽ và hiệu quả với các hiệp hội nghề nghiệp, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam, Cục Xúc tiến Thương mại (bộ Thương mại) … để tận dụng hiệu quả sự hỗ trợ về xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, thu thập thông tin, chắp nối các kênh phân phối, tư vấn pháp luật.
Chương 3
GIẢI PHÁP MỞ RỘNG VÀ PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC
I. Hội nhập kinh tế thế giới cơ hội và thách thức đối với sự phát triển của thị trường trong nước
1. Hội nhập kinh tế thế giới với cơ hội phát triển thị trường trong nước
Xu hướng gia tăng tự do hoá thương mại và cạnh tranh toàn cầu
Quá trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế và tự do hoá thương mại trên bình diện toàn cầu đang diễn ra nhanh chóng và trở thành vấn đề nổi bật của thế giới đương đại. Quá trình này tạo ra sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau ngày càng cao giữa các quốc gia và khu vực trên thế giới. Các định chế và tổ chức kinh tế - thương mại khu vực và quốc tế đã được hình thành để phục vụ cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tạo lập hành lang pháp lý chung để các nước cùng tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề lớn của kinh tế thế giới mà không một quốc gia nào có thể thực hiện một cách đơn lẻ.
Biểu hiện cơ bản của quá trình hội nhập kinh tế là xu hướng tăng cường hợp tác song phương, liên kết khu vực, hợp tác liên khu vực và đẩy mạnh hợp tác trên bình diện đa phương. Một làn sóng tự do hoá thương mại đang diễn ra sôi động chưa từng có trên thế giới với việc hình thành các Khu vực Thương mại Tự do (FTAs) và các Thoả thuận Thương mại Khu vực (RTAs). Cho đến nay, hầu như tất cả các nước trên thế giới là thành viên, hoặc đang đàm phán tham gia, của ít nhất một FTAs hoặc RTAs và khoảng trên 50% tổng giá trị giao dịch thương mại toàn cầu được tiến hành thông qua các thoả thuận thương mại khu vực. Tính đến tháng 5/2003 đã có khoảng 250 hiệp định thương mại tự do song phương (BTAs) và khu vực đã được thông báo cho WTO, trong đó 130 hiệp định được thông báo sau tháng 1/1995. Đến cuối 2005, nếu các hiệp định thương mại tự do (song phương và khu vực) đang được đàm phán hoặc đã được ký kết thì tổng số hiệp định thương mại tự do có hiệu lực có thể lên đến 300 hiệp định. Theo Sách trắng về Thương mại của Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO).
Xu hướng tăng cường hợp tác đa phương thể hiện rõ nét qua việc ngày càng có nhiều nước xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. WTO được thành lập ngày 1/1/1995 là kết quả của nhiều vòng đàm phán, riêng vòng đàm phán cuối cùng-Vòng Uruguay kéo dài trong suốt 8 năm (1986-1994) nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của thương mại thế giới và là sự kế thừa của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) 1947. Khi mới thành lập GATT năm 1947 chỉ có 25 thành viên, WTO ra đời năm 1995 với 124 thành viên, đến nay đã có 148 thành viên được kết nạp và khoảng gần 30 nước đang xin gia nhập. Các thành viên WTO chiếm khoảng 85% tổng thương mại hàng hoá và 90% thương mại dịch vụ toàn cầu (Năm 2002 tổng giao dịch thương mại hàng hoá toàn cầu là 13.109 tỷ USD và thương mại dịch vụ là 3.060 tỷ USD). Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự, Tổng Thư ký UBQG-HTKTQT: “Thương mại Việt Nam trong tiến trình HNKTQT”, Báo cáo tại Hội thảo khoa học quốc gia tháng 11/2003.
Năm 2001, quốc gia đông dân nhất thế giới là Trung Quốc đã trở thành thành viên của WTO, với dân số gần 1,3 tỷ chiếm 1/5 thị trường tiêu dùng của thế giới (lớn hơn bất cứ một khu vực thương mại tự do nào), sự kiện này sẽ tác động không nhỏ đến kinh tế-thương mại thế giới và đến Việt Nam. Gần đây nhất, hai nước nhỏ là Campuchia và Nêpan cũng đã được kết nạp vào WTO. Từ khi WTO khởi đầu vòng đàm phán mới (Vòng Doha) đã có một số nước đang phát triển gia nhập vào tổ chức này. Một vài nước đã rút ngắn quá trình đàm phán thậm chí bỏ qua hầu hết các bước để nhanh chóng được kết nạp. Nhân tố đó cho thấy WTO ngày càng có một vai trò hấp dẫn hơn đối với các nền kinh tế đang phát triển trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế. Hiện nay, các thành viên của WTO cũng đang đẩy nhanh Vòng đàm phán Doha với việc các thành viên WTO đã thông qua gói Hiệp định khung và những thỏa thuận khác ngày 31/7/2004 trong các lĩnh vực: nông nghiệp, tiếp cận thị trường cho các sản phẩm phi nông nghiệp, các vấn đề phát triển và thuận lợi hoá thương mại.
Sự tăng cường chính sách bảo hộ với các rào cản thương mại hiện đại đối với hàng xuất khẩu
Các nước ngày càng có xu hướng ít sử dụng những biện pháp bảo hộ mang tính lộ liễu như áp đặt lệnh cấm, hạn chế số lượng hoặc áp đặt thuế suất nhập khẩu cao. Thay vào đó, các biện pháp bảo hộ được lồng vào những lý do chính đáng như để bảo vệ những ngành sản xuất trong nước trước những hành động thương mại không lành mạnh. Các nước phát triển áp dụng chính sách bảo hộ nông nghiệp của mình với mức trợ cấp trung bình 1 tỷ USD/ ngày cộng với các hàng rào kỹ thuật về an toàn thực phẩm, môi trường, lạm dụng luật chống bán phá giá, tự vệ, chống trợ cấp, thủ tục hải quan, ghi nhãn mác... kết hợp với các biến động chính trị đã làm cho thương mại toàn cầu năm 2002 chỉ tăng 2,5% so với 6,5% của những năm 90. Chính vì vậy nên từ hội nghị Doha đến hội nghị Cancun, WTO chủ trương mở rộng đàm phán toàn diện trên cả bốn lĩnh vực: thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư liên quan đến thương mại, sở hữu trí tuệ và một số vấn đề mới phát sinh nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hoá thương mại. Tại Hội nghị Cancun tháng 9 vừa qua ở Mexico, tiếng nói của các nước đang phát triển liên kết thành nhóm G22 đòi thương mại công bằng, bình đẳng, các nước phát triển mở cửa thị trường và bỏ trợ cấp nông nghiệp, trợ cấp xuất khẩu đã phát huy tác dụng.
Các quy định về an toàn thực phẩm trong thương mại quốc tế hiện cũng là một rào cản lớn đối với hàng xuất khẩu, mà nổi bật là xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Những quy định về dư lượng kháng sinh quá mức cần thiết và không có cơ sở khoa học của EU, Mỹ, Canada (như quy định tỷ lệ Chloramphenicol, Nitrofural) và yêu cầu giới hạn phát hiện của thiết bị kiểm tra 0,3/tỷ là dưới mức cần thiết và vô lý. Điều này tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng trên trường quốc tế và gây khó khăn rất lớn cho xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Về phía Việt Nam, ta lại chưa có kinh nghiệm về thiết lập cơ chế cũng như điều kiện để xây dựng hệ thống kiểm tra kiểm soát về an toàn vệ sinh thực phẩm đối với thuỷ sản nhập khẩu. Do đó, kim ngạch xuất khẩu thủy sản hiện nay và trong thời gian tới chắc chắn sẽ còn bị hạn chế do các yêu cầu an toàn thực phẩm của các nước nếu ta không chủ động có biện pháp quản lý và tăng cường hệ thống kiểm soát chất lượng.
Xu hướng gắn hoạt động thương mại với việc giữ gìn và tôn tạo môi trường sinh thái ngày càng phổ biến trên thế giới. Ngoài lý do về chất lượng của sản phẩm, những yêu cầu về môi trường đối với sản phẩm cũng đang được coi là những “Rào cản thương mại trá hình” mà ngôn ngữ trong thương mại thường gọi là “Hàng rào xanh” - green barrier - nhằm bảo hộ cho sản xuất trong nước và ngăn chặn sự xâm nhập của hàng nhập khẩu. Các nước phát triển đã và đang sử dụng các tiêu chuẩn về môi trường, như một rào cản thương mại “hợp pháp” WTO cho phép sử dụng.
, nhằm làm giảm tính cạnh tranh và hạn chế việc nhập khẩu hàng hoá từ các nước đang phát triển. Những tiêu chuẩn này nhiều khi được đặt ra quá cao so với trình độ kỹ thuật cũng như công nghệ sản xuất của các nước đang phát triển thậm chí đối với cả một số nước phát triển. Chính vì sự áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường trong hoạt đông thương mại nhiều khi chưa thật chính đáng như vậy, đã gây cho các nước đang phát triển một số khó khăn trong quá trình tiếp cận thị trường của các nước phát triển.
Trên thực tế, một số điều tra khảo sát gần đây cho thấy rất ít doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam hiểu và nắm vững về các quy định quốc tế về môi trường, họ chủ yếu chỉ thực hiện tiêu chuẩn môi trường thông qua việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 14000. Tuy nhiên, do chi phí để áp dụng hệ thống này khá lớn, từ đó ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh, nên trên thực tế chỉ mới có một số doanh nghiệp xuất khẩu lớn có đủ khả năng tài chính đáp ứng yêu cầu hệ thống quản lý chất lượng này để xuất khẩu vào các thị trường có yêu cầu môi trường cao như Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU.
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện: Hiện nay, tiềm năng sản xuất hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam đã đạt mức rất lớn, khoảng 5 đến 7 tỷ đô la (và có thể lớn hơn); tuy nhiên do bị các hiệp định tự nguyện hạn chế xuất khẩu hàng dệt may với các nước nhập khẩu như EU, Hoa kỳ, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ nên kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của ta bị hạn chế. Hiệp định Dệt may (ATC) của WTO hết hiệu lực từ 1/1/2005, các nước thành viên WTO sẽ không bị áp đặt hạn ngạch xuất khẩu, vì Việt Nam chưa là thành viên của WTO nên Việt Nam có thể vẫn bị một số nước áp dụng hạn ngạch và ngành dệt may Việt Nam sẽ bị đặt vào thế bất lợi hơn hầu hết các nước xuất khẩu khác; đặc biệt khi không còn chế độ hạn ngạch thì các nước có lợi thế cạnh tranh về ngành dệt may như Trung quốc, ấn Độ, Pakistan sẽ là những nước có nhiều lợi thế hơn Việt Nam trong cuộc cạnh tranh khốc liệt giành thị phần.
Tác động của bối cảnh quốc tế đến tiến trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam
Những nhân tố nói trên đang tạo ra áp lực thách thức khả năng và tiến độ hội nhập kinh tế quốc tế của chúng ta. Khi chúng ta chưa kịp tiến lên bắt kịp với thế giới thì đã lại tiếp tục bị bỏ lại đằng sau trước một trào lưu mới. Nó đòi hỏi cần phải có những nỗ lực liên tục và gắng sức để có thể bắt kịp với xu thế phát triển của thế giới, cụ thể là:
- Áp lực cạnh tranh sẽ gia tăng mạnh hơn, nhất là từ phía Trung Quốc, Ấn Độ và phần lớn các nước ASEAN, vốn là những nước sản xuất nhiều sản phẩm mang tính cạnh tranh với ta và lại có nhiều ưu thế hơn ta, thậm chí ngay cả trong những ngành xuất khẩu chủ lực của ta hiện nay như nông sản, thuỷ sản, may mặc, giày dép. Trong thu hút FDI chúng ta cũng vấp phải sự cạnh tranh khốc liệt hơn và nguy cơ sẽ suy giảm FDI vào nước ta nếu chúng ta không có những chính sách và biện pháp cải thiện môi trường đầu tư mạnh mẽ làm tăng tính hấp dẫn hơn hẳn so với các nước trong khu vực.
- Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực hiện nay sẽ tạo ra sức ép buộc ta phải tiến hành tự do hoá, mở cửa để hội nhập mạnh hơn và nhanh hơn. Nếu không cố gắng đi cùng nhịp với các nước trong khu vực thì Việt Nam có nguy cơ bị tụt hậu và chịu những thua thiệt của người đi sau.
- Việc một số nước ASEAN tham gia vào nhiều thoả thuận thương mại tự do (FTA) với các nước bên ngoài khối tạo ra nguy cơ chuyển hướng thương mại bất lợi đối với ta.
Những cơ hội từ quá trình hội nhập kinh tế thế giới tới sự phát triển thị trương trong nước
- Kinh tế - thương mại thế giới được dự báo tiếp tục duy trì tăng trưởng ở tốc độ cao sẽ tạo ra tiền đề tốt để mở rộng trao đổi, buôn bán cũng như xuất khẩu của các nước, từ đó trực tiếp tạo ra cơ hội tốt cho các nhà kinh doanh trong nước, đặc biệt là những nhà kinh doanh các loại hàng hoá phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu.
- Xu hướng chuyển dịch thương mại và đầu tư sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Việt Nam đang được coi là một thị trường buôn bán và đầu tư đặc biệt hấp dẫn của khu vực, sẽ tạo cho Việt Nam cơ hội lớn để thu hút được vốn, công nghệ tổ chức kênh lưu thông và phân phối hàng hoá trong nước thông qua hoạt động đầu tư, kinh doanh của các tập đoàn quốc tế.
- Sự phát triển mạnh của các công nghệ bán hàng, công nghệ tổ chức kênh phân phối với các hình thức hiện đại trên thế giới sẽ có thể nhanh chóng được Việt Nam tiếp thu, xây dựng và phát triển trong quá trình phát triển một nền thương mại nội địa hiện đại, hoạt động hiệu quả và năng động trong thời gian tới.
- Sự đa dạng hoá về các chủng loại hàng hoá để phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước sẽ được gia tăng cùng với sự gia tăng hoạt động của các hệ thống siêu thị và nhà bán buôn, bán lẻ quốc tế vốn đã có những mối liên kết rộng lớn, dạng với những nhà sản xuất, nhà phân phối khác trên toàn cầu.
2. Hội nhập kinh tế thế giới và những thách thức đối với thị trường trong nước
Mặc dù việc thực thi các cam kết thương mại quốc tế trong tiến trình hội nhập mang lại rất nhiều triển vọng nhưng cũng phải đối mặt với những khó khăn mà trong thời gian tới chúng ta phải hết sức quan tâm để có những bước đi thích hợp, có tính đến những yếu tố không thuận lợi, cụ thể là:
Thứ nhất, xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam ở mức thấp so với mặt bằng chung của thế giới, lại đang trong quá trình chuyển đổi, cải cách nền kinh tế. Như vậy, quá trình hội nhập của chúng ta là quá trình “hội nhập kép”, vừa thực hiện các cam kết trong hội nhập và vừa thực hiện quá trình chuyển đổi, cải cách. Sức cạnh tranh của ngành, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế còn rất hạn chế trong khi hội nhập đòi hỏi phải tham gia một cuộc cạnh tranh gay gắt, nhiều khi là không cân sức. Đồng thời, nếu không giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa hội nhập, mở cửa thị trường với thực trạng kinh tế trong nước về mặt thời gian và độ trưởng thành thì nhiều ngành sản xuất của Việt Nam sẽ không kịp điều chỉnh trước sức ép cạnh tranh khi những cam kết đàm phán thương mại quốc tế có hiệu lực và tất yếu sẽ bị đào thải.
Thứ hai, giữa hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam và các định chế thương mại quốc tế còn những khác biệt và bất cập. Nhìn tổng thể, hệ thống pháp luật và môi trường pháp lý về kinh tế – thương mại trong nước còn chưa hoàn chỉnh, chưa hệ thống, chưa đồng bộ, chưa phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Khung pháp luật kinh tế – thương mại còn hổng trong nhiều lĩnh vực và chưa đủ khả năng điều chỉnh những lĩnh vực mới phát sinh trong quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế. Nhiều chính sách, luật lệ cần được bổ sung, điều chỉnh cho tương thích với thông lệ quốc tế nhưng đồng thời phải bảo đảm sự phát triển ổn định, vững chắc của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Đồng thời, cơ chế thực thi để đảm bảo các quy định của pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh cũng cần được củng cố, hoàn thiện.
Sau cùng, con người vừa là nhân tố quan trọng vừa là thách thức to lớn trong quá trình hội nhập. Hiện nay, mặc dù được nhà nước rất quan tâm , bạn bè quốc tế trợ giúp trong đào tạo, đội ngũ cán bộ nhân viên của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế về trình độ chuyên môn, pháp luật, ngoại ngữ, kỹ năng đàm phán...trong khi hội nhập đòi hỏi điều kiện tiên quyết là đầu tư cho con người, để họ có đủ khả năng gánh vác những nhiệm vụ đặt ra, khắc phục khó khăn thách thức và tận dụng cơ hội triển vọng của hội nhập. Đội ngũ hiện nay chưa đáp ứng hoàn toàn những đòi hỏi, yêu cầu do quá trình hội nhập đặt ra cả về lượng và chất. Do vậy, việc xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về hội nhập trong tương lai là hết sức cần thiết và cần được gắn với chiến lược phát triển con người một cách đồng bộ với các cơ sở kết cấu thượng tầng khác, phục vụ cho quá trình hội nhập ngày một sâu rộng.
Chính vì chưa đáp ứng được các yêu cầu trên của quá trình hội nhập vào thị trường thế giới mà sự phát triển của thị truờng nội địa cũng bị ảnh hưởng không nhỏ, cụ thể là:
- Việc mở rộng thị trường nội địa cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực phân phối sản phẩm thông qua các cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sẽ có thể tạo ra thách thức lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài vào làm ăn tại Việt Nam.
- Việc thực hiện, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về qui trình, chất lượng sản phẩm... sẽ ngày càng trở nên khắt khe, vừa tạo ra áp lực cao buộc các nhà kinh doanh trong nước phải nâng cao chất lượng hoạt động, vừa tạo nên những rủi ro nhiều hơn trước các vụ kiện có thể xảy ra cho các doanh nghiệp Việt Nam.
- Khả năng giữ vững và kiểm soát thị trường trong nước sẽ trở nên ngày càng khó khăn hơn trước những loại hình phân phối, tổ chức bán hàng hiện đại mà từ trước tới nay Việt Nam chưa có hoặc ít có kinh nghiệm hoạt động.
II. Mục tiêu, phương hướng phát triển thị trường trong nước ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010
1. Quan điểm chung
Việc Tổ chức và và xây dựng cơ chế điều hành, phát triển thương mại nội địa thời gian tới cần quan triệt các quan điểm sau đây:
● Thương mại nội địa đóng vai trò đặc biệt quan trọng, cùng với xuất khẩu và hỗ trợ xuất khẩu phát triển, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế, giải quyết vấn đề việc làm và phát triển bền vững ở Việt Nam trong thời gian tới.
● Cơ chế, chính sách tổ chức và phát triển thương mại trên thị trường nội địa thời gian tới dựa trên các nguyên tắc của thị trường.
● Thương mại nội địa phải hướng tới đáp ứng tốt nhất nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng trong xã hội trên cơ sở huy động được sự tham gia đông đảo và đa dạng của các thành phần kinh tế, cung ứng hàng hoá với chủng loại đa dạng và theo những phương thức hiện đại, bảo đảm sự thông suốt ổn định của thị trường.
● Phát triển thương mại nội địa phải góp phần tác động tích cực đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng dịch vụ trong GDP, đồng thời chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa thành thị và nông thôn, góp phần giảm thiểu khoảng cách phát triển giữa đô thị và nông thôn.
● Tổ chức và phát triển thương mại nội địa phải đảm bảo phù hợp với các cam kết với các tổ chức quốc tế và các định chế quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ tham gia.
2. Mục tiêu tổng quát
● Tỉ lệ đóng góp của thương mại nội địa trong GDP đến năm 2010 đạt 50-60%.
● Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng trưởng bình quân 16-18%/năm trong giai đoạn 2006-2010, đến năm 2010 đạt 998-1.090 ngàn tỷ đồng, tăng 2-2,3 lần so với năm 2005.
Chỉ số giá tăng giá bán lẻ hàng tiêu dùng thấp hơn mức tăng trưởng GDP hàng năm;
Đến năm 2010, tỷ lệ tiêu dùng của Việt Nam so với GDP đạt khoảng trên 60%, tương đương với tỷ lệ của Malaysia những năm gần đây; Chi tiêu cá nhân của người tiêu dùng Việt Nam đến năm 2010 bằng 2-2,5 lần so với mức tiêu dùng cá nhân năm 2005.
● Phát triển các hình thức giao dịch, kinh doanh hiện đại như Sở giao dịch hàng hóa, Sàn giao dịch hàng hóa, thương mại điện tử, nhượng quyền kinh doanh, kinh doanh chuỗi. Tỷ trọng bán lẻ hàng hóa qua siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tự chọn đạt quảng 40% tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội (tương đương với Trung quốc năm 2005, sau 5 năm gia nhập WTO). Tỷ trọng hàng hóa và dịch vụ buôn bán thông qua hình thức thương mại điện tử đến năm 2010 chiếm tỷ trọng khoảng 10% trong trong tổng thương mại hàng hóa và dịch vụ.
● Phát triển đồng bộ hệ thống dịch vụ hỗ trợ thương mại (logistic) nhằm phục vụ tốt cho sản xuất và lưu thông hàng hóa giữa các vùng, miền trong cả nước với chi phí hợp lý, đảm bảo khả năng cạnh tranh.
● Hàng hóa kinh doanh trên thị trường phải đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng, đóng gói và vệ sinh, an toàn thực phẩm; người tiêu dùng được đảm bảo và bảo vệ quyền lợi trong quá trình tiêu dùng hàng hóa.
● Tạo điều kiện tối đa cho các doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh, giữ vững và mở rộng thị phần kinh doanh trên thị trường nội địa.
3. Mục tiêu cụ thể phát triển thương mại trong nước giai đoạn 2006- 2010
3.1. Về chủ thể tham gia thị trường
Trong giai đoạn 2006-2010 các chủ thể tham gia thị trường trong nước phải đạt được các mục tiêu cụ thể như sau:
- Tỷ trọng bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội của khu vực doanh nghiệp nhà nước được giữ vững, chiếm khoảng 10% vào năm 2010; Tỷ trọng khu vực doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam ngoài quốc doanh giảm nhẹ, chiếm 74-76%; Tỷ trọng của khu vực doanh nghiệp vốn FDI tăng đáng kể, chiếm 12-14% trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội của cả nước
- Đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung vốn kinh doanh của các doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam nhằm hình thành và phát triển các nhà sản xuất, nhà phân phối hàng hoá lớn, có tính chuyên nghiệp cao. Trong đó:
+ Các doanh nghiệp nhà nước: tập trung củng cố năng lực sản xuất, mở rộng mạng lưới phân phối sản phẩm trong một số lĩnh vực đòi hỏi qui mô vốn đầu tư lớn như sắt thép, xi măng, phân bón, xăng dầu..., làm nòng cốt đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
+ Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh 100% vốn trong nước: nhanh chóng hình thành số lượng và quy mô các nhà phân phối tổng hợp chuyên nghiệp. Xây dựng các kênh phân phối và hình thức phân phối đa dạng, linh hoạt để chiếm lĩnh những địa bàn, thị trường ngách, thị trường đặc thù mà các doanh nghiệp lớn hoặc các doanh nghiệp nước ngoài ít có lợi thế để cạnh tranh, khai thác.
- Đối với các doanh nghiệp có vốn FDI: đối xử bình đẳng với các doanh nghiệp trong nước, kích thích sự tham gia đóng góp chung vào sự phát triển của thị trường trong nước. Khuyến khích các doanh nghiệp FDI mở rộng sự liên kết với các nhà sản xuất hàng hóa trong nước, đặc biệt là ở khu vực nông thôn và miền núi nhằm thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ hàng hóa ở những khu vực này, góp phần xóa đói giảm nghèo và chuyển dịch tích cực cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Tận dụng mạng lưới phân phối quốc tế của các nhà phân phối này đưa hàng hóa Việt Nam ra nước ngoài, mở rộng sản xuất và xuất khẩu.
- Huy động tối đa các nguồn lực và sự tham gia đóng góp của các thành phần kinh tế vào hoạt động kinh doanh trên thị trường nội địa, xóa bỏ hoặc đơn giản hóa các điều kiện gia nhập và rút khỏi thị trường đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
3.2. Về kết cấu hạ tầng trong thương mại nội địa
Chợ:
Mục tiêu đặt ra đối với phát triển hệ thống chợ trong giai đoạn 2006 - 2010 là sẽ được đầu tư xây dựng mới theo hướng bổ sung giữa mô hình truyền thống và hiện đại, nhằm tạo nhiều tầng, cấp trao đổi hàng hóa phù hợp với các loại địa bàn khác nhau.
Dự kiến số lượng chợ tăng trung bình 5%/năm trong giai đoạn 2006 – 2010, nâng tổng số chợ trên địa bàn cả nước lên khoảng 11.200 chợ. Đến năm 2010, mật độ chợ đạt 0,33 chợ/10 km2 (tăng 12,5%); số chợ trên 01 phường, xã đạt khoảng 1,2 chợ; số chợ trên 10 ngàn dân đạt 1,25 chợ.
Đối với địa bàn tại các xã, thị tứ ở khu vực nông thôn, miền núi: tập trung đầu tư để gia tăng số lượng chợ có qui mô loại II, loại III để đáp ứng nhu cầu mua bán của dân cư, cung cấp vật tư, nguyên liệu cho sản xuất nông nghiệp và thúc đẩy lưu thông hàng hóa giữa các địa bàn.
Đối với địa bàn các thị trấn, thị xã: tập trung mở rộng và đầu tư xây dựng mới hệ thống các chợ loại I, loại II; hạn chế gia tăng số lượng các chợ có qui mô nhỏ, chợ loại III nhằm thúc đẩy các hình thức mua bán hàng hóa, nông sản với số lượng lớn.
Chợ đầu mối được hình thành dựa trên sự hình thành các vùng kinh tế trọng điểm và các vùng sản xuất nông sản lớn bảo đảm tốt khâu thu gom, phân luồng hàng hóa và phục vụ tốt hoạt động xuất - nhập khẩu.
Các chủ thể tham gia đầu tư xây dựng và khai thác chợ được Nhà nước khuyến khích theo hướng xã hội hóa, không phân biệt thành phần kinh tế; Thu hút ngày càng nhiều đối tượng vào tham gia kinh doanh trong hệ thống chợ, đồng thời nâng cao tính chuyên môn hóa của các chủ thể kinh doanh nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống chợ.
Tỷ trọng hàng hóa giao dịch thông qua hệ thống chợ chiếm khoảng 50% tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội.
Siêu thị và trung tâm thương mại:
Tập trung củng cố mở rộng và nâng cao chất lượng của hệ thống siêu thị trên cả nước, hình thành nên các trung tâm mua bán đa dạng, hiện đại phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng và sản xuất trong nước.
- Đến năm 2010, các siêu thị loại I và loại II chiếm tỷ trọng 50% tổng số siêu thị trong cả nước; xóa bỏ các siêu thị không đáp được các tiêu chuẩn phân loại.
- Hệ thống siêu thị và trung tâm thương mại vươn tới tất cả các thành phố, khu đô thị mới, khu công nghiệp, khu đô chế xuất và một số thị xã, huyện lỵ.
- Đến năm 2010, số lượng hàng hóa và dịch vụ giao dịch thông qua hệ thống siêu thị và trung tâm thương mại chiếm 40% tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội.
- Hệ thống siêu thị và trung tâm thương mại trở thành xương sống của hệ thống phân phối bản lẻ ở Việt Nam trong giai đoạn tới, đồng thời kích thích phát triển mạnh mẽ các loại hình bán lẻ khác kể cả chợ truyền thống. Hệ thống siêu thị và trung tâm thương mại sẽ phải gắn liền với các khu vui chơi, giải trí, vừa phục vụ nhu cầu mua sắm, vừa trở thành nơi giao lưu, gặp gỡ và giải trí của người dân.
- Không phân biệt các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng và kinh doanh siêu thị và trung tâm thương mại.
Cửa hàng bán lẻ:
- Giai đoạn 2006 – 2010, các cửa hàng bán lẻ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trên các địa bàn nông thôn, miền núi nhằm đáp ứng nhu cầu mua, bán hàng hóa tiêu dùng và tư liệu sản xuất của nhân dân.
- Ở khu vực đô thị, các cửa hàng bán lẻ chuyển hướng tập trung vào kinh doanh các mặt hàng đặc sản, truyền thống tại các khu chuyên doanh phục vụ khách du lịch.
- Tỷ trọng hàng hóa giao dịch thông qua các cửa hàng bán lẻ chiếm khoảng 10% tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội.
- Các đối tượng tham gia kinh doanh chủ yếu là các hộ kinh doanh cá thể có qui mô vốn nhỏ.
Hệ thống kết cấu hạ tầng hỗ trợ thương mại:
- Trong giai đoạn 2006 – 2010, hình thành và phát triển kết cấu hạ tầng hỗ trợ thương mại bao gồm hệ thống kho, bãi, trung tâm đóng gói, phân loại hàng hóa... để phục vụ tốt cho sản xuất và lưu thông hàng hóa giữa các vùng, miền trong cả nước với chi phí hợp lý, đảm bảo khả năng cạnh tranh.
- Đầu tư xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại gắn liền với hệ thống chợ, siêu thị, trung tâm thương mại... cũng như với các khu vực sản xuất hàng hóa.
- Huy động tối đa các nguồn lực và sự tham gia của các thành phần kinh tế để đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng hỗ trợ thương mại. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư và tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực này.
Hệ thống kết cấu hạ tầng trong thương mại điện tử:
Bên cạnh hệ thống kết cấu hạ tầng trong thương mại truyền thống, hệ thống kết cấu hạ tầng trong thương mại phi truyền thống như thương mại điện tử sẽ có vai trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển của thương mại ở Việt Nam trong thời gian tới. Hệ thống kết cấu hạ tầng này chủ yếu bao gồm hệ thống máy tính, mạng viễn thông, các thiết bị tin học và các chương trình, phần mềm công nghệ. Từng bước xây dựng và củng cố hệ thống kết cấu hạ tầng trong thương mại điện tử để đến năm 2010 đạt được một số mục tiêu cụ thể sau:
- Khoảng 60% doanh nghiệp có qui mô lớn tiến hành giao dịch thương mại điện tử dưới hình thức doanh nghiệp – doanh nghiệp (B2B); Khoảng 80% doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ tiến hành giao dịch thương mại điện tử dưới hình thức doanh nghiệp – người tiêu dùng (B2C) hoặc B2B; Khoảng 10% hộ gia đình tiến hành giao dịch thương mại điện tử dưới loại hình B2C hoặc người tiêu dùng – người tiêu dùng (C2C).
- Các chào thầu mua sắm của Chính phủ được công bố trên các trang tin điện tử của các cơ quan Chính phủ và ứng dụng giao dịch điện tử trong mua sắm chính phủ.
- Tập trung đầu tư củng cố hệ thống kết cấu hạ tầng trong thương mại điện tử thông qua hoạt động đầu tư của khu vực nhà nước và các doanh nghiệp FDI.
3.3. Về cơ chế kinh doanh hàng hoá trên thị trường nội địa
Mục tiêu trong giai đoạn tới là tiếp tục đổi mới cơ chế kinh doanh các loại hàng hoá trên thị trường nội địa theo hướng tự do, minh bạch, rõ ràng và tuân theo các qui luật của thị trường, hạn chế tối đa những can thiệp mang tính chất hành chính của nhà nước tới hoạt động kinh doanh của các loại hàng hoá trên thị trường nội địa.
Nhóm các loại hàng hoá thông thường, tự do kinh doanh:
Nhóm hàng hóa thông thường bao gồm các loại hàng hóa được phép kinh doanh, lưu thông một cách tự do trên thị trường, không hạn chế về điều kiện kinh doanh nhưng cần phải bảo đảm một số yêu cầu sau:
- Toàn bộ hàng hóa kinh doanh trên thị trường đô thị được kiểm soát chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm thường xuyên.
- Hàng hóa kinh doanh trên các địa bàn khác phải tuân thủ đầy đủ các quy định về chất lượng, đóng gói, vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Giá cả hàng hóa được quyết định bởi thị trường, đảm bảo hợp lý ở mức cạnh tranh do giảm được các chi phi không cần thiết, trong đó phấn đấu giá cả hàng hóa bán trong các siêu thị, trung tâm thương mại là cạnh tranh nhất.
- Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được quyền kinh doanh, phân phối các loại hàng hóa này trên thị trường và bảo đảm tuân thủ các qui định của pháp luật.
Nhóm các loại hàng hóa cần áp dụng các cơ chế quản lý kinh doanh đặc thù:
Nhóm này bao gồm các loại hàng hóa đặc biệt đòi hỏi những điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật đặc thù, các hàng hóa có ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng, các hàng hóa có ảnh hưởng tới đạo đức, truyền thống văn hóa...
Mục tiêu chung là củng cố, hoàn thiện những qui chế, qui định trong quản lý kinh doanh các mặt hàng này theo hướng đơn giản, thuận tiện, phù hợp với những nguyên tắc hoạt động của thị trường song vẫn phải bảo đảm khả năng kiểm soát của Nhà nước, cụ thể:
- Xăng, dầu: Cơ chế xác định giá bán trong nước do cung – cầu trên thị trường quyết định; Cải tiến cơ chế xác định và áp dụng thuế nhập khẩu để bảo đảm điều tiết hợp lý và kịp thời trước những biến động về giá cả trên thị trường thế giới; Tiếp tục duy trì các điều kiện kinh doanh nhập khẩu để bảo đảm an ninh năng lượng và đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước trong mọi tình huống; Tiến tới việc cho phép mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư, phát triển các cửa hàng bán lẻ trên phạm vi cả nước trên cơ sở đáp ứng được các tiêu chuẩn về kỹ thuật, an toàn phòng cháy chữa cháy, môi trường và qui hoạch của Nhà nước.
- Thuốc chữa bệnh: Xóa bỏ giấy phép nhập khẩu, cho phép các thành phần kinh tế tham gia nhập khẩu trên cơ sở đáp ứng hệ thống các tiêu chuẩn được công bố và cập nhật thường xuyên nhằm đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng và tính cạnh tranh cao trong lĩnh vực này.
Củng cố khâu lưu thông, phân phối thuốc để xử lý tốt được mối quan hệ giữa nhà sản xuất, nhà nhập khẩu nhà phân phối, bệnh viện và người sử dụng trong quá trình lưu thông mặt hàng này, xóa bỏ tình trạng thao túng giá cả, thị trường.
Xây dựng và ban hành quy chế, điều kiện kinh doanh bán lẻ thuốc chữa bênh trên cơ sở nâng cao các tiêu chuẩn về trình độ quản lý, chuyên môn của người kinh doanh... để đảm bảo kiểm soát được chất lượng, nguồn gốc, giá cả trên thị trường.
- Rượu, thuốc lá: Xây dựng quy chế kinh doanh và điều kiện kinh doanh phân phối, bán lẻ để bảo đảm sức khỏe cộng đồng, hạn chế những tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội.
- Một số mặt hàng khác như văn hóa phẩm, vật phẩm phục vụ nhu cầu giải trí...: Cần xác định cơ chế quản lý, kinh doanh phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
3.4. Về điều tiết vĩ mô của Nhà nước
Cơ chế điều tiết vĩ mô của Nhà nước trên thị trường nội địa phải tuân thủ các nguyên tắc thị trường và gắn liền với điều hành, hỗ trợ xuất – nhập khẩu phát triển.
Bổ sung và hoàn thiện hệ thống khung khổ pháp luật bao quát mọi hoạt động và hành vi kinh doanh trên thị trường nội địa, bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng, nhất quán và ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại trong nước phát triển. Hệ thống pháp lý này phải bảo đảm thực hiện tốt hoạt động kiểm tra, kiểm soát và xử lý những vấn đề nảy sinh về tranh chấp, bảo vệ quyền lợi các bên tham gia thị trường...
Trong những giai đoạn nhất định, đối với những mặt hàng cụ thể, Nhà nước có thể sử dụng một số biện pháp hành chính như cấm, hạn chế nhập khẩu, kinh doanh để can thiệp thị trường nhằm bảo đảm sự bình ổn của thị trường trong nước.
Sử dụng các biện pháp kinh tế như thuế, ưu đãi, khuyến khích đầu tư, kinh doanh đối với một số lĩnh vực, mặt hàng cụ thể trong những giai đoạn nhất định.
Bên cạnh các công cụ điều tiết trên, trong thời gian tới nhà nước cần tăng cường sử dụng công cụ thông tin định hướng thị trường đối với cả nhà sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng như thông tin về cung, cầu, giá cả thị trường trong nước và quốc tế, xu hướng sản xuất và tiêu dùng trên thị trường... để nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường trong nước.
4. Phương hướng phát triển thị trường trong nước trong thời gian tới
Một là, cần phải nâng cao nhận thức và thống nhất quan điểm trong các ngành, các cấp về vị trí, vai trò của thị trường và thương mại nội địa đối với phát triển sản xuất, thay đổi cơ cấu kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu, góp phần cải thiện đời sống của nhân dân. Có như vậy, các cấp, các ngành mới quan tâm đúng mức tới công tác này và tạo điều kiện (cơ chế, chính sách, tổ chức cán bộ...) cho nó phát triển.
Hai là, phải huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của các thành phần kinh tế tham gia hoạt động thương mại, xác định rõ vị trí, vai trò của từng loại hình thương nhân trên kênh lưu thông. Khi chúng ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, thương mại tư nhân phát triển khá nhanh (cả thể nhân và pháp nhân). Với số lượng doanh nghiệp và hộ kinh doanh đông đảo, năng động, linh hoạt trong kinh doanh, thương mại tư nhân có vai trò quan trọng trong việc mở rộng mạng lưới bán lẻ đưa hàng công nghiệp tiêu dùng, vật tư phục vụ sản xuất tới tay nông dân và mở đầu kênh tiêu thụ nông sản hàng hóa trên địa bàn nông thôn. Vì vậy, khi xây dựng các văn bản qui phạm pháp luật hoặc ban hành cơ chế, chính sách, bên cạnh những qui định tạo điều kiện cho họ kinh doanh đúng pháp luật, hạn chế những mặt trái của cơ chế thị trường, cần có những chính sách thoả đáng để khuyến khích họ đầu tư ngày càng nhiều vào thương mại, dịch vụ, nhất là phát triển mạng lưới kinh doanh và kết cấu hạ tầng thương mại.
Ba là, để phát triển thị trường và thương mại nội địa, đồng thời với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của cả nền kinh tế, của hàng hoá sản xuất trong nước cần phải nhanh chóng nâng cao khả năng cạnh tranh của đội ngũ thương nhân Việt Nam. Bởi lẽ, thương nhân Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc biến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về thương mại nói chung, thương mại nội địa nói riêng trở thành hiện thực. Nâng cao khả năng cạnh tranh giúp thương nhân Việt Nam có thể giành thắng lợi với thương nhân nước ngoài không chỉ ở trên “sân nhà” mà cả ở thị trường ngoài nước. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải xây dựng được cho mình chiến lược, kế hoạch sản xuất-kinh doanh có tính dài hạn, trên cơ sở nhu cầu của thị trường, khách hàng và nguồn lực của doanh nghiệp. Đồng thời với việc đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá các doanh nghiệp thương mại nhà nước, cần nhanh chóng thành lập các tập đoàn kinh tế mạnh, có đủ thực lực với lực lượng nòng cốt là các TCT, công ty lớn của Nhà nước đã được tổ chức lại.
Năm là, muốn phát triển thị trường và thương mại nội địa, yếu tố không thể thiếu được là phải nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về thương mại. Trong đó, cần coi trọng công tác xây dựng chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển thương mại nói chung, thương mại nội địa nói riêng; từng bước hoàn thiện cơ chế chính sách mặt hàng, chính sách thương nhân.... tạo điều kiện cho các chủ thể kinh doanh thương mại phát triển, muốn vậy, cơ chế, chính sách nói trên không những phù hợp với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, còn phải phù hợp với qui luật phát triển của thị trường và thương mại nội địa (trong bối cảnh hội nhập kinh tế đối với khu vực và thế giới), sát thực tiễn và có tính khả thi.
III. Giải pháp mở rộng và phát triển thị trường trong nước
1. Giải pháp từ phía nhà nước
1.1. Tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia thị trường
Xóa bỏ các rào cản gia nhập thị trường đối với các nhà đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước nhằm tăng nhanh số lượng các chủ thể tham gia thị trường nội địa.
Đơn giản hóa các thủ tục đăng ký kinh doanh, phê duyệt dự án đầu tư và các thủ hành chính khác nhằm tiết kiệm thời gian và nguồn lực cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường.
Thực hiện quyết liệt tiến trình đổi mới và cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước để hình thành một số tập đoàn thương mại có khả năng chiếm lĩnh thị phần chi phối đối với các hàng hóa, địa bàn quan trọng trong nền kinh tế.
Hỗ trợ nâng cao năng lực quản lý kinh doanh đối với đội ngũ doanh nhân trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ; Xây dựng các chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho khu vực này để nâng cao hiệu quả kinh doanh của nhóm doanh nghiệp này.
Mở rộng quyền nhập khẩu và phân phối hàng hóa, vật tư, nguyên liệu cho các nhà đầu tư nước ngoài để khuyến khích sự tham gia của loại hình doanh nghiệp này vào thị trường nội địa.
Nâng cao khả năng tiếp cận các hình thức mua bán, trao đổi hiện đại cho người dân thông qua các chính sách, biện pháp khuyến khích và các hình thức giáo dục nhằm tạo thói quen tiêu dùng văn minh, giúp cho hoạt động thương mại trong nước được mở rộng và đa dạng hoá.
1.2. Huy động và tận dụng các nguồn lực phát triển kết cấu hạ tầng thương mại
Khẩn trương xây dựng, hoàn thiện và công bố quy hoạch cũng như các quy định liên quan đến quy hoạch nhằm định hướng đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng trong thương mại nội địa. Các Bộ, ngành liên quan (Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên môi trường, Bộ Giao thông vận tải...) và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố phối hợp với Bộ Thương mại trong việc xây dựng, ban hành và giám sát việc thực hiện quy hoạch sử quỹ đất, quy hoạch phát triển đô thị, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Nhà nước đầu tư các chợ ở nông thôn, miền núi phục vụ nhu cầu dân sinh, cung cấp vật tư nguyên liệu cho sản xuất và đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa của nhân dân trong vùng.
Khuyến khích đầu tư, tổ chức kinh doanh các chợ đầu mối và các sàn giao dịch hàng hóa và các loại kết cấu hạ tầng hỗ trợ thuơng mại dưới các hình thức BT, BOT; Nhà nước đứng ra thực hiện thí điểm một số dự án trong giai đoạn đầu.
Hình thành và ban hành cơ chế khuyến khích đầu tư phát triển các khu chuyên doanh bán lẻ hàng hóa phục vụ khách du lịch, đẩy mạnh xuất khẩu tại chỗ ở các đô thị, khu du lịch và các làng nghề truyền thống. Nhà nước đứng ra đầu tư thí điểm một số dự án trọng điểm trong giai đoạn đầu.
Tạo điều kiện thuận lợi, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế tiếp cận các nguồn tín dụng, đa dạng hóa hoạt động thị trường tài chính nhằm đẩy nhanh tốc độ tích tụ, tập trung vốn trong đầu tư kết cấu hạ tầng và kinh doanh thương mại nội địa.
1.3. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và phát triển thương mại điện tử trong kinh doanh
Tuyên truyền để phổ cập thương mại điện tử, trước hết cho cộng đồng doanh nghiệp, các cấp quản lý và các hiệp hội ngành hàng.
Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp để đẩy mạnh các ứng dụng thương mại điện tử dưới hình thức B2B, B2C, B2G.
Khuyến khích đầu tư phát triển và chuyển giao công nghệ từ nước ngoài để phát triển ứng dụng thương mại điện tử.
Khuyến khích, hỗ trợ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng triển khai ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động ngân hàng và các loại hình dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán điện tử.
Đẩy mạnh triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan Chính phủ để cung cấp các dịch vụ công; trước mắt tập trung vào các dịch vụ gồm khai báo hải quan điện tử, thuế điện tử, các thủ tục liên quan đến đầu tư và đăng ký kinh doanh.
Nhanh chóng nghiên cứu xây dựng và ban hành các văn bản qui phạm pháp luật về thương mại điện tử, tạo hành lang pháp lý đầy đủ và thuận lợi cho hoạt động thương mại điện tử phát triển.
Ưu tiên hợp tác đa phương với các tổ chức kinh tế - thương mại quốc tế và khu vực như WTO, APEC, ASEAN, ASEM và các tổ chức chuyên trách về thương mại của Liên hiệp quốc như UNCTAD, UNCITRAL, UNCEFACT; ưu tiên hợp tác song phương với các nước tiên tiến về thương mại điện tử.
1.4. Nâng cao chất lượng và trình độ tiêu dùng của thị trường
Khẩn trương rà soát các bộ tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, bao bì, nhãn mác của hàng hoá lưu thông trên thị trường; nghiên cứu, cập nhật và hướng dẫn thực hiện các tiêu chuẩn của quốc tế.
Điều chỉnh, bổ sung các bộ tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, bao bì, nhãn mác của hàng hoá lưu thông trên thị trường phù hợp với các tiêu chuẩn của khu vực và quốc tế.
Xây dựng cơ chế phối hợp và tổ chức thực hiện quản lý, giám sát thực hiện các bộ tiêu chuẩn chất lượng trên thị trường trong nước.
Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình trọng điểm quốc gia về “giáo dục tiêu dùng thông minh” cho cộng đồng nhằm giúp người tiêu dùng có kiến thức tiêu dùng tốt nhằm nâng cao chất lượng tiêu dùng và bảo đảm quyền lợi của người tiêu dùng trong nước.
Hình thành các trung tâm hoạt động dưới dạng công ích về tư vấn tiêu dùng và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng (như phổ biến kiến thức, hướng dẫn tiêu dùng...).
Hoàn thiện và kiện toàn bộ máy cơ quan quản lý, giám sát thực thi các tiêu chuẩn hàng hoá, trật tự thị trường, ngăn chặn gian lận thương mại.
Kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng.
1.5. Đổi mới, hoàn thiện cơ chế điều tiết vĩ mô của Nhà nước
Cải cách phương pháp xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và đáp ứng được những yêu cầu của thực tế phát triển trong lĩnh vực thương mại nội địa (như các hình thức kinh doanh nhượng quyền thương mại, chuỗi cửa hàng bán lẻ tự chọn, bán hàng đa cấp...).
Hoàn thiện các cơ chế để đối phó với tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trên cơ sở hệ thống các văn bản pháp luật đã được ban hành về cạnh tranh, về chống độc quyền, chống bán phá giá, tự vệ... Cần hoàn thiện cơ chế thực thi để vừa phù hợp với những qui định của quốc tế, vừa đối phó được với các hành vi không lành mạnh diễn ra trên thị trường trong nước.
Triển khai thực hiện các chương trình đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn chuyên sâu đối với các cán bộ, chuyên gia quản lý hoạt động trực tiếp trong lĩnh vực điều hành thị trường trong nước.
Nâng cao chất lượng phối hợp công tác giữa các Bộ, ngành, cơ quan quản lý nhà nước trong việc hướng dẫn, điều tiết thị trường trên cơ sở giảm thiểu các biện pháp hành chính, tuân thủ các nguyên tắc của thị trường.
Tổ chức tốt các kênh thu thập, phổ biến thông tin cũng như công tác nghiên cứu, phân tích, dự báo những diễn biến trên thị trường, làm cơ sở để đưa ra những biện pháp kịp thời, phù hợp trước những biến động của thị trường.
Xây dựng và khuyến khích các thành phần kinh tế tổ chức, triển khai các chương trình xúc tiến thương mại ngay trên thị trường nội địa nhằm đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa sản xuất trong nước.
2. Giải pháp từ phía các doanh nghiệp, hiệp hội
2.1. Giải pháp từ phía doanh nghiệp
Xây dựng chiến lược phát triển kinh doanh nhằm tận dụng cơ hội, đối phó thách thức trong bối cảnh mới.
Chủ động đổi mới hoạt động kinh doanh, triển khai ứng dụng và phát triển các mô hình kinh doanh hiện đại.
Liên kết với các cơ sở nghiên cứu, trường đại học để đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực, đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn kinh doanh trong tình hình mới.
Mở rộng liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp nhằm mở rộng qui mô kinh doanh, năng lực tài chính và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường nội địa.
Các doanh nghiệp phân phối tổng hợp, chuyên doanh cần xây dựng, tổ chức hiệu quả mối liên kết với nhà sản xuất, bà con nông dân nhằm tạo sự ổn định về khối lượng và chất lượng hàng hóa phân phối đồng thời thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa trên thị trường.
Tăng cường xây dựng và thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại của doanh nghiệp để quảng bá sản phẩm tới các đối tượng tiêu dùng trong nước nhằm mở rộng thị trường, nâng cao khối lượng hàng hóa tiêu thụ trong nước.
Nâng cao chất lượng và đa dạng hóa dịch vụ sau bán hàng để xây dựng lòng tin đối với người tiêu dùng trong nước.
2.2. Giải pháp từ phía các hiệp hội
Đổi mới và kiện toàn tổ chức và phương thức hoạt động của các hiệp hội trên nguyên tắc xoá bỏ bao cấp, lấy chất lượng và hiệu quả hoạt động để tạo ra nguồn tài chính phục vụ sự hoạt động và phát triển của hiệp hội.
- Chuyên nghiệp hóa hoạt động của các Hiệp hội nhằm bảo vệ tối đa lợi ích các chủ thể tham gia kinh doanh và người tiêu dùng trên thị trường nội địa.
- Tăng cường mối quan hệ, trao đổi và hợp tác giữa các hiệp hội với các cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp; đẩy mạnh vai trò là cầu nối giữa các doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức nghề nghiệp khác.
- Đa dạng hoá loại hình hoạt động và dịch vụ cung ứng cho các doanh nghiệp theo nguyên tắc có thu phí và hoàn toàn mang tính cạnh tranh theo qui luật của thị trường.
KẾT LUẬN
Thị trường trong nước là yếu tố quyết định để phát triển kinh tế hàng hóa ở một quốc gia, không thể nói đến nền kinh tế hàng hóa và phát triển nền kinh tế hàng hóa mà lại không có thị trường, trước hết là thị trường trong nước. Đó vừa là điểm xuất phát của sản xuất hàng hóa, vừa là môi trường quan trọng bậc nhất để phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa. Những nước đã đạt được nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao( kinh tế thị trường) cũng như những nước đang còn bước đầu xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường như ở nước ta đều thừa nhận vai trò tích cực của thị trường trong nước. Để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, Việt Nam tất yếu phải có một nền kinh tế trong nước phát triển và mở rộng.
Qua nghiên cứu, thực tập tại Vụ Kế hoạch và Đầu tư –Bộ Thương mại em đã tim hiểu và nhận thấy được tâm quan trọng của quá trình thực tập. Hơn nũa em còn hiểu được tầm quan trọng và vai trò của thị trường trong nước đối với sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở Việt Nam.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn GS. TS. Đặng Đình Đào, Chú Hoàng Thịnh Lâm... cùng các anh chị trong Vụ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Thương mại đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Thương mại: Báo cáo hoạt động thương mại năm 2005 và phương hướng công tác năm 2006
2. Bộ Thương mại: Đề án phát triển thị trường trong nước
3. Doãn Đình Huề - Ban Kinh tế, Tạp chí Cộng sản: Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia - Phát triển thương mại dịch vụ ở nước ta trong thời kỳ đổi mới
4. GS. TS. Hoàng Đức Thân, GS. TS. Đặng Đình Đào - Giáo trình Kinh tế Thương mại, Nhà xuất bản Thống kê, 2005
5. GS. TS. Hoàng Đức Thân - Trường Đại học KTQD: Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia - Đánh giá 20 năm phát triển thị trường hàng hóa trong nước ở Việt Nam
6. PGS.TS. Lê Trịnh Minh Châu - Viện NCTM: Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia - Phát triển các hệ thống phân phối hàng hóa hiện đại trong hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta
7. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 01, năm 2006
8. ThS. Nguyễn Xuân Chiến - Vụ CSTTTN, Bộ TM: Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia - Đánh giá khái quát thị trường và thương mại nội địa qua 20 năm đổi mới. Định hướng và giải pháp phát triển trong thời gian tới
9. ThS. Phan Văn Chinh/ TS. Lê Danh Vĩnh - Bộ Thương Mại: Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia - Cơ chế, chính sách xuất nhập khẩu trên con đường đổi mới trong 20 năm qua
10. TS. Lê Danh Vĩnh - Thứ trưởng Bộ Thương mại: Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia - Tổng kết và đánh giá thành tựu qua 20 năm đổi mới ngành thương mại
11. TS. Nguyễn Văn Long - Viện NCTM: Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia - Những chặng đường đổi mới và giải pháp phát triển hợp tác xã thương mại ở nước ta
12. TS. Phạm Thắng - Tạp chí Cộng sản: Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia - Thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0481.doc